TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Trong nhiều năm trở lại đây Việt Nam đã từng bước tìm được chỗ đứng vững
chắc trên trường quốc tế cùng với đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá là khá
cao. Tuy nhiên đã bao giờ chúng ta đặt ra những câu hỏi như : liệu rằng tốc độ tăng
trưởng cao như vậy có tốt, hay tốc độ tăng trưởng như vậy có thực sự bền vững và duy
trì được trong những năm tới? Trong sự phát triển nhanh như vậy còn tồn tại những
nguy cơ và những bất cập nào về trên cả ba phương diện kinh tế - chính trị - xã hội hay
không? Chúng ta có tự tin khẳng định rằng đã tận dụng hết lợi thế và sức mạnh vốn có
của mình trong sự phát triển đó hay chưa? . Tất cả những câu hỏi đưa đều đưa ta đến
với câu hỏi lớn chúng ta có gặp khủng hoảng hay không và khi nào chúng ta gặp khủng
hoảng? Phải làm những gì để tránh được khủng hoảng và để tồn tại phát triển trong bối
cảnh thế giới ngày càng bất ổn như hiện nay?
Tình hình thế giới hiện nay đang đứng trên bờ vực của một cuộc khủng hoảng trên
diện rộng; trong đó các nước lớn vẫn tìm mọi cách bành trướng thế lực tranh giành tầm
ảnh hưởng, hình thành nên trật tự đa phương và đa cực hết sức phức tạp. Việt Nam đang
nằm trong thế chiến lược của rất nhiều nước vì thế việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi
chúng ta cần phải làm gì trong bối cảnh này trở nên vô cùng cấp bách.
Với những suy nghĩ và trăn trở đó tôi đã quyết định tìm hiểu và nghiên cứu đề tài:
“Việt Nam cần làm gì để tồn tại và phát triển trong bối cảnh địa - kinh tế - chính trị
hiện nay?” qua đó có thể sẽ giúp chúng ta nhận ra Việt Nam đang có những gì, đang
đứng ở đâu, còn tồn tại những hạn chế và khó khăn gì để đi tới những giải pháp chung bẻ
lái con tàu Việt Nam quay trở lại con đường phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Công trình gồm 4 phần chính:
Chương I : Cách nhìn mới về vị thế của một quốc gia.
Chương II : Bối cảnh khu vực Đông Á – “Môi trường sống” của Việt Nam.
Chương III : Việt Nam trong bối cảnh địa - kinh tế - chính trị hiện nay.
Chương IV : Hướng đi mới.
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: CÁCH NHÌN MỚI VỀ VỊ THẾ MỘT QUỐC GIA 1-5
1.1 Khái niệm Địa – Kinh tế - Chính trị 1
1.2 Hiện trạng – xu hướng của thế giới . 1
1.2.1 Toàn cầu hóa . 1
1.2.2 Phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng . 1
1.2.3 Đánh đổi môi trường . 2
1.2.4 Thế giới ngày càng bất ổn 2
1.3 Vị thế địa kinh tế chính trị - tầm ảnh hưởng của các quốc gia, liên
minh tổ chức trong trật tự thế giới 3
1.3.1 Giai đoạn trước chiến tranh thế giới II . 3
1.3.2 Giai đoạn sau chiến tranh thế giới II . 3
a. Thời kỳ chiến tranh lạnh 4
Thế giới lưỡng cực 4
Vai trò của các nước vừa và nhỏ trong thời kỳ chiến tranh lạnh 4
b. Sau chiến tranh lạnh đến nay . 4
Tứ giác: Mỹ - Trung – Nga – Nhật . 4
Vị thế của các cường quốc, liên minh quốc tế đối với các khu vực .4
Tầm ảnh hưởng của các tổ chức . 4
Vai trò của các nước nhỏ trong trật tự thế giới mới . 4
Chương 2: BỐI CẢNH KHU VỰC ĐÔNG Á – “MÔI TRƯỜNG
SỐNG” CỦA VIỆT NAM 5-14
2.1 Nhận định chung về khu vực 5
Sự trỗi dậy của khu vực “Đông Á” (Châu Á Thái Bình Dương) . 5
Thứ nhất: Đối phó với khả năng kinh tế Mỹ/ Âu/ Nhật trì trệ trong thời gian dài . 5
Thứ hai: Đối phó với thách thức TQ . 6
Thứ ba: Đối phó với tình trạng bất ổn định an ninh trong khu vực 6
3.2.3 Một số thực trạng bất cập khác 26
a. Chiến lược và công bằng xã hội liên quan đến đất đai: “phong kiến kiểu
mới”? 26
b. Giá đất ở VN thuộc loại cao nhất thế giới: tại sao? 27
c. Cơ sở hạ tầng yếu kém, đô thị nhếch nhác . 28
d. Thấy gì qua việc cổ phần hóa các Doanh nghiệp Nhà nước . 28
e. Nhân lực của Việt Nam: điểm mạnh hay sức ỳ của nền kinh tế? . 30
f. Con tàu xăng dầu Việt Nam trong cơn bão giá 32
g. Việt Nam đang chảy máu tài nguyên 34
h. Cú sốc giá gạo và căn bệnh mãn tính “mất bò mới lo làm chuồng” . 37
3.2.4 Hệ thống tài chính yếu kém:nguy cơ khủng hoảng tài chính? 38
a. Lạm phát: “di căn” của hệ thống tài chính yếu kém . 39
b. Hiệu quả đầu tư 40
c. Thế lực “ngầm” . 42
3.3 Quan sát “xung quanh” . 43
3.3.1 Việt Nam trong thế chiến lược của Phương Bắc 43
a. Phải chăng tất cả các dự án FDI đều có lợi cho Việt Nam? . 43
b. Câu chuyện xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc 45
3.3.2 Việt Nam: con cưng của các đại gia? 46
Chương 4: HƯỚNG ĐI MỚI . 48-50
4.1 Dân tộc và dân chủ 48
4.2 Hướng đi mới . 49
Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
186 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3097 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Việt Nam cần làm gì để tồn tại và phát triển trong bối cảnh địa - Kinh tế - Chính trị hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am. Như vậy, chỉ còn cách là phải “kéo” được các luồng giao
thương qua khu vực biển Đông vào Việt Nam.
- 97 -
Nhìn vào bản đồ, ta thấy Việt Nam có thể hướng tới vai trò “trạm trung chuyển”
cho tuyến giao thông biển xuyên khu vực, và vai trò “trục bản lề” miền Đông Nam
châu Á (tính cả Nam Trung Quốc, Đài Loan và Đông Ấn Độ). Tuy nhiên, có mấy
khó khăn lớn.
Một là, vai trò “trục bản lề” chỉ có thể phát huy sau khi Việt Nam đã làm tốt
vai trò “cửa ngõ” và “trạm trung chuyển”.
Hai là, trong khu vực đã có Hồng Kông và Singapore đóng vai trò trạm
trung chuyển. Với điều kiện kỹ thuật và cao trình phát triển hiện nay, khu vực
Đông Nam Á không cần có thêm một trung tâm nào nữa cỡ Hồng Kông và
Singapore.
Để Việt Nam có thể bứt phá, trở thành một “đầu mối” của con đường giao thương
qua biển Đông, chỉ còn cách là phải liên kết với các đầu mối khác trên con đường
này, thông qua chiến lược “lan tỏa”, hình thành nên một đầu mối nữa trên lãnh thổ
Việt Nam. Gần đây, Việt Nam đã có những bước đi ban đầu trong việc kết nối kinh
tế với Nhật và Singapore. Đây là những bước đi hợp quy luật vì sự cần nhau giữa
Việt Nam, Nhật và Singapore ở mức độ khá lý tưởng. Trong viễn tượng nối kết kinh
tế giữa ba nước, Việt Nam cần trở thành hậu phương đất liền của Singapore - trung
tâm tài chính, dịch vụ, môi giới, nghiên cứu của khu vực Đông Nam Á nhưng thiếu
không gian và nhân lực. Mặt khác, Việt Nam phải thu hút tư bản, công nghệ và tri
thức của Nhật để trở thành một tụ điểm kinh tế hàng đầu ở khu vực Đông Nam Á và
trên con đường sang không gian châu Á-Ấn Độ Dương.
Trong quá trình phát triển, Việt Nam sẽ phải đối phó với sự chênh lệch tài nguyên
địa chính trị giữa các vùng, miền ở trong nước, dẫn đến phát triển mất cân đối giữa
các địa phương. Lợi thế của một địa phương không chỉ nhờ “địa lợi”, “nhân hòa”
mà còn nhờ “thiên thời”. Lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng là đầu mối của con
đường giao thương qua biển Đông trong quá khứ. Nhưng vị trí của “đầu mối” ấy
dịch chuyển dần theo đà tiến bộ của kỹ thuật giao thông, từ hai đầu mối ở miền Bắc
(xứ Giao Chỉ cũ) và miền Nam (xứ Phù Nam cũ), hợp vào một đầu mối ở miền
Trung (xứ Chămpa cũ), rồi chuyển vào miền Nam (vùng Đồng Nai-Bến Nghé).
Giao Chỉ và Phù Nam thịnh vào nửa đầu thiên kỷ thứ nhất, Chămpa thịnh vào nửa
đầu rồi tàn lụi vào nửa sau thiên kỷ thứ hai, cuối cùng nhường vai trò cho miền
Đồng Nai-Bến Nghé, để rồi chính miền này cũng phải đấu tranh để khỏi bị bỏ qua,
- 98 -
khi các con tàu đi biển không còn bị bắt buộc phải cập bến từng chặng ngắn nữa và
khi miền Nam bán đảo Đông Dương chưa tự mình là một trung tâm sản xuất mạnh.
Ngày nay, miền Bắc nằm xa con đường hàng hải chính qua biển Đông, lại bị đảo
Hải Nam chặn trước mặt, nên không thể trở thành vị trí của một “đầu mối” trên con
đường biển ấy. Miền Trung tuy có bờ biển như “bao lơn” trên Thái Bình Dương, có
nhiều vịnh nước sâu, kín gió, nhưng địa hình chia cắt, tính liên thông với các trung
tâm sản xuất khác trong nội địa kém, nên khó phát huy được lợi thế. So với miền
Đông Nam bộ, miền Trung có nhược điểm là không gian phát triển manh mún, phân
tán, hậu phương thưa dân, sản xuất yếu, sức mua nhỏ. Bản thân miền Đông Nam bộ
đã là đầu mối của một tiểu khu vực bao gồm cả miền Tây Nam bộ, miền Trung và
Campuchia. Do đó, lợi thế của miền Trung (vị trí “bao lơn”, các vịnh nước sâu, kín
gió) chỉ có thể được phát huy một cách hiệu quả nếu miền Trung hướng tới gắn
mình vào luồng giao thương quốc tế, đầu tư nhắm vào xuất khẩu, không nhất thiết
phục vụ thị trường nội địa.
Phụ lục 52:
Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau gần 20 năm với thành tích tăng trưởng cao, rất
nhiều người dân đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam
ngày càng nhận được sự nể trọng và có vị thế ngày càng lớn trên trường quốc tế. Có
được thành công này một phần là nhờ những quyết định sáng suốt của Nhà nước
trong việc giải phóng lực lượng sản xuất và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu. Hệ quả tất yếu của thay đổi chính sách này là nền kinh tế Việt
Nam ngày nay trở nên phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi việc ra chính sách phải hết
sức thận trọng và sáng suốt. Thế nhưng sự “quá tải” trong vai trò của nhà nước và
sự xuất hiện của những nhóm đặc quyền được hưởng đặc lợi từ việc giữ nguyên
trạng thái hiện tại làm cho quá trình hoạch định chính sách trở nên nặng nề, mất dần
động cơ tiếp tục cải cách. Trái với tinh thần khẩn trương và cấp thiết của những
năm đầu đổi mới, Việt Nam ngày nay đang được bao trùm bởi một bầu không khí
thỏa mãn và lạc quan đôi khi quá mức, được nuôi dưỡng bởi thành tích thu hút đầu
tư nước ngoài và sự ca ngợi của cộng đồng quốc tế, các nhà tài trợ.
- 99 -
Một trong những chủ đề trọng tâm của đề tài này là quỹ đạo,
“tầm” phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào
các quyết định hiện tại của Nhà nước, và các quyết định này
ngày càng trở nên khó vãn hồi. Những quyết định của ngày
hôm nay sẽ định hình bối cảnh kinh tế chính trị của Việt
Nam trong những năm, thậm chí là những thập niên tiếp
theo. Đặc biệt quan trọng, sự phát triển của Việt Nam trong
tương lai phụ thuộc “tiên quyết” vào khả năng và ý chí của Nhà nước trong việc xây
dựng một “bức tường lửa” ngăn cách giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.
Nhấn mạnh điều này vì “chủ nghĩa tư bản thân hữu” và “những nhóm có đặc quyền
về chính trị, kinh tế” đã, đang (và rất có thể sẽ tiếp diễn trong tương lai nếu không
được giải quyết triệt để từ ý chí của Nhà nước) là căn bệnh “trầm kha” của Việt
Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung gây “nhức nhối”, “âm ỉ” ngăn
cản “sức bật” của nền kinh tế. Thật vậy, thất bại của Nhà nước trong việc phân định
một ranh giới rạch ròi giữa những thế lực kinh tế và chính trị đã làm cho nền kinh tế
Việt Nam được đánh giá là “trẻ” có nguy cơ rất lớn trở nên “già cỗi”. Và sâu xa
hơn, nguy cơ “mất nước kiểu mới” không thể phủ nhận hoàn toàn đang làm hàng
triệu con tim yêu nước phải suy nghĩ lại một cách nghiêm túc và có những hành
động thiết thực nhất.
Dự báo của Economist Intelligence Unit (EIU) cho rằng: tốc độ tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam sẽ suy giảm nhanh từ 2010 trở đi. Theo EIU, “những nhóm có đặc
quyền đặc lợi về kinh tế chính trị gây trở ngại cho quá trình cải cách và ngăn chặn
quá trình cấu trúc lại việc cấu trúc các doanh nghiệp Nhà nước, ảnh hưởng đến
việc tăng cường năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của VN”.
Theo đó, EIU dự báo trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng trưởng của VN chỉ có
thể duy trì ở mức 5.1% mỗi năm, thay vì mức trên 8% như hiện nay.
Phụ lục 53:
Nhiều nguyên nhân được chỉ ra:
Quyết định đầu tư sai.
- 100 -
Thiếu qui hoạch, không tuân thủ qui hoạch.
Thiếu nguồn vốn nhưng vẫn quyết định đầu tư và bố trí vốn đầu tư dàn trải.
Năng lực các tổ chức tư vấn khảo sát, thiết kế yếu kém.
Chất lượng thi công xây dựng yếu kém.
Sự phối hợp quản lý đầu tư xây dựng các chương trình trọng điểm quốc gia
giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ.
Chung quy lại là do phẩm chất, năng lực cán bộ yếu kém; thiếu quy hoạch đầu tư;
cơ chế, quản lý, chính sách không hiệu quả.
Phụ lục 54:
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam gồm:
(a) Hoạt động của Bộ GD-ĐT và các trường trực thuộc Bộ do Bộ dựa vào ngân
sách nhà nước cấp cho Bộ; Bộ cấp lại cho trường hoặc địa phương phụ thuộc. Tuy
nhiên, Bộ lại cho phép trường thu thêm học phí, nhận thêm SV (tại chức và các loại
không được tuyển theo đường cạnh tranh chính thức).
(b) Ngoài học phí thu thêm là các dịch vụ do trường làm thêm hoặc trường nhận
được từ doanh nghiệp. Ngoài ra, các trường, kể cả Bộ, cũng đều nhận viện trợ từ
nước ngoài. Các nguồn này nằm ngoài ngân sách nhà nước. Năm 2000, nguồn ngoài
ngân sách bằng 41% nguồn từ ngân sách..
(c) Các trường độc lập với Bộ GD-ĐT, hoặc thuộc các Bộ khác và địa phương có
ngân sách do Bộ khác hoặc địa phương cấp. Đây là các chi phí mà Bộ GD-ĐT
không nắm được.
(d) Các trường tư thục mà Bộ GD-ĐT quản, Bộ cũng không biết rõ chi phí.
(e) Các chi phí cho việc học thêm tất nhiên Bộ GD-ĐT cũng không nắm được.
Để có thống kê toàn diện, ngoài thống kê do Bộ GD-ĐT thu thập, Tổng cục Thống
kê cũng phải điều tra thu thập những phần mà Bộ không thể cung cấp.
- 101 -
Phụ lục 55:
Theo các báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đã tăng
nhanh trong những năm qua, tăng đến trên 2,7 lần trong vòng sáu năm, vượt qua
nhiều nước lớn trên thế giới trong tỷ trọng GDP (năm 2005 chiếm 8,3% GDP, vượt
cả Mỹ chỉ có 7,2%). Nếu như ngân sách nhà nước dành cho ngành giáo dục là
19.747 tỉ đồng năm 2001 thì con số này đến năm 2006 đã đạt mức 55.300 tỉ đồng,
năm 2007 đạt 66770 tỉ đồng. Trong chi ngân sách, có hai khoản gồm chi thường
xuyên (trên dưới 82%) và chi đầu tư (trên dưới 18%). Cả hai khoản này đều tăng
nhanh và tỷ trọng hầu như không thay đổi trong những năm qua. Như vậy, ngân
sách Nhà nước cho giáo dục năm 2006 tăng so với năm 2005 là 13.940 tỷ đồng,
năm 2007 tăng so với năm 2006 là 11.400 tỷ đồng, năm 2008 dự kiến tăng so với
năm 2007 là 9.430 tỷ đồng. Riêng phần ngân sách cho chi thường xuyên của năm
2006 là 42.625 tỷ đồng, của năm 2007 là 51.860 tỷ đồng. Theo chiến lược của
Chính phủ, 850 triệu USD đầu tư cho giáo dục từ 2008-2010.
Trong chi tiêu trên, dân các nước phát triển cao chi trả 20%, còn ở Việt Nam, dân
chi trả tới 40%. Phần còn lại là nhà nước chi trả.
Ngược lại, số học sinh phổ thông cùng trong thời gian này đã giảm 1,5 triệu em, từ
17,8 triệu năm 2000 còn 16,3 triệu năm 2006. Còn tính hết tổng số từ mầm non cho
đến nghiên cứu sinh, mức tăng không đáng kể, từ 22,3 triệu người năm 2000 lên
22,9 triệu người năm 2006. Điều đáng chú ý là trong khi tiền chi ra tăng trên 270%
mà đối tượng nhận lợi ích từ ngân sách này không tăng bao nhiêu thì thật khó giải
thích các khoản tiền tăng này đi về đâu. Chắc chắn mức thụ hưởng của học sinh ở
góc cạnh tài chính ngân sách không thể tăng 270% được rồi. Mức tăng học phí, nếu
có thực hiện theo đề án của Bộ Giáo dục & Đào tạo, cũng không thể nào bằng một
phần rất nhỏ của mức tăng ngân sách giáo dục hằng năm, làm sao có thể kỳ vọng
vào nó để xoay chuyển chất lượng giáo dục khi thực tế đã cho thấy ngân sách ưu ái
cho giáo dục như thế mà ngành này đã duy trì được chất lượng hay chưa? Mơ hồ
ngân sách giáo dục Một đặc điểm của ngân sách giáo dục, theo báo cáo, là đến 95%
được chi trực tiếp cho các địa phương hay bộ ngành khác; Bộ Giáo dục và Đào tạo
chỉ nắm trong tay 5% thôi. Đây chính là một vùng xám cần làm rõ để biết ngân sách
- 102 -
được cho là dành cho ngành giáo dục được sử dụng như thế nào. Thường xuyên có
chuyện tỉnh hay huyện cứ tạm sử dụng phần ngân sách giáo dục vào việc khác rồi
trả lại sau – từ đó mới có chuyện nợ lương giáo viên, nợ tiền đầu tư xây dựng cơ
bản cho trường lớp.
Về minh bạch trong quản lý tài chính, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân thừa nhận, hệ
thống quản lý tài chính giáo dục ở VN rất phân tán. Bộ GD-ĐT chỉ quản lý khoảng
50% nguồn tài chính cho giáo dục, còn lại là các bộ ngành địa phương trực tiếp
quản lý và chi tiêu không hề báo cáo với Bộ GD-ĐT. Vì thế, Bộ không kiểm soát
được hoàn toàn việc sử dụng tài chính giáo dục.
Phụ lục 56:
Đề xuất tương đối khả thi để khắc phục là chọn một hai địa phương làm trọng điểm
kiểm tra việc chi ngân sách cho ngành giáo dục, từ đó xây dựng mô hình mẫu về
lương giáo viên, các khoản chi thường xuyên khác và chi đầu tư cho từng trường,
tính trên số lượng học sinh… (theo tính toán với mức chi thường xuyên như hiện
nay, lương bình quân của giáo viên phải ở mức 3,6 triệu đồng/tháng – hơn gấp đôi
mức lương trung bình thực trả hiện nay). Người dân và ngành giáo dục ở các địa
phương khác có thể đối chiếu để chất vấn lãnh đạo địa phương mình tiền chi cho
giáo dục đi về đâu. Còn đó nhiều câu hỏi khác Những con số được trích dẫn trên
đây là giả định báo cáo “Giáo dục Việt Nam – Đầu tư và Cơ cấu Tài chính” hoàn
toàn chính xác. Tuy thế, khi đọc báo cáo, người ta không thể không đặt ra những
câu hỏi cho nhiều con số được đưa ra.
Phụ lục 57:
Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng những tập đoàn kinh tế nhà nước quy mô
lớn, hoạt động đa ngành. Đây là một nỗ lực nhằm khai thác lợi thế kinh tế theo quy
mô và cải thiện cơ cấu quản lý. Một mục đích khác của nỗ lực này là đề duy trì sự
“độc lập và tự chủ” về mặt kinh tế thông qua việc “kiểm soát thị trường nội địa”.
Mặc dù những phát biểu này còn dừng lại ở mức độ đại cương, nhưng chúng cho
thấy một sự bất cập về hoạch định chính sách trong bối cảnh của nền kinh tế toàn
- 103 -
cầu vào đầu thế kỷ 21. Nền kinh tế thế giới đang ngày càng phát triển trong mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó nhiều công ty của nhiều quốc gia cùng nhau
xây dựng nên các chuỗi cung ứng toàn cầu. Đối với cá nhân doanh nghiệp và toàn
bộ nền kinh tế, việc tham dự vào chuỗi cung ứng toàn cầu này không hề là một sự
đe dọa đối với tính độc lập và tự chủ về kinh tế, mà trái lại, là cách duy nhất để trở
nên cạnh tranh và hiện đại hoá. Trước thực tế là mỗi sản phẩm, từ giày dép cho đến
máy tính cá nhân đều là sản phẩm tập thể của rất nhiều công ty trong chuỗi cung
ứng, việc “kiểm soát thị trường nội địa” nên được hiểu như thế nào? Trong thế giới
ngày nay, mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã trở nên hết sức lạc hậu,
và như đã nói ở trên, các quy tắc của WTO không cho phép các hoạt động bảo hộ
thương mại. Một lần nữa, mặc dù về mặt lý thuyết, sở hữu nhà nước không ngăn
cản một công ty trở nên hiệu quả và cạnh tranh, nhưng trên thực tế các nền kinh tế
mạnh nhất trong khu vực (trừ Sing-ga-po) hầu như không có khu vực nhà nước. Thế
nhưng có ai chê Hàn Quốc hay Nhật Bản đánh mất sự “độc lập và tự chủ” kinh tế
đâu!
Phụ lục 58:
Có nhiều lý do để nghi ngờ rằng các TĐNN này sẽ không thể tự chuyển hóa mình
để trở thành những DN cạnh tranh quốc tế. Nguyên nhân quan trọng nhất là cấu trúc
của các tập đoàn này rất giống với các TCT trước đây, đồng thời những TCT này đã
có 12 năm để chứng minh rằng chúng không thể thành công trong hoạt động xuất
khẩu và cải thiện kết quả kinh doanh của mình. Trừ Sing-ga-po ra thì hình như
không có nước nào khác trên thế giới đã từng thành công trong việc sử dụng DNNN
như một phương tiện chủ yếu để xây dựng nên các DN cạnh tranh quốc tế. Có vẻ
như Việt Nam, vì nhiều lý do khác nhau, sẽ không thể lặp lại thành tích này của
Sing-ga-po.
Thế nhưng, ngay cả khi gạt sang bên một thực tế là các tập đoàn này đều là những
DNNN, thì vẫn có nhiều lý do để nghi ngờ về khả năng các tập đoàn này một ngày
nào đó sẽ trở thành những công ty lớn mạnh. Có thể nói những người ủng hộ mô
hình TĐNN đã hiểu nhầm kinh nghiệm của các tập đoàn trên thế giới. Chẳng hạn
- 104 -
như, việc dựng lên các tập đoàn lớn một cách duy ý chí không phải là một công
thức phổ quát để hình thành nên những doanh nghiệp công nghiệp thành công trên
thế giới, nhất là khi quyết định này không do các doanh nghiệp tư nhân thực hiện
và được điều chỉnh bởi hệ thống luật pháp và thể chế tốt.
Để kết luận, chính sách hình thành nên các TĐNN về thực chất là một sự kết hợp
giữa cơ chế “phòng thử” và mục tiêu tiếp tục duy trì kiểm soát của nhà nước trong
lĩnh vực công nghiệp. Nếu quả thực là như vậy thì những TĐNN này sẽ không thể
giúp Việt Nam xây dựng nên một nền công nghiệp nặng có tính cạnh tranh.
Phụ lục 59:
Một cuộc điều tra 200 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam mới đây do UNDP thực hiện
khẳng định rằng nhiều công ty trong “Top 200” của Việt Nam đang đầu cơ đất đai
và chứng khoán mà thiếu tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình.
Nghiên cứu của UNDP còn cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, đó là nhiều công ty
dân doanh và cổ phần hóa ít chú tâm tới việc trở nên cạnh tranh trên thị trường quốc
tế. Thay vào đó, những công ty này đang đua nhau tìm kiếm lợi nhuận tức thời trong
khu vực bất động sản và tài chính. Chẳng hạn như cả REE - một công ty điện lạnh và
Gemadept - một công ty vận chuyền đường biển đều đang đầu tư một cách mạnh mẽ
vào nhiều dự án bất động sản.
Phụ lục 60:
Một nguy cơ khác nữa là một số tập đoàn kinh tế nhà nước như Petro Việt Nam,
Vinashin, và EVN đang thành lập hay đoạt quyền kiểm soát ở một số ngân hàng.
Sau đó, các tập đoàn này sẽ sử dụng ngân hàng để tài trợ cho các kế hoạch mở rộng
lãnh địa của mình. Nếu như không có hệ thống kiểm soát đủ mạnh và khả năng
phân tán rủi ro hiệu quả thì chắc chắn cấu trúc này sẽ dẫn tới những khoản vay và
đầu tư quá mức của các thành viên tập đoàn. Các tập đoàn nhà nước đang lợi dụng
sự bảo lãnh công khai hay ngầm của nhà nước để thực hiện các khoản vay lớn trên
thị trường quốc tế. Tất cả những động thái này đều là những thủ thuật cổ điển mà
- 105 -
các keiretsu của Nhật Bản và chaebol của Hàn Quốc (giờ đều đã mất hình ảnh vàng
son thuở nào) từng thực hiện. Việc các thành viên của tập đoàn vay nợ và sở hữu
chéo lẫn nhau, cùng với các khoản vay nước ngoài không được phòng vệ là những
nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Á và Đông Nam Á
năm 1997. Chúng ta liệu có mắc phải điều này?
Phụ lục 61:
Giá đất tại một số khu đô thị mới miền Đông Nam Bộ.
Đơn vị tính: triệu đồng/ m2
Vị trí 12/2006 12/2007 % thay đổi
TP.Hồ Chí Minh
Phú Mỹ - Vạn Phát Hưng, Quận 7. 11 27 145 %
Thái Sơn, Nhà Bè 5,5 16 191 %
Nam Nam Sài Gòn, Hồng Lĩnh, Bình Chánh 4,3 13 202 %
Thạch Mỹ Lợi, Huy Hoàng, Quận 2 16 26,5 66 %
Gia Hòa, Quận 9 5,5 14 155 %
Các tỉnh xung quanh
Long Thọ- HUD, Nhơn Trạch, Đồng Nai 1 2,5 150 %
Long Hậu, Long An 3,2 6,5 103 %
Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, Bình Dương 6,7 26 288 %
Gây trở ngại cho đầu tư.
Nghiên cứu của Công ty Cushman & Wakefield (chuyên tư vấn về dịch vụ bất động
sản, có trụ sở tại Mỹ) công bố ngày 22-3 cho thấy: VN đang xếp thứ 13 trong số
những quốc gia có giá cho thuê văn phòng đắt nhất thế giới. Theo các chuyên gia,
nếu giá thuê văn phòng tăng tới 100 USD/m2/tháng thì TP.HCM sẽ cùng với Hong
Kong, Tokyo và London nằm trong nhóm 10 TP có giá cho thuê văn phòng đắt nhất
thế giới, xếp thứ nhì Đông Nam Á sau Singapore.
Bảng tham khảo giá những năm gần đây
- 106 -
* Giá văn phòng hạng A: năm 2006: 40-45 USD/m2/tháng; năm 2007:
50-55 USD/m
2/tháng; hiện nay: thấp nhất 60 USD/m2/tháng, chưa kể
chi phí quản lý 5-7 USD/m2/tháng tùy nơi.
* Giá văn phòng hạng B: năm 2006: 20-25 USD/m2/tháng; năm 2007:
25-30 USD/m
2/tháng; hiện nay: 40-45 USD/m2/tháng.
(Theo một công ty tư vấn bất động sản, việc xếp loại văn phòng hạng A, B dựa vào các
tiêu chuẩn: vị trí, thiết kế, trang thiết bị, độ cao trần, sử dụng chung hay riêng... Trong đó
tiêu chuẩn quan trọng nhất là vị trí của văn phòng.)
Giá cho thuê văn phòng tăng nhanh đang là gánh nặng cho các doanh nghiệp, khiến
chi phí hoạt động của họ bị đội lên. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tính cạnh tranh
của nền kinh tế, của thị trường VN so với các thị trường khác trong khu vực.
Khi giá tăng quá cao, các doanh nghiệp sẽ đứng trước hai lựa chọn: một là không
làm gì cả, hoãn kế hoạch mở văn phòng tại VN, hai là chuyển văn phòng sang các
nước khác như Malaysia, Philippines... có chi phí rẻ hơn. Chỉ có những công ty có
nhu cầu thuê văn phòng cấp bách, không còn cách nào khác nên phải chấp nhận
mức giá cao và chỉ thuê trong một thời gian nhất định, dù rất ngần ngại.
Như vậy nếu không xử lý tốt Việt Nam sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh về chi phí rẻ mà
trong đó giá thuê văn phòng nói riêng và giá bất động sản nói chung cấu thành
không nhỏ.
Phụ lục 62:
Kinh nghiệm gần đây của Thái Lan, Philipin và Indonexia cho thấy, quy hoạch đô
thị hóa tồi là một nguồn gốc tiềm tàng của xã hội. Người ta ai cũng cần có nhà cửa
ổn định, môi trường sống tương đối sạch sẽ, dịch vụ giáo dục và y tế đủ đáp ứng
cho các thành viên trong gia đình. Người Việt Nam có câu “ An cư lạc nghiệp”.
Chính sách chủ động đầu tư hiệu quả và kịp thời là những biện pháp cần thiết để
tránh nạn đông đúc, ùn tắc và đô thị hóa không lành mạnh vốn là những trở ngại
cho quá trình phát triển kinh tế. Với mức giá bất động sản cao ngất như hiện nay,
nhiều người đang phải đứng trước sự lựa chọn khó khăn: một là chuyển nhà ra
ngoại ô và chấp nhận quảng đường đi làm xa hơn trước hoặc là chấp nhận sống
trong nội thành đông đúc và đắt đỏ. Giá thuê nhà rất cao ở các căn hộ trung tâm
- 107 -
vượt ra khỏi tầm với của hầu hết mọi hộ gia đình trong thành phố. Đất đai trở thành
một khoản đầu tư và đầu cơ chứ không thuần túy là phục vụ mục đích xây nhà nữa.
Phụ lục 63:
Tầm quan trọng của điện đối với nền kinh tế được ví như ô-xy đối với cơ thể người.
Nếu thiếu điện, hay nếu giá điện quá cao thì đời sống kinh tế sẽ đình trệ ngay lập
tức. Mặc dù ai cũng biết rằng điện là một yếu tố đầu vào thiết yếu của sản xuất, thế
nhưng chính sách năng lượng của Việt Nam lại có những sai lầm tai hại. Với việc
đầu tư quá nhiều vào thủy điện, giờ đây Việt Nam đang gặp phải tình trạng thiếu
điện ngày càng trở nên trầm trọng trong mùa khô. Tình trạng này đã được dự báo từ
trước nhưng lại bị xem thường, chứng tỏ việc thiếu một tầm nhìn chiến lược hay do
sự tác động của các nhóm lợi ích đặc biệt. Việc Việt Nam không thể kiểm soát lưu
lượng nước ở thượng nguồn làm tăng rủi ro của việc phụ thuộc quá nhiều vào thủy
điện. Hiện nay, thiếu điện không chỉ còn là hiện tượng của mùa khô nữa. Mới chỉ
vào đầu mùa khô mà nhiều địa bàn của TP. Hồ Chí Minh đã phải chịu cảnh cắt điện
luân phiên không báo trước. Quyết định của chính phủ không cho phép EVN thành
lập công ty mua-bán điện là một quyết định đúng đắn. Càng ngày càng có thể thấy
rõ là EVN đã nhầm lẫn trong khi xác định ưu tiên của mình. Bên cạnh việc đầu tư
quá mức vào thủy điện thì việc EVN bành trướng hoạt động sang lĩnh vực viễn
thông, dịch vụ tài chính, bất động sản không những không giúp thực hiện nhiệm vụ
cơ bản của nó là “giữ vai trò chính trong việc đảm bảo cung cấp điện ổn định, an
toàn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện đầu tư phát triển các công
trình lưới điện đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư; đầu tư các dự án nguồn
điện theo nhiệm vụ được giao”, mà trái lại, còn làm phân tán nguồn nhân lực và tài
lực có hạn của mình. Một doanh nghiệp độc quyền nhà nước như EVN sẽ chỉ hoạt
động tốt nhất nếu như nó tập trung cao độ vào nhiệm vụ chính và thực hiện nhiệm
vụ này một cách hiệu quả, đồng thời không bị phân tâm bởi các hoạt động kinh
doanh ngoại vi.
- 108 -
Phụ lục 64:
Tính từ tháng 6/2005 đến nay, riêng mặt hàng xăng đã có 9 lần điều chỉnh giá, trong
đó 6 lần điều chỉnh tăng giá và 3 lần điều chỉnh giảm giá và 13 lần điều chỉnh thuế
nhập khẩu. Năm 2006 có 7 lần điều chỉnh thuế với mức dao động từ 0 đến 20% và
trong 4 tháng đầu năm 2007 đã có tới 2 lần điều chỉnh giá bán và thuế suất.
Bảng tổng hợp giá bán xăng lẻ tại các thời điểm ở thị trường xăng dầu Việt Nam.
Thời điểm
Giá dầu thế giới
(USD/thùng)
Moga 92
(đồng/lít)
3/7/2005 49.5 8800
17/8/2005 63.28 10000
22/11/2005 58.84 9500
27/4/2006 70.97 11000
9/8/2006 76.35 12000
12/9/2006 63.76 11000
6/10/2006 60 10500
13/1/2007 52 10100
6/3/2007 60.07 11000
4/2007
(*)
Dao động ở mức 64 USD 13000
2/2008 Dao động ở mức 100 – 109 USD 14500
(*)
Ngày 6/4/2007 Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị Định 55/CP-NĐ V/v kinh doanh
xăng dầu, theo đó các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được quyền tự quyết định giá
bán có sự quản lý của Nhà nước.
Phụ lục 65:
Các công cụ bị hạn chế sau khi gia nhập WTO
- Cung cấp năng lượng (hoặc sản phẩm dầu mỏ) đầu vào với giá rẻ.
- Đặt điều kiện để hạn chế việc nhập khẩu dầu mỏ của các công ty dầu mỏ ở
Việt Nam vào thị trường trong nước.
- Đặt điều kiện để khuyến khích các các công ty dầu mỏ tại Việt Nam mua dầu
mỏ từ thị trường trong nước.
- 109 -
Phụ lục 66:
Những điều kiện để có thể thực hiện thả nổi xăng dầu:
Thứ nhất là tính cạnh tranh. Hiện nay thị phần của các doanh nghiệp vẫn
chênh lệch, trong đó Petrolimex chiếm thị phần khống chế với trên 60% với hệ
thống đại lý, cửa hàng rộng khắp trên cả nước, 40% còn lại chia đều cho vài chục
doanh nghiệp khác. Như vậy thị trường xăng dầu trong nước tuy không độc quyền
nhưng cũng chẳng khác nào ngành bưu chính viễn thông của những năm trước khi
bị thâu tóm bởi VNPT.
Thứ hai là cần phải minh bạch thông tin, trong đó doanh nghiệp phải hạch
toán rõ chi phí lỗ lãi và phải công bố rõ ràng; thực tế thời gian qua cho thấy, những
con số lỗ của doanh nghiệp được nêu ra là số lỗ hiện vẫn do các doanh nghiệp tự
hạch toán, quyết toán, Bộ Tài chính chỉ cử một đoàn đến để tính bù lỗ, chứ chưa có
các công ty kiểm toán độc lập vào cuộc để "minh bạch hóa" con số này.
Thứ ba là Nhà nước phải xử lý được các loại thuế nhập khẩu và VAT, bên
cạnh đó bằng các biện pháp quản lý khác thúc đẩy phát triển thị trường có tính giao
dịch ổn định, giao dịch có kỳ hạn, qua đó cơ quan quản lý kiểm soát được hoạt động
của doanh nghiệp.
Cơ chế “thả nổi”: việc thực hiện cơ chế giá xăng dầu theo giá thị trường theo Nghị
định số 55/2007/NĐ-CP ngày 6/4/2007 không có nghĩa là Nhà nước không còn can
thiệp vào chính sách giá của doanh nghiệp. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đây
là sự kiểm soát giá nửa vời của Nhà nước, mặc dù thị trường mở ra cho các đầu mối
kinh doanh xăng dầu, nhưng Tổng công ty xăng dầu Việt Nam vẫn chiếm thị phần
áp đảo (60%); thêm vào đó đa số người dân lo ngại rằng, tình trạng liên minh tăng
giá như vậy của các doanh nghiệp sẽ không thể tạo ra được sự cạnh tranh; người
dân sẽ càng chịu cảnh khốn khổ khi phải gồng mình chi trả thêm một khoản tiền
mua xăng dầu.
- 110 -
Phụ lục 67:
Lý do là: đã bù lỗ thì có lỗ mới bù. Thế thì lợi nhuận lấy đâu ra? Không có lợi
nhuận làm sao đầu tư cho công nghệ, cho việc mở rộng kinh doanh? Hình thành thái
độ ỷ lại cho các doanh nghiệp sử dụng xăng dầu như một phần cấu thành của đầu
vào.
Phụ lục 68:
Chúng ta không chủ động được nguồn cung trong nước: thật vô lý khi một nước
xuất khẩu dầu mỏ lại nhập khẩu 100% xăng tinh chế nguyên nhân cũng từ sự chậm
chạp và sai lầm trong việc xây dựng các nhà máy lọc dầu.
Phụ lục 69:
Cụ thể là: quy định về minh bạch thông tin công bố lãi lỗ kết quả hoạt động kinh
doanh, các biện pháp xử phạt nghiêm khắc với hành vi liên kết tăng giá, đồng thời
cũng có các biện pháp mạnh tay đối với các hành vi độc quyền chèn ép của các
doanh nghiệp có thị phần lớn…Ngoài ra Nhà nước cũng cần giảm bớt những ưu đãi
dành cho các doanh nghiệp Nhà nước tạo tính cạnh tranh công bằng lành mạnh trên
thị trường.
Phụ lục 70:
Với mức tiêu dùng bình quân của người dân Việt Nam là 120kg gạo mỗi đầu
người/năm, số gạo dư thừa hằng năm của Việt Nam đủ để nuôi thêm 37 triệu người!
Nói cách khác, dân số Việt Nam đang là 86 triệu người, nhưng chúng ta đang làm ra
lượng gạo đủ để nuôi 123 triệu người.
- 111 -
Phụ lục 71:
Hiện nay giá lương thực và thực phẩm đang chiếm trọng số 42,8% trong cơ cấu chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam. Nếu để giá lương thực tăng đến 100% như
nhiều người đã tin và đã mua, chỉ số CPI của chúng ta sẽ tăng 42,8% cho dù tất cả
các mặt hàng khác không tăng giá.
Phụ lục 72:
Lượng lúa gạo họ làm ra được các doanh nghiệp thu mua hết còn đâu nữa mà dự
trữ, đồng thời phải bán để trả nợ vay ngân hàng (trước đây nông dân vay vốn với lãi
suất khoảng 1%/ tháng, thì nay ngân hàng đã nâng lãi suất cao hơn nhiều), nợ thuốc
trừ sâu phân bón mua trả chậm, giá xăng dầu, chi phí cày xới, chi phí công mướn
cắt lúa đều tăng gần gấp 2 lần so với cách đây một năm, hàng tiêu dùng mỗi ngày
cũng tăng giá vùng vụt, nhất là nhu yếu phẩm như thịt heo, thịt bò, cá, đường đậu,
dầu ăn, bột ngọt….tất cả đang là nỗi lo của nông dân.
Phụ lục 73:
Qua sự việc vừa qua điểm yếu đã bộc lộ rõ là khâu phân phối chưa được quản lý tốt
và còn nhiều bất cập trước đây có một hệ thống các doanh nghiệp thương mại lớn
làm công cụ cho nhà nước điều tiết nhưng bây giờ vai trò đó không còn được như
trước, đối với mặt hàng gạo chỉ còn vài tổng công ty để điều tiết, trong khi đó các
mặt hàng thực phẩm thì không có do đó việc điều tiết giá cả thị trường vô tình lại
đặt vào tay các doanh nghiệp tư nhân hoạt động kiếm lời vì thế giá gạo không
ngừng tăng mạnh mà lý do được giải thích là do giá gạo thế giới tăng; cơ chế quản
lý giá thị trường còn hạn chế có phần buông lỏng (thực tế là các mặt hàng khác đều
rủ nhau tăng giá theo gạo như cơm bụi, bánh ướt, bún, phở… đến những mặt hàng
không được chế biến từ gạo cũng theo chân tăng giá ồ ạt mà đều do các chủ kinh
doanh tự ý bàn bạc liên kết tăng giá, nhẹ thì vài ngàn nhiều thì gấp 2 gấp 3 bình
thường mà không có sự quản lý nào từ các bộ ngành có liên quan). Những nguyên
nhân trên đã đẩy giá gao không ngừng tăng cao đồng thời cũng tạo cơ hội cho
- 112 -
những kẻ đầu cơ kinh doanh kiếm lời, tạo điều kiện cho kẻ xấu tung tin đồn thất
thiệt làm xáo trộn thị trường thừa cơ trục lợi.
Phụ lục 74:
Còn nhớ năm 2003 cũng xảy ra sự kiện tương tự: Ngày 13/10/2003, có tin đồn Tổng
Giám đốc ngân hàng ACB bỏ trốn. Vậy là hơn 4.000 khách hàng kéo nhau đến rút
tiền. Để bác bỏ tin đồn, lập tức sáng ngày 14/10 Giám đốc chi nhánh TP.HCM của
Ngân hàng Nhà nước họp báo. Chiều ngày 14/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Lê Đức Thúy trực tiếp có mặt tại ACB gặp gỡ người gửi tiền. Ngày 15/10 Phó Chủ
tịch TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân cùng Tổng giám đốc ACB xuất hiện trên chương
trình trực tuyến của VietNamNet…Kết quả, trong ngày 15/10, ngân hàng ACB đã
nhận lại 1,1 triệu đô la Mỹ và hơn 14 tỉ đồng do khách hàng quay lại gửi.
Qua đó có thể thấy những tin đồn của kẻ xấu thường xuất hiện vào thời điểm nhạy
cảm và thường đánh vào hệ thống quản lý chính sách yếu kém cũng như nhận thức
và lòng tin của người tiêu dùng còn hạn chế.
Phụ lục 75:
Chức năng cơ bản của một hệ thống tài chính là làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu
tư. Thị trường là công cụ hữu hiệu để khuyến khích tiết kiệm, sau đó dẫn truyền các
khoản tiết kiệm này tới các hoạt động đầu tư mang lại suất sinh lời cao nhất. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng không như các loại hàng hóa thông thường khác, tiền là một
loại hàng hóa đặc biệt. Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường
tiền tệ), phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào
sự minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi các quy định pháp
luật về điều tiết và quản lý thị trường của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt
động rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện thực tế cũng như kỳ vọng trên
thị trường. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng một vai trò then chốt trong
việc điều tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống. Chẳng hạn như
Đài Loan đã ban hành những quy định nghiêm ngặt về hoạt động tích luỹ của cải
thông qua việc sở hữu đất đai và đầu cơ tài chính. Chính phủ Đài Loan và Hàn
- 113 -
Quốc còn ngăn cấm các tập đoàn công nghiệp mở ngân hàng, chống lại việc sáp
nhập các thế lực tài chính và công nghiệp, mặc dù những chính sách này ở Hàn
Quốc sau đó bị các chaebol phá dỡ. Việc tăng lợi nhuận của các tập đoàn công
nghiệp chủ yếu thông qua nỗ lực tăng năng suất và sức cạnh tranh chứ không phải
thông qua các hoạt động tài chính hay đầu cơ.
Phụ lục 76:
Tham nhũng chắc chắn là một trong những thủ phạm khi các quỹ đầu tư công bị
bòn rút và thay đổi mục đích sử dụng, và hệ quả là chi phí kinh doanh bị đội lên
cao. Bên cạnh tham nhũng thì một nguyên nhân quan trọng khác hoạt động tự do
hóa tài chính được thực hiện quá sớm, trong khi hệ thống tài chính được thiết kế
không thích hợp và chưa sẵn sàng. Kết quả là sự xuất hiện của các khoản đầu cơ rủi
ro và sự hình thành của bong bóng tài sản. Cuộc khủng hoảng năm 1997 bộc lộ
mức độ đầu tư quá mức vào các bất động sản có tính đầu cơ ở Thái-lan và In-đô-
nê-xia. Cuộc khủng hoảng này cũng làm lộ rõ sự giả dối có tính hệ thống trong
quản trị nội bộ công ty và trong các bảng cân đối tài khoản của ngân hàng ở Thái-
lan và In-đô-nê-xia - cả hai là hậu quả của việc các cơ quan chức năng ở hai nước
này đã thất bại trong việc ban hành và thực thi những quy tắc điều tiết cần thiết.
Cũng cần phải nói thêm là cuộc khủng hoảng 1997 chỉ là một sự kiện trong một
chuỗi liên tiếp các cuộc khủng hoảng ở Châu Mỹ La-tinh, Bắc Mỹ, Châu Âu, và
Châu Phi với cùng một nguyên nhân, đó là sự liên kết giữa chính sách tự do hóa tài
chính quá ư bất cẩn mà hậu quả là những cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra sau đó.
Việt Nam đang xuất hiện những dấu hiệu đáng lo ngại này.
- 114 -
Phụ lục 77:
Nguồn: “Lựa chọn thành công”, Đại học Harvard
Như được minh họa trong hình, trong hai năm 2005 và 2006, GDP của Việt Nam
tăng 17%, trong khi đó M2 (gồm tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng)
tăng tới 73%. Trái lại, trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 22%
trong khi M2 chỉ tăng có 36%. Chênh lệch giữa tăng trưởng cung tiền và GDP ở
Thái-lan còn thấp hơn nữa. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thấp hơn của Trung
Quốc nhưng tốc độ tăng cung tiền lại cao gần gấp đôi. Kết quả là trong khi chỉ số
giá tiêu dùng ở Trung Quốc trong năm 2007 chỉ khoảng 6,5% thì ở Việt Nam lên tới
12,63%.
Lạm phát giờ đây đã trở thành mối lo ngại của cả người dân lẫn
chính phủ, một phần là do mức lạm phát thực tế cao hơn nhiều
so với số liệu công bố chính thức. Chi tiêu trong nước đã tăng
mạnh khi giá trị xuất khẩu dầu lửa tăng cao ngất, các khoản viện
trợ phát triển chính thức, FDI, vay nợ và kiều hối vẫn tiếp tục ùn ùn đổ vào Việt
Nam. Kể từ năm 2003, doanh số bán lẻ danh nghĩa của Việt Nam liên tục tăng với
tốc độ trên 20% mỗi năm. Đầu tư tăng còn nhanh hơn nữa, trong khi lượng cung
thực (đo bằng sản lượng thực cộng thâm hụt thương mại thực) chỉ tăng dưới 10%
một năm. Nếu như chi tiêu tăng hơn 20%, trong khi lượng cung thực tăng chưa đến
nửa số đó, thì chênh lệch giữa hai đại lượng phải là lạm phát. Mặc dù số liệu lạm
phát công bố chính thức thấp hơn do dựa vào giá của một giỏ hàng hóa nhất định,
nhưng từ những tính toán trên có thể khẳng định rằng trên thực tế, lạm phát đã lên
tới mức hai con số, và đã duy trì ở mức hai con số trong mấy năm trở lại đây.
Tương quan lượng cung tiền và GDP của Việt Nam
100
120
140
160
180
200
220
2004 2005 2006 2007
Cung tiền GDP
Tương quan lượng cung tiền và GDP của Trung Quốc
100
120
140
160
180
200
220
2004 20 5 6 2007
Cung tiền GDP
Tương quan lượng cung tiền và GDP của Thái Lan
100
120
140
160
180
200
220
2004 2005 2006 2007
Cung tiền GDP
- 115 -
Đây không phải là một điều đáng ngạc nhiên. Tốc độ tăng cung tiền liên tục ở mức
trên dưới 25% mỗi năm kể từ năm 2003, và tín dụng nội địa cũng tăng trên 35%.
Trong khi nhập khẩu tăng đột biến trong mấy năm gần đây để đáp ứng với lượng
cầu nội địa tăng thì đối với một số hàng hóa như khách sạn, văn phòng, điện, lao
động có kỹ năng - hay nói chung là những hàng hóa chủ yếu được sản xuất trong
nước - không thể tăng một cách tương ứng. Kết quả là giá của những hàng hóa này
phải tăng theo tốc độ tăng cung tiền. Thế nhưng tại sao tốc độ tăng trưởng của Việt
Nam lại chỉ tăng có 7-8% trong khi đầu tư hàng năm của nền kinh tế chiếm tới 35%
GDP? Lưu ý là Đài Loan đã từng tăng trưởng tới 10% liên tục trong 18 năm với
một lượng đầu tư khiêm tốn hơn nhiều, chỉ chiếm khoảng 25% GDP mà thôi.
Phụ lục 78:
Tổng chi tiêu của nhà nước trong năm 2006 là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 221.8 nghìn
tỷ đồng (hay 45%) so với năm 2004. Như vậy, tốc độ tăng chi tiêu hàng năm của
nhà nước trong giai đoạn 2004-2006 là 20,3% năm (tương đương với tốc độ tăng
trưởng doanh số bán lẻ). Cũng trong giai đoạn này, thu ngân sách tăng chủ yếu
không phải từ nguồn thu nội địa mà là từ dầu mỏ, nợ và viện trợ nước ngoài. Thu
nội địa trong năm 2004 chỉ đạt 119 nghìn tỷ, và trong năm 2006 là 190 nghìn tỷ,
tăng có 71 nghìn tỷ. Trong khi đó, chi tiêu của nhà nước tăng 131 nghìn tỷ, từ 190
lên tới 321 nghìn tỷ, tức là gần gấp đôi mức tăng thu nội địa. Khi chi tiêu của nhà
nước tăng nhanh hơn nhiều so với các nguồn thu ngoài dầu mỏ (ngay cả khi nguồn
thu tăng này đến từ dầu mỏ hay viện trợ) thì những khoản chi tiêu này sẽ làm tăng
tổng cầu. Thế nhưng nếu các khoản chi tiêu này lại không được sử dụng một cách
hiệu quả, chỉ đóng góp được chút đỉnh cho sản lượng (tức là không làm cho tổng
cung tăng một cách tương ứng) thì tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát.
- 116 -
12.63%
6.90%
6.50% 6.40%
5.30%
2.70% 2.50%
1.90%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
Việt Nam Indonesia Trung Quốc Ấn Độ Đài Loan Singapore Thái Lan Malaysia
Tỷ lệ lạm phát năm 2007 của một số nước
Phụ lục 79:
Phụ lục 80:
Một số người cho rằng việc hệ số ICOR ở Việt Nam cao là điều không thể tránh
khỏi vì Việt Nam như một nền kinh tế “mới lớn”, phát triển rất nhanh và vì vậy cần
nhiều đầu tư cho CSHT, công nghệ v.v. Quan điểm này dẫn chứng một thực tế là
tuy hệ số ICOR của Việt Nam có cao nhưng cũng chỉ ở mức xấp xỉ với Trung Quốc
- một nước đang phát triển nhanh nhưng vẫn còn nghèo như Việt nam - là điều bình
thường. Lập luận này không chuẩn xác ở một số khía cạnh. Đầu tiên, lập luận này
bỏ qua một thực tế là ở giai đoạn phát triển tương tự như Việt Nam, đầu tư của các
nước Đông Á hiệu quả hơn Việt Nam rất nhiều.
- 117 -
SO SÁNH HỆ SỐ ICOR CỦA MỘT SỐ NƯỚC
Nước Giai đoạn
Tăng trưởng GDP
(TB %/năm)
Tổng đầu tư
(% của GDP/năm)
ICOR
Hàn Quốc 1961-1980 7.9 23.3 3.0
Đài Loan 1961-1980 9.7 26.2 2.7
Indonesia 1981-1995 6.9 25.7 3.7
Malaysia 1981-1995 7.2 32.9 4.6
Thái Lan 1981-1995 8.1 33.3 4.1
Trung Quốc 2001-2006 9.7 38.8 4.0
Việt Nam 2001-2006 7.6 33.5 4.4
Vào những năm 1970 khi Hàn Quốc bắt đầu phát triển các ngành công nghiệp nặng,
đóng tàu và hóa chất - những ngành đòi hỏi đầu tư lớn - thì hệ số ICOR của nước
này cũng chỉ ở mức trên dưới 3. Thứ hai, việc so sánh với Trung Quốc cũng không
hoàn toàn thích hợp. Mặc dù cũng là một nước đang phát triển nhưng Trung Quốc
đã đi trước Việt Nam gần 1 thập kỷ, và do vậy đáng lẽ ra hệ số ICOR của Việt Nam
phải thấp hơn của Trung Quốc mới phải vì một nước càng giàu thì ICOR lại càng có
xu hướng tăng. Đấy là chưa nói đến một thực tế là đầu tư của Trung Quốc cũng
không thực sự hiệu quả, và vì vậy không nên được coi là một hình mẫu để noi theo
và so sánh.
- 118 -
Phụ lục 81:
Triệu chứng Việt Nam năm 2007
Thâm hụt tài khoản vãng lai Có
Bong bóng tài sản Có
Vay ngoại tệ không phòng vệ Có
Hệ số ICOR cao Có
Đầu tư công kém hiệu quả Có
Kiểm soát bất cẩn đối với ngân hàng Có
Nợ xấu cao Có
Vay nợ chéo trong tập đoàn Có
Nợ nước ngoài ngắn hạn Không
Tự do hóa tài khoản vốn Không
Nguồn: “Lựa chọn thành công”, Đại học Harvard.
Phụ lục 82:
Số liệu thống kê từ năm 2001 đến nay, thâm hụt thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc đã lên đến khoảng 200%. Cụ thể, năm 2006 Việt Nam xuất sang Trung
Quốc 2,486 tỷ USD, ngược lại Trung Quốc xuất sang Việt Nam 7,465 tỷ USD.
Không những thế, trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm qua có giảm nhẹ
2,6% thì nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng trên 30%. Tính ra, Việt Nam đang nhập
siêu từ Trung Quốc 176,2%.
Phụ lục 83:
Thực tế, Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là nguyên liệu thô như: dầu thô,
quặng khoáng sản, cao su, than đá; nông hải sản như: rau quả, hải sản khô và tươi
sống… có giá trị chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu. Ngược lại, Trung Quốc xuất
sang Việt Nam chủ yếu là xăng dầu, vải, phân bón, sắt thép và phôi thép, hoá chất,
phụ liệu giày dép, linh kiện điện tử và tivi, máy tính và linh kiện, hàng rau hoa quả,
- 119 -
sản phẩm bằng sắt hoặc thép, xe máy, ngô, sợi dệt, phụ liệu may mặc, lúa mỳ, động
cơ đốt trong, tàu thuyền, sản phẩm plastic, thiết bị, phụ tùng dệt may, tổ máy phát
điện, máy phát điện, động cơ điện và phụ tùng,thuốc trừ sâu, ôtô các loại, nhôm,
nguyên phụ liệu dược phẩm… Cơ cấu hàng nhập khẩu từ Trung Quốc có giá trị gia
tăng cao hơn cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc.
Phụ lục 84:
Cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta chưa hiện đại, chủ yếu là đào mỏ (với dầu thô,
than...) và gia công (dệt may, giày dép...), sức cạnh tranh không cao...thể hiện trên
cả 3 phương diện: chủng loại hàng hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện
những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất
khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt
hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi các mặt hàng công nghiệp
như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu vẫn còn mang tính
chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công
nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để…
Tỷ trọng hàng công nghiệp, hàng chế biến xuất khẩu năm 2007 chiếm 40,7% trong
tổng kim ngạch xuất khẩu. Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ
yếu chuyển dịch theo chiều rộng, chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào
khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua
việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình
thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
Phụ lục 85:
World Bank đang thực hiện 39 dự án tại Việt Nam với tổng số vốn tài trợ là 4 tỉ
USD; cam kết tài trợ 800 triệu USD mỗi năm, trong 5 năm tới trên các lĩnh vực như
cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu, tài chính công, môi trường, đồng ý cho Việt
Nam vay hơn 300 triệu USD để hỗ trợ công cuộc cải cách, phát triển hạ tầng và xã
hội (khoản cho vay lớn nhất 175 triệu USD sẽ được chuyển thẳng cho chính phủ
- 120 -
nhằm phát triển kinh doanh, quản lý tốt hơn về tài nguyên và môi trường, tăng
cường năng lực điều hành, khoảng gần 60 triệu USD sẽ được dùng để cải thiện hệ
thống giáo dục và các dự án nghiên cứu trong các trường đại học); tổng số tiền tín
dụng ưu đãi trong giai đoạn 2007 – 2011 sẽ là 4 tỉ đô la Mỹ.
Phụ lục 86:
Nhiều báo cáo nội bộ của World Bank chứng thực điều đó. Thế nhưng World Bank
vẫn không giảm rót nợ (nguồn vốn ODA, quỹ đầu tư phát triển) cho Indonesia mà
lại càng gia tăng.Rõ ràng World Bank đã hậu thuẫn cho một chế độ khét tiếng là
gian lận. Lẽ ra WB đã phải tiến hành một loạt biện pháp như tăng cường giám sát
các dự án của WB, từ đó giảm tham ô ngay trong thực hiện các dự án này, cho dù
không tài nào ngăn chặn được nạn tham ô trong toàn bộ chính phủ Indonesia đồng
thời WB đã phải đe dọa giảm cho vay nếu như những thâm hụt từ vốn của WB
không được từng bước giảm bớt. Theo một báo cáo về thất thoát vốn vay do WB
công bố vào tháng 8-1997, khoảng 20-30% ngân sách dành cho phát triển bị mất
một cách hợp pháp qua những đề mục chi tiêu ngân sách “phát triển cơ sở hạ tầng”,
trong đó có cả các đề mục như tôn tạo trụ sở cơ quan chính phủ, xe công vụ, thay vì
dành cho cải thiện dân sinh.
Phụ lục 87:
Từ ba bốn chục năm trước, Hàn Quốc, Đài Loan, rồi Malaysia, Thái Lan,… đều có
giai đoạn khởi phát với tốc độ tăng trưởng 8-9% như Việt Nam ngày nay, nhưng với
tỷ lệ công bằng xã hội cao hơn rất nhiều, tức là mức phân biệt giàu nghèo hẹp hơn.
Một khi đã trở thành nền kinh tế phát triển, họ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn
nhưng trên một nền tảng giàu có hơn, nên dù chỉ tăng trưởng có 5% môt năm, thì
mức 5% ấy vẫn giàu hơn mức 8,5% của Việt Nam gấp bội, mà lại ít có vấn đề xã
hội hơn.
------------- --------------
Tài liệu tham khảo chương 3
1. Theo Báo Lao Động Thứ Năm, 20/12/2007, bài “Sa đà vào... sân golf”
2. Bài “Long An: Nông dân "bỏ cày đi... đánh golf”, Việtnamnet, ngày
06/03/2008
3. Loạt bài về vịnh Vân Phong, Báo Tuổi Trẻ tháng 03/2008.
4. Bài “Những địa chỉ đen”, báo Tuổi Trẻ, ngày 09/12/2006.
5. Bài “Lựa chọn thành công – Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương
lai của Việt Nam”, Đại học HARVARD.
6. Bài “Thận trọng với việc thành lập các Tập đoàn kinh tế”, Nguyên thủ Võ Văn
Kiệt (Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 31 - ngày 26.7.2007).
7. Loạt bài về “Những khu đất vàng”, tháng 2 và 3/2008, Báo Tuổi Trẻ.
8. Bài “Vẫn tái diễn thừa thầy thiếu thợ”, Báo Người Lao Động ngày 31/7/2007
9. Bài “2010: Hết "thừa thầy, thiếu thợ" với 5.000 tỷ đồng?”, theo báo
Vietnamnet ngày 15/5/2007
10. Nguồn bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
11. Theo thống kê của bộ Giáo Dục và Đào Tạo.
12. Bài “Tác động của WTO lên ngành dầu mỏ” của TS. Phan Minh Ngọc Đại
học Kyushu, Nhật Bản ngày 15/09/2006; Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế
- xã hội quốc gia (www.ncseif.gov.vn)
13. Bài “Những cơ hội từ việc bỏ trợ giá xăng dầu” của nhà báo Bùi Văn ngày
28/02/2008 ; Vietnamnet (www.vnn.vn)
14. Nguồn UBND tỉnh Quảng Ninh
15. Loạt bài “Vàng đen chảy máu”, Bài 1: “Hành trình của những tàu than lậu”
của báo Tuổi trẻ, ngày 30/4/2008
16. Loạt bài “Vàng đen chảy máu”, Bài cuối: “Chống than lậu: cuộc chiến cam
go!” của báo Tuổi trẻ, ngày 30/4/2008
17. Bài “Thế giới than thổ phỉ Quảng Ninh, coi trời bằng vung, ăn chơi xả
láng!” của báo Người Lao động, ngày 25/4/2008
18. Bài ““Bán mạng” ở hầm than thổ phỉ” của báo Vietnamnet ngày 6/4/2008
19. Theo số liệu của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam công bố.
20. Bài “Ai đã tin "cơn sốt" ảo lạ lùng?” của Bùi Văn ngày 30/4/2008;
Vietnamnet
21. Bài “Thử đánh giá khả năng bắt kịp các nước láng giềng của Việt Nam”
Trần Hữu Dũng, Gs, Ts kinh tế, Departement of Economic, Wright State
University, Hoa Kỳ.
22. Bài “Lựa chọn thành công – Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương
lai của Việt Nam”, Đại học HARVARD.
23. Bài “Vốn tín dụng BĐS: Nhận diện một thủ phạm gây lạm phát”, Hà
Nguyễn, Việtnamnet, ngày 06/04/2008.
24. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Cục Đầu Tư Nước Ngoài, bài “Tổng hợp tình
hình Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2007, dự báo năm 2008”
25. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Cục Đầu Tư Nước Ngoài, bài “20 Năm Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam (1988 – 2007)”
26. Theo Bộ Ngoại Giao Việt Nam, bài “Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ
tăng nhanh” kết hợp với số liệu tổng hợp từ Bộ Kế hoạch và Đầu Tư – Cục Đầu
Tư Nước Ngoài.
27. Bài “Tổng quan tình hình xuất nhập khẩu năm 2007”; Hải quan Việt Nam
(www.customs.com.vn)
28. Bài “Xuất khẩu 2007: 3 thành tựu, 7 hạn chế” ngày 02/01/2008; Bộ Tài chính
www.mof.gov.vn)
29. Bài “Trả "vạ nợ"” của nhà báo Danh Đức ngày 13/10/2007; BáoTuổi trẻ online
(www.tuoitre.com.vn)
Tài liệu tham khảo chung
1. Economist Intelligence Unit, “Vi ệt Nam: Dự báo”. Nguyên bản: “Việt Nam:
Country Forecast”, September 2007, p.36.
2. Bài “Chi tiêu cho giáo dục: Những con số "giật m ình"!” ngày 13/02/2006 của
Vũ Quang Việt (chuyên viên Thống kê cao cấp của Liên Hợp Quốc, New York,
Mỹ).
3. Bài “Tiền cho giáo dục đi về đâu?”, Thời báo KTSG, ngày 29/11/2007.
4. Bài “Giá văn phòng cho thuê tại Việt Nam: Đắt thứ 13 trên thế giới”, Báo
Tuổi Trẻ ngày 23/03/2008.
5. Bài “Thiếu điện không chỉ do EVN ?”, Báo Tuổi Trẻ ngày 15/12/2007.
6. Bài ““Thả nổi” giá xăng dầu: Thuận lợi v à thách thức đặt ra” ngày
17/05/2007; cổng thông tin kinh tế Việt Nam (www.vnep.org.com)
7. Bài “"Bão giá" lương thực - Nông dân có được hưởng lợi?” của Vĩnh Kim
ngày 26/4/2008; Vietnamnet
8. Bài “Chuyện sốt gạo với những người chăm sóc lòng tin” của Bùi Văn ngày
01/05/2008; Vietnamnet.
9. Theo The Economist, bài “Trung Quốc háu đói tài nguyên thiên nhiên gây ra
nhiều khó khăn trong nội địa h ơn là ở bên ngoài” do Khánh Đăng lược dịch
ngày 20/3/2008. Địa chỉ web tham khảo:
10. Bài “Cần sớm thoát cảnh đào mỏ và gia công” ngày 19/12/2007 ; báo Hà N ội
mới online (www.hanoimoi.com.vn)
11. Bài “Quỹ tiền tệ thế giới dự đoán g ì cho nền kinh tế toàn cầu?” ngày
04/10/2006; Tạp chí công nghiệp (www.irv.moi.gov.vn)
12. Tạp chí Thời đại mới số tháng 11,12/2007 ; 01,02,03/2008.
13. Tạp chí của Học viện Quan hệ quốc tế.
14. Economist Intelligence Unit, “Vi ệt Nam: Dự báo”. Nguyên bản: “Việt Nam:
Country Forecast”, September 2007, p.36.
15. Vietnamnet (www.vnn.vn) : Loạt bài về “Toàn cảnh cơn sốt giá gạo” tháng
4/2008; các bài ra ngày 15/5/2007, 28/02/2008, 06/04/2008, 30/4/2008.
16. Thời báo kinh tế Sài Gòn số ra ngày 26/7/2007, 29/11/2007,
www.saigontimes.com.vn
17. Bài “Thận trọng với việc thành lập các Tập đoàn kinh tế”, Cố thủ tướng Võ
Văn Kiệt (Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 31 - ngày 26.7.2007).
18. Báo Người Lao Động số ra ngày 31/7/2007, 25/4/2008.
19. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (www.ncseif.gov.vn) số
ra ngày 15/09/2006.
20. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam ( www.vnep.org.com) bài ra ngày 17/05/2007.
21. Bài “Thử đánh giá khả năng bắt kịp các n ước láng giềng của Việt Nam”
Trần Hữu Dũng, Gs.Ts kinh tế, Departement of Economic, Wright State
University, Hoa Kỳ.
22. Hải quan Việt Nam (www.customs.com.vn)
23. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn)
24. Báo Hà Nội mới online (www.hanoimoi.com.vn) bài ra ngày 19/12/2007.
25. Tạp chí công nghiệp (www.irv.moi.gov.vn) bài ra ngày ngày 04/10/2006.
26. Báo cáo số liệu năm 2008 của UNICEF
27. Thời báo châu Á (Asia Times)
28. BBC news
29. Báo Thanh Niên, bài “Chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam”, xuất bản ngày
29/1/2008
30. Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, www.ips.gov.vn
31. Trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc, viện nghiên cứu Đông Bắc Á,
www.nchq.org.vn
32. Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, www.ncnb.org.vn
33. Theo Bloomberg, www.bloomberg.com
34. Báo Vietnamnet, www.vietnamnet.vn
35. Thời báo kinh tế Việt Nam,
36. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), www.fao.org
37. Bài “Nói không với đào tạo không đạt chuẩn”, xuất bản ngày 03/10/2007 trên
báo Lao Động
38. Cuốn “Sự thần kỳ sắp kết thúc” của tác giả Phan Trọng Hùng (Viết về Trung
Quốc)
39. Bách Khoa toàn thư Wikipedia, www.vi.wikipedia.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VN lam the nao de ton tai va phat trien trong boi canh dia kinh te chinh tri hien nay - nghien cu.pdf