MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa đã đẩy mạnh xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến những thay đổi về qui mô và quyền lực tài chính giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Trong khi nền kinh tế Mỹ đã đóng vai trò chính trong nền kinh tế thế giới suốt từ sau thế chiến 2 cho đến những năm 1990, từ cuối thế kỷ qua đã chứng kiến sự nổi lên của một số nền kinh tế lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil. Những thay đổi này đã gây tác động đến dòng vốn quốc tế và tỉ giá hối đoái, từng bước hình thành sự điều chỉnh quốc tế. Thêm vào đó, sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Cả thế giới đang dõi theo từng biến động của đồng USD và đã đưa ra nhiều kịch bản cho sự biến động của đồng tiền này. Bởi lẽ, mặc dù đang có chiều hướng đi xuống nhưng USD vẫn là đồng tiền đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch quốc tế và kinh tế của Mỹ vẫn chiếm giữ vị trí số 1 của kinh tế toàn cầu. Nhận thấy đây là một đề tài mang tính thời sự và có “sức nóng”, nhóm tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vị thế đồng USD qua các giai đoạn. Tác động đối với Việt Nam”. Dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của Giảng viên ., nhóm tôi đã rất cố gắng để hoàn thành đề tài. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm không thế tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
2. Mục đích nghiên cứu
Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Những biến động tài chính của nước này tác động rất lớn đến mọi nền kinh tế, trong đó có Việt Nam. Do đó, nghiên cứu vị thế của đồng USD qua các giai đoạn để từ đó hiểu được vai trò cũng như những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế nước ta để có những phản ứng chính sách tỷ giá cho phù hợp là mục đích chính của nhóm tôi khi nghiên cứu đề tài này.
3. Kết cấu đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo 3 phần chính:
- Phần I: Sự hình thành và phát triển của đồng USD
- Phần II: Vai trò của USD đối với nền kinh tế thế giới
- Phần III: Những dự báo về đồng USD trong tương lai và các giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá đồng
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4096 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị thế đồng USD, ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n mức cao nhất trong 7 năm qua so với đồng USD, trong khi đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm nay. Tại Ấn Độ, đồng Rupee tăng 12% so với đồng USD trong năm. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc liên tục lập các mức cao kỷ lục mới trong nhiều phiên giao dịch liên tiếp. Nếu tính từ đầu năm đến nay, đồng NDT đã 67 lần lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đồng đôla Australia (AUD) cũng đã tăng lên 0,9023 USD/AUD - mức cao nhất trong 23 năm qua.
Các nguyên nhân khiến cho đồng USD giảm giá:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá các đồng tiền, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của chính sách lãi suất trên khắp thế giới, sự mất cân đối thương mại, những điểm khác biệt về tăng trưởng kinh tế và chính sách kiểm soát tiền tệ.
- Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm 2007. Và gần đây là những lo ngại về lĩnh vực cho vay thế chấp yếu, gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Mất cân bằng trong cán cân thanh toán là vấn đề đáng lo ngại trong vòng 10 năm trở lại đây đối với nhiều nước. Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mức thâm hụt cán cân buôn bán của Mỹ trong năm 2006 tương đương 6% GDP, mức cao chưa từng có trong lịch sử nước này. Trong khi đó, một số nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản lại đạt thặng dư thương mại ngày càng lớn. Năm 2006, thặng dư thương mại của Nhật Bản đạt 3,9% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 9,4% GDP. Các số liệu Hải quan Trung Quốc cũng cho biết khối lượng thặng dư mậu dịch của nước này trong 9 tháng đầu năm đã lên tới 185,7 tỷ USD, vượt qua cả số lượng thặng dư mậu dịch của cả năm 2006 (177,47 tỷ USD). Dự đoán thặng dư thương mại năm 2007 của Trung Quốc sẽ tăng lên 250 - 300 tỷ USD. Xu hướng thâm hụt thương mại kéo dài đã tạo nên áp lực khiến đồng USD tiếp tục giảm giá.
- Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ. Nhờ vào việc đồng Euro có sức mua mạnh, các doanh nghiệp trong khu vực Eurozone và Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ. Năm 2000, khi người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề đồng Euro yếu, châu Âu đã đầu tư 125 tỷ USD vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn 122 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân trong lĩnh vực này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ USD năm 2000 lên 127 tỷ USD năm 2006, và trong 6 tháng đầu năm 2007, con số này cũng đã đạt 85 tỷ USD. Như vậy, tính từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có xu hướng chảy từ Mỹ sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn cầu khi mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ là 85 tỷ USD, trong khi lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm vào đó là cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng tài chính phải chịu sức ép không thuận lợi của việc đồng USD mất giá.
Đồng USD ngay lập tức bị ảnh hưởng sau khi vài quan chức ngân hàng Trung Quốc phát biểu rằng Trung Quốc có thể thay đổi cơ cấu tiền tệ của kho dự trữ ngoại hối khổng lồ. Tính đến cuối tháng 9/2007, dự trữ ngoại tệ của quốc gia này đã lên tới 1.430 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều đối tác làm ăn của Trung Quốc cho rằng các kho dự trữ ngoại tệ này tăng từ 40-50 tỷ/tháng trong 6 tháng đầu năm nay khiến cho đồng NDT bị đánh giá thấp hơn giá trị thật của nó.
- Tiền tệ luôn có xu hướng di chuyển qua biên giới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Bởi vậy, tiền tệ sẽ tăng khi thị trường kỳ vọng vào triển vọng kinh tế khả quan và giảm khi kinh tế suy giảm. Sự mạnh lên hay yếu đi về kinh tế được thể hiện trong thu nhập từ trái phiếu và lãi suất trái phiếu của quốc gia đó. Vào thời điểm này, thị trường cho rằng nền kinh tế Mỹ đang phát triển chậm lại. Bởi vậy, các nhà đầu tư đã liên tục từ đồng USD sang các loại tiền tệ khác cho lãi cao hơn.
- Tuy nhiên, các nhân tố kinh tế vĩ mô này cũng chưa giải thích toàn bộ các vấn đề trên thị trường ngoại hối. Theo quan điểm của IMF và bộ trưởng tài chính các nước G7, sự định giá quá thấp của các đồng tiền châu Á, đặc biệt là đồng NDT của Trung Quốc và đồng Yen Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh toán quốc tế này giảm giá. Để hạn chế sự mất cân bằng thương mại hiện nay, Trung Quốc và Nhật Bản cần phải kích thích tiêu dùng nội địa và không định hướng chính sách tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Để làm được điều đó, không có gì thích hợp hơn là áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi để cho đồng nội tệ tự định giá. Đối với Trung Quốc, biện pháp này không những có thể giúp họ kiềm chế xuất khẩu và hạn chế những tác động do lạm phát gây ra, mà việc tăng giá đồng NDT còn tạo điều kiện cho người dân Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng hóa của Mỹ và châu Âu hơn. Kịch bản này cũng nên được Nhật áp dụng và nếu điều đó thành hiện thực, thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm bớt và đồng USD khi đó sẽ có thể tăng giá trở lại.
Những tác động tiềm tàng
Đồng USD mất giá đang là bài toán hóc búa cho giới quản lý các kho dự trữ ngoại tệ lớn của thế giới. Đối với các nước, như Trung Quốc và các nước vùng Vịnh vốn gắn tỷ giá đồng nội tệ với đồng USD, thì sức ép của nguy cơ lạm phát có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, bất kỳ động thái nào nhằm gỡ bỏ mối liên hệ với đồng USD cũng sẽ ảnh hưởng lên thị trường tiền tệ, gây tổn thất về giá trị tài sản cho các kho dự trữ ngoại tệ của các nước này. IMF cho biết các kho dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu hiện tăng từ 2.000 tỷ USD trong quý II/2002 lên 5.700 tỷ USD đến quý II/2007. Hơn thế nữa, 2/3 trong tổng số quỹ dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới nằm trong tay 6 nền kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Nga và Singapore.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc nhiều đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với đồng USD trong năm nay đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn và lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm giá trị. Giá trị đồng USD sụt giảm sẽ khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước châu Á trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Ấn Độ và Thái Lan là những nước đáng lo ngại nhất, vì tỷ giá hối đoái sẽ tạo lợi thế cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, chính phủ các nước châu Á không quá lo ngại đối với vấn đề giá cả hàng hóa xuất khẩu đắt đỏ hơn, một phần vì đa số các đồng tiền trong khu vực đều tăng giá so với đồng USD. Các chuyên gia cho rằng, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh. Bên cạnh đó, chính phủ các nước châu Á được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ - được bán với giá tính bằng USD - rẻ hơn. Nhiều nước cũng mua được hàng hóa của Mỹ với giá rẻ hơn, giúp những nước phụ thuộc vào nhập khẩu như Singapore có thể bù đắp lại sự gia tăng giá cả của một số mặt hàng nhập khẩu.
Đồng USD yếu khiến các mặt hàng được giao dịch bằng USD như dầu thô trở nên rẻ hơn đối với những khách hàng sử dụng đồng tiền có giá trị hơn và do đó khuyến khích nhu cầu tiêu thụ. Điều này giúp bù đắp giá dầu đang ở mức cao kỷ lục trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, đồng USD yếu sẽ làm giảm giá trị doanh thu từ xuất khẩu dầu của các nước khai thác dầu thô lớn. Thực tế này khiến Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) không vội vã tăng sản lượng một lần nữa, mặc dù nguồn cung trên thị trường thế giới đang eo hẹp. Cho đến nay, nền kinh tế Khu vực đồng Euro vẫn chưa phải hứng chịu tác động của sự bất ổn về tỷ giá hối đoái, nhưng các rủi ro đang tăng lên. Đồng USD tiếp tục giảm giá là mối lo ngại lớn bởi nó làm cho hàng hóa và các dịch vụ của châu Âu trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa và dịch vụ của Mỹ. Nhiều nhà hoạch định chính sách châu Âu đang lo ngại đồng USD sẽ kìm hãm đà tăng trưởng của Eurozone.
Đồng USD yếu sẽ khiến hàng hóa Mỹ cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm khi xuất khẩu tăng, hạn chế ảnh hưởng của thâm hụt đối với tăng trưởng. Đồng USD yếu cũng giúp cải thiện tình hình việc làm vì các công ty đa quốc gia sẽ chọn thuê người Mỹ với chi phí thấp hơn. Khi đồng USD giảm giá, hàng nhập khẩu sẽ đắt lên, đẩy giá cả đắt đỏ lên theo và như vậy sức ép lạm phát sẽ tăng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng nền kinh tế quá lớn và cạnh tranh đến mức phần lớn các công ty không có cơ hội tăng giá bán.
Vai trò của đồng USD so với các đồng tiền khác
Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức như Ecuador, El Salvador và Đông Timor, các cựu thành viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo Thái Bình Dương (Trust Territory of the Pacifi Islands), kể cả Palau, Micronesia và Quần đảo Marshall... Thêm vào đó, đơn vị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1. Đơn vị tiền tệ của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1. Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1 giữa đồng peso Argentina và đô la Mỹ từ 1991 đến 2002. Tại Lebanon, 1 đô la được đổi thành 1500 lira Lebanon, và cũng có thể được sử dụng để mua bán như đồng lira. Tại Hồng Kông, đồng đô la Mỹ và đô la Hồng Kông đã được ràng buộc với giá HK$7,8/USD từ năm 1983. Đồng Pataca của Macao, được ràng buộc với đô la Hồng Kông với giá MOP1,03/HKD, được gián tiếp hoán đổi với đô la Mỹ với tỷ giá khoảng MOP8/USD. Đồng Nhân dân tệ của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7, 2005.Malaysia cũng đã ổn định giá của đồng ringgitt với giá MR3,8/USD từ 1997. Ngày 21 tháng 7, 2005, cả hai quốc gia đã thả giá tiền họ để theo giá thị trường.
Đồng đô la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế cho các mặt hàng như vàng và dầu hỏa. Ngay cả các công ty ngoại quốc ít buôn bán tại Hoa Kỳ, như Airbus, liệt kê và bán sản phẩm của họ bằng đô la (tuy trong trường hợp này một số người cho rằng lý do là vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang thống trị ngành hàng không).
Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Theo kinh tế gia Paul Samuelson, nhu cầu cho tiền đô la cho phép Hoa Kỳ giữ sự thiếu hụt trong xuất-nhập khẩu mà không dẫn đến sự suy sụp của đồng tiền.
Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền mặt trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi đồng euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương mại của Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt giá thấp nhất đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng euro lên giá cao hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn với đầu năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005 đồng đô la lại lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước châu Âu đang ứ đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp tại các nước sử dụng euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc Liên Minh, đồng euro có thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ sức mạnh.
Hiện tượng trên bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính
- Thâm hụt cán cân thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.
- Chuyển đổi trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các quốc gia khác.
- Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.
Về cơ bản, logic kinh tế của việc dự trữ bằng USD, dù không mạnh như trước đây, vẫn còn đúng. Nó tiếp tục khiến nhiều nước tích lũy bằng loại ngoại tệ mà họ thường gọi là nợ nước ngoài và điều khiển ngoại thương của họ. Nói cách khác, các ngân hàng trung ương sử dụng quỹ đó để trả nợ và thanh toán ngoại thương, cũng như can thiệp vào các thị trường ngoại hối.
Một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất thời gian qua trên thị trường tiền tệ thế giới là sự lên giá không ngừng của đồng Eur so với USD. Kể từ khi suy yếu năm 1999, liên tục từ năm 2002 và cho đến nay Eur luôn tăng giá trước USD.
Bảng tỷ giá Euro trên USD giai đoạn 1999 - 2010
Năm
Euro trên Đô la Mỹ 1999–2010
Cao nhất
Thấp nhất
Ngày
Tỷ giá
Ngày
Tỷ giá
1999
03/12
€0.9985
05/01
€0.8482
2000
26/10
€1.2118
06/01
€0.9626
2001
06/07
€1.1927
05/01
€1.0477
2002
28/01
€1.1658
31/12
€0.9536
2003
08/01
€0.9637
31/12
€0.7918
2004
14/05
€0.8473
28/12
€0.7335
2005
15/11
€0.8571
03/01
€0.7404
2006
02/01
€0.8456
05/12
€0.7501
2007
12/01
€0.7756
27/11
€0.6723
2008
27/10
€0.8026
15/07
€0.6254
2009
04/03
€0.7965
03/12
€0.6614
2010
08/01
€0.8374
13/01
€0.6867
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
USD đã mất giá trên 50% so với thời điểm đồng EUR ra đời và đã giảm 20% tính đến thời điểm cuối năm 2004. Tỷ giá yên Nhật với USD cũng ở mức thấp nhất kể từ bốn năm qua, còn giá vàng cuối năm 2004 đã tăng khoảng 90.000 đồng/chỉ so với đầu năm 2004(trên 10%).
Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó thì chưa dừng hẳn. Các DN đã nhập khẩu hàng hóa từ EU chưa thanh toán hết bằng Euro đang lâm vào hoàn cảnh mất cả lãi và thâm hụt vốn bởi giá Euro hiện tăng quá cao so với thời điểm 1 tháng trở về trước, khi đồng tiền này được các DN lựa chọn làm đồng tiền thanh toán hàng hóa với đối tác. Các DN xuất khẩu còn bị nợ tiền bằng USD cũng thiệt hại không nhỏ.
Và nhiều quốc gia tiếp tục cho vay và trao đổi ngoại thương bằng đồng đôla Mỹ, bất chấp sự nổi lên của EUro và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng khác. Đến cuối năm 2008, khoảng 45% trái phiếu quốc tế là bằng USD, trong khi chỉ 32% bằng EURO. Và theo thăm dò năm 2007 của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), USD vẫn được sử dụng trong 86% trao đổi ngoại hối, so với chỉ 38% bằng euro.
Đến tháng 4/2008, theo IMF, 66 quốc gia sử dụng USD làm mốc tỷ giá hối đoái của mình, trong khi con số này chỉ là 27% đối với euro. Lý do khiến một ngân hàng trung ương đưa ra lựa chọn là tầm ảnh hưởng lớn của ngoại tệ đó trong quỹ dự trữ quốc gia. Các ngân hàng trung ương muốn không chỉ tối ưu hóa sự trở lại hoạt động bình thường của mình, mà còn giảm thiểu nguy cơ. Ví dụ tại một quốc gia kiềm chế tỷ giá của nội tệ với USD, lạm pháttrong nước họ có xu hướng đi theo diễn biến lạm phát ở Mỹ, và như vậy trong trường hợp này quỹ dự trữ USD sẽ ít dao động so với giá trị nội tệ của họ.
Các đánh giá về việc trộn lẫn các đồng tiền nào sẽ giúp tối ưu hóa một sự kết hợp đặc biệt giữa nguy cơ và lợi nhuận cho thấy, tất cả các ngoại tệ đều rất dễ mua và bán – tức là tất cả các thị trường trái phiếu đều có tính thanh khoản như nhau, bất kể loại ngoại tệ nào mà chủ đạo. Đặc tính này rất quan trọng. Nếu các quỹ dự trữ không sẵn sàng được chuyển thành tiền mặt, chúng không được sử dụng dễ dàng trong các hoạt động thị trường. Như vậy, thị trường buôn bán trái phiếu Kho bạc Mỹ hấp dẫn vì đây là thị trường trái phiếu chính phủ duy nhất có tính thanh khoản cao nhất trên thế giới nhờ mức chênh lệch giá đặt mua/bán rất ít của nó. Tính thanh khoản cao nói trên là một đặc tính tự củng cố. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng ý thực hiện các giao dịch và tập trung cổ phiếu của mình vào các thị trường Mỹ vì các thị trường này có tính thanh khoản cao, và chính hoạt động này khiến thị trường càng dễ thanh toán hơn. Giống như trong chính trị, trong cuộc cạnh tranh để trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu và giữ vị trí là đồng tiền dự trữ hàng đầu, thì thách thức cũng là cơ hội.
Các ngoại tệ khác cũng cố gắng cạnh tranh. Bảng Anh và franc Thụy Sỹ cũng từng là loại ngoại tệ dự trữ quan trọng, nhưng nền kinh tế hai nước này ngày nay quá nhỏ để các nội tệ của họ tiếp tục giữ vị trí này; không quốc gia nào khác có thể cung cấp các công cụ ghi nợ mà hệ thống tài chính toàn cầu cần đến. Và như vậy, cuối năm 2007, bảng Anh chỉ còn chiếm không đến 3% quỹ dự trữ toàn cầu, trong khi franc Thụy Sĩ chỉ chiếm dưới 1%.
Nền kinh tế Nhật Bản đang mở rộng, nhưng chính phủ nước này từ lâu đã không đủ can đảm sử dụng đồng yên trong các giao dịch quốc tế vì sợ điều này sẽ phá hủy khả năng duy trì một tỷ giá hối đoái thấp và mang tính cạnh tranh, cũng như làm phức tạp thêm cách quản lý chính sách công nghiệp của họ. Nếu người nước ngoài có thể mua và bán chứng khoáncủa Nhật với số lượng lớn, Chính phủ Nhật sẽ gặp khó khăn hơn trong việc sử dụng hệ thống tài chính để chuyển hướng các nguồn vốn đến cho các công ty trong nước.
Giờ đây, Nhật Bản dường như cũng nóng lòng muốn đồng yên đóng một vai trò quốc tế lớn hơn, đặc biệt là ở châu Á. Nhưng chính sách trước đây của họ đã hạn chế tính thanh khoản bằng đồng tiền này của thị trường. Gần đây, tình trạng trì trệ kinh tế Nhật và mức lãi suất 0% đã khiến dự trữ bằng đồng yên trở nên ít hấp dẫn. (Cuối năm 2007, yên chiếm gần 3% tổng trái phiếu nước ngoài). Dân số ngày càng già đi của Nhật sẽ đồng nghĩa với việc nền kinh tế của họ, cũng như đồng tiền của họ, khó có được một vai trò lớn hơn trên thế giới.
2.3. Ảnh hưởng của đồng USD đối với kinh tế Việt Nam
2.3.1. Ảnh hưởng bởi đồng USD mất giá
- Tỷ giá VND/USD đứng yên
Về phương diện cạnh tranh việc USD mất giá so với nhiều đồng tiền khác trong khi tỷ giá VND/USD đứng hoặc yếu đi một chút là có lợi cho xuất khẩu của Việt Nam.
Đứng ở góc độ xuất khẩu, một khi đồng tiền của nước nào lên giá so với USD thì đều gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, khi USD chỉ mất giá khá mạnh so với những đồng tiền chủ chốt. Đối với đồng tiền của các nước trong khu vực vốn là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam thì tỷ lệ mất giá không nhiều (đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và ringit Malaysia gần như không thay đổi; tỷ giá giữa HKD (đôla Hongkong) và USD vẫn được cố định.
Việc mất giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường thế giới thực ra ảnh hưởng không nhiều lắm về mặt tỷ giá đối với tình hình xuất nhập khẩu của doanh nghiệp Việt Nam. Vì phần lớn doanh nghiệp, ngay cả doanh nghiệp nước ngoài vẫn chọn đồng đôla Mỹ là đồng tiền thanh toán. Chỉ khi ở nước có đồng tiền tăng giá đề nghị doanh nghiệp Việt Nam (nhà xuất khẩu) đổi sang thanh toán bằng tiền của họ thì mới có thể có thiệt thòi.
Ví dụ ở doanh nghiệp Casumina, một số khách hàng châu Âu có đề nghị thanh toán bằng đồng euro khi Casumina xuất hàng cho họ. Trong bối cảnh euro tăng giá, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sau khi nhận euro phải chuyển ngược lại thành đô la Mỹ thì sẽ bị lỗ về tỷ giá.Tuy nhiên theo thông lệ, nếu giá nguyên vật liệu đột xuất bỗng tăng đến 5% thì các đối tác mới đàm phán lại với nhau. Còn đối với tỷ giá đồng tiền, dù biến động đến 5%, các bên cũng chưa đặt thành vấn đề.
- Tỷ giá VND/USD giảm
Các doanh nghiêp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu thực hiện việc thanh toán các lô hàng xuất khẩu của doanh nghiệp phần lớn dựa trên đồng USD, trong khi nguyên liệu, vật tư chủ yếu cho sản xuất đa phần lại dựa vào các nguồn trong nước và thanh toán bằng tiền đồng. Khi USD bị mất giá trên thị trường, tiền đồng bị thiếu hụt trong lưu thông khiến các doanh nghiệp rất khó bán ngoại tệ thu về sau xuất khẩu để thu hồi vốn, trang trải chi phí sản xuất. Các ngân hàng lúc này sẽ chủ trương hạn chế mua USD và mua với tỷ giá thấp đã tác động đến dòng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Ví dụ khi tỷ giá từ trên 16.000 đồng/USD giảm xuống chỉ còn 15.700 đồng/USD, chưa kể nhiều ngân hàng còn thu thêm phí (2%) khi mua USD khiến các doanh nghiệp bị thiệt đơn thiệt kép.
Thực tế trên đang đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng có dư ngoại tệ nhưng không bán được cho ngân hàng trong khi vẫn phải vay vốn tiền đồng với lãi suất cao hơn trước đây (do các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất cho vay lên 1,1 - 1,4%/tháng). Các doanh nghiệp đang phải chịu lỗ để duy trì sản xuất và thực hiện các đơn hàng đã ký với khách hàng trước đây.
Do thiếu vốn tiền đồng và chịu lỗ về tỷ giá khi thu hồi tiền bán hàng, chi phí tăng cao do vật tư tăng giá, doanh nghiệp buộc phải giảm mua nguyên liệu hoặc mua với giá thấp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu trong nước. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với mặt hàng xuất khẩu thuộc khu vực nông nghiệp.
Ví dụ trong xuất khẩu thủy hải sản, khi vào chính vụ thu hoạch, do quan hệ cung - cầu trên thị trường, doanh nghiệp không thể kéo giá xuất khẩu lên nên không thể mua nguyên liệu với giá cao, trong khi người nuôi phải thu hoạch gấp khiến tiêu thụ nguyên liệu khó khăn và phức tạp. Các chi phí đầu vào ở khâu nuôi và đánh bắt thủy sản như giống, thức ăn, nhiên liệu, chi phí vận chuyển đều tăng khoảng 20%, khiến người nuôi và ngư dân bị lỗ, khó đầu tư vào vụ tiếp theo. Điều này sẽ gây thiếu hụt nguyên liệu cho xuất khẩu trong năm nay, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước.
2.3.2. Ảnh hưởng bởi đồng USD tăng giá
Đồng USD tăng giá cũng khiến việc nhập khẩu, mua vào của các nước trên thế giới trở nên đắt đỏ hơn: Thị trường sắt, thép quốc tế mới hạ nhiệt được giờ đây lại trở nên đắt hơn do đồng USD tăng giá các nhà nhập khẩu phải chi nhiều tiền hơn cho các hợp đồng thanh toán bằng USD.
Mỹ hiện là thị trường số 1 của các nhà sản xuất khu vực trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất. Chính vì thế việc đồng USD tăng giá trong tương lai sẽ giúp người tiêu dùng Mỹ, các nhà NK Mỹ mua được nhiều hàng hơn từ những đồng tiền sẵn có của mình, còn các nhà XK khu vực nhờ đó mà đẩy mạnh XK vào Mỹ. Cũng trong xu hướng đó, các nhà Xk Việt Nam sẽ xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn.
Thông thường, khi tỷ giá tăng tăng giá các DN xuất khẩu sẽ có lợi, tuy nhiên, không ít DN không hoạt động trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu cũng thường nhân dịp này, tự ý tăng giá.Khi tỷ giá tăng, các DN cung ứng nguyên liệu trong nước thường hay tăng giá và mức tăng giá này luôn cao hơn mức tăng của tỷ giá, khiến chi phí đầu vào của DN sản xuất hàng xuất khẩu tăng. DN sẽ gặp khó khăn, vì hợp đồng đã ký từ trước, muốn thương lượng lại với đối tác để điều chỉnh giá bán cũng rất khó.
Trong khi tỷ giá tăng, DN nhập khẩu nguyên vật liệu về sản xuất hàng để bán ở thị trường trong nước sẽ bị thiệt hơn so với những DN chuyên xuất khẩu. Nếu chỉ có một số loại nguyên liệu tăng giá thì ảnh hưởng không đáng kể, nhưng nếu nhiều loại nguyên liệu cùng đồng loạt tăng giá thì sẽ ảnh hưởng nhất định tới DN xuất khẩu.
Dự báo, giá nguyên liệu trong nước (những nguyên liệu có thể xuất khẩu) sẽ tăng, nên các DN đang tính tới việc sẽ đàm phán với khách hàng tăng giá bán sản phẩm. Tuy nhiên, điều này là rất nguy hiểm, bởi việc đàm phán tăng giá bán sẽ đồng nghĩa với việc giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, kèm theo nguy cơ bị mất đơn hàng.
Các DN nên tính toán kỹ lại giá thành sản phẩm. Trong cơ cấu giá thành, nên có kinh phí dự phòng rủi ro về tỷ giá, nhằm hạn chế tác động của việc tăng, giảm tỷ giá (trong thời gian tới) đến sản xuất - kinh doanh. Tiếp đó, DN nên chủ động dự trữ nguyên nhiên liệu, để khi giá cả biến động thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến sản xuất - kinh doanh.
PHẦN III: NHỮNG DỰ BÁO VỀ ĐỒNG USD TRONG TƯƠNG LAI
VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Dự báo về vị thế đồng USD trong tương lai
Dự báo về một số đồng tiền mới nổi
Dự báo đồng Euro – đối trọng của đồng USD
Euro là một đồng tiền mạnh hiếm hoi đứng ở thế đối trọng với đồng USD. Tuy nhiên với cuộc khủng hoảng nợ Hy lạp vừa qua và nguy cơ về nợ công ngày càng lớn của các nước thành viên thì tương lai của đồng tiền này được dự báo là sẽ khó có thể tồn tại hết nhiệm kỳ của Nghị viện châu Âu trong 5 năm tới. Thậm chí có những ý kiến cho rằng đồng euro sẽ chấm dứt mô hình tồn tại hiện nay trong một vài tuần tới chứ chưa nói tới nhiệm kỳ nghị viện 5 năm.
Cách đây chưa đầy 1 năm, rất ít chuyên gia trong Khu Tài chính London đưa ra dự đoán về sự kết thúc của đồng euro. Tuy nhiên, những khoản nợ kếch xù của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và sự thừa nhận của Thủ tướng Đức Angela Merkel rằng đồng euro đang đối mặt với “cuộc khủng hoảng về sự tồn tại” đã làm thay đổi mạnh mẽ quan điểm của giới chuyên gia kinh tế. Chuyên gia Andrew Lilico, nhà kinh tế cấp cao thuộc Viện Policy Exchange của Anh cho rằng “cơ hội hiện nay gần như số 0 đối với sự tồn tại của đồng euro”. Chuyên gia Douglas McWilliams từ Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh (CEBR) (Anh) còn dự đoán đồng euro “thậm chí không sống nổi sau tuần tới”. Trong khi đó, ông Tim Congdon thuộc Tập đoàn Nghiên cứu Tiền tệ Quốc tế (IMR) cho rằng “khu vực đồng euro sẽ phải mất khoảng 3 hoặc 4 thành viên như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland và có thể sẽ đổ vỡ toàn khối bởi xích mích ngày càng gia tăng giữa Pháp và Đức”. Chuyên gia Peter Warburton thuộc Công ty Tư vấn Triển vọng Kinh tế lạc quan hơn khi phát biểu: “Đồng euro có thể sẽ vẫn tồn tại nhưng ở dưới một hình thức khác” và “nhiều khả năng Đức sẽ rút lui trong khi có thể một số nước Tây Âu và Trung Âu khác - cộng thêm Đan Mạch - sẽ tham gia khu vực đồng euro”.
Những quan ngại gần đây về số phận của đồng euro đã nổi lên sau quyết định cứu trợ khẩn cấp 750 tỷ EUR hồi tháng trước nhằm ngăn ngừa những đổ vỡ trong tương lai. Mặc dù quỹ cứu trợ khổng lồ đã giúp trấn an tâm trạng hoang mang của dư luận, nhưng các chuyên gia cho rằng nó không mang lại những thay đổi cơ cấu cần thiết trong nội bộ khu vực đồng euro, đơn giản là vì bất đồng giữa các nước trong khu vực - về vấn đề phát triển kinh tế, nợ và quan trọng hơn là khả năng phục hồi kinh tế - quá lớn. Tuy nhiên cũng có một tín hiệu khá khích lệ khi Cơ quan thống kê châu Âu (Euroostat) cho hay trong quý 1-2010, tất cả các nước thuộc EU đã thoát ra khỏi suy thoái kinh tế (ngoại trừ Hy Lạp tiếp tục giảm 0,8%). Những nước tăng trưởng mạnh là Bồ Đào Nha (+1%), Slovakia (+0,8%) và Italia (+0,5%). Kinh tế Đức tuy chỉ tăng 0,2% nhưng lại là quý thứ 4 liên tiếp đạt mức tăng trưởng, trong khi đó Pháp chỉ tăng +0,1%.
.Giới phân tích cũng đang quan ngại về cuộc suy thoái kép một cách toàn diện ở châu Âu, với những căng thẳng tài chính mới. Điều này có thể là một vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả các khu vực khác, làm suy yếu đà phục hồi kinh tế. Ở hầu hết các nước, kể cả phát triển và đang phát triển, khả năng kích thích tài chính là không còn, do đó các nhà hoạch định chính sách cũng không còn khả năng giải quyết một đợt suy thoái mạnh mới. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu đã làm tăng nguy cơ đối với các nước có mức thâm hụt ngân sách cao, kể cả Mỹ và Nhật, phải đột ngột thắt chặt chính sách tài chính.
10 năm trước, người ta đã kỳ vọng vào một đồng euro mạnh mẽ có khả năng vượt qua đồng đô la Mỹ. Nhưng giờ đây, đồng tiền này đã đánh mất vị thế đối trọng với đồng USD của mình.
Dự báo đồng NDT – một trong những đồng tiền dự trữ của thế giới trong tương lai
Trung Quốc đang thực hiện những bước đầu tiên để đưa Nhân dân tệ thành một trong số những đồng tiền dự trữ của thế giới, sánh ngang với những đồng tiền như USD hay Euro. Có thể ngày đó còn xa, nhưng dường như Trung Quốc rất quyết tâm để đạt mục tiêu này. Bắc Kinh đang thúc đẩy việc sử dụng đồng Nhân dân tệ bên ngoài biên giới Trung Quốc. Điều này khẳng định ý chí của Trung Quốc nhằm tạo ảnh hưởng lớn hơn trong các vấn đề tài chính quốc tế. Những người tin tưởng ở sự vươn xa của đồng Nhân dân tệ càng có cơ sở để củng cố thêm niềm tin này khi vào ngày 17/6 vừa qua, Trung Quốc đã mở rộng một chương trình thử nghiệm cho phép sử dụng Nhân dân tệ trong thanh toán xuất nhập khẩu, thay thế cho USD và các ngoại tệ khác. Chương trình này đã được mở rộng tới các doanh nghiệp tại 20 tỉnh thành ở Trung Quốc, thay vì chỉ 5 thành phố như ban đầu, và được áp dụng với đối tác thuộc mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, thay vì chỉ các đối tác ở Hồng Kông, Macau và Đông Nam Á như trước.
Việc thử nghiệm sử dụng Nhân dân tệ cho xuất khẩu đã bắt đầu từ tháng 7/2009, ban đầu khá chậm nhưng về sau đã tăng tốc. New York Times cho hay, trong thời gian từ cuối tháng 3 tới cuối tháng 5/2010, tổng kim ngạch thương mại được thanh toán bằng Nhân dân tệ đã tăng gấp đôi, lên mức 44,6 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 6,6 tỷ USD. So với kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc, con số trên chẳng thấm vào đâu. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tiếp tục tăng cường tính linh hoạt cho tỷ giá Nhân dân tệ đúng như cam kết đưa ra hôm 19/6, nhu cầu của các công ty ở nước này muốn tránh những rủi ro về tỷ giá bằng cách thanh toán bằng đồng nội tệ chắc chắn sẽ tăng lên. Đối với các công ty xuất khẩu hàng vào Trung Quốc, ý nghĩ cho rằng Nhân dân tệ sẽ tăng giá là một động lực lớn để họ nhận thanh toán bằng đồng tiền này. Thậm chí các chuyên gia kinh tế của HSBC tại Trung Quốc còn dự báo trong vòng 3 - 5 năm tới, hơn một nửa tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc, chủ yếu là trong quan hệ thương mại với các thị trường mới nổi, sẽ được thanh toán bằng Nhân dân tệ.
Nếu gửi Nhân dân tệ vào các ngân hàng ở Hồng Kông, nơi hiện được xem là đầu mối chính cho hoạt động thanh toán thương mại bằng đồng tiền này, thì mức lãi suất nhận được khá eo hẹp. Các công ty vì thế đã đa dạng hóa các phương thức đầu tư Nhân dân tệ ở Hồng Kông. Vào tuần trước, một công ty thu phí đường bộ mang tên Hopewell Highway Infrastructure đã công bố phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng Nhân dân tệ tại Hồng Kông
Các hợp đồng bảo hiểm tính theo Nhân dân tệ cũng được kỳ vọng sẽ sớm xuất hiện. Các nhà chức Hồng Kông hiện còn đang đưa ra kế hoạch, cho phép các công ty môi giới nhận tiền gửi Nhân dân tệ và đầu tư vào thị trường vốn ở đại lục.
Trong chương trình này, một số quỹ đầu tư ngoại được phép chuyển đổi 30 tỷ USD sang Nhân dân tệ, để đầu tư vào Trung Quốc đại lục.New York Times nhận xét, “sốt ruột” trước những “đặc quyền” mà nước Mỹ có được trong việc phát hành đồng tiền dự trữ hàng đầu, Trung Quốc có thể sẽ tìm cách gây ảnh hưởng với phần còn lại của thế giới thông qua đồng Nhân dân tệ.
Tháng 3/2009, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên đã vạch ra một kế hoạch dài hơn, nhằm thay thế đồng USD bằng một đồng tiền siêu chủ quyền tương tự như quyền rút vốn đăc biệt (SDR) của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Trung Quốc ra dấu cho thấy, họ muốn Nhân dân tệ là một phần của đồng tiền siêu chủ quyền này. Hiện SDR của IMF bao gồm các đồng tiền USD, Euro, Yen Nhật và Bảng Anh.
IMF đã cam kết sẽ chuyển ít nhất 5% trong quyền bỏ phiếu tại định chế này sang cho các thành viên là các nền kinh tế mới nổi. Giám đốc IMF, ông Dominique Strauss-Kahn, thì muốn bổ sung thêm các đồng tiền khác vào rổ tiền tệ của SDR, mà khởi đầu sẽ là đồng Nhân dân tệ.
Bên cạnh việc xem Hồng Kông như một trung tâm cho việc thúc đẩy sự phổ biến của đồng Nhân dân tệ, Trung Quốc vẫn thực hiện nhiều biện pháp kiểm soát thị trường vốn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, một khi thương mại xuyên biên giới bằng đồng Nhân dân tệ gia tăng và các lực lượng thị trường dần được phép định giá Nhân dân tệ, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở nên cởi mở hơn với sự ra vào của các dòng vốn. Khi đó, việc đưa Nhân dân tệ vào SDR sẽ khả thi hơn. “Đây mới chỉ là những bước đi nhỏ, nhưng lại là những bước đi hướng tới đưa Nhân dân tệ thành một đồng tiền quốc tế, đem đến cho Trung Quốc một vai trò toàn cầu, mở cửa thị trường vốn và sự chuyển đổi linh hoạt cho các dòng vốn”, ông Stephen Roach, Chủ tịch Morgan Stanley châu Á, phát biểu về những sáng kiến của Bắc Kinh.
Dự báo về vị thế đồng USD
Nhiều ý kiến của các chuyên gia kinh tế cho rằng đồng đôla sẽ vẫn giữ vị trí là đồng tiền dự trữ của thế giới chừng nào thị trường tài chính Mỹ còn khoẻ mạnh và chính phủ đảm bảo ngân sách dùng cho chi tiêu vẫn trong mức chịu đựng được. Trong bản báo cáo đưa ra vừa qua, John Chambers, chủ tịch của uỷ ban xếp hạng quốc gia của S&P, viết rằng đồng đôla là "đồng tiền được chấp nhận nhiều nhất trên thế giới", ngay cả khi khủng hoảng toàn cầu đã khiến Mỹ gặp khó khăn. Đồng đôla giúp cho Mỹ vẫn giữ vững được xếp hạng tín dụng AAA, và chính phủ có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn tài chính bên ngoài với chi phí đi vay thấp hơn. Việc đồng đôla được chấp nhận khắp nơi là nhờ nền tảng sức mạnh của kinh tế Mỹ, và điều này có được là nhờ quy mô của nền kinh tế và tính linh hoạt của thị trường lao động và sản phẩm. Thị trường ngân hàng và vốn của Mỹ linh hoạt và tự do hơn so với các thị trường tại các nước khác.
Báo cáo của Mỹ, Anh, Canada và Singapore cho thấy đồng đô la Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong các giao dịch ngoại hối. Nhìn vào thị trường ngoại hối lớn nhất thế giới, và thị trường ngoại hối Singapore - một thị trường ngoại hối lớn ở khu vực Đông Nam Á, điều dễ nhận thấy là đồng đô la Mỹ liên quan đến hơn 70% số giao dịch giao ngay được thực hiện. Đương nhiên, các giao dịch giao ngay này không chỉ có giao dịch thương mại, mà còn có các giao dịch về đầu tư, đầu cơ, hỗ trợ thanh khoản... Những số liệu giao dịch giao ngay có thể phản ánh ở một mức độ nhất định vai trò của đồng đô la Mỹ trong thanh toán quốc tế ở Anh và Singapore (những số liệu về hợp đồng phái sinh, bao gồm cả số liệu liên quan đến hoán đổi tiền tệ - currency swap, hoán đổi ngoại hối - foreign exchange swap, hợp đồng kỳ hạn - outright forward, quyền chọn - option, đều được loại bỏ).
Một số người coi sự xuống dốc của đồng đôla là một bằng chứng nữa cho thấy giai đoạn dài với vai trò ưu thế trên toàn cầu của Mỹ sắp kết thúc. Chức năng của đồng bạc Mỹ là tiền tệ dự trữ hàng đầu vẫn là trụ cột chính của vị trí ưu thế của Washington trên thế giới kể từ chiến tranh thế giới thứ 2. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla vẫn là đồng tiền các nước trên thế giới có xu hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ bằng đồng đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên toàn cầu (như dầu lửa) cũng được định giá bằng đồng tiền của nước Mỹ này. Những thứ đó đều đem lại nhiều lợi thế cho Mỹ, đáng kể nhất là chi phí vay mượn thấp hơn (bởi vì luôn có nhu cầu về đồng tiền dự trữ này lớn hơn những đồng tiền khác). Và sau đó là những ảnh hưởng về chính trị và văn hóa tăng lên – quyền lực và thanh thế – với đồng tiền đứng đầu trật tự phân hạng kinh tế. Vì thế sẽ không có gì là bất ngờ khi những dự đoán về sự “băng hà” của đồng đôla có xu hướng đi cùng với dự đoán rằng vai trò siêu cường của Mỹ đang chỉ còn đếm từng ngày.
Tuy nhiên, điều đó không nhất thiết đã đúng. Việc tạo ra đồng euro và sự nổi lên của những nền kinh tế như Trung Quốc thực tế đang mở ra triển vọng cho hệ thống tiền tệ toàn cầu ít phụ thuộc hơn vào đồng đôla như hiện tại. Mặc dù vậy, để chuyện đó diễn ra đòi hỏi những thay đổi gấp vạn lần với khoảng hàng năm hay hàng thập kỷ nữa. Và trong khi đó, Benjamin Cohen, từ đại học California-Santa Barbara chỉ ra rằng, “rõ ràng đồng đôla vẫn là đồng tiền hàng đầu trong hầu hết mọi lĩnh vực". Nhìn chung, đồng đôla tiếp tục duy trì vai trò chính trong các giao dịch ngoại hối, thương mại, và thị trường ngân hàng quốc tế. Mặc dù hầu hết các quốc gia thêm đồng euro vào “kho” dự trữ của mình kể từ khi đồng tiền này được đưa vào sử dụng năm 1999, nhưng dự trữ bằng đồng đôla vẫn nhiều gấp 2 ½ lần và vẫn đang có xu hướng tăng. Thực tế, tỷ lệ đồng đôla hiện tại trong dự trữ tiền tệ toàn cầu thực tế còn cao hơn giai đoạn đầu những năm 1990. Năm 1990, đồng đôla chiếm 45% lượng dự trữ thì ngày nay đã chiếm 65%. Còn thời kỳ đỉnh cao của đồng đôla là năm 1999, năm đồng euro được đưa vào sử dụng, là 71,5%. Nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng phần lớn sự biến động hiện tại trong vai trò của đồng đôla có xu hướng tạo ra nhầm lẫn giữa hai vấn đề: sự bất ổn đang tồn tại trong thị trường ngoại hối, và vai trò cấu trúc trung và dài hạn trong nền kinh tế toàn cầu của đồng đôla. Một số người dự đoán tương lai của đôla đã cho rằng khi các nước sản xuất dầu lửa cân nhắc chuyển sang tính giá dầu bằng đồng euro thay vì đôla, thì đó chính là hồi chuông báo tử với ưu thế kinh tế của Mỹ.
Nhưng, vẫn còn đó câu hỏi lớn nhất rằng, đồng tiền nào có thể nhấn chìm đồng đôla? Đâu là sự thay thế thích hợp cho đồng đôla? Ứng cử viên rõ ràng nhất có vẻ là đồng euro. Trước những ngày có đồng euro, đồng mark Đức và đồng franc Pháp chưa từng bao giờ được cho là đồng tiền có thể thay thế đôla, vì số nước ủng hộ đồng tiền này vẫn là rất nhỏ. Sức nặng kinh tế của đồng euro, ngược lại, cũng ngang với đồng đôla Mỹ; cả hai chiếm khoảng ¼ GDP toàn cầu. Và thị trường tài chính châu Âu tương đối sâu và có tính thanh khoản tốt (mặc dù vẫn chưa bằng về quy mô so với Mỹ). Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế châu Âu trong thập kỷ tới có thể vẫn còn yếu, nếu xét về thị trường lao động khắt khe, quy định cứng nhắc, và dân số đang giảm. Và thêm vào đó, nền móng chính trị của đồng euro chỉ là một điều ước quốc tế, hơn là thứ được bảo đảm bởi nhà nước dân tộc.
Tuy nhiên, nếu xét những vấn đề tài chính đang nổi lên mà Mỹ phải đối diện – như thâm hụt tài khoản vãng lai nghiêm trọng và bùng nổ nợ công – các nhà kinh tế như Jeffrey Frankel của Harvard và Menzie Chinn của đại học Wisconsin-Madison cho rằng euro có thể tiến triển tốt, có lẽ sẽ vượt qua tỷ lệ của đồng đôla trong dự trữ toàn cầu vào khoảng năm 2015. Tuy nhiên, người ta sẽ tự hỏi, liệu kịch bản như thế có thực sự thể hiện sự chuyển đổi cơ bản của trật tự toàn cầu.
Còn đồng nhân dân tệ của Trung Quốc và đồng yên Nhật thì sao? Mặc dù đồng yên Nhật vẫn được giữ làm đồng tiền dự trữ rộng rãi ở một số khu vực trên thế giới, nhưng sự hấp dẫn của nó đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi thực tế kinh tế không mấy sáng sủa của kinh tế Nhật Bản kể từ những năm 1990. Còn với đồng nhân dân tệ, thì ngay cả những người ủng hộ Trung Quốc nhất cũng thừa nhận rằng phải nhiều năm nữa nền kinh tế Trung Quốc mới có được những thuộc tính cần thiết của một đồng tiền dự trữ quốc tế, đặc biệt là khi thị thường tài chính sâu, minh bạch, và có tính thanh khoản vẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tới Mỹ. Trong khi đó, cũng nên nhớ rằng, dự trữ ngoại tệ bằng đồng đôla của Trung Quốc vẫn tăng trong quý 3 năm nay.
Một ý tưởng khác khiến cho các giới quan tâm tới đồng SDR (quyền rút vốn đặc biệt, một dạng tiền tượng trưng do IMF phát hành). Ý tưởng này cũng đang được chú ý kể từ ngày 23/3/2009 khi Chu Tiểu Xuyên, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, đề nghị với ngân hàng trung ương chuyển dự trữ ngoại tệ từ đồng đôla sang SDR. Và trong cuộc họp cấp cao của G20 tại London trong tháng 4, các quốc gia tham dự đã đồng ý gói bảo hiểm lớn 250 tỷ USD trị giá SDR.
Mặc dù vậy, vẫn còn một vấn đề cần bàn tới. Barry Eichengreen, nhà kinh tế hàng đầu tại đại học California-Berkeley từng viết: “Những người hoài nghi đặt câu hỏi liệu SDR có thể thay thế đồng đôla với vai trò là đồng tiền dự trữ hàng đầu, vì lý do đơn giản rằng SDR không phải là một đồng tiền. Nó chỉ là một đơn vị tính toán tổng hợp, thông qua đó, IMF phát hành tín dụng với các thành viên". Dựa vào rổ 4 đồng tiền (đôla Mỹ, euro, bảng Anh và yên Nhật), SDR chỉ có thể được sử dụng ngay lập tức bởi các ngân hàng trung ương và một số thể chế quốc tế như Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlements) – nhưng lại không được sử dụng bởi các công ty và người tiêu dùng. Mở rộng vai trò của SDR vượt qua chức năng thực tế của nó và trở thành tiền tệ quốc tế đích thực sẽ đòi hỏi phải cơ cấu lại chính trị và kinh tế, điều mà ít cường quốc nào có vẻ hào hứng vì những gì họ đang có.
Những tin đồn về việc một số nước đang liên kết lại với nhau để sử dụng đồng tiền khác USD trong thanh toán các giao dịch về dầu mỏ cũng đã bị dập tắt và quan điểm cho rằng các nước Ảrập vùng vịnh có thể vô tình đã chuẩn bị gạt đồng đôla sang một bên vì những lợi thế thương mại không rõ ràng là ko hợp lý. Bởi, Ảrập Xêút đã có thỏa thuận từ lâu với Mỹ về việc sẽ không hành động làm mất ổn định đồng đôla, đổi lại, Mỹ hứa bảo đảm an ninh cho nước này trong khu vực trước những nguy cơ lớn. Điều tương tự cũng đúng với Nhật Bản, khi nước này cũng còn gắn chặt với Mỹ trong liên minh quân sự, cũng như thông qua mạng lưới phức tạp các quan hệ thương mại. Mặc dù Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Nhật, thì chỉ riêng thực tế này là khó có thể đủ để thuyết phục Tokyo chuyển dự trữ ngoại tệ sang nhân dân tệ.
Tóm lại, dù việc đồng đôla vẫn tiếp tục chiếm ưu thế trên toàn cầu là điều không chắc chắn, thì vai trò của những tiền tệ lựa chọn khác cũng còn phải mất rất nhiều thời gian nữa mới theo kịp được nó và để đánh bật vị thế của đồng USD cần có một sự hợp tác trên phạm vi toàn cầu, điều chắc chắn chưa thể xuất hiện trong tương lai gần.
Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam để điều tiết giá trị đồng nội tệ phù hợp với vị thế của các đồng tiền mạnh trong thanh toán
Một là: Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước để đề ra được chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp cho từng giai đoạn.
Hai là: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
- Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá.
- Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại …
Ba là: Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình.
Bốn là: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Năm là: Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái Việt Nam.
Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế. Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la.
Sáu là: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Bảy là: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.
Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn.
Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện.
Tám là: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ.
Chín là: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao.
Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo.
Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài.
Mười là: Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại.
Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có thể tác động tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp.
Mười một: Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt.
Mười hai: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng đã làm nổi bật nhu cầu đối với các quy định trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, sự trỗi dậy của các cường quốc mới trở thành một thách thức đối với việc Mỹ tự động đóng vai trò lãnh đạo trong hoạch định các quy định này, đơn giản vì quy mô tuyệt đối của nền kinh tế Mỹ và sự thống trị của đồng USD trong nền thương mại và đầu tư quốc tế. Thay vào đó, cuộc khủng hoảng đã làm nảy sinh câu hỏi về cách thức cân bằng quyền lực và sự lãnh đạo trong các vấn đề kinh tế quốc tế sẽ được hình thành trong những năm tiếp theo.
Có nhiều ý kiến cho rằng cuộc khủng hoảng đã phá vỡ đáng kể mức độ khả tín và sự kính trọng đối với mô hình Mỹ, đặt dấu hỏi đối với chủ nghĩa tự do mới, sự tăng trưởng toàn cầu do Mỹ đứng đầu và những vấn đề liên quan đến vai trò thống trị của đồng USD. Cuộc khủng hoảng cũng làm xói mòn uy tín mặc định của Mỹ đối với vai trò lãnh đạo, trong khi chính mô hình tăng trưởng và học thuyết tân tự do của Mỹ đang có quá nhiều khiếm khuyết.
Hiện nay, vị thế của đồng USD trong tương lai vẫn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Dù chế độ bản vị vàng chính thức bị bãi bỏ sau Hội nghị Bretton Woods để nhưởng chỗ chi bản bị đồng USD, chế độ bản vị vàng vẫn nhận được sự ủng hộ của nhiều chuyên gia kinh tế uy tín, trong đó có Alan Greenspan, Cựu Chủ tịch Cục dự trữ Liên Bang Mỹ trong 19 năm. Hay sự xuất hiện của các đồng tiền mới nổi và sự hợp tác của các nước trên thế giới cũng là một trong những mối đe dọa với chỗ đứng của đồng USD. Tuy nhiên, để có được lời giải đáp chính xác cho vấn đề trên, chắc chắn sẽ cần rất nhiều thời gian, còn trước mắt, đồng USD sẽ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch kinh tế trên phạm vi toàn cầu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vị thế đồng USD, ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và giải pháp.doc