MỤC LỤC Trang
Phần mở đầu: 2
Chương 1: Khái quát chung về tham nhũng . 3
I.Tham nhũng: . 3
1.Khái niệm. . 3
2.Phân loại tham nhũng. . 6
II.Ảnh hưởng của tham nhũng và sự cần thiết của các biện pháp chống tham nhũng. 7
Chương 2: Vấn đề tham nhũng trong hệ thống 8
I. Thưc trang tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam 8
II. Nguyên nhân của Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. 10
Chương 3: Một số giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước. 12
I.Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của một số nước trên thế giới. 12
1.Giải pháp phòng ngừa. 12
2.Giải pháp xử lý. . 13
II.Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. 14
1.Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. 14
2.Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam. 16
Kết Luận: . 20
Tài liệu tham khảo 21
Đề tài: Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam.
Phần mở đầu:
Tham nhũng đã trở thành một mối lo ngại lớn mang tính toàn cầu. Trung tuần tháng 11-2009, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng xếp hạng chỉ số nhận thức về tham nhũng (CPI) năm 2009. Dù không nhiều thay đổi so với năm 2008, nhưng xét về mặt tổng thể, điểm bình quân năm nay thấp hơn so với năm ngoái.Cũng không có nhiều sự thay đổi ở tốp đầu khi các quốc gia như New Zealand, Singapore, Đan Mạch, Thụy Điển vẫn được đánh giá là những nước có CPI cao nhất và minh bạch nhất còn Somali, Afghanistan và Iraq vẫn là nơi có nạn tham nhũng trầm trọng nhất thế giới.
Cụ thể, Việt Nam vẫn giữ nguyên ở mức 2,7 điểm, đứng thứ 120, tăng 1 bậc so với năm 2008 và tăng 3 bậc so với năm 2007. Năm nay, New Zealand đã vượt qua Đan Mạch để đứng đầu danh sách với 9,4 điểm. Đan Mạch đứng thứ hai với 9,3 điểm. Tiếp đó, Singapore và Thụy Điển cùng 9,2 điểm. Các nư,6 ớc xếp cuối bảng là Somalia (1,1 điểm), Afghanistan (1,3 điểm). Mỹ đứng thứ 19 với 7,5 điểm. Trung Quốc đứng thứ 79 (với 3điểm) và Nga 2,2 điểm đứng thứ 146.
Ngoài ý nghĩa cảnh báo về giá trị đạo đức suy giảm, tham nhũng còn phá hoại những nỗ lực phát triển kinh tế đất nước, nỗ lực kinh doanh và nỗ lực tạo sự tin cậy trong những cam kết quốc tế. Tham nhũng làm tăng các chi phí và rủi ro trong hoạt động kinh doanh; làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư và làm tụt giảm điểm tín nhiệm quốc gia. Tham nhũng còn gây ra những ngờ vực về độ tín nhiệm trong kinh doanh, độ tin cậy của đội ngũ lãnh đạo chính phủ và độ tin cậy các cam kết.
Tham nhũng là một tệ nạn mang tính chất toàn cầu. Tuy nhiên không phải ở bất kì nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà mỗi quốc gia trên thế giới đều có những sự khác nhiều do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Tại Việt Nam, tình hình tham nhũng cũng diễn ra hết sức phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhiều mức độ khác nhau. Tham nhũng tại Việt Nam theo các nhà lãnh đạo là nạn nội xâm, là quốc nạn, là vấn đề gây nhức nhối của cả Việt Nam. Trong đó nổi lên là vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước. Tham nhũng trong cơ quan nhà nước là một vấn đề bức xúc và đáng quan tâm nhất trong giai đoạn hiện nay.Chính vì sự ảnh hưởng của tham nhũng tới xã hôi và tầm quan trọng của các biện pháp phòng chống tham nhũng trong các cơ quan Hành chính nhà nước cho nên em đã lựa chọn đề tài: “Vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam”. Em lựa chọn đề tài này vì nó là một vấn đề nan giải đang được các cá nhân, tổ chức quan tâm để tìm ra các biện pháp phòng chống. Hi vọng với cách tiếp cận “mới nhưng không cũ” của em sẽ đem lại cái nhìn chân thực và đúng đắn, phản ánh đúng vấn đề tham nhũng trong các cơ quan
hành chính nhà nước Việt Nam. Xác đinh được những yêu cầu của vấn đề chúng em đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm ngăn chặn tham nhũng.
Đề tài của chúng tôi ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
·Chương 1: Khái quát chung về tham nhũng.
·Chương 2: Vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam.
·Chương 3: Một số giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước.
Chương 1: Khái quát chung về tham nhũng
I. Tham nhũng.
1. Khái niệm.
Tham nhũng là gì? Có thể có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Phân tích ở cấp độ kinh tế, Vito Tanzi - một học giả người Ý trả lời súc tích nhất: “Tham nhũng là hành động cố tình không tuân thủ các nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ liên quan tới hành động đó” (1). Có 3 nội dung chính trong định nghĩa này.
Nội dung thứ nhất đề cập tới nguyên tắc công minh bởi lẽ nó đòi hỏi quan hệ cá nhân hoặc các mối quan hệ khác không được xen vào quyết định kinh tế có liên quan tới nhiều bên. Việc đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể kinh tế là một yêu cầu cần thiết đối với một nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả. Thái độ thiên vị đối với một số chủ thể kinh tế nào đó chắc chắn sẽ vi phạm nguyên tắc công minh và mở đường cho tham nhũng. Còn có thêm hai điều kiện cần thiết khác dọn đường cho tham nhũng, hay nói cách khác những điều kiện cần thiết để hành động cố tình thiên vị có thể được gọi là tham nhũng. Điều kiện thứ nhất là thái độ thiên vị phải có chủ đích. Việc vô ý vi phạm nguyên tắc công minh, chẳng hặn vì thiếu thông tin đầy đủ, không được coi là tham nhũng. Thứ hai, phải có lợi ích nhất định nào đó cho cá nhân vi phạm nguyên tắc công minh, nếu không sẽ không có tham nhũng. Việc vi phạm nguyên tắc không thiên vị đôi khi được coi là phân biệt đối xử, nhưng lại không phải là tham nhũng. Việc trục lợi hoặc dành lợi thế cho kẻ hối lộ có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Người ta thường cho rằng tham nhũng có nghĩa là nhận tiền nhưng những bổng lộc tương tự cũng có thể là món quà đắt tiền hoặc những ân huệ khác. Tặng một bộ trang sức đắt tiền cho vợ một người đã vi phạm nguyên tắc công minh và dành cho con trai của ông ta một công việc (nhẹ nhàng) với mức lương hậu hĩnh rõ ràng là tham nhũng.
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10339 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cho kẻ nhận hối lộ có bổn phận hoặc đôi khi bắt buộc phải ngấm ngầm đền đáp lại sự ưu ái đó. Bổn phận đó sẽ không mất đi theo thời gian và vì vậy việc trục lợi từ những cá nhân hối lộ sẽ vẫn tiếp tục trong tương lai. Nếu trả ơn bằng cách dành cho con trai của ông ta một công việc có thu nhập cao, nhưng cậu ta vừa mới bắt đầu vào đại học thì rõ ràng là giữa việc cho và nhận có một khoảng cách về thời gian. Hơn nữa, khi thỏa thuận tham nhũng, đôi khi việc trả ơn thậm chí không được nêu cụ thể nhưng hai bên vẫn ngầm hiểu đó là bổn phận cần phải thực hiện.
Đó là một cách hiểu về tham nhũng, tiếp cận tham nhũng ở mặt khác. Chủ tịch -Tổng giám đốc, InvestConsult Group, Nguyễn Trần Bạt đưa ra một định nghĩa: “Tham nhũng, nói một cách vắn tắt, là việc sử dụng các quyền lực, uy tín và địa vị công cộng để chiếm đoạt các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội hoặc của người khác”(2). Như vậy, tham nhũng, theo cách hiểu này, đối tượng của tham nhũng không chỉ là những giá trị vật chất như người ta thường quan niệm, mà còn là những giá trị về tinh thần. Chính trong lĩnh vực tinh thần, mức độ nguy hiểm của tham nhũng còn ghê gớm hơn so với trong lĩnh vực vật chất. Chính trong lĩnh vực có vẻ như yên ổn này hiện tượng tham nhũng lại diễn ra một cách tinh vi hơn, nặng nề hơn và tàn phá xã hội khốc liệt hơn.
Trên đây là hai cách tiếp cận khác nhau đối với định nghĩa tham nhũng. Và dù có là tham nhũng vật chất hay tham nhũng tinh thần thì hậu quả của nó đối với xã hôi đều là tiêu cực. Tiếp cận tham nhũng trên một phương diện khác - phương diện hành chính nhà nước cũng có một cách hiểu nữa. Đó là định nghĩa về tham nhũng mà Ngân hàng thế giới thường sử dụng. Theo đó, tham nhũng là: “Lạm dụng công quyền để tư lợi”(3). Định nghĩa này cho rằng nguyên nhân căn bản của tham nhũng xuất phát từ công quyền và lạm dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động của nhà nước, việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự tồn tại của khu vực công. Nói cách khác, khái niệm này loại trừ khả năng tham nhũng xảy ra trong khu vực tư nhân và chỉ tập trung vào tình trạng tham nhũng trong khu vực công. Vấn đề ở đây là không phải tất cả mọi hành động lạm dụng quyền hành đều là tham nhũng. Hành vi đó có thể là ăn cắp, gian lận, biển thủ hoặc một số hành động tương tự, nhưng chắc chắn không phải là tham nhũng. Nếu một quan chức cấp cao trong chính phủ đơn giản chỉ chiếm đoạt một số tiền từ ngân sách nhà nước mà không phục vụ hoặc ban ơn cho ai thì hành động đó không phải là tham nhũng. Đó là một loại tội nhưng thuộc nhóm khác. Đó là hành vi mà xã hội không thể chấp nhận nhưng không phải là tham nhũng. Nói cách khác, tham nhũng không phải là điều duy nhất không được chấp nhận trong xã hội và trái luật. Hơn nữa, việc bẻ cong pháp luật cũng có thể mở đường cho việc cố tình không tuân thủ các nguyên tắc công minh, nhưng nếu không có lợi ích riêng cho kẻ vi phạm luật pháp thì việc vi phạm luật pháp như vậy không phải là tham nhũng. Điều quan trọng là phải biết phân biệt giữa tham nhũng và các hành vi trái luật khác vì những nguyên nhân dẫn tới tham nhũng và các chính sách chống tham nhũng thường và có thể rất khác so với các nguyên nhân và chính sách chống các loại vi phạm pháp luật khác.
Về khái niệm tham nhũng ở Việt Nam. Trong khoản 2, Điều 1 của Luật Phòng, chống tham nhũng của Nhà nước ta có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006 đã ghi: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”(4) ở khoản 3, Điều 1 của bộ luật trên đã giải thích rõ người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
a) Cán bộ công chức, viên chức.
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước, cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
d) Người được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó"
Trên đây là một số định nghĩa về tham nhũng. Trong khuôn khổ bài tiểu luận chúng ta sẽ tiếp cận và nghiên cứu tham nhũng theo định nghĩa cuối cùng, tức là định nghĩa về tham nhũng của Việt Nam. Cho dù là tiếp cận tham nhũng ở góc độ nào thì tham nhũng trong hầu hết mọi trường hợp là kết quả của hành vi vơ vét bổng lộc. Bổng lộc là nguồn thu nhập của người quản lý và lớn hơn những lợi ích cạnh tranh mà người quản lý đó có thể nhận được. Tham nhũng chỉ là hình thức vơ vét bổng lộc và phung phí tiền bạc, tức là một tình huống mà trong đó các chủ thể sẵn sàng hối lộ để được tham gia vào một đường dây hưởng bổng lộc.
2.Phân loại tham nhũng.
Có rất nhiều tiêu chí để phân loại tham nhũng do mục đích và nhu cầu phân loại khác nhau. Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, việc phân loại tham nhũng rất quan trọng, vì nó cho phép chúng ta nhận diện rõ hơn về tham nhũng và đề ra những phương thức, biện pháp phòng chống thích hợp cho từng loại tham nhũng. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại những cách phân loại tham nhũng sau:
a.Tham nhũng lớn và tham nhũng nhỏ:
Theo Bộ công cụ phòng, chống tham nhũng của Liên hợp quốc thì “Tham nhũng lớn” là loại tham nhũng xâm nhập đến những bậc cao nhất của Chính phủ quốc gia, làm xói mòn lòng tin vào sự quản lý đúng đắn, nguyên tắc nhà nước pháp quyền và sự ổn định của nền kinh tế. Còn “tham nhũng nhỏ” là tham nhũng liên quan đến việc đổi chác một số tiền rất nhỏ, việc làm ơn không đáng kể bởi những người tìm kiếm sự ưu đãi hoặc việc lợi dụng bạn bè, họ hàng để nắm giữ chức vụ nhỏ. Khác biệt lớn nhất giữa tham nhũng lớn và tham nhũng nhỏ là ở chỗ: Tham nhũng lớn làm biến dạng hoặc mục nát các chức năng trọng tâm của chính phủ còn tham nhũng nhỏ phát triển và ồn tại trong bối cảnh của các khuôn khổ xã hội và quản lý đã được thiết lập.
b.Tham nhũng chính trị.
Hình thành do sự cấu kết giữa những người có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị, chủ yếu là những quan chức cấp cao trong bộ máy cầm quyền, nhằm tạo ra những quyết định, hay tìm cách tác động thiên lệch vào những quyết sách của Nhà nước có lợi cho một cá nhân, doanh nghiệp hoặc những nhóm lợi ích nào đó. Tham nhũng chính trị còn nhằm thay đổi các quy định pháp luật thành những quy đinh phục vụ quyền lợi của những kẻ tham nhũng.
c.Tham nhũng kinh tế.
Là tham nhũng xảy ra trong lĩnh vực quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ,… của các doanh nghiệp nhà nước, được thực hiện bởi những người có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về kinh tế, những người có thẩm quyền trong nhà nước. Tham nhũng kinh tế được thực hiện bằng việc tạo ra những rào cản, những chậm trễ, khó khăn về thủ tục để đòi hối lộ, đối xử thiên vị.
d.Tham nhũng hành chính.
Là hình thức tham nhũng xảy ra phổ biến trong các quan hệ mang tính chấp hành và điều hành của đội ngũ công chức hành chính. Ở đây, quyền lực hành chính, các trình tự thủ tục hành chính đã được các công chức sử dụng, gây khó khăn cho công dân để trục lợi cho bản thân. Các loại hình tham nhũng hành chính gồm có:
-Tham nhũng để đạt được hoặc đẩy nhanh việc thực hiện một thủ tục, một quyết đinh cụ thể nào đó mà công dân hay tổ chức có quyền được hưởng từ cơ quan hành chính nhà nước.
-Vị phạm các quy định của pháp luật hoặc việc thực hiện pháp luật mang nặng tính thiên vi.
Ngoài ra còn có nhiều tiêu chuẩn khác để phân loại các hình thức tham những. Trong khuôn khổ này chúng ta lấy tiêu chuẩn của Liên hợp quốc làm chuẩn để phân tích.
II.Ảnh hưởng của tham nhũng và sự cần thiết của các biện pháp chống tham nhũng.
Tham nhũng là một tệ nạn xã hội điều đó thì bất kì một các nhân, tổ chức nào cũng biết nhưng để nhận thức được một cách đầy đủ về ảnh hưởng của nó tới xã hội thì ít người biết được. Về ảnh hưởng của tham nhũng, chúng ta cần nhận thấy rằng bản chất của hối lộ không là gì khác ngoài việc phân phối lại thu nhập. Nói cách khác, bản thân tham nhũng không phải là làm mất đi phúc lợi mà chỉ phân phối lại phúc lợi mà thôi. Mặc dù xét một cách chi ly thì điều này là đúng, song nếu chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh phân phối thu nhập của tham nhũng thì đó lại là một trong những kiểu ngụy biện nguy hiểm nhất trong nghiên cứu về tham nhũng.
Lý do là vì chi phí giao dịch phát sinh trong tham nhũng là rất lớn. Tham nhũng là một thỏa thuận trái pháp luật và do vậy những chi phí giao dịch của nó rất lớn. Và những chi phí giao dịch như vậy là có thực - chi phí cơ hội của việc sử dụng các nguồn lực trong các hoạt động giao dịch. Tham nhũng làm thay đổi mọi lĩnh vực trong xã hội như kinh tế, luật pháp quốc gia, dân chủ, luân lý, giáo dục,… Những tổn thất do tham nhũng gây nên khó đo lường hết, những tổn thất về mặt vật chất cụ thể như:
-Cản trở đầu tư nước ngoài.
-Thất thoát vốn đầu tư trong nước.
- Giảm tốc độ làm việc, sản xuất.
-Giá sản phẩm đắt hơn thực tế, lương tăng theo nhịp độ giá hàng hóa, sức cạnh tranh với nước ngoài yếu hơn.
-Phá hủy chỗ làm, thất nghiệp cao.
-Nợ quốc gia tăng quá mức thực tế.
-Hạn chế phát triển kinh tế.
Tham nhũng không những lũng đoạn xã hội về mặt vật chất mà còn làm băng hoại xã hội về mặt tinh thần như:
-Nhân tài không được trọng dụng dẫn đến thất thoát ra nước ngoài.
-Luật pháp quốc gia bị lũng đoạn.
-Nền tảng xã hội bị hủy hoại, đạo đức bị suy đồi.
-Phản giáo dục, làm gương xấu cho những thế hệ sau.
Những tác hại về mặt tinh thần nêu trên là điều kiện căn bản cho sự phát triển một xã hội lành mạnh và cũng là điều kiện tiên quyết cho việc phát triển kinh tế, một quốc gia giàu mạnh.
Như vậy, chúng ta đã có được cái nhìn tổng quan về tham nhũng. Khi biết được tham nhũng là gì, biết được tác hại của nó, biết được cơ chế hoạt động của nó thì vấn đề cấp thiết đặt ra là đưa ra được những biện pháp thích hợp để phòng chống tham nhũng.
Chương 2: Vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam.
I. Thực trạng tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Tham nhũng không phải là vấn đề mới phát sinh ở Việt Nam mà đã có từ lâu. Ngay từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra khuyết điểm to nhất ở các địa phương lúc bấy giờ là tham ô. Người tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tình trạng này bằng cách, phải dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Điều đó chỉ rõ ràng rằng, Đảng ta đã thực hiện đấu tranh chống tham nhũng ngay từ khi giành được chính quyền. Đảng và Nhà nước ta đã thành lập ra tổ chức chuyên trách đặc biệt để thực hiện chống tham nhũng, ban hành Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và các sắc lệnh khác liên quan đến chống tham nhũng. Thời kỳ hòa bình lập lại, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng đã ban hành các nghị quyết về nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; Nghị quyết về cuộc đấu tranh chống lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý lao động, quản lý thị trường, giữ vững trật tự an ninh, phục vụ tốt đời sống nhân dân, các nghị quyết về phòng, chống tham ô, lãng phí.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới với nhiều chủ trương, biện pháp quyết liệt của Đảng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng của ta đã đạt được một số kết quả khả quan: Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ rõ ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu, nhiệm vụ; những chủ trương, giải pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Các cấp ủy đảng và chính quyền từ trung ương đến địa phương đã quan tâm hơn đến công tác kiểm tra, thanh tra, nhất là kiểm tra, thanh tra công tác xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Quốc hội và HĐND các cấp đã dành nhiều thời gian để giám sát công tác phòng, chống tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án được củng cố một bước cả về thẩm quyền pháp lý, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất. Việc xử lý tham nhũng bước đầu có sự chuyển biến tích cực, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Vai trò giám sát, tham gia của nhân dân trong công tác phòng chống tham nhũng lãng phí được nâng cao và có đóng góp thiết thực hơn; Đảng đã chú trọng tổ chức cho cán bộ, đảng viên, công chức và toàn dân học tập các nghị quyết của Đảng, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tìm hiểm về Đảng, Bác Hồ, đất nước… Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn về vấn đề tham nhũng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề là một bước quan trọng trong quá trình phòng chống tham nhũng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những giải pháp cụ thể trong việc phòng chống tham nhũng. Đặc biệt Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 ngày 19/11/2005 đã thông qua luật phòng - chống tham nhũng và Luật có hiệu lực từ 1/6/2006. Tiếp đó, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ nhất ngày 4/8/2007 cũng đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong luật phòng - chống tham nhũng có hiệu lực từ ngày công bố ( 17/8/2007). Trong mấy năm gần đây qua các phiên họp Quốc hội cũng tiến hành bổ sung, điều chỉnh một số điều trong luật cho phù hợp với thực tiễn. Luật được thông qua và đưa vào thực tiễn có một tác dụng rất to lớn đối với công tác phòng-chống tham nhũng ở Việt Nam. Điển hình cho hiệu quả của Luật là trong những năm gần đây Nhà nước ta đã phá được các vụ án tham nhũng khá lớn. Tuy vậy, việc đưa luật vào thực tế là một quá trinh lâu dài và cần phải có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn, bên cạnh đó còn có một số những điều kiện khách quan chi phối nên số vụ và hình thức tham nhũng vẫn còn nhiều. Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam xuất hiện ở tất cả các cấp, các ngành, lĩnh vực từ quy mô nhỏ tới quy mô lớn. Chúng ta lại thiếu các biện pháp đồng bộ, chưa quyết liệt, triệt để, còn né tránh, nể nang và trong chừng mực nhất định, còn có sự thỏa hiệp trong lãnh đạo điều hành ở các cấp. Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khóa IX đã phát hiện và xủ lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số thiệt hại tài sản trên 1,2 tỷ đồng và trên 34 triệu USD. Năm 1996 đã phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của chánh tòa án nhân dân tối cao trước quốc hội từ năm 1992 đên 1997 tào đã xét xử 3021 vụ tham những vơi 6.315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên đã bị tuyên án tử hình. Năm 2006, qua điều tra đã phát hiện tổng sai phạm trị giá 858 tỷ 969 triệu đồng. 5.487.583 USD, 120.569 EUR. Số liệu do các chuyên gia đưa ta trong chương trình Hội thảo: “ Cải cách hành chính cấp tỉnh: Hiện trạng và khuyến nghị” do ban Dân chủ- Pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức tại thành phố Đà Nẵng sáng 7/5/2009 cho biết: Tham nhũng trong lĩnh vực đất đai chiến tỷ lệ 20,8%, giao thông chiến 11,3%, lĩnh vực hành chính công chiến 10%, ngành xây dựng chiến 7,1%, tài chính-ngân hàng chiếm 4,9%... Bên cạnh đó đánh giá theo tỷ lệ phân bổ theo địa lý thì các địa phương phía Nam chiếm 25%, phía Bắc chiếm 24%, miền Trung chiếm 18%.
Như vậy, mặc dù đã có luật phòng - chống tham nhũng nhưng quá trình thực thi vẫn gặp nhiều vướng mắc cho nên tình trạng tham nhũng vẫn tiếp diễn và đang có nguy cơ ngày càng phát triển và mức độ nghiêm trọng tăng dần.
II. Nguyên nhân của tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam.
Như trên đã nói tình hình tham nhũng ở nước ta đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính công (chiếm 10%, năm 2009) đã và đang phát triển. Bất kì một hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó. Có điều đó là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Nguyên nhân đầu tiên và căn bản nhất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vân động vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều có mục đích là lợi ích. Bởi vậy sự tồn tại của của sự bóc lột và tư tưởng chiếm hữu chính là nguyên nhân của các hành vi tham nhũng. Khi mà chưa xóa bỏ sự sự bất bình đẳng trong xã hội thì tham nhũng vẫn còn có cơ sở để tồn tại.
Nguyên nhân thứ hai đó là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nước ta còn nhiều kẽ hở. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó quan trọng nhất là luật phòng-chống tham nhũng. Luật phòng-chống tham nhũng đã có hiệu lực nhưng quá trình thực thi của luật thì còn nhiều điểm hạn chế chưa phát huy hết hiệu lực của luật. Thêm vào đó công tác soạn thảo luật của nước ta vẫn chưa hoàn thiện nên còn nhiều điểm chưa đánh giá hết tình hình thực tế khách quan để ban hành văn bản phù hợp.Ngoài ra công tác tuyên truyền pháp luật cũng chưa được chú ý đúng mức, chưa pháp động và đánh trúng ý thức của toàn xã hội.
Nguyên nhân thứ ba là do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ quan Đảng và nhà nước. Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham nhũng phát triển phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng như hiện nay là do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước và do sự thoái hóa của một bộ phận cán bộ, Đảng viên.
Nguyên nhân thứ tư là những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông lỏng, yếu kém trong quản lý nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “ Công tác cán bộ vừa bảo thủ, vừa trì trệ về nhiều mặt, vi phạm nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ. Việc đào tạo cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế thị trường”.
Nguyên nhân thứ năm là do bản chất của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có không ít cá nhân, tổ chức vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt đã dùng nhiều thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến. Và có người hối lộ tất yếu sẽ có người nhận hối lộ.
Nguyên nhân thứ sáu là do trình độ dân trí. Nói chung trình độ dân trí vẫn còn thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của các cán bộ công chức.
Nguyên nhân thứ bảy là do cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng động chạm đến những cán bộ có chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ quan, đơn vị, động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của cán bộ. Hơn nữa tệ nạn tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại. Vì thế cuộc đấu tranh chống tham nhũng là một quá trình lâu dài, phức tạp.
Những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đã phần nêu lên được vì sao có thực trạng tham nhũng như hiện nay trong các cơ quan hành chính nhà nước. Cần phải nhấn mạnh rằng khi mà nhà nước đang tồn tại thì tham nhũng cũng vẫn sẽ tồn tại. Tham nhũng không thể xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ có thể ngăn ngừa để tránh những thiệt hại nghiêm trọn. Chỉ có thể giảm bớt tham nhũng chứ không thể xóa bỏ triệt để. Và để ngăn chặn tham nhũng không phải là không thể làm được. Điều quan trọng là chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để phòng chống.
Chương 3: Một số biện pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước.
I. Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của một số nước trên thế giới.
Giải pháp phòng chống tham nhũng của các nước là không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung đều có hai giải pháp chính là phòng ngừa và xử lý. Một số nước có chiến lược cống tham nhũng trong đó xác định rõ chủ trương, giải pháp, bước đi, lực lượng tiến hành. Có những nước còn đề ra chiến lược cho từng ngành. Nhiều nước tìm các giải pháp để làm cho công chức “ không cần tham nhũng, không thể tham nhũng và không dám tham nhũng”. Việc tìm hiểu các giải pháp phòng ngừa của các nước trên thế giới là sự cần thiết bởi vì tuy có điểm riêng nhưng cũng có những điểm tương đồng ở một số nước. Từ việc tìm hiểu chúng ta có thể tiếp thu các giải pháp tích cực để cải tiến áp dụng cho phù hợp với tình hình của nước ta.
1.Nhóm giải pháp phòng ngừa.
Các nước đều coi trọng giải pháp phòng ngừa vì đây là biện pháp hiệu quả nhất. Các giải pháp phòng ngừa mà các nước thường hay áp dụng là:
-Chú trọng công tác giáo dục con người. Đối với người dân, giáo dục cho mọi người ngay từ nhỏ về đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh , tuyên truyền cho người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng. Chiến lược chống tham nhũng của Hồng Kông có 3 phần lớn, trong đo một phần là giáo dục công chúng về tác hại của tham nhũng và tìm kiếm sự ủng hộ, tham gia tích cực của công chúng. Đối với công chức thì các nước đều coi trọng việc giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, liêm khiết. Một số nước ban hành luật về đạo đức cong chức như: Thụy Điển, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Cộng hòa liên bang Đức,… Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành những quy định về giáo dục đức tự răn mình cho công chức, coi đây là biện pháp quan trọng để câu dựng đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh.
-Thực hiện nguyên tắc công khai,,minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhiều nước như Thụy Điển, Công hòa liên bang Đức, Đan Mạch, Thụy sỹ quy định: Mọi người dân đều có quyền tiếp cận với thông tin trừ những thông tin liên quan đến an ninh quốc gia; Tất cả các tài liệu của chính phủ và các cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đên địa phương trừ tài liệu mật quốc gia đều phải được đăng tài trên các phương tiện truyền thông chính thức; Tự do báo chí; ngoài ra còn nhiều quy định khác về nhưng vẫn đề phải công khai.
-Phòng ngừa xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Nói cách khác là làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng địa vị công tác của mình để thu lợi riêng gây thiệt hại đến lợi ích chung. Bao gồm những quy định về xây dụng và thực hiện quy chế tuyển dụng, đề bạt cán bộ, công chức công khai, dân chủ; Quy định khi công chức từ chức hoặc nghỉ hưu không được thực hiện các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực công tác trước đây. Các nước như Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Singgapore đều có quy định này.
-Quy định về kê khai tài sản công chức. Tại Trung Quốc cứ mỗi năm 2 lần công chức phải kê khai tài sản và việc kiểm tra giám sát kê khai do một Ủy ban riêng tiến hành. Còn tại Hàn Quốc, Thái Lan yêu cầu kê khai sau khi được tuyển dụng, trong đó Thái Lan còn yêu cầu khi thôi chức cũng phải công khai. Tất cả các nước này đều có một tổ chức đảm nhiệm việc kê khai và nếu công chức không chứng minh được nguồn gốc tài sản đó thì sẽ bị xử lí theo luật định.
-Trả lương cao cho công chức cũng là một biện pháp mà các nước hay dùng. Nhiều nước như Nhật Bản, Cộng hòa liên bang Đức, Singgapore trả lương cao cho công chức không cần tham nhũng cũng đủ dùng. Singgapore trả lương cho sinh viên mới ra trường là 2.200 đô la Singgapore, tương đương 20 triệu đồng Việt Nam, lương của Bộ trưởng là hơn 1 triệu đô la Singgapore tương đương với hơn 10 tỷ đồng Việt Nam.
2.Nhóm giải pháp xử lý tham nhũng.
2.1.Các biện pháp phát hiện tham nhũng.
Phần lớn những người thực hiện hành vi tham nhũng là những người có trình độ cao, có hiểu biết và có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn nên phát hiện ra hành vi tham nhũng là việc làm rất khó khăn. Hầu hết các nước sử dụng các biện pháp xử lý sau:
-Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đai chugns trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng. Một số nước thiết lập đường dây nóng như: Cô-lôm-bi-a, Bra-xin, Singgapore,… Ở Trung Quốc có cơ quan chức năng xem xét tất cả các đơn thư tố giác của người dân về tham nhũng. Nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha có biện pháp bảo vệ người tố giác.
-Ở một số nước cho phép cơ quan chức năng sử dụng một số biện pháp như nghe trộm điện thoại, xây dựng cơ sở bí mật,…
2.2.Các biện pháp xử lý tham nhũng.
Các nước trên thế giới đều coi tham nhũng là tội phạm hình sự và quy định chế tài nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm này làm cho công chức không dám tham nhũng. Trong bộ luật hình sự của hầu hết các nước đều có một chương riêng quy định về tội tham nhũng, trong đó quy định những hành vi được coi là tham nhũng và hình phạt tương ứng. Ma-lai-xi-a có luật chống tham nhũng năm 1961 và sửa đổi năm 1997; Paki-xtan có luật chống hối lộ năm 1947; Thụy Điển có luật chống hối lộ trong ngành tòa án từ năm 1734, Bộ luật chống tham nhũng trong khu vực công năm 1919 và Bộ luật chống tham nhũng toàn diện năm 1977; Trung Quốc có luật chống hối lộ năm 1988 và luật chống tham nhũng năm 1997; Hồng-Kông có luật chống tham nhũng năm 1975; Singgapore có luật chống tham nhũng năm 1960; Thái Lan có luật chống tham nhũng năm 1975, đến 1977 đưa cả một số quy định về chống tham nhũng vào Hiến pháp;…
II. Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam.
1.Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam.
Muốn đưa ra biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng thích hợp thì không những phải biết rõ nguyên nhân, cơ chế tham nhũng mà còn phải biết rõ đặc điểm tham nhũng ở nơi đó. Tham nhũng trên thế giới cũng có những đặc điểm chung nhưng nếu dựa vào đặc điểm chung để chống tham nhũng trong từng nước cụ thể thì khó mà đặt được kết quả cao, thậm chí có thể khiến tình hình trở nên khó khăn hơn. Bởi vì, mỗi quốc gia trên thế giới có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, … khác nhau. Cho nên khi nghiên cứu và đưa ra giải pháp cho tình hình tham nhũng ở Việt Nam không thể không đề cập đến đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Trên quan điểm tổng thể đó đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân..
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.
Từ những đặc trưng trên và qua nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới bởi: Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những năm qua có xu hướng giảm; Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước ... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội.
Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì Maphia = Tội phạm có tổ chức + sự cấu kết của quan chức chính phủ. Trên cơ sở quan niệm này đối chiếu với thực trạng của tình hình tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được) những cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật về Đảng và chính quyền một số cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất, đồng loã, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức cho chúng.
Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Do những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức truyền thống mà nạn tham nhũng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay không to, không mang tính chất đặc biệt nghiệm trọng như các quốc gia khác thậm chí nó còn nhỏ nhặt tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức quà biếu thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang tính phổ biến.
Như vây, chúng ta đã nhận biết được những đặc điểm riêng của tham nhũng ở Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng để góp phần đưa ra các biện pháp phòng chống tham nhũng tại Việt Nam.
2.Các biện pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước Việt Nam.
Những giải pháp trên của các nước trên thế giới có tính chất tham khảo để làm kinh nghiệm trong công cuộc phòng chống tham nhũng cho Việt Nam. Còn tại Việt Nam, do những điều kiện kinh tế, xã hội,… có điểm khác biệt so với các nước trên thế giới cho nên muốn phòng chống tham nhũng ở Việt Nam cũng cần có những giải pháp riêng để cải thiện tình hình, ngăn chặn những ảnh hưởng mà tham nhũng gây ra. Sau đây là một vài biện pháp phòng chống tham nhũng có thể áp dụng trong công cuộc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam:
Thứ nhất đối với nguyên nhân sâu xa là chế độ người bóc lột người thì chúng ta phải nhận thức đúng “sự bóc lột” ở đây khác hẳn với sự bóc lột của một số nước trên thế giới. Sự bóc lột hay là nguyên nhân bất bình đẳng đã làm gia tăng tệ nạn tham nhũng. Ở Việt Nam, Nhà nước ta là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nên tính chất bóc lột không còn gay gắt như các nước mà chỉ là một bộ phận. Điều đáng nói là một bộ phận này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế-xã hội nước ta. Cần phải nhận thức rằng chừng nào còn nhà nước thì vẫn còn sự thống trị nhưng bản chất mỗi nhà nước lại khác nhau về chất nên sự bóc lột ở đây là hoàn toàn khác nhau. Ở các nước xã hội chủ nghĩa thì tính chất bóc lột không như các nước tư bản chủ nghĩa. Tiếp đó phải nhận thức rằng chừng nào còn nhà nước thì vẫn còn xuất hiện tham nhũng, chúng ta chỉ có thể đẩy lùi, phòng ngừa chứ không bao giờ có được một hiện trạng nhà nước không còn có tham nhũng. Nhận thức về chống tham nhũng như thế là hoàn toàn sai. Khi nhận thức đúng chúng ta sẽ có hành động đúng. Vậy chúng ta nên hiểu rằng muốn phòng chống tham nhũng không phải là việc ngày một ngày hai mà là cả một quá trình lâu dài và bền bỉ. Thông qua các giai đoạn thì chúng ta có những bước phát triển trong công cuộc phòng chống tham nhũng. Xóa bỏ nguyên nhân sâu xa của tham nhũng là sự bóc lột thì chúng ta cần phải xây dựng thành công nhà nước mà chúng ta đang hướng tới đó là Nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước nửa nhà nước.
Đối với các nguyên nhân còn lại giải pháp quan trọng nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật đặc biệt là luật chống tham nhũng đảm bảo những yêu cầu sau:Thứ nhất, cần phải thiết lập các cơ chế hiệu quả và minh bạch trong hoạt động công vụ. Trong nhóm giải pháp này bao gồm những giải pháp cụ thể như:
·Tăng cường liêm chính trong hoạt động công vụ: Thiết lập các cơ chế tuyển dụng công chức nhằm đảm bảo tính công khai, công bằng, hiệu quả và khuyến khích việc tuyển dụng những cá nhân có năng lực và phẩm chất tốt thông qua:
-Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa đáng nhằm duy trì cuộc sống ổn định, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
-Xây dựng cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, công chức minh bạch, giúp tránh hiện tượng lạm dụng quyền, gia đình trị và thiên vị; thúc đẩy sự hình thành của một hệ thống công vụ độc lập và giúp khuyến khích sự cân bằng thích đáng giữa đề bạt chính trị và bổ nhiệm công tác.
-Xây dựng cơ chế giám sát phù hợp với các quyết định; xây dựng cơ chế nhân sự với việc luân chuyển công việc định kỳ và kịp thời nhằm giảm tính cục bộ, một nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng.
-Xây dựng các quy tắc ứng xử đạo đức và hành chính điều chỉnh xung đột lợi ích, đảm bảo sử dụng đúng đắn các nguồn lực công và phát huy tính chuyên nghiệp, liêm chính cao nhất của đội ngũ cán bộ, công chức thông qua:
-Những điều khoản cấm hoặc hạn chế để kiểm soát xung đột lợi ích.
-Những cơ chế tăng cường minh bạch thông qua việc công khai và giám sát, chẳng hạn như đối với tài sản và trách nhiệm cá nhân.
-Hệ thống hành chính mạnh góp phần đảm bảo rằng mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với người dân trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong một số hoạt động như thuế, hải quan và các lĩnh vực khác dễ nảy sinh tham nhũng khác không chịu sự tác động sai trái hoặc không đúng đắn.
-Khuyến khích việc tính đến chuẩn mực văn hóa truyền thống và chuẩn mực quốc tế liên quan trong quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức. Khuyến khích việc đào tạo, bồi dưỡng và giám sát định kì đối với cán bộ công chức nhằm bảo đảm sự hiểu biết đúng đắn về quyền hạn của họ.
-Các biện pháp bảo đảm rằng công chức sẽ tố cáo những hành vi tham nhũng và bảo vệ sự an toàn về tính mạng, công việc cho người thực hiện hành vi tố cáo.
·Trách nhiệm giải trình và sự minh bạch: Bảo đảm trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ bằng những khuôn khổ pháp lý có hiệu lực, thông qua các hoạt động quản lý và thủ tục kiểm toán với một số hành động cụ thể sau:
-Các biện pháp và cơ chế nhằm tăng cường minh bạch về tài sản.
-Các thủ tục kiểm toán thích hợp có khả năng áp dụng đối với nền hành chính và khu vực công, các biện pháp và cơ chế nhằm công bố công khai và kịp thời về hoạt động và việc ra quyết định của các cơ quan nhà nước.
-Các thủ tục minh bạch thích hợp đối với việc mua sắm công nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và ngăn chặn hành vi tham nhũng và thủ tục hành chính được đơn giản hóa tương xứng.
-Tăng cường các thiết chế kiểm tra, giám sát công.
-Cơ chế cung cấp thông tin để làm minh bạch hoạt động hành chính nhà nước.
-Đơn giản hóa môi trường quản lý thông qua việc hủy bỏ những quy định chồng chéo, không rõ ràng hoặc rườm rà, gây phiền hà cho hoạt động của người dân.
Thứ hai, chúng ta cần tăng cường hoạt động chống hối lộ.Ngăn ngừa, điều tra và truy tố có hiệu quả bằng việc:
-Đảm bảo các chế tài trừng phạt có tính răn đe nhằm ngăn ngừa một cách chủ động và hiệu quả các hành vi hối lộ và nhận hối lộ của cán bộ, công chức.
-Đảm bảo xây dựng các quy định điều chỉnh hành vi hối lộ và nhận hối lộ. Những tội danh này cần phải điều tra kĩ lưỡng, chính xác và đưa ra truy tố. Cơ quan điều tra cần được trao quyền yêu cầu tiếp cận các hồ sơ ngân hàng, tài chính hoặc thương mai,…
- Nâng cao năng lực điều tra và khởi tố thông qua việc đẩy mạnh hợp tác liên ngành; đảm bảo công tác điều tra, khởi tố không bị tác động; có các biện pháp hiệu quả để thu nhập bằng chứng, bảo vệ những người giúp các nhà chức trách chống tham nhũng.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phòng chống tham nhũng bởi nó không chỉ giúp cho nhà nước quản lý tốt các cán bộ, công chức mà còn góp phần quản lý chính bản thân nhà nước. Khắc phục những yếu kém trong Đảng và nhà nước từ đó có thể hoàn thiện hơn nữa. Sự trong sạch minh bạch trong các cơ quan hành chính nhà nước là tiền đề cơ bản cho việc chống tham nhũng. Những biện pháp trên nếu áp dụng rộng rãi sẽ đem lại sự thay đổi tình hình tham nhũng theo chiều hướng tích cực. Thế nhưng những biện pháp trên sẽ chỉ là trên giấy tờ nếu không có các biện pháp cụ thể như sau:
·Thứ nhất, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác phòng chống tham nhũng. Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước đối với đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức. Xử lý thật nghiêm những vụ tham nhũng, xem đó là sự răn đe cho những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hạn mưu đồ lợi ích cá nhân. Thực tế cho thấy, việc xử lý kỷ luật Đảng, xử lý hành chính và xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng chưa thật sự nghiêm minh, còn biểu hiện bao che. Đây là vấn đề cần khắc phục trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Và nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là tư tưởng vị nể, là tình “đồng chí”, “đồng đội” trong các mối quan hệ giữa các Đảng viên, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đó là quan niệm của một nền văn hóa thuần Việt - trọng tình hơn trọng lý. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tăng cường các biện pháp quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tránh những mặt trái mà nó làm ảnh hưởng tới vấn đề tham nhũng.
·Thứ hai, Đảng, Nhà nước phải xây dựng một cơ quan chuyên trách có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng và chủ động phối hợp sức mạnh của toàn thể xã hội trong phòng chống tham nhũng. Cơ quan này có thể trực thuộc Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quy định chặt chẽ các điều kiện để trở thành thành viên của cơ quan phòng chống tham nhũng này. Cơ quan này sẽ thực hiện chức năng là cơ quan đầu mối trong công tác phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy quy định sẽ chỉ là quy định nếu trong quá trình thực hiện không có một cơ quan nào đứng ra làm nhiệm vụ bảo đảm những quy định đó đi vào thực tế đời sống. Cho nên việc thành lập một cơ quan chuyên tránh như vậy là sự cần thiết đáng có.
·Thứ ba, Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy xã hội luôn luôn biến động và thay đổi liên tục. Tham nhũng qua từng giai đoạn của lịch sử cũng có những sự biến đổi nhất định nào đó. Muốn công tác phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả thì phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh theo các tiêu chí đồng bộ, toàn diện, khoa học và có tính khả thi cao. Bên cạnh đó, phải xây dựng ý thức chấp hành pháp luật tốt ở mọi cơ quan, tổ chức, nhân dân thì pháp luật sẽ thực sự có hiệu lực, trở thành công cụ sắc bén phục vụ quản lý nhà nước nói chung và phương thuốc hữu hiệu phòng ngừa các hành vi tham nhũng. Hiện nay, các quy định về phòng, chống tham nhũng còn nhiều bất cập và không được thực hiện nghiêm chỉnh. Ví dụ: việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức… Việc tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát, thực hiện còn rất mờ nhạt. Thực trạng này đã làm giảm hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng. Luật càng đánh giá đúng hiện thực khách quan càng bảo đảm tính khả thi cao.
·Thứ tư, Đẩy nhanh tiến độ cải cách hành chính, xóa bỏ hẳn cơ chế “xin - cho”. Thủ tục hành chính phải công khai, nhanh gọn, chính xác, giảm tối thiểu sự phiền hà cho nhân dân khi phải đến liên hệ, làm việc với cơ quan công quyền. Xây dựng chế độ chịu trách nhiệm của cán bộ, công chức rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Quan trọng hơn cả là chế độ cải cách tiền lương cho cán bộ, công chức. Thu nhập của cán bộ, công chức phải đủ đảm bảo nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nếu giải quyết tốt vấn đề này thì đây là một biện pháp cơ bản hạn chế hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu của phần đông cán bộ, công chức cơ sở hiện nay đang gây bức xúc cho đại đa số nhân dân. Bên cạnh công cuộc cải cách hành chính hiện nay, vấn đề giáo dục phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên cũng hết sức quan trọng. Trong tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật, tham nhũng. Đạo đức cách mạng trong sáng bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át. Tình trạng cả nể, sợ hãi mà không dám đấu tranh đối với các hành vi tiêu cực cán bộ, công chức của cơ quan tổ chức mình, công tác xử lý cán bộ chưa nghiêm khắc, đúng mức. Như vậy vấn đề tư tưởng cũng là một vấn đề lớn, cần tăng cường hơn nữa các biện pháp bảo đảm đạo đức cán bộ, công chức được giữ vững.
·Thứ năm, chúng ta cần nhanh chóng thiết lập chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua hệ thống ngân hàng nhằm mục đích kiểm soát và minh bạch hóa thu nhập và tài sản của cán bộ công chức. Từ đó thực hiện nghiêm, triệt để chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức. Đây là một giải pháp thiết thực nhưng cũng cần phải có thời gian vì chỉ một thay đổi nhỏ trong quản lý xã hội cũng làm thay đổi cả những lĩnh vực khác của đời sống. Phải là một quá trình.
·Thứ sáu,Tham nhũng, về mặt pháp lý, là vấn đề của đời sống dân sự, cho nên nhân dân mới chính là chủ thể của quá trình chống tham nhũng. Đảng và Nhà nước ta phải có những quy định cụ thể, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc giám sát các hoạt động của nhà nước. Đặc biệt chúng ta phải đặt vấn đề dân chủ lên hàng đầu từ đó nâng cao dân trí cho nhân dân. Từ đó khuyến khích người dân và báo chí tham gia tích cực hơn nữa và cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiến tới xây dựng một xã hội thực sự của dân, do dân,vì dân. Trong đó nguyên tắc dân chủ phát huy trội hơn nguyên tắc tập trung. Biện pháp này là một biện pháp rất quan trọng bởi vì, phòng chống tham nhũng không phải là việc của Đảng, của Nhà nước hay của một riêng ai mà là công cuộc của toàn xã hội. Kinh nghiệm của nước ta cũng như của các nước khác cho thấy: những chiến dịch chống tham nhũng thành công nhất chính là những chiến dịch sự tham gia đông đảo của nhân dân. Trên thực tế, gần 70% số đơn thư, tố cáo của nhân dân là đúng sự thật. Do đó, cần tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Biết dựa vào dân, phát huy dân chủ, công khai hóa kết quả xử lý những vụ việc do nhân dân phát hiện. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi trù dập người tố cáo. Có sự góp sức của nhân dân vào công cuộc đấu tranh này là một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược phòng chống tham nhũng ở nước ta.
Kết Luận:
Bằng các giải pháp đấu tranh chống tham nhũng nêu trên Đảng và Nhà nước ta đã và sẽ đạt được kết quả tốt trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tham nhũng đã được Đảng chỉ mặt đặt tên là “Một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong cơ quan của Đảng và nhà nước” và chống tham những thực sự là một cuộc đấu tranh lâu dài, do vậy trong tổ chức thực hiện thiết nghĩ Đảng và Nhà nước ta cần tránh các tư tưởng quá chủ quan, nóng vội cũng như có tư tưởng nhận thức không đúng về tham nhũng. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách cụ thể để phát huy mạnh tính quần chúng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Được như vậy thì chắc chắn cuộc chiến chống tham nhũng sẽ đạt được những thắng lợi có tính chất giai đoạn, lấy được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Với đề tài:“Vấn đề tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước Việt Nam” đã giúp chúng em nâng cao được nhận thức về vấn đề này đồng thời góp tiếng nói chung trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành. Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, quy mô rộng, đòi hỏi kiến thức cao, mà khả năng nhận thức của chúng em còn nhiều hạn chế. Chính vì thế mà khó tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong nhận được sự chỉ bảo thêm của giảng viên bộ môn./.
Tài liệu tham khảo
(1), (2), (3)Trung tâm Doanh nghiệp Tư nhân Quốc tế (CIPE), “Cải cách Kinh tế”, tập 1, số 2, hè 2005.
(4) Luật phòng chống tham nhũng của Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006.
1. Bản kế hoạch hành động chống tham nhũng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2. Báo điện tử Chungta.com số 11/2006. Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. Nguyễn Ngọc Chí, khoa Luật- ĐHQG Hà Nội.
3. Báo điện tử Vietnamnet số ra ngày 13/08/2005. Góp ý cho dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng: Sáu biện pháp để phòng, chống tham nhũng. L.S Trương Quốc Hưng. 4. Tạp chí cộng sản số 31(tháng 11/2003). Hội thảo khoa học và thực tiễn: Xây dựng chỉnh đốn Đảng, chống tham nhũng: Kinh nghiệm và giải pháp.
5. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1/2002. Tệ nạn tham nhũng: Căn nguyên sâu xa và biện pháp phòng chống. Nguyễn Đình Giám
6. Ngân hàng thế giới, Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng trong sạch quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
7. Tạp chí nghiên cứu lập pháp.Phân loại tham nhũng: biện pháp cần thiết trong đấu tranh phòng chống tham nhũng,PGS, TSKH Phan Xuân Sơn - Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
8. Trang tin thanh tra GTVT số 11/2009. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài- Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam.doc