Đề tài Vai trò và chức năng của ngân hàng trung ương

A. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. I. Ngân hàng Trung Ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền. II. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian. 1. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian. 2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian. 3. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian. III. Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Chính phủ 1. Ngân hàng Trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ. 2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia. 3. Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước. 4. Cho chính phủ vay. IV. Chức năng quản lý của NHTW. 1. Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 2. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. B.VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. I.Mọi họat động của Ngân hàng Trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng tiền trong nền kinh tế ( Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế). 1.Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế: 2.Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. II. Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. 1. Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng tiền. 2. Các công cụ điều tiết.

doc20 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5224 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò và chức năng của ngân hàng trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. NHTW hiện thực hiện các chức năng cơ bản là ngân hàng của quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước của NHTW nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó mà thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. NHTW thực hiện các chức năng này thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh song mang tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý chứ không phải là mục đích của NHTW. Nói cách khác,mục đích hoạt động của NHTW không phải là mưu tìm doanh lợi mà là ổn định lưu thông tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. I. Ngân hàng Trung Ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền. Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp. Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế. II. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian. 1. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian. Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm nhất định. 2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian. Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay hết. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian. 3. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian. Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung ương vay tiền như cứu cánh cuối cùng. Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu. Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền. Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại. Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô. III. Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Chính phủ 1. Ngân hàng Trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ. a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ: Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường. Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo. Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô. b. Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ: Với tư cách là đại lý cho chính phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ trong các thỏa thuận tài chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài nước. Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm trực tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm tác động đến kinh tế vĩ mô. c. Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ: Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô. Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô. 2. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia. Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh… Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ,…. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ, ngân hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm trong tay công cụ này ngân hàng trung ương (NHTW) có thể can thiệt bất kì lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá. NHTW với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô. 3. Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nước,chính phủ có thể uỷ quyền cho bộ tài chính hoặc kho bạc đứng tên chủ tài khoản tại ngân hàng trung ương.hàng ngày,các khoản thu dưới dạng thuế,lợi nhuận,hoặc khoản thu khác được gửi vào tài khoản này. NHTW có trách nhiệm theo dõi,chi trả,thực hiện thanh toán và cấp vốn theo yêu cầu của kho bạc và sử dụng số dư đó khi nhàn rỗi tương tự như tài khoản của khách hàng tại một ngân hàng trung gian. Các khoản tiền gửi của chính phủ có thể dưới dạng vàng,ngoại tệ,các chứng khoán của các tổ chức phát hành khác cả trong nước và nước ngoài.nó chiếm tỉ trọng đáng kể trong tổng tài sản nợ của NHTW và thông thường là các khoản nợ không kì hạn.vì thế khoản kí gửi của chính phủ trở thành một nguồn vốn cho các hoạt động cho vay và đầu tư của NHTW. Tuy nhiên NHTW không phải là nơi duy nhất thực hiện vai trò thủ quỹ cho chính phủ.ở một số nước,đặc biệt là các nước áp dụng mô hình NHTW độc lập với chính phủ thì một bộ phận lớn vốn của kho bạc được gửi ở các ngân hàng tư nhân bởi sự hấp dẫn của lãi suất tiền gửi.mặc dù vậy,ở phần lớn các nước NHTW tỏ ra thích hợp với vai trò này hơn cả bởi bên cạnh việc giữ và quản lý tài khoản của chính phủ,NHTW còn thực hiện chức năng đại lý và cấp tín dụng cho chính phủ khi cần thiết.hơn nữa để đảm bảo nguyên tắc quản lý nguồn dự trữ quốc gia,kho bạc buộc phải gửi vàng,ngoại tệ và chứng chỉ có giá bằng ngoại tệ tại NHTW. 4. Cho chính phủ vay. NHTW có thể cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm bù đắp tiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm tài chính.tuy nhiên do việc cho ngân sách vay trực tiếp sẽ lam tăng lượng tiền cung ứng,có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát nên ngày nay các NHTW rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ.phần lớn các khoản tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do các ngân hàng trung gian nắm giữ. IV. Chức năng quản lý của NHTW. Đây là chức năng quyết định bản chất NHTW là một ngân hàng phát hành.việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân hàng của NHTW.nói cách khác,NHTW quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ và tín dụng thông qua khả năng kinh doanh của mình 1. Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô,trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đâm bảo công ăn việc làm. NHTW với chức năng phát hành tiền và khả năng tác động mạnh tới hoạt động của hệ thống ngân hàng được xem là có khả năng lớn trong việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông nên đã được giao trọng trách xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ của quốc gia. có thể nói,chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của NHTW.điều này có nghĩa là mọi hoạt động của NHTW(kể cả phát hành tiền)đều nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và bị chi phối bởi các mục tiêu đó . Chính sách tiền tệ được hoạch định theo một trong hai hướng sau: - Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Mục đích của chính sách này là chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp. - Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm lượng tiền cung ứng để hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Mục đích của chính sách lúc này là chống lạm phát. 2. Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, ngân hàng trung ương còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền trong quan hệ với ngân hàng. a. Đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng: Khác với các tổ chức kinh doanh khác, kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ cần thiêt phải được kiểm soát và điều tiết chặt chẽ bởi vì: - Các ngân hàng đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tém nói chung: nó là kênh chuyển giao vốn từ tiết kiệm đầu tư, là công cụ của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến lược, hoạt động của các trung gian tài chính, đặc biệt là các tổ chức nhận tiền gửi, có ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ. - Hoạt động của các ngân hàng liên quan đến hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền đồng thời đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc với nhau chặt chẽ thông qua các luồng vốn tín dụng luân chuyển và thông qua hoạt động của hệ thống thanh toán. Chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân hàng cũng sẽ gây nên vấn đề về thanh khoản của cả hệ thống. Mặt khác, sự sụp đỏ của ngân hàng sẽ gây khó khăn về vốncho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời ảnh hưởng tới quyền lợi của người gửi tiền. - Bản chất hoạt động của các ngân hàng là chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro sẽ tăng lên khi các ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận làm phương hại đến quyền lợi của người gửi tiền. Nguyên tắc hoạt động của các ngân hàng là đi vay ngắn và cho vay dài. Bảng tổng kết tài sản của nó luôn chứa đựng mức rủi ro tiềm năng do chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, giữa yêu cầu thanh khoản và mong muốn sinh lời tối đa. Vì thế sự điều tiết chặt chẽ và giám sát thường xuyên của ngân hàng TW sẽ ngăn cản xu hướng chạy theo lợi nhuận qua mức, đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro và phá sản. - Sự tồn tại và phát triển của các trung gian tài chính nói chung và ngân hàng nói riêng phụ thuộc vào lòng tin của công chúng với tư cách là người gửi tiền. Một sai sót nhỏ trong quá trình kinh doanh và cung ứng dịch vụ ngân hàng cũng có thể gây nên sự nghi ngờ có tính chất lan truyền. điều này thật sự đe doạ sự tồn tại của các ngân hàng. b. Bảo vệ khách hàng: Chức năng thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương còn nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa ngân hàng và các khách hàng. Điều này được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của khách hàng với tư cách là người đi vay. Chẳng hạn, quy định chuẩn mực về vi phạm và mức độ chi tiết của các thông tin cần báo cáo cho ngân hàng khi vay vốn, chuẩn mục hoá thủ tục vay vốn và tiếp nhận các dịch vụ ngân hàng, quy dinh cụ thể về ử lý và giải quyết các tranh chấp giữa nhân hàng với khách hàng Thứ hai, nhằm thúc đẩy cạnh tranh và hiệu quả thông qua qui định về chất lượng và sự cập nhập thông tin mà ngân hàng có nghĩa vụ cung cấp cho những người tham gia thị trường. Cụ thể, cần qui định rõ cơ chế cung cấp thông tin, loại thông tin và phạm vi cung cấp. Điều này giúp cho công chúng với tư cách người đầu tư và người sử dụng các dịch vụ ài chính có chất lượng. các ngân hàng vì thế quan tâm hơn tới tính minh bạch và chất lượng chất lượng của bản tổng kết tài sản trong chiến lược cạnh tranh khách hàng. Để đạt được mụch đích nay, NHTW và các thể chế điều tiết có liên quan thường đưa ra các chuẩn mực, các hướng dẫn hoặc qui định về tính đầy đủ và chính xác của thông tin được công bố. VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. Mọi họat động của Ngân hàng Trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung ứng tiền trong nền kinh tế ( Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế). Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế: Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính sác cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt. Giả sử vào thời điểm ta nghiên cứu, đường cung ứng tiền tương ứng của ngân hàng là LS0 ứng với nhu cầu tiền trong nền kinh tế là LD. Nền kinh tế đạt bình quân tạm thời trên thị trường tiền tệ tại điểm bình quân E0 cho biết: với mức bình quân ấy lượng cung ứng tiền là L0 và lãi suất là R0. Bây giờ, cho rằng ngân hàng trung ương quyết định thắt chặt cung ứng tiền để hạn chế lạm phát (LS0 tới LS1) trong khi LD vẫn không thay đổi. Chính điều này đã làm cho lãi suất tăng vọt từ R0 đến R1. E0 di chuyển đến E1. Lúc này tiền sẽ khan hiếm hơn (do lượng cung giảm). Tiền khan hiếm thì giá trị của đồng tiền sẽ tăng theo do đó lạm phát sẽ giảm. Ngược lại, giả sử sau một khoảng thời gian chống lạm phát với cái giá là sự suy thoái (tiền khan hiếm, lãi suất cao bên cạnh đó sự thắt chặt tiền tệ của ngân hàng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay), ngân hàng trung ương bắt đầu chuyển sang cung ứng tiền nới lỏng. Tổng cung tiền tệ tăng từ LS1 lên LS2, cắt LD tại E2, lúc này lượng tiền tệ tăng lên L2 và lãi suất giảm xuống còn R2. Lúc này thì nền kinh tế phải đối mặt với thách thức mới là lạm phát có thể gia tăng (do có quá nhiều tiền trong lưu thông). Vì thế cho nên mỗi lần áp dụng mức lãi suất hay lượng cung ứng tiền ngân hàng trung ương phải đắn đo suy nghĩ những tác hại thiệt hơn cho mỗi chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ R1 R0 R2 E1 E0 E2 LS1 LS0 L1 LS2 L0 L2 LD Cung ứng tiền Lãi suất 0 Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân, giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá cả tăng cao hơn trước. Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và tiền trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt giảm chi tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá phải trả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương. Khi ngân hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều tiết nền kinh tế. Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. Mục tiêu: - Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho mục đích đảm bảo cho nền kinh tế có tăng trưởng, tức là giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng tiềm năng sản xuất, chống suy thoái… - Chính sách tiền tệ phải hướng về ổn định giá cả: Giá cả có lạm phát thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế vì mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dương, do đó đời sống của người lao động sẽ tốt hơn và người dân sẽ tin chính phủ hơn. Sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ và nền kinh tế sẽ có sức bật về đầu tư lâu dài, giá trị đồng tiền nội địa sẽ ổn định. - Phải tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng tài chính ổn định được hiểu là bằng chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải ổn định họat động tài chính của hệ thồng tài chính trong nước một cách gián tiếp… hướng quản lý các họat động của nó phù hợp với các mục tiêu kinh tế. Làm hài hòa các lợi ích của các tổ chức tài chính để nó phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của cả nền kinh tế. - Góp phần mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế: Các tiềm năng như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người… mục tiêu cuối cùng của chính sách là khai thác và phát triển các ngưồn lực một cách có hiệu quả nhất. II. Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. 1. Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng tiền. Khi xem xét mục tiêu trung gian (lãi suất,dự trữ,tỷ giá) trong họat động điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, thì những mục tiêu này thực chất chỉ là phương tiện giúp cho ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu là điều tiết nền kinh tế. Xét về ngắn hạn lãi suất, dự trữ, tỷ giá thay đổi ảnh hưởng một cách nhanh chóng đến tiêu dùng và đầu tư và đến nền kinh tế. Từ đó về mặt ngắn hạn các nhà kinh tế học xem ba tác nhân trên là những mục tiêu trung gian. Lãi suất Lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa khỏan tiền ngưởi vay trả cho người cho vay trên tiền vốn trong một khoảng thời gian nhất định như 1 năm, 1 tháng. Thị trường hàng hóa P2 P0 P1 E1 E0 E2 Y1 Y0 Y2 AD0 GDP Giá cả AD1 AD2 450 S 0 R1 R0 R2 E’1 E’0 E’2 Y1 Y0 Y2 GDP Lãi xuất Thị trường tiền tệ 0 Giả sử lúc đầu lãi suất của thị trường tiền tệ là R0, ở mức lãi suất này nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là AD0 và sản lượng quốc gia là Y0. Bây giờ cho rằng ngân hàng trung ương và chính phủ quyết định nâng lãi suất để giảm lạm phát. Lãi suất cao hơn làm cho việc vay tiền trở nên khó khăn hơn do thế sản xuất không dám tiêu dùng nhiều vốn và sản xuất có xu hướng giảm sút. Do lãi suất cao nên người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và nhu cầu tiêu dùng giảm xuống. Đường cầu AD0 dịch chuyển đến AD1. Tiêu dùng và đầu tư giảm làm giá cả giảm từ P0 xuống P1, sản lượng tụt xuống Y1 và nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái. Ngược lại khi lãi suất hạ xuống R2, sản xuất sẽ tiêu dùng nhiều vốn hơn, sản xuất được đẩy mạnh, lãi suất thấp người tiêu dùng sẽ tiết kiệm ít hơn và đầu tư và chi tiêu nhiều hơn do đó cầu sẽ tăng lên. Giá cả cũng sẽ tăng và sản lượng quốc gia do đó cũng tăng lên. Dự trữ: Khi ngân hàng trung ương sử dụng tỷ lệ dữ trự bắt buộc như một công cụ, nó tác động trực tiếp đến cung ứng tiền. Lúc đó dự trữ bắt buộc là công cụ mà cung ứng tiền là mục tiêu. Khi ngân hàng trung ương không sử dụng cách điều tiết trực tiếp bằng việc áp đặt tỷ lệ dựtrữ bắt buộc, nó có thể tác động đến dự trữ bắt buộc bằng cung ứng tiền. Đó là cách điều tiết gián tiếp. Bằng việc bán chứng khoán ra để thu tiền về (giảm lượng tiền trong lưu thông, tiền từ đó khan hiếm dần), từ đó mà lãi suất tăng lên và làm giảm việc cho vay. Khi ngân hàng trung ương xuất tiền ra để mua chứng khóan (tăng cung ứng tiền cho nền kinh tế, tiền dễ dàng để có hơn) do đó làm giảm lãi suất, tăng khả năng cho vay. Trong trường hợp này cung ứng tiền là công cụ mà dự trữ là mục tiêu. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái được xem là giá của một đồng tiền trên sự so sánh với một đồng tiền nước khác ( kí hiệu là E ). RV1 RV0 RV2 E1 E0 E2 LS1 LS0 L1 LS2 L0 L2 Cung ứng tiền Giá trị đồng tiền trong nước 0 Thị trường tiền tệ Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, ngân hàng trung ương có thể làm tăng hay giảm giá đồng tiền nội địa so với nước ngoài. Khi ngân hàng trung ương tăng cung ứng tiền từ LS0 lên LS2, có quá nhiều đơn vị tiền nội địa trong sự so sánh với nước ngoài, hay nói cách khác chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi lấy một đơn vị đồng nội tệ, do vậy giá trị đồng tiền trong nước giảm từ RV0 xuống RV2 ( tỉ giá trao đổi từ E0 lên E2 ). Trong trường hợp ngược lại, khi ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ, giảm cung ứng tiền xuống còn LS1, đồng tiền trong nước trở nên khan hiếm hơn và từ đó giá trị đồng tiền trong nước tăng lên đến RV1. Tỉ giá trao đổi giảm xuống E1. Hay cũng có cách khác, là cách như Hoa Kì làm trong năm 1995. Hoa Kì bán ngọai tệ để rút tiền nội địa về (thu hẹp cung ứng tiền) nhằm tăng giá đồng tiền nội địa. Và bán đồng nội tệ để mua ngoại tệ (tăng cung ứng tiền) nhằm giảm giá đồng nội tệ. Khi đồng tiền trong nước bị mất giá (tức là với một đơn vị ngọai tệ có thể đổi nhiều đồng nội tệ hơn) lúc đó sẽ làm gia tăng xuất khẩu (bán hàng ra nước ngòai và thu tiền về bằng ngọai tệ, khi đổi ra nội tệ sẽ có lợi hơn do đồng nội tệ đã mất giá hơn trước ), do đó sẽ làm tăng GDP. Và khi đồng tiền nội tệ tăng giá sẽ làm tăng nhập khẩu. Do những lý do trên tỉ giá hối đoái có tác động đến kinh tế vĩ mô và nắm được tỉ giá hối đoái này chính phủ cần ngân hàng trung ương điều tiết lượng cung ứng tiền. 2. Các công cụ điều tiết. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở có 2 lọai: được phép mua bán chứng khóan vào những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và lọai không được phép mua bán lại. Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở để bán nó thu tiền hay séc về, cho nên: Thứ nhất, giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay của các ngân hàng trung gian. Thứ hai, khi ngân hàng trung gian mua chứng khoán của ngân hàng trung ương thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt chặt. Thứ ba, lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền cung ứng giảvà do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa giảm xuống. Và ngược lại khi ngân hàng trung ương ra thị trường mở để mua chứng khoán. Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực hiện nghiệp vụ mua. Lãi suất cho vay chiết khấu Được ngân hàng trung ương quyết định trong cả hai trường hợp: TH 1: Cho vay bình thường với kí quỹ khi ngân hàng trung gian kẹt thanh toán. TH 2: Cho vay dưới hình thức cứu cánh cuối cùng. Lãi suất cho vay chiết khấu có cả hai tác dụng: trực tiếp và gián tiếp. Tác động gián tiếp là nó làm tăng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong kinh tế. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì đó là biến cố quan trọng. Lãi suất tăng khiến ngân hàng trung gian không thể vay mượn của ngân hàng trung ương nhiều và dễ dàng như trước. Do đó nó phải giảm lượng cho vay và hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Điều này cũng làm cho ngân hàng trung gian ý thức rằng khi cần vay thì ngân hàng trung gian phải trã lãi suất cao, do đó ngân hàng trung gian sẽ từ từ nâng lãi suất của mình để khỏi thiệt hại nặng khi phải vay của ngân hàng trung ương. Lãi suất tiếp tục thắt chặt lượng cung tiền và tác động đến nền kinh tế. Và ngược lại khi giảm lãi suất chiết khấu. Dự trữ bắt buộc Sự thay đổi trong tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng cung của tiền và ảnh huởng sâu sắc đến nền kinh tế. Chính sách tiền mặt Ngòai việc có thể thay đổi cơ số tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở và cho vay chiết khấu ngân hàng trung ương có thể có những cách khác như: Khi ngân hàng tung tiền mặt ra mua ngọai tệ trên thị trưởng ngọai tệ, tức khắc nó làm tăng giá trị của đồng ngọai tệ (ngọai tệ trong lưu thông ít đi, lượng tiền nội tệ thì tăng thêm ), nâng tỉ giá lên cao. Cung ứng tiền nội tệ tổng thể lập tức bành trướng sau đó và ngược lại khi bán ngọai tệ. Khi ngân sách chính phủ thâm hụt nó sẽ cho chính phủ vay, lượng tiền mặt nó cho vay làm tăng lượgn tiền trong lưu thông và tăng cung ứng tiền trong nền kinh tế thông qua việc chi tiêu của chính phủ. ________________HẾT_______________

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò và chức năng của ngân hàng trung ương.doc
Luận văn liên quan