Khác với một số nước trên thế giới, chúng ta tiến lên CNXH từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu mà bỏ qua giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đó là do chúng ta chưa chuẩn bị được cơ sở vật chất kỹ thuật để tiến lên CNXH. Mặt khác nền kinh tế của nước ta trước đây dập khuôn theo mô hình kinh tế của Liên xô với chế độ xã hội công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế XHCN là nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch là quy luật điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế nên nhà nước ta lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế. Việc lãnh đạo phát triển kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2107 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là hợp lý duy nhất. Thế giới quan của A.Smith chủ yếu là duy vật nhưng chủ nghĩa duy vật ở ông còn mang tính chất tự phát máy móc chưa biết phép biện chứng duy vật ông thừa nhận các quy luật kinh tế khách quan và tư tưởng tự do kinh tế. Ông đưa ra lý thuyết "Bàn tay vô hình" và nguyên lý "nhà nước không can thiệp" vào hoạt động nền kinh tế. Theo ông "Bàn tay vô hình" chính là quy luật kinh tế khách quan tự phát hoạt động chi phối hoạt động của con người. Hệ thống các quy luật kinh tế khách quan đó còn gọi là "Trật tự tự nhiên". Theo ông nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế sự vận động của thị trường do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường. Smith cho rằng chế độ xã hội mà trong đó tồn tại sản xuất và trao đổi hàng hoá là một chế độ bình thường, nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh. Theo ông chế độ bình thường được xây dựng trên cơ sở "trật tư tự nhiên". Chế độ không bình thường là sản phẩm của sự dốt nát.
Nếu Quesnay cho rằng "luật tự nhiên" chỉ trở thành hiện thực trong những điều kiện thuận lợi thì A.Smith cho rằng "Trật tự tự nhiên" được thể hiện trong mọi xã hội không phụ thuộc vào điều kiện nào. Theo ông qui luật kinh tế là vô định. Mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự tác động của qui luật kinh tế nhưng Smith cho rằng sự phát triển bình thường là sự tự điều tiết không cần có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Theo Ông Nhà nước có những chức năng sau:
- Bảo vệ xã hội chống lại bạo lực và bất công của các dân tộc khác.
- Bảo vệ mọi thành viên trong xã hội tránh khỏi bất công và áp lực của thành viên khác.
- Đôi khi Nhà nước cũng thể hiện một vào chức năng kinh tế khi những nhiệm vụ này vượt quá khả năng của những nghiệp riêng biệt như xây dựng kết cấu hạ tầng, công trình công cộng lớn...
Như vậy Smith cho rằng sự hoạt động của "bàn tay vô hình" sẽ đưa nền kinh tế đến sự cân bằng mà không cần sự can thiệp của Nhà nước và chính phủ cũng không nên can thiệp làm gì.
Nhưng các nhà kinh tế học tư sản cổ điển đã mắc phải sai lầm khi cho rằng không cần Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Từ những năm 30 của TK 19, cách mạng chủ nghĩa ở Anh hoàn thành, và từ 1825 trở đi các cuộc khủng hoảng kinh tế lặp lại liên tục và có chu kỳ và gần đây nhất là khủng hoảng kinh tế Thái Lan sang Hàn Quốc, Inđônêsia.... Những hiện tượng kinh tế mới nảy sinh như khủng hoảng thất nghiệp, sự phá sản của những người sản xuất nhỏ... Sự sai lầm của họ là họ đã xa rời phương pháp trìu tượng hoá khoa học mà chỉ xem xét hệ thống hoá các hiện tượng bề ngoài mà không đi sâu phân tích các bản chất bên trong của quá trình kinh tế. Điều đó chứng tỏ "bàn tay vô hình" không thể đảm bảo cho những điều kiện ổn định cho nền kinh tế thị trường phát triển".
3. Lý luận của trường phái tân cổ điển.
Cuối TK19 đầu TK 20 do những mâu thuẫn vốn có của CNTB ngày càng sâu sắc và những khó khăn về kinh tế thất nghiệp ngày càng tăng, do những hiện tượng kinh tế mới nảy sinh đòi hỏi phải có sự phân tích những hiện tượng mới đó. Trước bối cảnh đó học thuyết kinh tế của trường phái tân cổ điển xã hội nhằm giải thích các hiện tượng kinh tế mới và chống quan điểm của chủ nghĩa Mác.
Phương pháp luận của trường phái tân cổ điển là cách tiếp cận chủ quan đối với các hiện tượng kinh tế các nhà tân cổ điển chủ trương phân tích các hiện tượng kinh tế trong các xí nghiệp riêng biệt rồi rút ra kết luận chung cho toàn xã hội điều đó dẫn đến rất nhiều thiếu sót và sai lầm. Phương pháp của họ chỉ là phương pháp phân tích vi mô.
Trường phái cổ điển mới dựa vào yếu tố tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội, họ củng cố lý thuyết giá trị chủ quan. Trường phái tân cổ điển muốn biến kinh tế chính trị thành khoa học kinh tế thuần tuý không có mối liên hệ với các điều kiện chính trị - xã hội và cũng giống như trường phái cổ điển các nhà kinh tế học trường phái tân cổ điển ủng hộ tự do cạnh tranh chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Vai trò của chính phủ không quan điểm của họ là rất mờ nhạt. Các học thuyết của họ áp dụng rộng rãi vào kinh tế, tư tưởng của họ nặng về mặt lượng và bỏ qua mặt chất. Như vậy họ không thể chỉ ra một cách hoàn chỉnh các qui luật các phạm trù kinh tế. Họ đưa ra lý thuyết kinh tế tự điều chỉnh vì vậy quan điểm của họ là không cần đến sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Họ tin tưởng chắc chắn vào cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo thăng bằng cung cầu đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Như vậy quan điểm của trường phái này có rất nhiều giới hạn và đựơc gọi là trường phái giới hạn.
4. Lý luận của trường phái Keynes
Vào 30 của thế kỷ 20 khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên. Tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng đã làm cho các lý thuyết tự điều chỉnh kinh tế của trường phái cổ điển tân cổ điển tỏ ra kém hiệu quả. Thực tiễn chứng minh rằng các lý thuyết kinh tế cho rằng sự hoạt động của các qui luật kinh tế khách quan sẽ tự điều tiết nền kinh tế và đưa đến sự cân bằng mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước tỏ ra thiếu tính chất xác đáng. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất và sự xã hội hoá lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự can thiệp điều chỉnh của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế. Trước thực tế đó học thuyết "chủ nghĩa tư bản được điều tiết" của John M. Keynes (1883 - 1946) ra đời.
Đặc trưng nổi bật của Keynes là phương pháp phân tích vĩ mô trong sự phân tích kinh tế. Keynes cho rằng việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ giữa các tổng lượng và khuynh hướng vận động của chúng. Keynes đánh giá cao vai trò điều tiết của Nhà nước và xem nhẹ cơ chế tự điều tiết của thị trường. Keynes không tán đồng quan điểm của trường phái cổ điển và tân cổ điển về sự cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thị trường. Ông cho rằng khủng hoảng và thất nghiệp do chính sách lỗi thời không can thiệp của Nhà nước, tự do kinh tế gây ra. Theo ông muốn có cân bằng kinh tế, Nhà nước phải can thiệp kinh tế thể hiện điều chỉnh kinh tế. Ông cho rằng Nhà nước phải điều tiết ở tầm vĩ mô mới giải quyết được việc làm tăng thu nhập, khuyến khích đầu tư và giảm tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp thúc đẩy kinh tế phát triển. Ông đánh giá cao vai trò của hệ thống thuế khoá của Nhà nước vào sự điều chỉnh của Nhà nước đối với nền kinh tế, theo ông trước hết Nhà nước cần thể hiện để tăng cầu có hiệu quả. Nhà nước phải có chương trình đầu tư rất qui mô bởi qua đó Nhà nước can thiệp vào kinh tế tác động cục diện của thị trường. Nhà nước phải có biện pháp để kích thích tiêu dùng sản xuất muốn vậy phải sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư của tư nhân.
Tuy nhiên Keynes chủ trương khuyến khích mọi hoạt động để nâng cao tổng cầu và tăng khối lượng việc làm kể cả hoạt động ăn bám không có lợi cho nền kinh tế như quân sự hoá nền kinh tế, sản xuất vũ khí miễn sao tạo ra việc làm.
Như vậy quan điểm của Keynes vẫn còn những thiếu sót. Sau 4 năm thể hiện học thuyết Keynes thì nền kinh tế lại một lần chấn động. Nạn thất nghiệp không được khắc phục mà có xu hướng gia tăng, thị trường "lạm phát có điều tiết" làm cho lạm phát trầm trọng hơn. Sai lầm của Keynes là khi đánh giá cao vai trò quản lý của Nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của cơ chế thị trường vì vậy các hiện tượng mà ông xem xét chưa thật sự hoàn chỉnh.
II. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi KTTT theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước.
a. Định nghĩa: Cơ chế thị trường là tổng thể những mối quan hệ kinh tế các phạm trù kinh tế và qui luật kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhau cùng tác động để điều tiết cung - cầu giá cả cùng những hành vi của người tham gia thị trường nhằm giải quyết 3 vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai?
Các mối quan hệ trong cơ chế thị trường chịu sự tác động của các qui luật kinh tế khách quan như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ. Động lực của các mối quan hệ này là lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh. Đó là cơ chế tự điều tiết trong môi trường cạnh tranh. Nổi bật cơ chế thị trường là cơ chế có rất nhiều ưu điểm:
- Cơ chế thị trường là cơ chế năng động nhạy cảm có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội tức là sự phân bổ sản xuất vào các khu vực các ngành kinh tế hay sản xuất cái gì như thế nào đều do thị trường quyết định mà không cần bất cứ sự điều khiển nào.
- Cơ chế thị trường đáp ứng được những nhu cầu đa dạng phức tạp của người tiêu dùng, tự động kích thích sự phát triển của sản xuất, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất.
- Cơ chế thị trường mang tính hiệu quả cao: Các doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận cao thì đòi hỏi phải tiết kiệm chi phí sản xuất, kích thích tiến bộ của KHKTCN.
- Cơ chế thị trường thúc đẩy sự cạnh tranh làm cho sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao hơn, giá thành các sản phẩm giảm.
Bên cạnh những mặt tích cực trên cơ chế thị trường còn rất nhiều khuyết tật và mâu thuẫn như sau:
- Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất, sản xuất quá nhiều một loại sản phẩm hàng hoá vào đó gây ra ế thừa dẫn đến sự khủng hoảng lãng phí.
- Cơ chế thị trường gây mất cân bằng xã hội. Tính cạnh tranh của cơ chế làm xã hội làm xã hội phân hoá giàu nghèo, giai cấp.
- Cơ chế thị trường gây mất ổn định mất cân đối trong sản xuất xã hội. Thực tế cho thấy cơ chế thị trường là nguyên nhân của các vấn đề lạm phát và thất nghiệp.
- Cơ chế thị trường gây ra các phế thải làm ô nhiễm môi trường.
- Các doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận bất chấp tất cả làm hàng giả lậu thuế...
b. Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi hàng hoá sang KTTT có sự quản lý của Nhà nước Việt Nam.
Trước kia nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp. Trên thực tế Nhà nước chỉ thừa nhận một thành phần kinh tế XHCN với 2 loại hình sở hữu là toàn dân và tập thể. Các thành phần kinh tế khác bị hạn chế một cách tối đâ thậm chí bị triệt tiêu kinh tế tư nhân không được phép tồn tại và hoạt động. Nhà nước thể hiện quản lý kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết với chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước bao cấp toàn bộ và can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp các HTX, các tổ sản xuất. Quyết định tất cả trừ kế hoạch sản xuất, giá cả sản phẩm, thị trường tiêu thụ đến lỗ lãi và biên chế của các doanh nghiệp. Nhà nước thành lập ra Uỷ ban vật giá để quyết định giá cả sản phẩm nhưng Nhà nước lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất với các quyết định của mình. Các doanh nghiệp thì không có quyền tự chủ về tài chính và cũng không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả kinh doanh. Cơ quan hành chính Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế. Bộ máy quản lý kinh tế được tổ chức cồng kềnh nhưng lại tỏ ra kém hiệu quả. Mọi quyết định quan trọng đều xuất phát từ Trung ương, biên chế của bộ máy quản lý kinh tế ngày càng phình to nhưng năng lực lại yếu kém phong cách quản lý quan liêu cửa quyền. Cán bộ quản lý kém năng lực, trình độ chuyên môn thấp họ chủ yếu xuất phát từ những người có công với cách mạng. Trong phân phối chủ yếu phân phối theo chủ nghĩa bình quân nên người lao động không năng động sáng tạo, không nhiệt tình làm việc không quan tâm tới tiết kiệm đầu tư... nên năng suất lao động thấp kém và ngày càng giảm xuống chi phí thì tăng lên dẫn tới sự thua lỗ của các doanh nghiệp các HTX và các tổ sản xuất... Hiệu quả kinh tế trong thời kỳ này rất thấp do chỉ đầu tư và sản xuất theo kế hoạch mà không tính tới nhu cầu của nền kinh tế và xã hội, sản xuất không phù hợp với tiêu dùng gây ra một sự lãng phí lớn. Do không có cạnh tranh nên công nghệ, KHKT chậm đổi mới chất lượng sản phẩm ngày càng thấp, giá cả ngày càng cao do chi phí sản xuất quá lớn. Hàng hoá trên thị trường thiếu hụt nghiêm trọng kinh tế chậm phát triển, thời kỳ này do nước ta chú ý trông chờ vào các viện trợ vốn và hàng hoá từ nước ngoài. Khi nguồn viện từ nước ngoài giảm và chấm dứt, nền kinh tế không theo kịp đà rơi vào khủng hoảng sản xuất trì trệ đình đốn, hàng hoá khan hiếm, giá cả cao dẫn đến lạm phát có thời kỳ lạm phát vượt mức 700% đời sống người lao động ngày càng khó khăn hơn.
Mặt khác cũng trong thời kỳ này nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực đang phát triển mạnh. Nền kinh tế ở các nước công nghiệp mới phát triển, nghiên cứu chủ yếu là thành phần kinh tế tư bản tư nhân và Nhà nước chỉ đóng vai trò hướng dẫn đền kinh tế phát triển thông qua các kế hoạch trung hạn và dài hạn. Nhà nước không can thiệp trực tiếp mà tạo điều kiện để các doanh nghiệp cạnh tranh tự do trên thị trường. Chính vì vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các nước này là rất cao, đời sống nhân dân nâng lên rõ rệt.
Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trước xu hướng phát triển liên tục của các nước trog khu vực và trên thế giới đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới.
Từ đại hội VI, của Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đến đại hội VII, Đảng ta xác định rõ việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Xem xét dưới góc độ khoa học, việc chuyển đổi này là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế với xu thế của thời đại.
2. Đặc trưng của nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung hành chính quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung bản chất và đặc điểm khái quát nhất của nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả tương lai.
a. Trên thực tế nền KTTT có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất trong nền kinh tế thị trường thì cơ chê phát huy vai trò tự điều tiết của thị trường. KTTT tạo cho các chủ thể kinh tế có tính tự chủ rất cao có nghĩa là các chủ thể tự quyết định sản xuất, tự chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể tự do liên kết liên doanh hợp tác sản xuất. Vì lợi ích của chính các chủ thể nên các chủ thể tìm mọi cách để thu lợi nhuận. Vì vậy mà các sản phẩm hàng hoá đa dạng phong phú chất lượng cao và giá thành rẻ. Có thể nói cơ chế thị trường đã phát huy tính chủ động sáng tạo của các chủ thể, nâng cao tinh thần trách nhiệm của nhà sản xuất với doanh nghiệp.
Đặc trưng nổi bật thứ hai chính là sự phong phú của sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Mọi người được tự do mua bán trao đổi, ưu thế của KTTT phản ánh trình độ cao của năng suất lao động và sự phát triển nhanh chóng của thị trường. Hàng hoá được cải tiến mẫu mã chất lượng liên tục là do các nhà sản xuất đầu tư KHKT & CN và do trình độ tay nghề cao của lực lượng lao động.
Ba là: phát huy tính năng động của cơ chế thị trường, việc tự do hoá thương mại, tự do hoá giá cả được hình thành và ngày càng được đổi mới. Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, nó chịu sự tác động của cạnh tranh.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của KTTT. Các chủ thể doanh nghiệp muốn thu nhiều lợi nhuận thì phải đua nhau cải tiến kỹ thuật áp dụng KHKTCN mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động giảm hao phí lao động tới mức tối thiểu nhờ đó mà nền kinh tế có điều kiện phát triển nhanh chóng.
Năm là: KTTT là hệ thống kinh tế mở cửa giao lưu trao đổi với thị trường nước ngoài nhưng được đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
b. Thực trạng nền KTTT nước ta hiện nay.
- Từ những năm đổi mới trở lại đây nền KTTT nước ta đang từng bước chuyển từ nền kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Cơ chế này thực sự đã phát huy được vai trò tự điều tiết của thị trường bước đầu hình thành thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá được lưu thông, giá cả ổn định nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng thiếu.
- Nền kinh tế một thành phần kinh tế trước kia đang chuyển sang nền kinh tế 5 thành phần với các hình thức sở hữu khác nhau nhưng sự hoạt động này chưa đồng đều và chưa có đủ điều kiện để phát triển.
- Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, tỷ giá từng bước được hình thành và đổi mới
- Tuy nhiên cơ chế thị trường ở Việt Namhiện nay còn thiếu đồng bộ mang tính tự phát.
Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, sự quản lý tỏ ra yếu kém và không có hiệu quả. Tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết thậm chí trì trệ bảo thủ cửa quyền vẫn tồn tại trước sự đổi mới nền kinh tế. Sự hình thành và vận động của KTTT mang những yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, tệ tham nhũng và các mặt tiêu cực của thị trường có cơ hội phát sinh và phát triển.
Mặc dù nền kinh tế thị trường nước ta còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém nhất là trong điều hành vĩ mô "Nạn tham nhũng phổ biến trong bộ máy quản lý nhà nước các cấp nhưng nhìn chung tính ổn định của nền kinh tế là nhân tố đảm bảo cho những thành công kế tiếp.
Tuy vậy Đảng và Nhà nước ta cần phải nâng cao vai trò của mình hơn nữa trong nền KTTT cần phải chuyển từ tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ tạo môi trường và điều kiện cho thị trường phát triển, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với cân bằng ổn định, giữa phát triển kinh tế với việc thể hiện các chính sách xã hội.
c. Để cho nền KTTT nước ta hoạt động một cách có hiệu quả và hoàn chỉnh thì cần phải hướng nền KTTT tới những điểm sau:
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần nhưng nền kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Sự quản lý điều tiết định hướng phát triển nền KTTT của Nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải nắm vị trí quan trọng trong một số lĩnh vực then chốt có nghĩa là "mạch máu" của nền kinh tế chi phối các thành phần kinh tế khác. Nhưng cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của KTNN thì cần coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp đặt chúng trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó thống nhất không tách rời biệt lập.
- Nhà nước phải khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đó là khu vực tư nhân nhằm thu hút đầu tư vốn từ khu vực này. Kinh nghiệm của Nhật Bản, các con rồng Châu Á và các nước trong nhóm nghiên cứu cho thấy sự thành công của họ là nhờ công lao to lớn của khu vực tư nhân.
- Nhà nước dựa trên cơ sở ổn định chính trị lấy chính trị làm tiền đề và điều kiện cải cách kinh tế đổi mới quản lý cho phù hợp với điều kiện của KTTT đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới.
- Nhà nước mở rộng tự do buôn bán với nước ngoài. Mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ toàn vẹn lãnh thổ. Sự mở cửa hội nhập thể hiện với tự do hoá thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ trên cơ sở phát huy lợi thế và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với khu vực hoá và toàn cầu hoá ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu của thời đại của cuộc cách mạng KHCN hiện nay. Để tránh nguy cơ tụt hậu và những thành tựu KHCN mới nhất thì không còn cách nào khác ngoài việc mở cửa, mở rộng quan hệ buôn bán nước ngoài.
- Nhà nước thể hiện công bằng xã hội trong quan hệ giữa lao động và sản xuất, trong việc phân phối thu nhập thể hiện thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
3. Vai trò của kinh tế Nhà nước trong việc quản lý vĩ mô.
Trong quan hệ phát triển của lịch sử nhân loại đã tồn tại nhiều loại hình kinh tế khác nhau. Nhưng ngày nay trên thực tế hầu hết các nước đều tồn tại nền KTTT có sự quảnlý của Nhà nước. Tuỳ theo mô hình tổ chức cụ thể ở mỗi nước mà phạm vi và mức độ can thiệp của Nhà nước. Tuỳ theo mô hình tổ chức cụ thể ở mỗi nước mà phạm vi và mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là khác nhau.
Mọi nền kinh tế hiện đại kể cả kinh tế TBCN và XHCN đều đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô đó là không có một nước nào trong thời gian dài lại duy trì được tỷ lệ lạm phát thấp mà người lao động có đầy đủ việc làm trong điều kiện tự do cạnh tranh vấn đề lạm phát và thất nghiệp là khuyết tật của cơ chế thị trường do vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để kìm chế lạm phát và thất nghiệp ở tỷ lệ thích hợp tạo môi trường ổn định cho việc tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Đối với nước ta khi chuyển nền kinh tế sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là hoàn toàn cần thiết để khai thác và phát huy tiềm năng sản xuất trong xã hội - song thực tiễn cho thấy, cùng với việc kích thích sản xuất phát triển nền KTTT còn rất nhiều khuyết tật, nó là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát triển của nhiều tệ nạn xã hội. Nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của KTTT giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng, Nhà nước cần thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong quản lý kinh tế. Sự quản lý của Nhà nước nhằm hướng sự phát triển kinh tế theo những mục tiêu phương hướng nhất định hạn chế mặt tiêu cực và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu Nhà nước các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính tín dụng tiền tệ... để điều tiết nền kinh tế. Sự phối hợp giữa Chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự phát triển có hiệu quả với mức tăng trưởng kinh tế nhanh.
Mặt khác nếu để nền KTTT tự do hoạt động không có sự kiểm soát của nhà nước thì sẽ dẫn đến rất nhiều hậu quả. Nguy cơ khủng hoảng kinh tế là khôn lường. Thị trường tự do hoạt động, giá cả theo thị trường leo thang, sản xuất tràn lan gây nên một sự lãng phí rất lớn các nhà sản xuất chạy theo những ngành mang lại lợi nhuận cao như ma tuý, buôn lậu làm hàng giả, kinh doanh văn hoá đồi trụy. Đó là chưa kể tới tình trạng lạm phát và thất nghiệp cũng từ đó mà gia tăng không cách gì kiềm chế được. Thị trường tự do hoạt động chính là quan điểm kinh tế của trường phái cổ điển nhưng quan điểm này là hoàn toàn sai lầm và đã gây ra những biến động lớn tiêu cực tới nền kinh tế các nước trong thời kỳ đó. Thực tế trong những thập kỷ gần đây cho thấy nền KTTT luôn luôn trải qua các giai đoạn phồn vinh và đình trệ. Gần đây nhất kinh tế Thái Lan đã bị khủng hoảng nặng. Cuộc khủng hoảng này đã lây sang các nước Inđônêsia, Hàn Quốc... và đã kéo nền kinh tế nước này chậm xuống 30 năm. Tác hại của khủng hoảng kinh tế là rất lớn, nó cuốn trôi tất cả thành tựu kinh tế trong 30 năm của Inđônêsia làm cho sản xuất bị đình trệ, thất nghiệp tăng cao, đồng tiền trong nước bị mất giá nghiêm trọng. Đó là chưa kể đến tình hình thế giới vào những năm 20, 30 của thế kỷ này. Nước Anh từ năm 1921 đã lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc kéo dài tới 20 năm. Cuộc khủng hoảng kinh tế này sau đó lan sang tất cả các nước TBCN khác. Thất nghiệp tăng nhanh ở mức cao, suy thoái kéo dài và không có dấu hiệu gì chứng tỏ sẽ chấm dứt. Đứng trước vấn đề khó khăn đó các nhà kinh tế đều khẳng định rằng muốn khắc phục các hiện tượng trên thì Nhà nước cần phải can thiệp sâu hơn vào nền kinh tế. Thiếu vai trò kinh tế của Nhà nước, nền kinh tế không tài nào phát triển được.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế đem lại hiệu quả rất lớn: Nhà nước điều chỉnh quá trình sản xuất, phân phối lại trao đổi và tiêu dùng, hình thành các thị trường nhỏ, điều tiết quá trình kinh doanh thu hút vốn đầu tư. Đồng thời Nhà nước kịp thời đảm bảo tính ổn định phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nhà nước có vai trò to lớn như vậy nhưng thực tế vai trò kinh tế của Nhà nước mới chỉ được thừa nhận cách đây gần 60 năm kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929 - 1933. Đối với nước ta nhìn nhận kinh nghiệm của thế giới và các kinh nghiệm trong khu vực từ đó mà phát triển tạo ra hướng đi đúng đắn nhất. Kinh nghiệm các nước láng giềng - các nước công nghệ mới phát triển nghiên cứu cho thấy mặc dù nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá ỏ các quốc gia đó chủ yếu là các xí nghiệp tư nhân của người bản xứ và người nước ngoài nhưng vai trò can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế rất được chú trọng và đóng vai trò trong việc hướng dẫn nền kinh tế phát triển thông qua các kế hoạch trung hạn và dài hạn. ở Nam Triều Tiên, Đài Loan, Xingapo... Nhà nước thể hiện hướng dẫn đầu tư bằng việc trợ cấp cho khu vực các nền kinh tế mũi nhọn và chú trọng nền kinh tế quốc doanh. Nhà nước tạo điều kiện cho các xí nghiệp này được tự do cạnh tranh trên thị trường. ở Thuỵ điển có đến 41% lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh và quan điểm của Nhật là sự cân bằng giữa tự do kinh tế và can thiệp của Nhà nước. Có một điểm chung giữa những quốc gia này là đều đã và đang rất phát triển nhờ con đường kinh tế đúng đắn của họ. Vai trò kinh tế của mỗi quốc gia được thể hiện là khác nhau nhưng tựu chung lại đó chính là nguồn gốc của sự phát triển kinh tế và là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng.
III. CHỨC NĂNG VÀ CÔNG CỤ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NHÀ NƯỚC.
1. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước với tư cách là nhà quản lý điều hành nền KTTT, Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng nền KTTT theo CNXH.
- Nhà nước điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô, Nhà nước tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế tạo nên sự cân bằng giữa cung - cầu đảm bảo môi trường kinh tế thuận lợi và ổn định nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế trong từng xí nghiệp và trên phạm vi toàn xã hội.
- Nhà nước đảm bảo ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Nhà nước thiết lập khuôn khổ luật pháp đặc biệt là hệ thống pháp luật kinh tế, hệ thống các chính sách kinh tế xã hội mà trước hết là các chính sách về tài chính tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cần thiết cho các hoạt động kinh tế. Một đất nước có ổn định chính trị, có những chính sách kinh tế phù hợp mới tạo ra được những thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất. Mặt khác có như vậy mới thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài và tư nhân và họ tin vào sự ổn định đó để tiếp tục và mở rộng sản xuất, phát triển sản xuất. Như vậy thông qua các chính sách Nhà nước đã gián tiếp thúc đẩy nền kinh tế .
Nhà nước có chức năng tạo ra môi trường và điều kiện cho việc tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường bằng cách: duy trì pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi truờng kinh tế thi hành nhất quán các chính sách và thể chế theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô kìm chế lạm phát, điều tiết thị trường ngăn ngừa và sử lý kịp thời những "cơn sốt" về giá cả. Nhà nước đề ra luật pháp bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
- Nhà nước ngăn ngừa các tác động bên ngoài ngăn ngừa những âm mưu phá hoại nền kinh tế của các thế lực thù địch để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao, buôn bán với nước ngoài.
- Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh. Trong nền KTTT mục đích của các nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận vì vậy họ bằng mọi cách và tìm mọi cách để thu lợi nhuận cao có thể là thủ tiêu đối thủ cạnh tranh của mình vì vậy Nhà nước cần phải có sự can thiệp để điều chỉnh những hành vi của họ vào những việc làm có lợi như nâng cao chất lượng sản phẩm đa dạng phong phú mẫu mã cạnh tranh về giá cả. Đồng thời Nhà nước còn có chức năng chống độc quyền của các doanh nghiệp. Độc quyền trong nền KTTT đồng nghĩa với sự mất cân đối giữa cung - cầu, giữa tiêu dùng và sản xuất, đồng nghĩa với sự leo thang của giá cả vì vậy đầy có thể là nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
- Nhà nước dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển của các thành phần kinh tế. Thông qua kế hoạch và chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm và hiệu quả các năng lực tập trung và lực lượng dự trữ. Nhà nước kiểm soát và phân phối các nguồn tài nguyên của đất nước để nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo vệ môi trường sinh thái. Quản lý và kiểm soát tài sản quốc gia tại các doanh nghiệp nhà nước nhằm bảo tồn và phát triển và duy trì sự hoạt động liên tục.
- Nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo cho hoạt động kinh tế bao gồm: cơ sở hạ tầng kỹ thuật (giao thông, phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, dự trữ quốc gia...) cơ sở hạ tầng văn hoá xã hội như giáo dục, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường... nhằm tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế.
- Nhà nước kiểm soát các hoạt động kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng tương đương và ngân hàng thương mại. Trong đó ngân hàng trung ương làm chức năng dự trữ vừa làm chức năng điều tiết và kiểm soát lượng tiền được cung ứng thông qua hệ thống ngân hàng thương mại điều khiển nền kinh tế có thể tránh được khủng hoảng thất nghiệp và lạm phát.
- Mặt khác Nhà nước thông qua các chính sách ưu đãi thể hiện một số hình thức hỗ trợ cho các lĩnh vực mà Nhà nước muốn ưu tiên phát triển . Nhà nước có chức năng phân phối lại thu nhâp bằng các khoản thu từ thuế, phân phối lại của cải xã hội.
- Nhà nước đưa ra những đề tài nghiên cứu khoa học, nhập những tiến bộ của KHKTCN vào sản xuất nhằm đưa nền kinh tế phát triển nhanh hơn.
- Nhà nước có vai trò điều chỉnh các quan hệ kinh tế, tác động tới quan hệ lao động và thị trường lao động giới hạn thất nghiệp, sử dụng các khoản chi của chính phủ để phát triển y tế, giáo dục, lập các quỹ phúc lợi, phân công lại lao động giữa các ngành nghề và giữa các vùng.
Với tư cách là người đầu tư kinh doanh, Nhà nước trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh trong một số lĩnh vực.
- Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, Nhà nước là người sở hữu đại biểu và quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh.
- Các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân ngoài yêu cầu đảm bảo nền kinh tế phát triển đúng định hướng XHCN còn do thành phần kinh tế này gắn với loại hình sở hữu cao nhất là sở hữu nhà nước. KTNN phát triển dựa trên một trình độ lực lượng sản xuất phát triển cao trình độ quản lý và phân phối sản phẩm gần với mục tiêu của CNXH thời kỳ quá độ.
- Kinh tế Nhà nước đóng vai trò là mạch máu lưu thông, bao gồm những ngành nghề lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân sách bảo hiểm , những cơ sở thương mại, dịch vụ quan trọng với quy mô lớn và vừa, công nghệ tiến bộ.
- Kinh tế nhà nước thể hiện đầy đủ tính ưu việt của CNCS đảm bảo sự thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, thống nhât chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
- Kinh tế nhà nứơc chiếm vị trí then chốt có liên quan tới hoạt động của toàn nền kinh tế, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác.
- Kinh tế nhà nước mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách và là đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Kinh tế nhà nước mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Kinh tế nhà nước thể hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Ngoài ra chức năng kinh tế nhà nước thể hiện ở vai trò điều tiết kiểm kê kiểm soát của nhà nước đối với khu vực tư nhân.
- Một mặt nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất không giới hạn quy mô nhưng mặt khác Nhà nước cũng cần phải tăng cường công tác kiểm soát nhằm hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế tư nhân và phát huy tính độc lập tự chủ. Nhà nước có thể kiểm soát kinh tế tư nhân bằng lãi suất của các ngân hàng thương mại và sử dụng thuế khoá đối với các doanh nghiệp tư nhân. Trong những trường hợp quan trọng và thật sự cần thiết nhà nước có thể đặt ra giá cho các sản phẩm quan trọng, kiểm soát việc mua và bán ngoại tệ.
Với tư cách là người lập kế hoạch, Nhà nước tác động một cách trực tiếp vào phương hướng đầu tư và phát triển kinh tế.
- Nhà nước xác lập những cân đối chung cơ bản trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Thông qua hệ thống các phương hướng nhiệm vụ mục tiêu và chỉ tiêu được vạch ra trong các chiến lược kế hoạch các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Việc định hướng trước tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân phát triển cân đối nhịp nhàng với tốc độ và hiệu quả cao. Nhà nước đưa ra các kế hoạch và trên thực tế đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp dự đoán được xu hướng biến đổi của thị trường mà hành động một cách có lợi nhuận nhất trong khuôn khổ của thể chế thị trường.
Việc hoạch định và thể hiện các chính sách xã hội, các chương trình điều tiết thu nhập đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Việc hoạch định, xác lập kế hoạch hoá của Nhà nước trong nền kinh tế có những tác dụng sau:
- Đề ra mục tiêu và những trật tự cho các chính sách kinh tế.
- Phát hiện ra những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục sửa chữa đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động một cách thông suốt.
- Định hướng cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Nói tóm lại, Nhà nước có chức năng kinh tế rất lớn, điều hành quản lý ở tầm vĩ mô nhưng đối với từng nước thì các chức năng đó thể hiện công dụng một cách khác nhau tuỳ thuộc vào chế độ kinh tế của từng nước, tuỳ thuộc sự phát triển kinh tế của nước đó ra sao mà sử dụng cho phù hợp.
2. Các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Để thể hiện một cách triệt để các chức năng của Nhà nước thì đòi hỏi Nhà nước phải có hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Hệ thống công cụ đó bao gồm hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế (chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách tín dụng...) và các kế hoạch nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển có hiệu quả.
a.Hệ thống luật pháp: Nhà nước sử dụng và ban hành hệ thống pháp luật đặc biệt là luật kinh tế nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho sản xuất kinh doanh, duy trì được kỷ cương trật tư về kinh tế và xã hội, hướng dẫn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh theo quy định của luật pháp. Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh cuả họ làm tổn hại đến lợi ích chung của toàn xã hội.
- Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết mình phải làm những gì và những gì mình được làm. Trên cơ sở những điều pháp luật cho phép thì được pháp luật bảo hộ quyền tự do, bảo vệ lợi ích và ngoài những điều luật pháp nghiêm cấm thì các doanh nghiệp có quyền được làm tất cả những gì mà khả năng của họ cho phép. Ngược lại nêú vượt quá giới hạn thì sẽ bị pháp luật cưỡng chế. Chính vì vậy mà pháp luật Nhà nước rất có hiệu lực. Đó là công cụ đắc lực để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế một cách gián tiếp, điều khiển các hoạt động của các doanh nghiệp đi đúng hướng đúng pháp luật. Như vậy Nhà nước dùng pháp luật để tác động tích cực đến đời sống kinh tế, chi phối mạnh mẽ các quan hệ kinh tế. Thực tiễn quá trình phát triển lịch sử đã cho thấy không ít trường hợp pháp luật đóng vai trò là người dẫn đường cho các quá trình kinh tế, khai phá những lộ trình mới cho kinh tế phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên cũng không ít trường hợp do sự khắt khe chặt chẽ của pháp luật hay do sự pháp luật lạc hậu chậm đổi mới mà pháp luật trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Thực ra pháp luật không đóng vai trò quyết định tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế và ngược lại sự tăng trưởng kinh tế hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân luật pháp mà cái chính là phụ thuộc vào khả năng của Nhà nước trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức thể hiện pháp luật ở từng mô hình kinh tế cụ thể.
Về phương diện lý luận, pháp luật là yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng, có vai trò chính trị chi phối mạnh mẽ chính sách xã hội. Trước kia, nền kinh tế nước ta là tập trung quan liêu bao cấp hệ thống pháp luật đưa ra như là mệnh lệnh vì vậy vai trò của pháp luật đối với kinh tế là rất mờ nhạt. Đến nay khi chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì vai trò của pháp luật là rất to lớn và thực sự đã phát huy sức mạnh. Nó không chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội nói chung mà đi sâu hơn pháp luật điều chỉnh quan hệ kinh tế nói riêng. Pháp luật đang đóng vai trò của phương pháp điều chỉnh chính yếu đối với các quá trình kinh tế. Nó mở đường cho các quan hệ kinh tế mới phát sinh, củng cố các quá trình đổi mới kinh tế đảm bảo cho các quá trình này diễn ra có trật tự có hệ thống không thể đảo ngược được. Đảng và Nhà nước ta hiện nay đã sử dụng pháp luật như là một công cụ không thể thay thế của quá trình CNH - HĐH trong nền KTTT mở, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế vừa đảm bảo định hướng XHCN. Quyền tự do kinh doanh sự bình đẳng của các chủ thể kinh tế được ghi trong hiến pháp và trên thực tế quyền này hoạt động có hiệu quả khi các chủ thể kinh tế hoạt động trong môi trường pháp lý bình đẳng. Nhà nước sử dụng pháp luật đó kiểm soát quá trình vận động nền kinh tế từ quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật tự do cạnh tranh là đặc thù của KTTT. Bài học về khủng hoảng tài chính ở khu vực Đông Nam á bắt đầu từ Thái Lan sang Hàn Quốc, Inđonêsia... Đã chỉ rõ sự yếu kém của cơ chế kiểm soát đối với hoạt động tài chính tiền tệ. Vì vậy vai trò pháp luật trong việc quy định chế độ kiểm tra giám sát của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là cực kỳ quan trọng. Nó còn cho phép nền KTTT của nước ta hoà nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế một cách an toàn và có hiệu quả. Mặt khác Nhà nước còn sử dụng công cụ luật pháp trong phân phối. Làm theo năng lực hưởng theo lao động vốn là nguyên tắc của CNXH do vậy pháp luật tạo ra sự bình đẳng cho mọi cá nhân tạo điều kiện cho các cá nhân được hưởng đúng với đóng góp của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
b. Các chính sách kinh tế
Hệ thống các chính sách kinh tế giúp cho Nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất phát triển, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp đối với lợi ích của toàn xã hội. Mỗi chính sách kinh tế đều có thể tác động về cả hai phía cung và cầu:
* Chính sách tài chính: trong cơ chế thị trường việc phân phối tài chính được thể hiện trên thị trường theo các các qui luật của thị trường thậm chí còn tồn tại thị trường tài chính mà ở đó diễn ra hoạt động trao đổi mua bán đáp ứng quan hệ cung - cầu về nguồn lực tài chính. Hoạt động tài chính càng trở nên phong phú đa dạng tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội. Nhà nước sử dụng chính sách tài chính như là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế. Chính sách tài chính là một trong những công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu của Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình thể hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng.
- Nhà nước sử dụng chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một định hướng cơ bản để xác định nền tài chính quốc gia lành mạnh vững chắc. Kinh nghiệm thực tiễn chứng tỏ một nền kinh tế kém phát triển tất yếu sẽ kéo theo một nền tài chính ốm yếu ngân sách thâm hụt. Sự cân bằng ngân sách Nhà nước chủ yếu dựa vào tăng trưởng kinh tế vì vậy để nguồn tài chính không bị thâm hụt thì Nhà nước phải tăng cường quản lý bằng pháp luật, kế hoạch và chính sách.
- Chính sách tài chính có tác dụng đẩy mạnh quá trình CNH -HĐH đất nước: để tiến hành CNH - HĐH thì đòi hỏi phải có đầu tư. Muốn vậy phải có một nền tài chính thặng dư mới giải quyết được nhu cầu vốn. Để tăng mức vốn phải giải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng theo hướng tiết kiệm. Điều này cũng giải quyết phần nào yêu cầu KTTT.
- Chính sách tài chính góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô: Để ổn định kinh tế, đòi hỏi phải có một ngân sách Nhà nước lành mạnh mà các khoản chi được trang trải từ thuế. Vì vậy Nhà nước đã sử dụng công cụ tài chính để kích thích sản xuất hàng hoá phát triển đồng thời kết hợp với các công cụ quản lý vĩ mô khác để kiểm soát và đẩy lùi lạm phát tạo môi trường thuân lợi cho nền kinh tế phát triển trong trạng thái ổn định với hiệu quả cao.
* Chính sách tiền tệ: chính sách tiền tệ là một trong những chính sách lớn của Nhà nước, là công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế thị trường, vai trò quan trọng của chính sách tiền tệ được thể hiện.
- Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp để cho khối lượng tiền tệ tăng lên hoặc giảm xuống nhằm duy trì mối quan hệ cân đối số hàng hoá với lượng tiền.
- Nhà nước sử dụng chính sách tiền tệ kết hợp chính sách tài chính thể hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tức là đẩy lùi lạm phát kìm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái giá trị tiền trong nước tạo môi trường ổn định cho tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao về bền vững. Thông qua sự phối hợp hoạt động giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đưa vào sản xuất kinh doanh tạo ra việc làm, giảm tỷ lệ người thất nghiệp.
- Nhà nước sử dụng chính sách tài chính tiền tệ để điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ san cơ cấu"công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ".Nhà nước phát triển thị trường tiền tệ ở nông thôn đáp ứng nhu cầu phát triển của nông dân đưa nông nghiệp thành ngành sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường thể hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đồng thời thông qua chính sách phát triển nhằm nâng cao đời sống nhân dân ỏ nông thôn rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Thông qua hoạt động của thị trường tiền tệ cho vay với lãi suất ổn định nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển sang hoạt động theo cơ chê thị trường nâng cao tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp để doanh nghiệp có điều kiện đổi mới thiết bị công nghệ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.
* Chính sách tín dụng, chính sách ngoại hối cũng là một trong những công cụ quản lý của nhà nước. Nhà nước sử dụng chính sách ngoại hối nhằm thể hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế... nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ, nguồn vốn từ nước ngoài và thu hút kiều hối, ổn định tỷ giá hối đoái nhằm kìm chế lạm phát ổn định giá cả trong nước, tổ chức quản lý chặt chẽ nợ nước ngoài.
Về chính sách tín dụng, thông qua các ngân hàng trung ương, xuất phát từ nhu cầu của thị trường và các nhà doanh nghiệp vay vốn để đầu tư sản xuất. Nhà nước sử dụng chính sách tín dụng nhằm thể hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ đồng thời tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng.
* Chính sách tài chính đối ngoại.
Nhà nước sử dụng chính sách đối ngoại nhằm tiếp nhận viện trợ hoặc vay vốn từ nước ngoài, tiếp nhận vốn liên doanh, chuyển giao công nghệ giữa trong nước với nước ngoài. Sử dụng chính sách tài chính đối ngoại nhằm thực hiện các quan hệ quốc tế, các hoạt động kinh tế liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu. Nhà nước thông qua đó điều chỉnh sao cho hợp lý nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
* Chính sách lao động tiền lương: Nhà nước đã và đang từng bước đổi mới chế độ lao động tiền lương cho phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước mà đỉnh cao là việc Quốc hội Ban hành bộ luật lao động. Về lao động, Nhà nước đã ban hành Nghị quyết 120/HĐBT xây dựng việc làm quốc gia giải quyết cho hơn một triệu việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nhà nước đang từng bước chuyển hình thức biên chế suốt đời sang làm việc theo hợp đồng nhằm giải phóng năng lực tạo nên sự chuyển dịch lao động giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước cũng đang có những biện pháp nhằm cân đối lại lực lượng lao động giữa các ngành nghề giữa nông nghiệp - công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị làm giảm bớt sự lãng phí lao động.
Về tiền lương, tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Nhà nước đã thay đổi kết cấu tiền lương đưa sự ưu đãi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Cùng với tiền lương. Đồng thời Nhà nước cũng có chính sách nâng cao tiền lương lực lượng lao động công tác ở nông thôn miền núi hải đảo. Chính nhờ có sự thay đổi đó trong tiền lương và lao động (giảm lao động từ 48 tiếng đến 40 tiếng trong một tuần) tạo cho người lao động hứng thú làm việc hơn qua đó gián tiếp nâng cao năng suất lao động làm cho thị trường sản phẩm hàng hoá phát triển nhanh chóng.
c. Ngoài những công cụ trên , Nhà nước còn điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế bằng các chiến lược, các kế hoạch dài hạn can thiệp vào các hiện tượng các quan hệ kinh tế bằng công cụ lãi suât và chỉ tiêu kế hoạch vừa là công cụ, vừa là phương pháp quản lý điều khiển nền kinh tế. Kế hoạch hoá là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của nền kinh tế, nhờ có kế hoạch mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của các bộ, các ngành các địa phương kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối chính sách kinh tế quản lý tập trung. Kế hoạch giúp cho không những chính phủ mà cả các nhà sản xuất kinh doanh nhìn nhận đúng hướng đi sao cho có lơị nhất bởi kế hoạch cũng như một dự án được đưa ra bàn luận phân tích trước khi đưa vào sử dụng.
Có thể nói, kế hoạch đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Kế hoạch có đúng có hiệu quả thì nền kinh tế thông qua đó mà có điều kiện để phát huy những mặt tích cực. Thực tế cho thấy các nước trên thế giới và cả Việt Nam ta khi bước vào xây dựng nền kinh tế đều đưa ra những kế hoạch nhằm định hướng cho các hoạt động kinh tế trong tương lai. Kế hoạch đó có thể là ngắn hạn trung hạn hay dài hạn, 5 năm, 10 năm 20 năm hoặc có thể dài hơn.
3. Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Khác với một số nước trên thế giới, chúng ta tiến lên CNXH từ một nước nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu mà bỏ qua giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa tư bản. Bởi vậy chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế đó là do chúng ta chưa chuẩn bị được cơ sở vật chất kỹ thuật để tiến lên CNXH. Mặt khác nền kinh tế của nước ta trước đây dập khuôn theo mô hình kinh tế của Liên xô với chế độ xã hội công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trong đó sở hữu toàn dân đóng vai trò chủ đạo. Xuất phát từ quan niệm nền kinh tế XHCN là nền kinh tế phát triển có kế hoạch, quy luật phát triển có kế hoạch là quy luật điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế nên nhà nước ta lấy kế hoạch hoá làm công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế. Việc lãnh đạo phát triển kinh tế quốc dân có kế hoạch là một vấn đề cơ bản nhất trong nhiệm vụ quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.
Công cụ đổi mới nền kinh tế của nước ta bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng. Đó là điểm mốc cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Từ đại hội 6 nhà nước ta mới thấy rõ lợi ích của việc chuyển đổi nền kinh tế và đó là thời điểm Đảng ta xác định phải chuyển dần nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp đang tồn tại sang nền kinh tế thị trường phát triển theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.
Trong hơn 10 năm đổi mới đất nước ta đã phải đối phó với rất nhiều khó khăn nhưng nhờ sự lãnh đạo, sự quản lý chặt chẽ của Đảng và đặc biệt là vai trò tham gia điều tiết nền kinh tế của Nhà nước, sự định hướng theo kế hoạch và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước theo hướng có lợi nhất nên chỉ trong một thời gian ngắn nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi đáng kể sau:
KẾT LUẬN
Đối với Việt nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên XHCN, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN thì vai trò nhà nước là vô cùng quan trọng. Thông qua vai trò quản lý điều hành nền kinh tế của nhà nước sẽ tạo ra cho nền kinh tế nước ta một trình độ phát triển mới tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cải thiện nâng cao đời sống vật chất đời sống tinh thần của nhân dân.
Hơn 10 năm đổi mới chuyển đổi từ nền kinh tế đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn cực kỳ quan trọng. Đó chính là mốc mới trong sự phát triển tư tưởng của Đảng. Từ đại hội 6 năm 1986 Đảng ta đã khởi xướng quá trình chuyển đổi nền kinh tế theo KTTT định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước. Tư tưởng đại hội 7 (1991) lại một lần nữa nhấn mạnh quá trình chuyển đổi là cần thiết và vai trò kinh tế của Nhà nước là yếu tố quyết định tới sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có những chính sách giải pháp nhằm phát huy nâng cao hơn nữa những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường và hạn chế tối đa mặt tiêu cực. Đồng thời nhà nước phải nâng cao hơn nữa hiệu lực và vai trò kinh tế trong việc quản lý điều tiết ở tầm vĩ mô nền kinh tế. Phát triển kinh tế gắn liền với phát triển xã hội nhằm làm cho "mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân đảm bảo công bằng dân chủ".
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vốn hiện Đại hội Đảng 6,7,8
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lê nin tập 2 - NXBGD
3. Giáo trình Lịch sử học thuyết kinh tế - NXBGD 1995
4. Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam
NXB thống kê 1994
5. Đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ở nước ta
6. Quản lý Nhà nước về kinh tế
7. Tính chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.
8. Kinh tế học của Samuelson - NXBGD
9. Kinh tế học của David Begg - NXBGD
10. Tạp chí:
- Kinh tế và dự báo 3/98
- Kinh tế phát triển 68/98; 88/98; 97/98
- Thông tin lý luận 7/98
- Tạp chí luật 3/98
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kc108_5033.doc