Đề tài Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC Lời mở đầu Phần nội dung Phần I: Cơ sở lý thuyết 1.1 Khái niệm 3 1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X 4 Phần II: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay 2.1 Kinh tế nhà nước 5 2.2 Kinh tế tập thể 6 2.3 Kinh tế tư nhân 6 2.4 Kinh tế tư bản nhà nước 7 2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7 Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay 3.1 Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 8 3.2 Vai trò của kinh tế nhà nước 10 Phần IV: Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay 4.1 Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước 13 4.2 Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước 13 4.3 Những thách thức với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới 14 Phần V: Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước 15 Kết luận

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2499 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường là sự kết tinh trí tuệ của toàn đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân, xây dựng đất nước Đảng ta xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Phần nội dung Phần I: Cơ sở lý thuyết 1.1.Khái niệm 1.1.1. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là nền kinh tế có sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước bằng những chính sách kinh tế vĩ mô, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, đúng hướng, có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế trên thị trường, nhà nước sẽ can thiệp bằng các công cụ tài chính vào nền kinh tế khi cần thiết để ổn định thị trường. Trái với nền kinh tế tự cung tự cấp người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng là nền kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân công lao động vào trao đỏi hàng hóa dịch vụ giữa người này với người khác. Khi cơ chế trao đổi dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế thị trường. 1.1.2. Kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân vế tư liệu sản xuất, kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, quỹ đầu tư dữ trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trương định hướng XHCN. Hiện nay ở nước ta cố các thành phần kinh tế: - Kinh tế nhà nước - Kinh tế tư nhân - Kinh tế tư bản nhà nước (gồm kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ) - Kinh tế tập thể - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, xã hội và chấp hành pháp luật. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng ,mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sử hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi ngững người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn phân phối theo lao động, theo vốn góp, hợp tác tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và công khai phát triển cộng đồng. Kinh tế tập thể lấy lợi ích tập thể , coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói ,giảm nghèo, tiến lên làm giàu, phát triển kinh tế tập tế theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả tích cực. 1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX xác định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó không phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung cũng không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm cho mô hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là: Về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công củ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng , là một tỏng những động lực của nền kinh tế”. Phần II: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là: - Kinh tế nhà nước - Kinh tế tập thể - Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) - Kinh tế tư bản nhà nước - Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 2.1 Kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế. Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở việc “làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện như sau: Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật. Hai là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nó mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. xã hội và chấp hành pháp luật. 2.2 Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tựphát triển cộng đồng. +Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo; tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên. + Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ. Nó do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ…), cả người ít vốn và người nhiều vốn, người góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng các nguyên tắc, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không bị giới hạn bởi quy mô, lĩnh vực và địa bàn, hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường. +Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng quỹ hỗ trợ hợp tác xã. chịu trách nhiệm và cùng có lợi. 2.3 Kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. "Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế"1. Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. - Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, còn trong kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có thuê lao động ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. - Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao. 2.4 Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn trong việc huy động vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến vì lợi ích của bản thân kinh tế tư bản tư nhân và phát triển kinh tế của đất nước. Thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Nguồn gốc và bản chất của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) ở Việt Nam hiện nay. Cơ sở lý luận về nguồn gốc ra đời của FIE là tập hợp các doanh nghiệp do luồng vốn đầu tư từ các đối tác kinh tế ngoài nước vào nền kinh tế nội địa hình thành nên. Bản chất của FIE là sự kéo dài đầu tư trong nước vượt biên giới quốc gia với mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao. Đối với nước nhận đầu tư, khu vực FIE là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho phương thức sản xuất mới, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tạo việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều thành phần kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở những nước có chế độ chính trị khác nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn bản. Nếu như trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát triển của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau: Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành phần KTNN của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này. Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay: Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế. Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ có DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh với các công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước. Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước chủ trương xây dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế thị trường mà KTNN giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng trên 70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát triển vẫn còn chiếm khoảng 10%. Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lượng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả thị trường, dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng, giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp. Thông qua đó Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Vai trò của kinh tế nhà nước Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò: - Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. - Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. - Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ mô. - Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung chính sau đây: Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã hội thông qua các công cụ xã hội khác nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu. Ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò điều tiết của DNNN. Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn. Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển. Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô. Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất nêu trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng Nhà Nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung Phần IV: Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Nhưng có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp nhà nước không thích hợp với cơ chế thị trường, kém hiệu quả, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân, nên tư nhân hóa càng sớm càng tốt. Vì lý do đó, ở đây cần làm rõ sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước. Một thực tế khách quan là, hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà cả ở những nước tư bản chủ nghĩa. Sự tồn tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng như ở các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau là do nhiều nguyên nhân trong đó những nguyên nhân chủ yếu là: Do yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế Yêu cầu này bắt nguồn từ sự phát triển lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Điều này đòi hỏi phải có sự điều tiết vĩ mô từ một trung tâm quyền lực nhà nước. Và để thực hiện sự điều tiết này, Nhà nước không chỉ sử dụng các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách kinh tế các lực lượng vật chất mà còn phải hình thành doanh nghiệp nhà nước. Do phải khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường Bên cạnh mặt tích cực là có khả năng tự điều chỉnh ở mức độ nhất định về cung, cầu, về điều phối các yếu tố sản xuất, kích thích tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… đồng thời kinh tế thị trường mang trong nó những khuyết tật như tính tự phát, bất ổn định, vận động theo lợi nhuận thuần túy – nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa dối, trốn thuế và các hiện tượng "kinh tế ngầm" khác. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp lao vào cạnh tranh, săn tìm lợi nhuận cao, nên ít quan tâm đến những ngành không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp, gây ra sự mất cân đối, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá mức. Để giải quyết tình trạng này, một trong những biện pháp được áp dụng là hình thành các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài nhiệm vụ kinh tế, chính trị, doanh nghiệp nhà nước còn mục tiêu xã hội, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế trong cả nước, giữa các tầng lớp dân cư, góp phần khắc phục khủng hoảng, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… Do phải chống độc quyền, làm giảm bớt quyền lực kinh tế của một số nhà tư bản hoặc tập đoàn tư bản ở mọi quy mô và mức độ trong đời sống kinh tế quốc gia. Quá trình chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền đã tập trung tiềm lực kinh tế vào tay một số ít nhà tư bản, dẫn đến sự cực quyền, thao túng nền kinh tế quốc gia. Để giải quyết tình trạng này, các nước đã áp dụng biện pháp quốc hữu hóa những công ty tư nhân, biến thành những doanh nghiệp nhà nước, chịu sự quản lý của nhà nước. Trong thực tế, ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi rất nhiều từ ngân sách, từ các quỹ tín dụng và các nguồn tài chính khác. Nhưng do khuyết tật cố hữu của doanh nghiệp nhà nước là hoạt động kém hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân, nên đã xuất hiện phong trào tư nhân hóa bắt đầu từ nước Anh, sau đó phát triển rộng rãi ở các nước phương Tây. Do tư nhân hóa ồ ạt với quy mô lớn nên dẫn tới tình trạng dư cung cổ phiếu làm giảm giá trị cổ phiếu một cách giả tạo. Từ đó phong trào tư nhân hóa không những không làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân hóa mà còn làm cho một số doanh nghiệp sau tư nhân hóa rơi vào tình trạng khó khăn, nan giải. Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm từ 1990 – 1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN. Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990 quy mô của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%. Tuy có sự giảm sút về quy mô nhưng các DNNN vẫn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Trong 5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN đạt 11,7%. tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 40,3%. Đồng thời quá trình tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã mở rộng quy mô vốn của các doanh nghiệp, giảm được sự tài trợ đáng kể của ngân sách nhà nước, một số ngành mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả đáng kể như: dầu khí, năng lượng, bưu chính viễn thông vv… Trong đó quyền chủ động của các sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được phát huy. Tuy vậy cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chông chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phân bố rất phân tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ như ở địa bàn Hà Nội các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp do Trung ương quản lý nhưng lại được tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau. Bộ Công nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 8 doanh nghiệp và Bộ Xây dựng có 7 doanh nghiệp. Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước Vấn đề hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt quan trọng vì đã là doanh nghiệp kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại phát triển. Thực tế các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang bộc lộ những yếu kém khá nghiêm trọng: Quy mô các DNNN còn nhỏ (vốn bình quân chỉ là 12 tỉ đồng) Cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Kết quả khảo sát 10 ngành cho thấy ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực, số còn lại lạc hậu so với thế giới từ 10 đền 20 năm, thậm chí 30 năm. Đến tháng 5-2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước: trong 4 năm (1997 - 2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 8200 tỉ đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu tư 9000 tỉ đồng. Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả mới chỉ là 40% bị lỗ liên tục chiếm tới 29%. Tình hình đúng như vậy nhưng từ đó để đi đến khẳng định chỉ có các doanh nghiệp tư nhân mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ, kém hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và thực tiễn, coi một số hiện tượng trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu chúng ta cũng dễ thấy không chỉ DNNN mới thua lỗ mà cũng có nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể coi là khủng hoảng của kinh tế tư nhân. Thực tế ở thành phố Hải Phòng ( cũng như ở nhiều địa phương khác ) cho thấy, tỉ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân vào khoảng 36% tính đến tháng 6-2001 cao gấp đôi so với DNNN trong đó phần lớn là nợ khó có khả năng thanh toán. Trong tổng số các DNNN có đến 70% là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ. Số DNNN thua lỗ tuy còn nhiều nhưng chỉ là thiểu số. Ở Trung Quốc có 500 doanh nghiệp hàng đầu là các DNNN lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm đầu tầu thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. ở nhiều nước khác cũng đều có DNNN hoạt động có hiệu quả và doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ phải phá sản. Như vậy thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và doanh nghiệp tư nhân. Có nhiều nguyên nhân không liên quan đến sở hữu doanh nghiệp trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là điều kiện sản xuất kinh doanh của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém, nhất là trình độ quản lý, kinh nghiệm thương trường. Những thách thức với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới Trong tương lai không xa DNNN phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn, sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia sau khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập vào AFTA hay sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành. Về các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác: ở nước ta sau khi có luật doanh nghiệp ra đời chỉ trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phát triển một cách rầm rộ người ta ví như hình ảnh “ nấm mọc sau cơn mưa” cả nước có khoảng 23000 doanh nghiệp loại này đầu tư một khoản vốn khoảng 25000 tỉ đồng vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngoài một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, còn lại các ngành sản xuất không đòi hỏi vốn đầu tư lớn thì tư nhân đang lấn dần thị phần của DNNN. Một khu vực khác cũng là một đối thủ cạnh tranh đáng kể với DNNN là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, các doanh nghiệp này có ưu thế hơn các DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi, đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như: dầu khí, chế biến thuỷ hải sản, xây dựng công nghiệp, sản xuất hoá chất, xi măng…đáng chú ý hơn cả là năm 2000 tốc độ tăng trưởng của DNNN chỉ có 11% thì doanh nghiệp tư bản tư nhân tăng 14% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trên 20%, do đó trong thời gian tới nếu nước ta không có biện pháp để củng cố sức mạnh của DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường sân nhà. Khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập AFTA và thực hiện hiệp định thương mại Việt-Mỹ thì sức cạnh tranh sẽ cụ thể hoá bằng cạnh tranh hàng hoá, hay yếu tố quan trọng nhất là chất lượng hàng hoá và giá cả hảng hoá. Hiện tại ngoài một số mặt hàng như hoá mỹ phẩm, đồ nhựa, than, một số hoá chất cơ bản…Giá của ta rẻ hơn của nước ngoài, còn lại một số mặt hàng như giấy, phân bón, xi măng, hàng điện tử, hàng cơ khí…Thì hàng của ta đều cao hơn hàng nước ngoài từ 20-40% Hai cuộc cạnh tranh trên đây chính là vấn đề cấp bách và nghiêm trọng đối với các DNNN. Trong thời gian tới nước ta cần phải đẩy mạn việc cải tổ, xây dựng, sắp xếp…để KTNN giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần V: Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước. 1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục giảm bớt gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Đây là mục tiêu rất cơ bản nhưng rất khó thực hiện, vì tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trở thành khuyết tật cố hữu mang tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản phát triển. Vì vậy, nâng cao hiệu quả, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách là mục tiêu quan trọng, là nhiệm vụ bức bách đối với toàn bộ hệ thống cũng như từng doanh nghiệp nhà nước. 2 – Nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước, làm cho doanh nghiệp nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này xuất phát từ đặc điểm của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất phát triển thấp, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, do đó cần củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo sản xuất, giữ vững và phát triển những ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế (điện năng, viễn thông, vận tải, xây dựng những công trình xã hội, cung cấp nước, bảo vệ môi trường…), ngăn chặn và khắc phục những hậu quả xã hội do kinh tế thị trường đẻ ra, chủ động giải quyết sự bất bình đẳng xã hội, thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo… Để thực hiện các mục tiêu trên đây, việc đổi mới, củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước cần tập trung giải quyết những nội dung chủ yếu như: đổi mới cơ chế quản lý; nâng cao khả năng cạnh tranh; hiện đại hóa trang bị kỹ thuật công nghệ; quản lý và sử dụng vốn hợp lý; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ; có chính sách đồng bộ, nhất quán; tạo được động lực và có những điều kiện cần thiết, xây dựng môi trường thuận lợi để doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả. Mặt khác, để nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phải tiếp tục đổi mới cơ cấu, đa dạng hóa hình thức sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là những doanh nghiệp nắm giữ các ngành, lĩnh vực quan trọng nhất, cổ phần đủ sức khống chế để Nhà nước đủ khả năng định hướng, chủ động điều tiết nền kinh tế. Như vậy, việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải tiến hành đồng thời nhiều biện pháp. Theo chúng tôi, trước mắt cần tập trung thực hiện các biện pháp chủ yếu sau: Một là: Đổi mới cơ cấu, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách có hạn, phải đổi mới cơ cấu, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả; đồng thời, tiếp tục đẩy nhanh tốc độ đa dạng hóa hình thức sở hữu nhằm huy động sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế. Mặt khác, phải đánh giá, chọn lọc, bố trí, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở xác định các ngành, lĩnh vực trọng điểm, then chốt để doanh nghiệp nhà nước nắm giữ. Một số ngành công nghiệp cơ bản có tính chất chiến lược cần vốn đầu tư lớn, trong khi vốn vòng quay chậm, lợi nhuận thấp, thường thua lỗ, Nhà nước phải trợ cấp, bù giá, bù lỗ, cho vay tín dụng lãi thấp, miễn hoặc giảm thuế, xóa nợ… Nhưng sự hỗ trợ này thường gây ra tình trạng tiêu cực trong công tác quản lý. Do vậy, để giải quyết vấn đề này, cần thực hiện cải cách cơ bản về tài chính của nhà nước theo hướng thúc đẩy, khai thác tiềm năng thiên nhiên và của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước giảm dần bao cấp, yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước tự chủ tài chính, tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tiến tới sản xuất, kinh doanh có lãi. Bởi vậy một trong những vấn đề quan trọng là, Nhà nước phải có chính sách thuế hợp lý, vừa có khả năng tập trung nguồn thu vào ngân sách, bảo đảm các nhu cầu chi của nhà nước, vừa phải thu hợp lý để các doanh nghiệp nhà nước không những tiếp tục tồn tại mà còn tăng khả năng tích tụ để không ngừng phát triển. Hai là: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, theo luật định, doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới hai hình thức: doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị. Nhà nước giao cho các doanh nghiệp nhà nước quản lý vốn, tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội do Nhà nước giao. Vì vậy, đây là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư 100% vốn. Nhà nước là chủ sở hữu, nên Nhà nước giữ vai trò quản lý. Nhưng Nhà nước là ai?. Các thành viên đại diện cho Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là những người làm công ăn lương của Nhà nước, họ tham gia hội đồng quản trị, có thể là chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng bản thân họ không có một đồng vốn ở doanh nghiệp nhà nước, mà vốn của doanh nghiệp là vốn của Nhà nước. Nhà nước giao cho họ trách nhiệm là thay mặt nhà nước thực hiện quản lý doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Như vậy, những thành viên của hội đồng quản trị không phải là chủ sở hữu thực sự vốn doanh nghiệp nhà nước nên trách nhiệm của họ bị hạn chế. Khi làm ăn thua lỗ, hội đồng quản trị, giám đốc, bộ máy giúp việc và cán bộ công nhân viên không ai chịu trách nhiệm mà Nhà nước là người gánh chịu trách nhiệm và hậu quả. Do đó, cần chuyển doanh nghiệp nhà nước (100% vốn của nhà nước) sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, một chủ sở hữu là sở hữu nhà nước để doanh nghiệp nhà nước là người thực sự chịu trách nhiệm hữu hạn về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Nhưng đây là một hình thức mới ở Việt Nam, cần thực hiện thí điểm trước khi nhân ra diện rộng. Những doanh nghiệp nhà nước đặc thù hoạt động phục vụ mục tiêu công cộng, hoặc phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, vẫn thực hiện theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cần thiết phải sửa đổi Luật Doanh nghiệp nhà nước, khắc phục tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Cụ thể là: - Tăng quyền tự chủ đi đôi với tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước; bỏ bao cấp, chuyển hẳn sang hoạch toán thị trường, lấy thu bù chi, lời ăn, lỗ chịu. - Tăng trách nhiệm cá nhân tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cá nhân, các cấp đại diện chủ sở hữu tại doanh nghiệp, giám đốc và bộ máy giúp việc về các quyết định đầu tư, về sự thua lỗ, mất vốn nhà nước, về thu nhập thấp của người lao động… - Giảm bớt tầng nấc, biên chế cồng kềnh, chồng chéo, khắc phục tình trạng ra quyết định chậm và không chịu trách nhiệm về quyết định đó. Tăng quyền quyết định cho hội đồng quản trị doanh nghiệp để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Quy định tiêu chuẩn tuyển chọn giám đốc, bỏ quy định giám đốc doanh nghiệp nhà nước là công chức nhà nước, chuyển sang cơ chế hợp đồng thuê giám đốc gắn tiền lương, tiền thưởng với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ba là: Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Trước sức ép của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp nhà nước phải đối mặt với cuộc cạnh tranh hết sức gay gắt giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa quốc gia với quốc gia. Trong cạnh tranh, các doanh nghiệp, các tập đoàn tăng cường liên minh, liên kết với nhau nhằm chống lại ý đồ thôn tính của các tập đoàn đối thủ. Cạnh tranh có mặt tích cực là nâng cao trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng, giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng hậu quả của cạnh tranh là, có thể dẫn tới tình trạng phá sản, những vụ sa thải công nhân, người lao động mất việc làm. Ở nước ta, hiện nay, có khoảng hơn 5 000 doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then chốt, là xương sống của nền kinh tế, nên nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Những ưu đãi khuyến khích đầu tư theo ngành, vùng, ưu đãi cho các doanh nghiệp mới thành lập cũng sẽ bị loại bỏ. Tình hình đó càng gây thêm sự bất lợi cho khả năng cạnh tranh, nên các doanh nghiệp nhà nước phải nỗ lực vượt bậc, tìm đủ các biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nước về kinh phí để tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường mới, cung cấp thông tin, dự báo thị trường, đẩy mạnh quản lý thị trường, chống gian lận thương mại, chống sản xuất và buôn bán hàng giả, xử lý nghiêm những hành vi đầu cơ, nâng giá bất chính. Doanh nghiệp nhà nước phải xác định đúng đắn chiến lược kinh doanh, chiến lược đầu tư, chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tìm kiếm thị trường sản xuất và tiêu thụ. Hiện đại hóa trang bị kỹ thuật công nghệ. Tạo ra bước đột phá về chất lượng, giảm chi phí sản xuất, cải tiến mẫu mã đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh. Có kế hoạch sắp xếp lại sản xuất, sử dụng hợp lý các nguồn vốn, giảm bớt vốn vay, xóa bỏ các khoản chi phí bất hợp lý, thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí. Quản lý tốt lao động, tạo ra năng suất, chất lượng cao. Phân phối hợp lý, gắn lương, thưởng với kết quả lao động để tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bốn là: Chuyển đổi sở hữu và phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhưng chuyển biến chậm. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động kém hiệu quả, đang là gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Một trong những biện pháp giải quyết tình trạng này là, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Những hình thức chuyển đổi nên được áp dụng là: - Đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100% vốn thì tiến hành cổ phần hóa. - Những doanh nghiệp nhà nước loại nhỏ, Nhà nước không cần nắm giữ thì bán, khoán hoặc cho thuê. - Những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thể thực hiện theo các biện pháp trên thì sáp nhập, giải thể hoặc cho phá sản. Để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cần có chính sách bảo đảm: - Bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế. - Loại bỏ tư tưởng ỷ lại, muốn dựa dẫm vào nhà nước. - Xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hóa trong việc tìm kiếm thị trường và các cơ hội làm ăn để tăng thu nhập cho người lao động. Năm là: Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước theo mô hình "công ty mẹ – công ty con". Do quy mô vốn bình quân của các doanh nghiệp nhà nước quá nhỏ, không đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới. Để tăng khả năng cạnh tranh, năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 90 và 91 thành lập các tổng công ty nhà nước. Quy mô của các tổng công ty có mức cao hơn. Chủ yếu là các Tổng Công ty Điện lực, Bưu chính – Viễn thông và Dầu khí với tổng số 137 đơn vị thành viên. Về chế độ quản lý, tiền thân các tổng công ty theo Quyết định số 90 – 91 là các liên hiệp xí nghiệp, các xí nghiệp liên hiệp, các tổng công ty (cũ) được sáp nhập lại, hoạt động chuyên doanh trong một ngành chủ yếu nào đó. Vốn được Nhà nước cấp phát nên những khuyết tật của các doanh nghiệp nhà nước cũng là những khuyết tật của các tổng công ty. Để đáp ứng với yêu cầu cạnh tranh ngày một gay gắt, đòi hỏi không chỉ phải đổi mới doanh nghiệp nhà nước mà còn phải đổi mới các tổng công ty nhà nước. Một trong những biện pháp đổi mới này là chuyển các tổng công ty "90, 91" sang tập đoàn mạnh hoạt động theo mô hình "công ty mẹ – công ty con". Đặc trưng chủ yếu của tập đoàn mạnh hoạt động theo mô hình này là: - Có quy mô lớn, đa ngành, đa quốc gia. - Bao gồm 1 "công ty mẹ", công ty này tiến hành đầu tư vốn vào các công ty khác ("công ty con"), nắm cổ phần khống chế để điều khiển các "công ty con". "Công ty mẹ" lại dùng quyền điều khiển "công ty con" để lấy vốn đầu tư vào các công ty khác ("công ty cháu"), nắm cổ phần khống chế để chi phối các công ty này. Cứ theo kiểu móc xích như vậy, các tập đoàn ("công ty mẹ") với lượng vốn ít, có thể chi phối một lượng vốn lớn hơn rất nhiều lần so với lượng vốn của "công ty mẹ". Với mô hình tổ chức "công ty mẹ – công ty con", có thể gọi vốn nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Nhờ đó "công ty mẹ" tăng được quy mô, nâng cao khả năng cạnh tranh trước làn sóng toàn cầu hóa hiện nay. Kết luận Như vậy trong hơn 10 năm qua Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiêu quả hoạt động của KTNN. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn có nhiều khó khăn gay gắt, KTNN đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang thời kỳ hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Mặc dù còn một số hạn chế bất cập nhưng KTNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế góp phần ổn định kinh tế xã hội, góp phần tăng cường thế và lực của đất nước MỤC LỤC Lời mở đầu Phần nội dung Phần I: Cơ sở lý thuyết Khái niệm 3 1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X 4 Phần II: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay 2.1 Kinh tế nhà nước 5 2.2 Kinh tế tập thể 6 2.3 Kinh tế tư nhân 6 2.4 Kinh tế tư bản nhà nước 7 2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7 Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay 3.1 Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 8 3.2 Vai trò của kinh tế nhà nước 10 Phần IV: Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước 13 Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước 13 Những thách thức với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới 14 Phần V: Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước 15 Kết luận Danh sách thành viên nhóm 11: Đỗ Sơn Tùng Đoàn Xuân Tùng Đặng Đình Tuấn Nguyễn Thị Minh Trang Đỗ Thị Uyên Trang Nguyễn Hoàng Yến Nguyễn Thị Yến Nguyễn Văn Tuấn Xuân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.doc
Luận văn liên quan