MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: SƠ LƯỢC VỀ BẢN CHẤT, NGUỒN GỐC VÀ TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO
1. BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO
2. NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁO
3. TÍNH CHẤT CỦA TÔN GIÁO
Chương II: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1. ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA
2. QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC TA VỀ TÔN GIÁO
3. NHỨNH HÀNH ĐỒNG CHỐNG PHÁ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BẰNG CHIÊU BÀI TÔN GIÁO
4. VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
A. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo
B. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo
C. Mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Chương III: CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ VIỆT NAM
1. NHỮNG CHÍNH SÁCH VỀ TÔN GIÁO CỦA NHÀ NƯỚC TA
2. THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG THỰC TIỄN
3. ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỂ THÍCH NGHI VỚI TÌNH HÌNH MỚI
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình tồn tại và phát triển, nhất là sự phát triển về mặt kinh tế con người ngày càng có nhiều nhu cầu cần được đáp ứng trong đó thì nhu cầu về tín ngưỡng tôn giáo vẫn là một nhu cầu tinh thần của bộ phận lớn các tầng lớp nhân dân.
Thực tế trong quá trình xây dựng đất nước và giữ nước của dân tộc đảng và nhà nước ta luôn lấy tinh thần tự do tôn giáo làm kim nhỉ nam để đưa ra các chính sách tôn giáo phù hợp. Chính phủ có nói rằng: “chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được cụ thể hóa bằng các vấn đề cụ thể như các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật Nhà nước Việt Nam”.
Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Các tổ chức cá nhân tôn giáo cũng được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Đã có rất nhiều các tổ chức tôn giáo quốc tế vào Việt Nam giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam mà không bị cản trở gì.
Lợi dụng chính sách tôn giáo của nhà nước ta nhiều tổ chức phản động núp dưới vỏ bọc là các tổ chức tôn giáo xuyên tạc các chủ trương của đảng kích động quần chúng nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình và có hành động chống phá nhà nước Việt Nam.
Vì vậy chúng ta cần nắm vững những chính sách của đảng để khỏi vô tình tiếp tay cho các tổ chữc phản động và tuyên truyền cho những người xung quanh cũng nhận thức rõ chính sách của đảng và nhà nước.
33 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 52639 | Lượt tải: 8
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Cho đến nay, ở Việt Nam có nhiều hình thức tôn giáo từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây, nội sinh và ngoại nhập. Bên cạnh những tín ngưỡng dân tộc: thờ vua Hùng, thờ thành hoàng, thờ tổ tiên và các tôn giáo: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo. Tín ngưỡng tôn giáo bản địa cũng như các tôn giáo ngoại nhập đều chung sống hòa bình với nhau, ít nhiều giao thoa, ảnh hưởng bởi truyền thống văn hóa Việt Nam, tuy có tranh chấp nhưng chưa bao giờ có xung đột, chiến tranh dưới lá cờ tôn giáo. Hòa hợp tôn giáo, tự do tôn giáo là một đặc điểm có tính truyền thống của văn hóa Việt Nam.
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, điều 70 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.”
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX nhấn mạnh tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đoàn kết đồng bào tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc; đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo.
Muốn xem xét một nước có tự do tôn giáo hay không, sau khi xem xét những quyền tự do tôn giáo đã được ghi rõ trong Hiến pháp, luật lệ, chính sách, người ta còn căn cứ vào 3 tiêu chuẩn: một là việc đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo – đây là những người lãnh đạo, hướng dẫn tôn giáo; Hai là việc phổ biến kinh sách tôn giáo; Ba là việc xây dựng cơ sở thờ tự (nhà thờ, chùa, thánh thất, thánh đường…).
NHỨNH HÀNH ĐỒNG CHỐNG PHÁ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BẰNG CHIÊU BÀI TÔN GIÁO
Những thành tựu về kinh tế-xã hội và nền chính trị ổn định của Việt Nam đang là yếu tố thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Và một thế hệ người Việt năng động biết làm giàu cho bản thân và xã hội đang là động lực cho sự phát triển đi lên của cả đất nước.
Tuy nhiên, có một nhóm thiểu số những kẻ cực đoan đang cấu kết với các tổ chức phản động nước ngoài, trong đó có cả những nhóm khủng bố, chỉ với một mục tiêu duy nhất là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam để gây rối loạn xã hội hòng phá hủy toàn bộ thành quả của hơn hai thập kỷ Đổi mới.
Bước đi của họ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng khi cần cũng hành động rất trắng trợn công khai. Trước hết, họ tìm cách thoát khỏi sự quản lý của pháp luật hiện hành, của Nhà nước như không xin phép hoạt động, hoặc xin ít làm nhiều trên các lĩnh vực: xây dựng cơ sở, tổ chức lễ hội, tuyên truyền xuất bản, đào tạo huấn luyện, quan hệ với nước ngoài… Tiến lên một bước nữa, họ xây dựng những tổ chức bất hợp pháp. Bất cứ tổ chức tôn giáo nào thật sự hoạt động vì mục đích tôn giáo đều được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân. Nhưng Chính phủ không bao giờ công nhận những tổ chức mang danh nghĩa tôn giáo hoạt động vì mục đích khác nhằm phá hoại độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, mê tín dị đoan, xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tính mạng, tài sản, sức khỏe của nhân dân. Chẳng hạn, tổ chức “Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo” trước năm 1975 không thể được xem là tôn giáo vì trong tổ chức này có cả một đảng chính trị (Đảng Dân xã Hòa Hảo) với một lực lượng vũ trang 30.000 quân chính quy và 300.000 lính dân vệ bảo an. Bước chống phá quyết liệt nhất là họ công khai tổ chức tôn giáo như là linh hồn của hoạt động chính trị nhằm bạo loạn lật đổ, chia rẽ, ly khai. “Hội thánh Tin lành Đề Ga”, một tổ chức được lập ra trên đất Mỹ là linh hồn, là cốt lõi của cái gọi là “Nhà nước Đề Ga độc lập”, từ mấy năm nay đã tỏ rõ bản chất phản động của nó trên vùng Tây Nguyên. Những tên chủ chốt lãnh đạo các cấp của “Nhà nước Đề Ga độc lập” đều giữ các chức sắc tương ứng của “Hội thánh Tin lành Đề Ga”. Những ý đồ tách Phật giáo Nam Tông của đồng bào dân tộc Khơme Nam Bộ ra khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam gắn liền với hoạt động của bọn phản động bên ngoài với cái gọi là “Nhà nước Khơme Crôm”.
Cuối cùng, chúng ta cần lưu ý đến vai trò và sự liên kết của các lực lượng phản động quốc tế dùng chiêu bài “tự do tôn giáo” để chống phá chủ nghĩa xã hội, chống phá Nhà nước ta. Khi vào Việt Nam, họ phát tán tài liệu và truyền đạo trái phép, kể cả dùng biện pháp mua chuộc bằng vật chất, họ kích động chia rẽ các tôn giáo, móc nối với các phần tử đội lốt tôn giáo đã có nhiều hành vi trái pháp luật. Khi ở nước ngoài, họ liên kết để tuyên truyền xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hỗ trợ cho các hoạt động chống phá khối đại đoàn kết dân tộc của chúng ta.
Xuất phát từ bản chất văn hóa của dân tộc, từ chính sách đại đoàn kết toàn dân, chúng ta đã có những chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới của yêu cầu phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta sẽ tổng kết tình hình và đề ra nhiều chủ trương, giải pháp mới để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, làm thất bại hoàn toàn mọi âm mưu đen tối của các thế lực phản động.
Trong những năm gần đây, bên cạnh những nhân vật chống đối nhà nước quyết liệt có nhiều tiếng tăm, đã xuất hiện những gương mặt mới với tuổi đời ít hơn nhưng không kém phần “lớn tiếng,” chẳng hạn như Nguyễn Văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy và thậm chí cả một người chưa đến tuổi 30 là Lê Thị Công Nhân.
Nguyễn Văn Đài - bị bắt hôm 6/3/2007 và vài ngày trước đó bị khởi tố về hành vi “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” - chính là kẻ trực tiếp soạn thảo điều lệ của tổ chức “Đảng Dân chủ 21,” trong đó y không hề giấu diếm ý đồ muốn giành chính quyền ở Việt Nam.
Các bài viết của Đài, một luật sư sinh năm 1969, cũng như những cuộc trả lời phỏng vấn trên các đài phát thanh của người Việt ở nước ngoài đều tập trung xuyên tạc tình hình tự do, dân chủ ở Việt Nam, phê phán chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kêu gọi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tẩy chay hàng hóa của Việt Nam, kêu gọi không cho Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Hoa Kỳ.
Nguyễn Văn Đài cũng phối hợp với các nhóm phản động ở nước ngoài, trong đó có cả tổ chức khủng bố “Việt Tân,” tổ chức các lớp huấn luyện về hoạt động tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam ngay tại văn phòng luật sư của y ở Hà Nội.
Theo thống kê chưa đầy đủ của cơ quan an ninh, lực lượng phản động lưu vong đã tài trợ tới 60.000 USD cho Nguyễn Văn Đài - kẻ được coi là “nhà lý luận” của cái gọi là “Phong trào dân chủ Việt Nam” - để triển khai “Dự án vì công lý” và duy trì hoạt động của cái gọi là “Ủy ban nhân quyền Việt Nam” mà thực chất là thông qua hỗ trợ học bổng để lôi kéo một số sinh viên luật và đưa sang Băng Cốc (Thái Lan) đào tạo thành thành những “hạt nhân” chống đối trong nước.
Nguyễn Văn Đài đã nhiều lần cử nhân viên Văn phòng luật sư Thiên Ân đi các tỉnh thuộc Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ, gặp gỡ một số chức sắc, tín đồ Tin lành cực đoan để thu thập những cái gọi là bằng chứng Việt Nam đàn áp đạo Tin lành và chuyển cho tổ chức phản động “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” ở Mỹ và cho một số nhân viên sứ quan Mỹ ở Hà Nội để họ sử dụng vào mục đích tuyên truyền chống Việt Nam.
Trần Khải Thanh Thủy - một nhân vật có thái độ bất mãn với chế độ sau khi bị buộc nghỉ việc vì vi phạm kỷ luật - đã tích cực tham gia các diễn đàn chống cộng trên internet. Thị đã viết tới 190 bài xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền.
Được sự cổ vũ, kích động của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, Thủy ngày càng hoạt động trắng trợn, kích động những người khiếu kiện tổ chức biểu tình, tự thiêu, gây ra các vụ nổ, và công khai thách thức chính quyền bắt để được nổi tiếng và nhận được nhiều tài trợ.
Trần Khải Thanh Thủy còn gọi điện thoại cổ vũ một cuộc biểu tình do nhóm khủng bố “Việt Tân” tổ chức trước Đại sứ quán Việt Nam ở Canađa hồi tháng 3/2007 và thậm chí hô hào “bắt cóc nhân viên sứ quán, nhân viên ngoại giao Việt Nam để trao đổi với số đối tượng hoạt động chống chính quyền đang bị bắt ở trong nước.”
Trong khi đó, Lê Thị Công Nhân, sinh năm 1979, là một phần tử nòng cốt, hỗ trợ đắc lực cho những kẻ cầm đầu hoạt động chống đối trong nước như Nguyễn Văn Lý và Nguyễn Văn Đài. Giữa năm 2006, thị xin gia nhập “Đảng Thăng tiến Việt Nam” và xung phong làm người phát ngôn của đảng này. Ngoài ra, Nhân còn tự nguyện tham gia “Liên minh dân chủ nhân quyền Việt Nam” - tổ chức do những kẻ phản động lưu vong người Việt và các phần tử chống đối trong nước cùng nhau lập ra trên mạng Internet vào tháng 10/2006.
Mù quáng hành động tới mức còn điên cuồng hơn cả những kẻ đi trước, Lê Thị Công Nhân từng tuyên bố không bao giờ đầu hàng, không bao giờ thỏa hiệp với cộng sản, thậm chí sẽ “chiến đấu tới cùng với Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam.”
Bất chấp những biện pháp giáo dục, cảm hóa của cơ quan an ninh và tổ dân phố, Nguyễn Văn Đài, Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân vẫn ngày càng tỏ thái độ thách thức pháp luật và càng quyết liệt chống phá Nhà nước Việt Nam. Chính vì thế, Nguyễn Văn Đài càng được các tổ chức phản động lưu vong và các thế lực thù địch với Việt Nam ở nước ngoài ủng hộ. Nhóm khủng bố “Việt Tân” thậm chí đánh giá rằng “Hoàng Minh Chính chỉ là viên gạch lót đường, cốt lõi sẽ là thành phần trẻ như Đài.”
Hơn 85 triệu người dân Việt Nam đang từng ngày cố gắng chung tay tự xây dựng đất nước và tạo niềm tin với bạn bè quốc tế. Thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đang giang rộng vòng tay để làm bạn với mọi quốc gia, và gác lại quá khứ để xây dựng quan hệ đối tác với cả những nước vốn là cựu thù.
Nhưng một số ít người mang trong mình dòng máu Việt, trong đó có cả những người quá trẻ để chứng kiến những hy sinh của cả dân tộc cho độc lập hôm nay, lại chỉ muốn kích động hận thù. Song luật pháp sẽ không cho phép họ làm điều đó. Ngày 23/4/2007, Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xét xử các bị can Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân về tội “Tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự./
VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, công tác tôn giáo đã có những biến đổi sâu sắc và đạt được kết quả khả quan hơn. Việc thực hiện tự do tín ngưỡng đã đi vào nề nếp bên cạnh việc bảo đảm sự phát triển của kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, trong đó có cả đồng bào có đạo.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hoạt động tôn giáo trong cả nước khá sôi động; đó là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cũng như sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước ta. Những thành quả trong công tác này, được thể hiện rõ trên một số mặt:
A. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo
Từ khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12-3-2003 của Trung ương Đảng về công tác tôn giáo, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành từng bước cụ thể hóa các quan điểm, giải pháp và các nhiệm vụ chủ yếu trong Nghị quyết của Đảng thành các quy định của pháp luật, các kế hoạch, giải pháp, cơ chế. Điều đó đã bảo đảm việc thực hiện và đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động tôn giáo, sự thống nhất trong việc giải quyết nhu cầu sinh hoạt tôn giáo trên phạm vi cả nước, tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác tôn giáo.
Các bộ, ngành liên quan đã tham mưu và giúp Chính phủ, Thủ tướng xây dựng và trình Quốc hội thông qua các văn bản liên quan trực tiếp và gián tiếp đến công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiến hành bổ sung vào Dự thảo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể hóa chính sách tôn giáo của Đảng trong Nghị quyết 25/NQ-TW; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các nhà khoa học, quản lý và chức sắc đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Thừa ủy quyền của Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo ngày 29-6-2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15-11-2004.
Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo trình Chính phủ và được ban hành ngày 01-3-2005. Sau đó, Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 4-2-2005 về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Như vậy, Nghị quyết số 25/NQ-TW cùng với ba văn bản nói trên đã công khai, minh bạch đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta trong lĩnh vực tôn giáo; đồng thời là cơ sở để giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của nhân dân, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đang hoạt động ở Việt Nam.
Mặt khác, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực hoạt động tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm 2003, Nghị quyết số 23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, có Luật Khiếu nại, tố cáo; về đăng ký hộ khẩu, có Luật Cư trú… Hệ thống chính sách mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của nhân dân, cũng như quản lý các hoạt động tôn giáo theo pháp luật một cách cụ thể, rành mạch, nghiêm chỉnh.
Như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp luật và cơ chế chính sách về tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời gian qua đã được chú trọng hơn, có sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, phát huy được sự đóng góp trí tuệ của hệ thống chính trị, các nhà khoa học, chức sắc tôn giáo. Vì vậy, các văn bản ban hành đã tạo được sự đồng bộ và hiệu lực hơn. Đặc biệt, khi đã hình thành được hệ thống chính sách pháp luật rồi thì công việc tiếp theo là tuyên truyền nó sâu rộng trong nhân dân là rất quan trọng. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trong những năm vừa qua, cả nước đã tổ chức 4.517 lớp, với 221.953 lượt người tham dự để tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Do có hệ thống luật pháp về tôn giáo và được tuyên truyền sâu rộng trong xã hội nên việc thực thi luật pháp diễn ra suôn sẻ. Tập thể, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt được biểu dương khen thưởng; ngược lại, nếu không thực hiện tốt hay vi phạm luật pháp thì bị trừng trị. Điều này giải thích tại sao vừa qua ở nước ta có những cá nhân, tín đồ vi phạm luật pháp đã bị Nhà nước ta xử phạt. Việc xử phạt đó chính là nhằm thực hiện nghiêm luật pháp.
B. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng như Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể trên, các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương xây dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn với kế hoạch chung của cả nước về chính sách hỗ trợ đất ở và đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ; về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số; về phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đông đồng bào các tôn giáo khó khăn, các xã, bản nghèo,… Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn lực bảo đảm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình Xóa đói giảm nghèo, Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục, Văn hóa thông tin…Các chương trình này được chú trọng và ưu tiên đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn lực ở các xã, thôn, bản có đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá trình triển khai thực hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng, tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói chung, đồng bào theo đạo nói riêng đối với Đảng và Nhà nước. Điều này đã góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội, an ninh chính trị ở các vùng; đồng thời; tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, đoàn kết dân tộc được củng cố.
Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo đã được ghi nhận và cân đối trong các kế hoạch, cơ chế, chính sách của các bộ, ngành liên quan và của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là cơ sở để cân đối và bảo đảm nguồn lực phát triển hài hòa của hệ thống chính sách của Nhà nước.
Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội thời gian qua với số vốn hàng trăm tỉ đồng đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói riêng, góp phần ổn định và phát triển, làm cho đồng bào an tâm, đoàn kết xây dựng đời sống “tốt đời, đẹp đạo”. Một bộ phận lớn đồng bào dân tộc, tôn giáo được giao đất ở, đất sản xuất; được hướng dẫn kỹ thuật, được vay vốn, nhận các điều kiện hỗ trợ cần thiết để sản xuất, tăng thu nhập; tích cực tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội vùng giáo, vùng đồng bào dân tộc.
C. Mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Trong những năm đổi mới, nhất là 3 năm qua, Chính phủ, các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thực sự quan tâm đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo nhằm tháo gỡ những rào cản, vướng mắc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao và nhiều mặt khác.
Thông qua kênh Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức, cá nhân tôn giáo và liên quan đến tôn giáo ở trong nước với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài; các cuộc hội thảo chuyên đề do các tổ chức phi chính phủ tổ chức, cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân có dịp tiếp cận với thực tế ở các vùng, miền nhạy cảm về tôn giáo, các nhân vật tôn giáo đã làm cho dư luận quốc tế hiểu rõ hơn tình hình và chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam.
Các kênh đối ngoại tôn giáo được tăng cường như: trao đổi đoàn; tham dự các diễn đàn, hội thảo đối thoại về nhân quyền, tôn giáo với các nước EU, Mỹ, Ốt-xtrây-lia, với Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (Mỹ), diễn đàn nhân dân ASEM hàng năm, hội thảo về pháp luật tôn giáo các nước Đông Nam Á, các cuộc tiếp xúc giữa sứ quán các nước, các tổ chức quốc tế, phóng viên, báo chí nước ngoài với các cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố một cách thường xuyên, thân tình, khách quan đã mang lại kết quả quan trọng tạo được niềm tin, sự hiểu biết, chia sẻ của các nước, các tổ chức về chính sách tôn giáo, cũng như những vướng mắc trong công tác xử lý một số vấn đề tôn giáo của Việt Nam.
Các cuộc trao đổi kinh nghiệm quản lý với các nước trong khu vực như: Lào, Căm-pu-chia, Trung Quốc, trên kênh cơ quan chức năng nhà nước và các tổ chức tôn giáo được tiếp tục duy trì và tăng cường hơn trong thời gian qua. Cùng với các hoạt động đó là việc hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo cử đoàn tham dự các hội nghị, hội thảo, các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài như Hội đồng Giám mục Việt Nam tham gia làm thành viên Hội đồng Giám mục Á châu, các Giám mục tham dự lễ tang Giáo hoàng Gioan Phao-lô II và lễ đón nhận chức Giáo hoàng Bên-dic-to XVI, các đại hội Giới trẻ Công giáo thế giới,… Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo quốc tế được tổ chức hàng năm, thăm và trao đổi với Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Thái Lan, Liên minh Phật giáo Lào, Phật giáo Căm-pu-chia và các cuộc hội thảo về Phật giáo do các nước trong khu vực tổ chức…là những nét mới trong chính sách tôn giáo của Nhà nước ta. Đáng chú ý là: Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mời và tổ chức đón đoàn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai (Pháp) vào thăm và tổ chức một số hoạt động tôn giáo trong thời gian 3 tháng đầu năm 2005 và chuyến thứ hai vào đầu năm 2007; Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức đón đoàn Bộ trưởng Bộ Truyền giáo Tòa Thánh Va-ti-căng thăm Hội đồng Giám mục Việt Nam và một số giáo phận; Đoàn các Mục sư Mỹ tham dự Đại hội đồng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) lần thứ hai,…
Đặc biệt, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam được các ngành liên quan, các tỉnh, thành phố quan tâm tạo điều kiện phù hợp với truyền thống mỗi nước, mỗi tôn giáo, đã tạo được sự ủng hộ của dư luận trong và ngoài nước.
Thực tiễn công tác đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo từ sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW và Chương trình hành động của Chính phủ đã thực sự thấm nhuần đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, có sự quan tâm, điều hành khá thống nhất, đồng bộ và có sự tham gia tích cực chủ động, của các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố liên quan đã mang lại kết quả rất quan trọng trong việc làm thay đổi nhận thức, tình cảm của bạn bè quốc tế.
Có thể nói, công tác tôn giáo trong những năm gần đây của Đảng và Nhà nước ta có nhiều thành tựu và nhiều bài học kinh nghiệm quý. Những thành tựu và kinh nghiệm ấy đã và đang được đúc kết thành những bài học để làm cơ sở cho những năm tới thực hiện tốt hơn. Chỉ với một số mặt rất cơ bản nêu trên, đã chứng tỏ Đảng và Nhà nước ta rất tôn trọng tự do tín ngưỡng, quan tâm sâu sắc đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, trong đó có cả đồng bào có đạo. Rõ ràng, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là nhân đạo, đúng đắn, là phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại. Không thể chỉ vì vừa qua, một vài tín đồ vi phạm luật pháp, bị Nhà nước Việt Nam trừng trị theo luật pháp mà phủ nhận thành tựu của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề tôn giáo.
CHƯƠNG III: CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ VIỆT NAM
NHỮNG CHÍNH SÁCH VỀ TÔN GIÁO CỦA NHÀ NƯỚC TA
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có ghi về chính sách tôn giáo của Nhà nước như sau:
" Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo 1 tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước" (Điều 70). Trong Chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới có ghi những nguyên tắc về tín ngưỡng, tôn giáo sau đây:
1. "Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau.
2. Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.
3. Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phi tuân thủ Hiến pháp và Pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
4. Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy.
5. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để làm mất trất tự an toàn xã hội, phưng hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hoá của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phi bị phê phán và loại bỏ" (chỉ thị 37/CT-TW ngày 2/7/1998).
Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước hết là đoàn kết dân tộc, đoàn kết người có tôn giáo với nhau, đoàn kết người khác tôn giáo với nhau, đoàn kết người có tôn giáo với người không tôn giáo với nhau, động viên nhau thực hiện mục tiêu "Độc lập Thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, Dân giàu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Có một vấn đề thiết tưởng cần làm rõ để tránh ngộ nhận về chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là Đảng và Nhà nước không chống tôn giáo tức là bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng kiên quyết chống sự lợi dụng tôn giáo.
Chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được cụ thể hoá bằng mấy vấn đề sau đây: 1. Các tôn giáo ở Việt Nam được hoạt động tự do trong khuôn khổ của Hiến pháp và Pháp luật Nhà nước Việt Nam. Điều này cũng giống như ở các quốc gia khác và phù hợp với thông lệ quốc tế. Không có một tổ chức, cá nhân nào ở bất kỳ một quốc gia nào lại được hoạt động tự do ngoài vòng pháp luật của quốc gia đó.
Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước Việt Nam quan tâm, tạo điều kiện đáp ứng những nhu cầu tôn giáo căn bản:
+ Tự do sinh hoạt tôn giáo
+Bảo hộ nơi thờ tự; xây mới nơi thờ tự
+Có trường đào tạo giáo sĩ, cho đi đào tạo ở nước ngoài
+Có kinh sách, ấn phẩm tôn giáo
+Được giao lưu quốc tế
2. Một tôn giáo ở Việt Nam muốn hoạt động hợp pháp phi đáp ứng đủ những tiêu chí căn bản: Có tín đồ tự nguyện tin theo; có giáo sĩ hướng dẫn việc đạo; có tôn chỉ mục đích hoạt động không trái với pháp luật Nhà nước; có hệ thống giáo lý, giáo luật phù hợp; có nơi thờ bảo đảm vệ sinh, an toàn; không hoạt động mê tín dị đoan làm tổn hại đến tinh thần, vật chất, sức khoẻ của tín đồ và làm ảnh hưởng đến những quyền căn bản của người khác và phải đăng ký hoạt động với các quan Nhà nước có thẩm quyền. Những tổ chức tôn giáo không đáp ứng đủ những yêu cầu trên đều không được hoạt động. Xin được nói rõ, đó là đối với tổ chức, còn tín đồ thì hoàn toàn tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình và nơi thờ tự hợp pháp.
3. Nhà nước Việt Nam chỉ quan tâm đến tưu cách, phẩm chất công dân của những người lãnh đạo các tôn giáo, không can thiệp vào trình độ tôn giáo của những người đó. Thực tế này được thể hiện trong quan hệ Việt Nam - Vatican những năm qua về việc bổ nhiệm các giám mục ở Việt Nam .
4. Từ trước tới nay, Việt Nam không xử tù, giam giữ, quản chế hành chính bất kỳ một nhân vật tôn giáo nào vì lý do tôn giáo. Mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước Việt Nam xử lý bằng pháp luật đối với bất kỳ một công dân Việt Nam nào vi phạm pháp luật, bất kể người đó theo tôn giáo hay không theo tôn giáo và xử lý bằng pháp luật mọi hành vi lợi dụng tôn giáo, mạo danh tôn giáo để gây rối trật tự xã hội, phương hại đến an ninh quốc gia, tổn hại tinh thần, vật chất, sức khoẻ của công dân.
5. Các tôn giáo ở Việt Nam được Nhà nước khuyến khích tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn.
6. Nhà nước Việt Nam không tịch thu bất cứ tài sản nào của các tôn giáo ngoại trừ nếu các tài sản đó được sử dụng nhưu một công cụ nhằm phục vụ cho các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, chống lại Nhà nước và nhân dân.
7. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Rất nhiều các tổ chức tôn giáo quốc tế đã vào Việt Nam giao lưuu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam mà không bị cn trở gì. (Các Dòng tu Công giáo quốc tế, một số Hội đồng Giám mục các nước, các tổ chức Phật giáo, Tin lành nước ngoài...)./.
THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG THỰC TIỄN
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng Minh ngày 18-11-1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: "... phải lãnh đạo từng tập thể sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của quần chúng...". Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 3-9-1945" "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi đó là một trong sáu nhiệm của Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc buổi ra mắt vào ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: "... vấn đề tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người". Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-11-1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính sách đối với tôn giáo" trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định 59 là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó đã phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955 thành lập Ban Tôn giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở Trung ương và theo dõi hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo".
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1997 về hoạt động tôn giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-10-1990 về Đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình đổi mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2-7-1998 về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21-3-1991 và sau này là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 về Hoạt động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003 về Công tác tôn giáo. Để thể chế hoá tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8 hằng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước./.
ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỂ THÍCH NGHI VỚI TÌNH HÌNH MỚI
Ngày 18-6-2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 19 khóa XI đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 29-6-2004, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố. Ðây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo kể từ sau Sắc lệnh 234/SL ngày 14-6-1955 về vấn đề tôn giáo do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành.
Pháp lệnh đã thể chế hóa đường lối, chủ trương chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Ðảng và Nhà nước ta, nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời không chỉ làm cho đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta yên tâm, phấn khởi, mà còn là lời tuyên bố với bạn bè năm châu, với quốc tế về tự do tôn giáo ở Việt Nam, qua đó củng cố uy tín của Việt Nam trên quốc tế, đẩy lùi những mưu toan lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước ta.
Hơn nửa thế kỷ qua, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước ta về tôn giáo được xây dựng trên cơ sở nhận thức và giải quyết các vấn đề tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vạch ra những chính sách đúng đắn về tôn giáo. Trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố "Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết". Trong sáu vấn đề cấp bách trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ "thực dân và phong kiến thực hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương để thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố "Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết".
Quan điểm đó của Người tiếp tục được củng cố, phát triển và được thể hiện xuyên suốt qua các Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992) cũng như các văn bản khác của Ðảng và Nhà nước ta. Nhìn chung các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta đã và đang diễn ra bình thường tuân thủ pháp luật, đóng góp tích cực trong việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và công cuộc đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, tác động của kinh tế thị trường, vì vậy trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo cũng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp: một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, thương mại hóa loại hoạt động này; các hoạt động truyền giáo của các tổ chức truyền giáo từ bên ngoài vào, các phần tử thù địch ở trong nước và ngoài nước lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động tín đồ tiến hành hoạt động chống đối nhà nước, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ảnh hưởng tiêu cực tới trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, trong công tác quản lý nhà nước, hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo chưa được kiện toàn củng cố, lực lượng cán bộ còn nhiều bất cập, công tác tham mưu còn hạn chế, dẫn đến tình trạng một số cấp ủy, chính quyền cơ sở có nơi vừa có biểu hiện khắt khe, lại vừa có biểu hiện buông lỏng; có nơi chủ quan, giản đơn trong quản lý, không kịp thời đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vi phạm pháp luật. Vì vậy dễ tạo sơ hở cho phần tử xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, tuyên truyền tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đòi ly khai, gây điểm nóng để bên ngoài lợi dụng, kích động xuyên tạc, vu cáo ta vi phạm nhân quyền và quyền tự do tôn giáo.
Trước tình hình đó, việc ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo là rất cần thiết. Trong quá trình xây dựng Pháp lệnh, các nguyên tắc luôn được tuân thủ là: Tiếp tục quan điểm đổi mới trong công tác tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết 24 (1990), Nghị quyết Ðại hội IX của Ðảng và đặc biệt là những nội dung về công tác tôn giáo được xác định trong Nghị quyết 25/NQ ngày 12-3-2003 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Pháp lệnh được xây dựng dựa trên cơ sở tổng kết sâu rộng quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và các pháp luật khác liên quan lĩnh vực này.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm 6 chương 41 điều. Ðối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh là hai loại hoạt động, đó là: hoạt động tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo.
Nhằm thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Ðảng và Nhà nước ta đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, Pháp lệnh đã công bố một cách hệ thống quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Người dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào, được tự do bày tỏ đức tin tôn giáo của mình, được thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ nghi tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo, tín đồ đều bình đẳng trước pháp luật, đều được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Người dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào, được tự do bày tỏ đức tin tôn giáo của mình, được thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt phục vụ lễ nghi tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo, tín đồ đều bình đẳng trước pháp luật, đều được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, đồng thời phát huy những giá trị văn hóa đạo đức tôn giáo, gìn giữ những giá trị truyền thống của tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước khẳng định việc bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, am, miếu, trụ sở tổ chức tôn giáo, trường tôn giáo, kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước nghiêm cấm việc phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực để tuyên truyền chiến tranh.
Trong tình hình đất nước hiện nay đảng và nhà nước ta đã có những chính sách hợp lý để ổn định tình hình đất nước trước những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch như:
+ Chính sách trắng về tôn giáo:
Chiều 1/2/2007, tại Hà Nội, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức cuộc họp báo công bố Sách Trắng về "Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam" nhằm giúp cho nhân dân trong và ngoài nước, bạn bè quốc tế hiểu hơn về tình hình sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam cũng như chính sách của Chính phủ Việt Nam đối với công tác tôn giáo. Sách Trắng đã khẳng định "Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.
Chính sách trắng về tôn giáo chia làm 3 chương. Chương I giới thiệu về tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam trong đó giới thiệu vài nét về tin ngưỡng và tôn giáo Việt Nam; các tôn giáo Việt Nam. Chương II đề cập Chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng tôn giáo bao gồm các phần: Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng, tôn giáo; chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo; nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; kết quả việc thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam đối với tin ngưỡng, tôn giáo; và các tôn giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc. Chương III nói về Quan hệ quốc tế của các tôn giáo giới thiệu về quan điển của Nhà nước Việt Nam về quan hệ quốc tế của các tôn giáo và quan hệ quốc tế của các tôn giáo.
+ Thủ tướng Chính phủ chỉ thị về công tác đối với đạo Tin Lành:
Để thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo nói chung và đạo Tin lành nói riêng, ngày 4/2 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/2005/CT - TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành.
Chỉ thị nhấn mạnh: Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đối với đạo Tin lành, thời gian qua các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều nỗ lực và đã đạt được những kết quả quan trọng. Đồng bào theo đạo Tin lành đã hăng hái tham gia các phong trào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng đất nước.
Để tiếp tục thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và về Tin lành nói riêng, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả những nhiệm vụ sau đây:
1. Tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện đầy đủ các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách đối với đạo Tin lành; đồng thời tổ chức thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và tạo điều kiện để đồng bào theo đạo Tin lành gắn bó với cộng đồng, tham gia ngày càng tốt hơn các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tăng cường công tác tuyên truyền vận động và tạo điều kiện thuận lợi để các chức sắc, tín đồ Tin lành thực hiện tốt chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đưa sinh hoạt tôn giáo của đạo Tin lành đi vào nền nếp bình thường, phù hợp với pháp luật; động viên mọi chức sắc, tín đồ sống "tốt đời, đẹp đạo", "phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc". Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tự do theo đạo và không theo đạo của mọi công dân; nghiêm cấm việc ép buộc đồng bào theo đạo hoặc bỏ đạo. Kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, đội lốt đạo Tin lành để kích động, lôi kéo đồng bào ta gây chia rẽ dân tộc, chống phá đất nước.
3. Hướng dẫn, giúp đỡ Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) thực hiện các hoạt động tôn giáo đúng theo Hiến chương, Điều lệ của giáo hội và tuân thủ các quy định của pháp luật.
4. Đối với đồng bào theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên, Nam Trường Sơn và các tỉnh miền Trung: Tiếp tục xem xét công nhận các Chi hội thuộc Tổng Liên hội Hội Thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) và tạo điều kiện thuận lợi để các Chi hội này xây dựng nơi thờ tự, đào tạo và bố trí chức sắc hướng dẫn việc đạo cho các Chi hội đã được công nhận theo quy định của pháp luật. Đối với những nơi chưa đủ điều kiện để được công nhận lập Chi hội, nếu đồng bào theo đạo ở đó có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần túy, cam kết chấp hành các quy định của pháp luật, không hoạt động cho bọn phản động Fulrô, không dính líu đến "Tin lành Đê Ga" (thực chất là tổ chức của bọn phản động Fulrô) thì chính quyền xã, phường tạo điều kiện cho đồng bào thực hiện các sinh hoạt tôn giáo bình thường tại gia đình hoặc chấp thuận cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo tại địa điểm thích hợp trong buôn, làng.
5. Đối với số đồng bào ở miền núi phía Bắc mới theo đạo Tin lành cần căn cứ vào nhu cầu tín ngưỡng để có chủ trương thích hợp theo hướng: Đối với bộ phận đồng bào đã có thời gian theo đạo Tin lành và có nhu cầu tín ngưỡng thực sự, trước mắt hướng dẫn cho đồng bào sinh hoạt tôn giáo tại gia đình, hoặc nơi nào có nhu cầu thì hướng dẫn cho đồng bào đăng ký sinh hoạt đạo ở địa điểm thích hợp tại bản, làng. Khi hội đủ các điều kiện thì tạo thuận lợi cho đồng bào sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy định của pháp luật. Đối với bộ phận đồng bào đã theo đạo, nay có nhu cầu trở lại với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình, cần tạo điều kiện, giúp đỡ để đồng bào thực hiện ý nguyện đó.
6. Thông báo công khai cho đồng bào biết rõ những người đội lốt chức sắc Tin lành để hoạt động chống phá đất nước, gây chia rẽ dân tộc và những hành vi vi phạm pháp luật của họ, cũng như biện pháp xử lý và chính sách khoan hồng của Nhà nước ta. Xử lý nghiêm theo pháp luật những người hoạt động truyền đạo trái pháp luật.
7. Đối với các tổ chức hệ phái Tin lành chưa đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để công nhận tư cách pháp nhân, nếu xét thấy thực sự có nhu cầu tín ngưỡng thì hướng dẫn cho họ thực hiện việc đăng ký sinh hoạt đạo với chính quyền xã, phường. Từng bước xem xét công nhận tư cách pháp nhân đối với số hệ phái Tin lành có trước năm 1975 đang hoạt động tôn giáo thuần túy, nếu đủ các điều kiện quy định của pháp luật thì chấp thuận cho tổ chức Đại hội đồng để công nhận tư cách pháp nhân.
8. Theo quy định của Pháp luật hiện hành, Ủy ban nhân dân các địa phương cần quan tâm giúp đỡ giải quyết nhu cầu về xây dựng cơ sở thờ tự, phong chức sắc, bồi dưỡng giáo lý của các hệ phái Tin lành đã được công nhận.
9. Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ qun thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức quán triệt rộng rãi trong nhân dân và triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này. Ban Tôn giáo Chính phủ có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và thường xuyên có báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ bản chất văn hóa của dân tộc, từ chính sách đại đoàn kết toàn dân, nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Giờ đây, trong hoàn cảnh mới của yêu cầu phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta sẽ tổng kết tình hình và đề ra nhiều chủ trương, giải pháp mới để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, làm thất bại hoàn toàn mọi âm mưu đen tối của các thế lực phản động.
Tài liệu tham khảo
Nguồn tư liệu: Ban Tôn giáo Chính phủ, TTXVN và Công báo
Báo vietnamnet
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học
Trang web chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.doc