I. Lịch sử ra đời và
phát triển của Ngân Hàng Thương Mại
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một tổ chức quan trọng nhất của nền kinh tế, là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ tập trung, phân phối lại vốn tiền tệ cũng như các dịch vụ có liên quan đến tài chính-tiền tệ khác trong nền kinh tế quốc dân.
Là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cho nên lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tiền thân của các nghiệp vụ hiện đại bắt nguồn từ nghề đổi tiền và đúc tiền của các thợ vàng. Người làm nghề đúc tiền, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua và giá bán.
Do yêu cầu cất trữ tiền của lãnh chúa, các nhà buôn nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn nghiệp vụ cất trữ hộ. Dần dần có uy tín, những người giữ hộ tiền bạc của các nhà buôn, thanh toán hộ và do tích lũy được nhiều tiền họ kiêm luôn cả nghề cho vay. Trong một thời gian dài, từ nghề đổi tiền đã phát triển thành nghề ngân hàng. Nghề ngân hàng thời kỳ đầu chỉ bao gồm các nghiệp vụ đơn giản như: đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản hộ tiền, thanh toán, chuyển tiền cho vay. Nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay nặng lãi, cho nên các ngân hàng thời kì này gọi là các ngân hàng cho vay nặng lãi.
Trong lịch sử phát triển, nghề ngân hàng đã trãi qua nhiều bước thăng trầm. Nghề này được phát triển từ thời thượng cổ đến thời trung cổ, nghề ngân hàng bị đình đốn do sự sụp đổ của đế quốc La Mã. Đến thời kì phục hưng, nghề này được phục hồi và phát triển khá mạnh. Số lượng các tổ chức kinh doanh tiền tăng lên, nhiều nghiệp vụ mới được áp dụng, như nghiệp vụ thanh toán bằng thương phiếu, thanh toán bù trừ, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay và thanh toán Một số tổ chức kinh doanh tiền xuất hiện trong thời kì này đã mang dáng dấp kiểu ngân hàng hiện đại, như Banco Di Barcelone thành lập năm 1401 và Banco Di Vlencia thành lập năm 1409 ở Tây Ban Nha, Banco Di Realto thành lập năm 1587 ở Vơnidoq (Italia).
Loại hình ngân hàng hiện đại thật sự xuất hiện trên thế giới vào thế kỷ 17, với việc thành lập những ngân hàng: ngân hàng Amxtécđam năm 1609 ở Hà Lan, ngân hàng Hamburg năm 1619 ở Đức, ngân hàng Anh quốc năm 1649.
II. Khái niệm, chức năng, vai trò và các loại hình
của NHTM
1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại.
Luật các tổ chức tín dụng do Quốc Hội khóa X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 1997, định nghĩa NHTM như sau: Ngân hàng thương mại là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoặt động ngân hàng và các hoặt động khác có liên quan. Luật này còn định nghĩa: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
2. Chức năng
2.1. Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM. NHTM nhận tiền gửi và cho vay, chính là để thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư.
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính đôi khi không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin; chi phí tìm kiếm thông tin lớn; chất lượng thông tin không cao; chi phí giao dịch lớn; phải có sự trùng khớp giữa người thừa vốn, người thiếu vốn, số
58 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2404 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vốn và huy động vốn quản lý vốn của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không có yêu cầu gì khác. NHNT sẽ tự động chuyển số lãi sang TK riêng và giữ hộ khách hàng (số tiền này không được tính lãi).
-Những kỳ phiếu bị sửa chữa tẩy xóa sẽ không được thanh toán. Kỳ phiếu vô danh bị mất, NHNT sẽ không chịu trách nhiệm thanh toán cũng như giải quyết mọi khiếu nại liên quan. Kỳ phiếu đích danh bị mất , chủ sở hữu phải làm giấy báo cáo mất kỳ phiếu với đầy đủ thông tin liên quan có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc cơ quan nơi công tác… gửi tới NHNT nơi phát hành.
-Trường hợp người có tên trên kỳ phiếu đích danh bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì NHNT sẽ thanh toán cho người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo phát luật.
3.4.1.6. Huy động vốn ngắn hạn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi:
Ngoài kỳ phiếu, các NHTM còn có thể phát hành chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn ngắn hạn. Ở Việt Nam thời gian qua, các NHTM cổ phần ít khi sử dụng công cụ huy động vốn ngắn hạn này. Trong khi đó, các NHTM Nhà nước sử dụng thường xuyên hơn. Chẳng hạn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) có thông báo phát hành chứng chỉ tiền gửi huy động vốn ngắn hạn bằng USD.
Ví dụ:
Phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn USD của BIDV đợt 1/2007.
1. Ngày phát hành tin: 05/03/2007.
2. Đối tượng mua chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn đợt 1/2007:
1. Các tổ chức, cá nhân Việt Nam.
2. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và làm việc hợp pháp tại Việt Nam.
3. Tổng mệnh giá, tên gọi, kỳ hạn, hình thức phát hành giấy tờ có giá:
Tổng mệnh giá: 100 triệu USD.
Loại tiền: USD.
Kỳ hạn: 3 tháng, 6 tháng và 9 tháng.
Hình thức:
Khách hàng cá nhân: ghi danh, vô danh;
Khách hàng tổ chức: ghi sổ, vô danh.
Mệnh giá:
Đối với hình thức Chứng chỉ tiền gửi ghi danh và Chứng chỉ tiền gửi vô danh:
Khách hàng cá nhân: Tối thiểu là 100USD và tối đa là 100000USD.
Khách hàng tổ chức: Tối thiểu là 3000USD và tối đa là 100000USD.
Đối với hình thức Chứng chỉ tiền gửi ghi sổ: Mệnh giá do Ngân Hàng thỏa thuận với người mua, tối thiểu 3000USD.
4. Thời điểm, phạm vi phát hành:
Thời gian: 60 ngày (Từ ngày 22/02/2007 đến ngày 22/04/2007).
Phạm vị: Các chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT trên toàn quốc.
5. Lãi suất:
Lãi suất phát hành chứng chỉ tiền gửi đợt 1/2007 được cố định trong suốt thời hạn gửi.
Phương thức trả lãi: Trả lãi cuối kỳ.
6. Thanh toán chứng chỉ tiền gửi:
Đến hạn thanh toán chứng chỉ tiền gửi (gốc và lãi): Khách hàng thực hiện thanh toán tại các chi nhánh của BIDV trên toàn quốc.
Nếu ngày thanh toán gốc, lãi trùng vào ngày nghỉ theo quy định, việc thanh toán được chuyển sang ngày làm việc đầu tiên tiếp theo.
Trường hợp đến hạn thanh toán, khách hàng chưa đến lĩnh, tiền lãi được ngân hàng giữ hộ và không trả lãi, tiền gốc được ngân hàng giữ hộ và trả lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tại thời điểm thanh toán cho số ngày chậm thanh toán.
3.4.1.7. Cách tính lãi đối với giấy tờ có giá:
Giấy tờ có giá ngắn hạn có nhiều loại khác nhau, nhưng cách tính lãi giống nhau. Ở đây trình bày cách tính lãi kỳ phiếu như là ví dụ điển hình. Khi bán kỳ phiếu cho khách hàng, NHTM ngoài cam kết trả nợ gốc khi kỳ phiếu đến hạn còn cam kết trả lãi tính trên mệnh giá của kỳ phiếu. NHTM có thể thỏa thuận với khách hàng sử dụng một trong các phương thức trả lãi sau đây:
Trả lãi sau: Theo phương thức này, NHTM xác định và trả lãi kỳ phiếu một lần vào thời điểm đáo hạn hay thời điểm thanh toán kỳ phiếu.
Trả lãi trước: Theo phương thức này, NHTM xác định và trả một lần tại thời điểm phát hành. Trong trường hợp này, kỳ phiếu được bán ở mức giá chiết khấu, tức là ở mức giá thấp hơn mệnh giá và lãi của kỳ phiếu chính là số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá bán kỳ phiếu.
Trả lãi định kỳ: Theo phương thức này, NHTM xác định và trả lãi kỳ phiếu theo từng định kỳ cho người sở hữu kỳ phiếu. Định kỳ trả lãi thường áp dụng theo tháng.
Ví dụ:
Cách tính lãi kỳ phiếu của VCB
Giả sử, khách hàng A, B, C mua một kỳ phiếu của VCB có những tính chất sau:
Mệnh giá: 50.000.000 đ.
Loại kỳ phiếu: Vô danh.
Kỳ hạn: 6 tháng.
Lãi suất: 7,8%/năm.
Phương thức trả lãi: A chọn trả lãi sau, B chọn trả lãi trước và C chọn trả lãi định kỳ hàng tháng.
Xác định giá bán kỳ phiếu, lãi và số tiền mỗi khách hàng sẽ nhận được khi kỳ phiếu đáo hạn.
Giải:
Khách hàng A: Với phương thức đã chọn , khách hàng mua kỳ phiếu với mức giá bằng mệnh giaá là 50 triệu đồng. Lãi A được hưởng bằng 50.000.000 (7,8%*6/12) = 1.950.000 đồng. Khi đáo hạn , A nhận cả gốc và lãi là 51.950.000 đồng.
Khách hàng B : Với phương thức đã chọn, khách hàng B được hưởng trước tiền lãi bằng 50.000.000 (7,8%*6/12) = 1.950.000 đồng. Do đó , B mua kỳ phiếu theo giá chiết khấu ở mức bằng 50.000.000 - 1.950.000 = 48.050.000 đồng. Khi đáo hạn, B nhận được số tiền bằng mệnh giá kỳ phiếu là 50.000.000 đồng.
Khách hàng C : Với phương thức đã chọn, khách hàng C mua kỳ phiếu ở mức bằng mệnh giá và hàng tháng C nhận được số tiền lãi bằng 50.000.000 (7,8%*1/12)= 325000 đồng (có tất cả 5 kỳ nhận lãi trước khi đáo hạn). Khi đáo hạn nhận lại số tiền bằng mệnh giá cộng với một kỳ hạn lãi cuối cùng, tức là:
50.000.000 + 325.000 = 50.325.000 đồng
3.4.2. Huy động vốn trung và dài hạn qua phát hành các loại giấy tờ có giá.
Muốn huy động vốn trung hạn (3 năm, 5 năm hay 10 năm) và dài hạn (trên 10 năm), các ngân hàng thương mại có thể phát hành các loại trái phiếu và cổ phiếu. Trái phiếu do ngân hàng phát hành có thể được xem như là một loại trái phiếu công ty. So với trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân hàng rủi ro hơn nên chi phí huy động vốn cao hơn so với trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu Kho bạc.
Ở Việt Nam thời gian qua, các ngân hàng thương mại quốc doanh như Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Công Thương Việt Nam (ICB) đều có phát hành trái phiếu hay huy động vốn dài hạn, trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần ít khi phát hành trái phiếu mà chủ yếu phát hành cổ phiếu để tăng vốn. Tuy nhiên, gần đây một số ngân hàng đã bắt đầu chuyển sang phát hành trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu chuyển đổi để huy động vốn dài hạn.
Nếu bạn là nhân viên phòng nguồn vốn và phụ trách huy động vốn dài hạn qua phát hành các loại giấy tờ có giá, bạn cần am hiểu có thể liên quan đến các công việc huy động vốn dưới đây.
3.4.2.1. Xác định khách hàng tiềm năng:
Xác định khách hàng tiềm năng ở đây là xác định xem ai là người có nhu cầu và có khả năng mau các loại giấy tờ có giá dài hạn do ngân hàng phát hành? Khách hàng tiềm năng trong trường hợp này là các nhà đầu tư dài hạn, những người có tiền tệ nhàn rỗi cần đầu tư dài hạn trong thời gian dài. Với những nhà đầu tư này, họ tạm thời gác lại việc sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng để đầu tư nhằm có được nhu cầu cao hơn trong tương lai. Các nhà đầu tư dài
hạn này, nhìn chung có thể chia thành 2 nhóm:
Các nhà đầu tư tổ chức gồm các doanh nghiệp, các công ty bảo hiểm, các loại đầu tư và các tổ chức kinh tế xã hội khác.
Các nhà đầu tư cá nhân bao gồm các ca sĩ, cầu thủ bóng đá, người nghỉ hưu, nhân viên làm việc hưởng lương, chủ nông trại,… nói chung là những người có thu nhập vượt quá nhu cầu chi tiêu, do đó có nhu cầu tích lũy dài hạn.
Rõ ràng, đối với các nhà đầutư dài hạn, lãi suất là yếu tố quan trọng hơn là thanh khoản. Tuy nhiên, yếu tố rủi ro đầu tư cũng cực kì quan trọng, do vậy, họ cần có sự đáng đổi hợp lý giữa yếu tố sinh lợi và rủi ro.
Để huy dộng vốn dài hạn, các NHTM cũng tiến hành lập đề nghị phát hành trình lên cho Ngân hàng Nhà nước xem xét phê duyệt, sau đó phát hành rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả các thủ tục này thực hiện tương tự như phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn đã trình bày ở phần trước. Phần này không nhắc lại mà đi sâu vào chi tiết từng loại giấy tờ có giá cụ thể.
3.4.2.2. Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu:
Với nhu cầu vốn dài hạn lên đến 10, 15 hoăc 25 năm, rõ ràng các NHTM không thể sử dụng các hình thức huy động tiền gửi hay phát hành các loại giấy tờ có giá ngắn hạn được. Trong trường hợp này, NHTM có thể phát hành trái phiếu. Trái phiếu do các NHTM phát hành có thể xem như là loại trái phiếu công ty. Nó là giấy chứng nhận nợ do các NHTM phát hành để huy động vốn dài hạn., theo đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi và vốn gốc do các nhà đầu tư mua trái phiếu. Nhìn chung, một trái phiếu có những thuộc tính sau đây:
Mệnh giá: là giá trị được công bố trên trái phiếu mà nhà đầu tư sẽ nhận lại khi trái phiếu đáo hạn.
Lãi suất của trái phiếu: là lãi suất nhà đầu tư được hưởng được công bố và ghi trên trái phiếu.
Thời hạn của trái phiếu: Là khoảng thời gian tính từ lúc phát hành cho đến khi trái phiếu đến hạn hoàn trả vốn gốc.
Phương thức trả lãi: Là cách thức ngân hàng áp dụng để xác định và trả lãi được hưởng cho nhà đầu tư. Nhìn chung phương thức trả lãi cũng có thể áp dụng một trong ba phương thức trả trước, trả sau hoặc trả theo định kỳ. Trong đó, trả lãi định kỳ còn có thể trả lãi theo định kỳ hàng năm hoặc trả lãi theo định kỳ sáu tháng hay nửa năm.
Bằng việc phát hành trái phiếu bán cho các nhà đầu tư, NHTM thu được một khối lượng nguồn vốn dài hạn dưới hình thức nợ vay. Như vậy khi phát hành trái phiếu, nguồn vốn hoạt động của NHTM tăng lên. Tuy nhiên, phát hành trái phiếu không làm tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của ngâm hàng.
Theo phân loại của Basel II, nợ dài hạn qua phát hành trái phiếu được xem như là vốn cấp II, trong khi vốn chủ sở hữu được xem là vốn cấp I. Theo Basel II, một ngân hàng được xem là đủ vốn khi tỷ lệ vốn cấp I trên giá trị tài sản có hiệu chỉnh rủi ro tối thiểu là 4%, hoặc tỷ lệ vốn cấp II trên giá trị tài sản có hiệu chỉnh rủi ro tối thiểu là 8%.
Gần đây, nhiều ngân hàng thương mại đã phát hành trái phiếu huy động vốn nhằm có đủ vốn cấp II theo qui định của Basel II. Chẳng hạn, tháng 5/2006 BIDV đã phát hành thành công trái phiếu tăng vốn BIDV (vốn cấp II) đợt I/2006 với tổng giá trị 2.200 tỷ VND trong thời gian ngắn. Từ ngày 07 đến ngày 18/12/2006, BIDV chính thức phát hành trái phiếu dài hạn bằng VND để tăng vốn đợt II/2006, với tổng trị giá phát hành khoảng 1 ngàn tỷ đồng.
Ví dụ: phát hành trái phiếu của BIDV.
BIDV phát hành trái phiếu dài hạn để tăng vốn cấp II, đợt II/2006 với tổng mệnh giá 1 ngàn tỷ VND có các kỳ hạn 15 năm và 25 năm.
Từ ngày 7/12/2006 đến 8/12/2006, tại Hội sở chính BIDV và các chi nhánh trênnđịa bàn Hà Nội và TPHCM, phát hành theo hình thức ghi sổ cho các nhà đầu Việt nam và nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Từ 14/12/2006 đén 15/12/2006, tại Sở giao dịch I, phát hành theo hình thức bán lẻ cho các nhà đầu tư là cá nhân Việt nam và người nước ngoài đang hoạt động hợp pháp ở Viêt Nam (từ ngày phát hành chính thức 18/12/2006).
Sau khi phát hành, toàn bộ trái phiếu dài hạn của BIDV đơt II/2006 được niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM. BIDV áp dụng mức lãi suất cố định, điều chỉnh một lần vào thời điểm 5 năm trước khi đến hạn (nếu BIDV không thực hiện quyền mua lại). Tiền lãi trái phiếu được trả sau hàng năm và trả một lần/năm vào ngày phát hành hàng năm ( tức 18/12). Tiền gốc trái phiếu được trả một lần khi đáo hạn, vào 2021 (đối với trái phiếu kỳ hạn 15 năm) vào 2026 (đối với trái phiếu kỳ hạn 25 năm). Lãi suất cụ thể như sau:
Trái phiếu kỳ hạn 15 năm: Lãi suất các năm rồi là 10.10%/năm, lãi suất 5 năm cuối (nếu BIDV không mua lại) là 10,675%/năm.
Trái phiếu kỳ hạn 20 năm: Lãi suất các năm đầu là 10,45%/năm, lãi suất 5 năm cuối (nếu BIDV không mua lại) là 11,175%/năm.
Trái phiếu dài hạn để tăng vốn BIDV đáp ứng các điều kiện của trái phiếu tăng vốn cấp II theo qui định của ngân hàng Nhà nước, và các chuẩn mực theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng cho quá trình hội nhập, BIDV phát hành trái phiếu được sự tư vấn và đồng thu xếp phát hành bởi ngân hàng HSBC.
Việc phát hành trái phiếu dài hạn của BIDV, trước hết là làm tăng năng lực tài chính, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, chủ động hội nhập quốc tế, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) đáp ứng theo chuẩn mực quốc tế, hướng tới mục tiêu hoạt động của BIDV đến 2010 trở thành ngân hàng hiện đại kinh doanh đa năng, đa sở hữu, có chất lượng ngang tầm các ngân hàng trong khu vực.
Trái phiếu tăng vốn BIDV được giao dịch ổn định và thường xuyên TTGDCK TPHCM từ 13/7/2006 với mã giao dịch là BID1-106 và BID1-206. Với việc phát hành trái phiếu đợt II/2006, BIDV nâng tổng mệnh giá phát hành trái phiếu trong 2006 lên khoảng 2.300 tỷ đồng, thực hiện một bước quan trọng trong nổ lực tăng năng lực tài chính trước khi tiến hành cổ phần hóa.
3.4.2.3. Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi:
Trái phiếu chuyển đổi (convertible bond) là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho các nhà đầu tư, trong đó có thỏa thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát hành các nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ chuyển đổi nào đó (conversion rate).
Ví dụ: Phát hành trái phiếu chuyển đổi của ACB.
ACB phát hành trái phiếu chuyển đổi nhằm mục đích tăng vốn quy mô vốn hoạt động. Trái phiếu được phát hành, thanh toán và chuyển đổi sang cổ phiếu bằng đồng Việt Nam. Mệnh giá trái phiếu là 1000000 đồng và tổng mệnh giá được phát hành là 3000 tỷ đồng. Trái phiếu chuyển đổi của ACB được phát hành dưới hình thức ghi sổ. ACB hoặc tổ chức được ACB ủy quyền thực hiện lưu ký cấp cho trái chủ giấy xác nhận sở hữu ghi nhận số lượng trái phiếu của từng đợt phát hành của mỗi trái chủ. Thời hạn của trái phiếu tối đa là 5 năm, bắt đầu từ thời điểm trái phiếu được phát hành cho đến thời điểm chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu. Hết thời hạn này, trái phiếu mặc nhiên được chuyển đổi thành cổ phiếu nếu trái chủ đáp ứng đủ các điều kiện được quy định, không phụ thuộc vào ý chí của trái chủ.
Lãi suất trái phiếu là 8%/năm, lãi trả hàng năm, cố định trong suốt thời hạn của trái phiếu.
Trái phiếu được phát hành cho đối tượng mua là cac cổ đông ACB. Cổ đông ACB được mua trái phiếu tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần của từng cổ đông tại ACB vào thời điểm chốt danh sách.
Trường hợp số trái phiếu được mua của cổ đông có lẻ phần thập phân, thì quyền mua phần lẻ thập phân của cổ đông được bán cho nhân viên ACB và thanh toán tiền cho cổ đông. Phương thức bán , giá bán, danh sách nhân viên ACB được mua trái phiếu do Thường trực Hội đồng quản trị quyết định
Trường hợp trái phiếu dự kiến phát hành không được cổ đông đăng ký mua hết thì số trái phiếu dự kiến phát hành còn lại sẽ được Thường trực Hội đồng quản trị phân phối cho nhân viên của ACB với các điều kiện như đã chào bán cho cổ đông. Danh sách nhân viên được mua trái phiếu do Thường trực Hội đồng quản trị quyết định
Trái chủ vào thời điểm chốt danh sách chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu phải lả người không thuộc các trường hợp bị cấm mua cổ phần của công ty cổ phần theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp
Các tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu trái phiếu nếu có đủ điều kiện và trong giới hạn tỷ lệ tham gia góp vốn theo quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.
Việc phát hành các loại kỳ phiếu cũng như chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn ngắn hạn và trái phiếu để huy động vốn dài hạn như trình bày ở trên có tác dụng giúp các NHTM tăng vốn hoạt động, nhưng không giúp ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu, bởi vì các loại giấy tờ có giá trên đây là công cụ nợ chứ không phải công cụ vốn. Mặt khác, khi phát hành các công cụ nợ để huy động vốn, NHTM phải chịu áp lực trả lãi và vốn gốc cho các nhà đầu tư. Nếu muốn tăng vốn chủ sở hữu và không bị áp lực trả lãi và vốn gốc, các NHTM có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn.
3.4.2.4. Huy động vốn dài hạn bằng phát hành cổ phiếu:
Cổ phiếu nói chung là chứng nhận đầu tư vào công ty cổ phần. Các NHTM cổ phần cũng là một dạng công ty cổ phần, do đó, có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn cổ phần. Do cổ phần, phần hùn vốn bằng nhau trong công ty, là một khái niệm vô hình cho nên cổ phiếu cần thiết như là một giấy tờ để hữu hình hóa số cổ phần mà một cổ đông đó nắm giữ. Hay nói cách khác, cổ phiếu chính là công cụ biểu thị số vốn cổ phần. Tùy theo luật và điều lệ, ngân hàng sẽ xác định mỗi cổ phiếu biểu thị và chứng nhận bao nhiêu cổ phần, thông thường là 1, 10 hay 100 cổ phần. Có nhiều cách phân loại cổ phiếu thành nhiều loại khác nhau, nhưng hai cách phân loại sau đây rất thường gặp:
óPhân loại cổ phiếu thành cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô danh.
Cổ Phiếu Ghi Danh
Cổ Phiếu Vô Danh
1. Có ghi tên người sở hữu
Không ghi tên người sở hữu
2. Dễ giao dịch trên thị trường, không cần làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.
Muốn chuyển nhượng cần phải có sự chấp thuận của hội đồng quản trị.
óPhân loại cổ phiếu thành cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi.
Cổ Phiếu Phổ Đông
Cổ Phiếu Ưu Đãi
1. Được hưởng cổ tức không cố định, có thể cao hay thấp tùy theo kết quả kinh doanh.
Được hưởng cổ tức cố định bất kể kết quả kinh doanh cao hay thấp.
2. Được hưởng cổ tức sau cố phiếu ưu đãi.
Được hưởng cổ tức trước cổ phiếu phổ thông.
3. Được chia tài sản sau cùng trong trường hợp công ty bị thanh lý.
Được chia tài sản trước khi chia cho cổ đông phổ thông trong trường hợp công ty bị thanh lý.
4. Giá cả thường dao động mạnh hơn cổ phiếu ưu đãi.
Giá cả thường ít dao động hơn cổ phiếu phổ thông.
5. Lợi nhuận và rủi ro cao hơn cổ phiếu ưu đãi.
Lợi nhuận và rủi ro thấp hơn cổ phiếu phổ thông.
3.5. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng khác và từ các ngân hàng Nhà Nước.
Nhìn vào bên nguồn vốn của bảng cân đối tài sản, chúng ta có thể nhận thấy NHTM có một bộ phận vốn huy động từ các tổ chức tín dụng khác và bộ phận vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước.
Các tổ chức tín dụng khác trong khi tham gia hệ thống thanh toán có thể mở tài khoản tại NHTM. Qua tài khoản này, NHTM có thể huy động vốn giống như đối với các tổ chức kinh tế bình thường. Ngoài các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể là nơi cung cấp vốn cho NHTM dưới hình thức cho vay.
4. Sử dụng nguồn vốn.
4.1. Cho vay.
4.1.1. Khái niệm:
Cho vay hay tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
4.1.2. Phân loại:
ôDựa vào mục đích tín dụng:
Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
Cho vay tiêu dùng cá nhân.
Cho vay mua bán bất động sản.
Cho vay sản xuất nông nghiệp.
Cho vay kinh doanh xuất-nhập khẩu.
ôDựa vào thời hạn tín dụng:
Cho vay không kỳ hạn: không cần định ngày trả lại (khi hoàn trả phải báo trước cho ngân hàng).
Cho vay ngắn hạn: có thời gian cho vay dưới 1 năm, mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
Cho vay trung hạn: có thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm, mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn: có thời hạn cho vay trên 5 năm, mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ vào các dự án đầu tư.
ôDựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng (sự đảm bảo hoàn trả nợ):
Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
Cho vay có bảo đảm (thế chấp): là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay như thê chấp, cầm cố, hoặc bảo lãnh của một người thứ ba nào khác.
ôDựa vào phương thức cho vay:
Cho vay theo món.
Cho vay theo hạn mức tín dụng.
ôDựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:
Cho vay chỉ có 1 kỳ hạn trả nợ (cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn).
Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ (cho vay trả góp).
Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể (tùy khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào).
ôDựa vào lãnh thổ hoạt động:
Cho vay nội địa.
Cho vay quốc tế.
4.1.3. Các phương pháp xác định lãi suất cho vay:
4.1.3.1. Lãi suất phi rủi ro:
Áp dụng cho đối tượng vay không có rủi ro mất khả năng hoàn trả nợ
vay. Chỉ có lãi suất tín phiếu kho bạc hình thành dựa trên cơ sở đấu thầu tín
phiếu mới có thể được xem là lãi suất phi rủi ro.
4.1.3.2. Lãi suất huy động vốn:
Là lãi suất ngân hàng trả cho khách hàng khi huy động tiền gửi. Lãi suất huy động vốn (Rd) có thể xác định như sau:
Rd = Rf + Rtd
Trong đó:
Rf là lãi suất phi rủi ro (xác định thông qua đấu thầu tín phiếu kho bạc).
Rtd là tỷ lệ bù đắp rủi ro tín dụng (do ngân hàng ước lượng).
4.1.3.3. Lãi suất cơ bản:
Là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản hình thành dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu tín dụng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất cơ bản (Rcb)có thể xác định theo công thức:
Rcb = Rd + RTN
Trong đó: Rd là lãi suất huy động vốn.
RTN là tỷ lệ thu nhập do đầu tư ngân hàng.
4.1.3.4. Xác định lãi suất cho vay dựa vào lãi suất cơ bản:
NHTM dựa vào lãi suất cơ bản để xác định lãi suất cho vay đới với khách hàng sau khi điều chỉnh rủi ro. Công thức xác định lãi suất cho vay:
R = Rcb + Rth + Rct
Trong đó:
R: lãi suất cho vay.
Rcb: lãi suất cơ bản.
Rth: tỷ lệ điều chỉnh rủi ro thời hạn.
Rct: tỷ lệ điều chỉnh cạnh tranh.
4.1.3.5. Xác định lãi suất cho vay dựa vào lãi suất LIBOR hoặc SIBOR:
Đối với các khoản tín dụng bằng USD, NHTM có thể xác định lãi suất cho vay dựa vào lãi suất LIBOR (London Interbank Offer Rate) hoặc SIBOR (Singapore Interbank Offer Rate). LIBOR là lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng London do Hiệp hội các ngân hàng hàng đầu của Anh xác định hàng ngày vào lúc 11:30. Ngân hàng có thể xác định lãi suất cho vay dựa vào LIBOR bằng công thức như sau:
R = LIBOR + Rtd + Rth
4.1.4. Đối tượng cho vay: Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Các doanh nghiệp theo quy định tại luật doanh nghiệp Việt Nam hiện hành, các công ty nước ngoài, các ĐV, TC, đoàn thể trong và ngoài nước. Còn đối với khách hàng là dân cư: cá nhân và hộ gia đình.
ôNhững đối tượng không được cho vay:
Thành viên HĐQT, ban kiểm soát, TGĐ, PTGĐ của ngân hàng sở tại.
Cán bộ CNV của ngân hàng thực hiện nghiệp vụ thẩm định, quyết định cho vay.
Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên HĐQT, ban kiểm soát, TGĐ, PTGĐ ngân hàng.
GĐ, PGĐ, SGD, CN các cấp.
Vợ (chồng), con của GĐ, PGĐ SGD, CN các cấp.
4.1.5. Điều kiện cho vay.
Thứ nhất: Khách hàng phải có năng lực phát luật dân sự, năng lực hành vi nhân sự và chịu trách nhiệm dân sự:
theo quy định của phát luật (phải có giấy CMND, không bị giam giữ,….) đối với khách hàng là pháp nhân và cá nhân Việt Nam.
theo quy định của phát luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân (nếu pháp luật đó có hiệu lực pháp lý ở Việt Nam) đối với khách hàng là pháp nhân và cá nhân nước ngoài.
Thứ hai: Có mục đích vay vốn hợp pháp.
Thứ ba: Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Thứ tư: Có phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
ôNhững nhu cầu vốn không được cho vay:
Để mua sắm các TS và các CP hình thành nên TS mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi.
Để thanh toán các CP cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm.
Để đáp ứng các nhu cầu tài chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.
4.1.6. Quy trình tín dụng chung.
4.1.6.1. Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng:
Lập hồ sơ tín dụng là khâu căn bản đầu tiên của quy trình tín dụng, nó được thực hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn.
Một bộ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cần thu thập từ khách hàng những thông tin sau:
Về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách hàng.
Về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng.
Về bảo đảm tín dụng.
Để thu thập được những thông tin căn bản như trên, ngân hàng thường yêu cầu khách phải lập và nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
Giấy đề nghị vay vốn.
Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng.
Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.
Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
4.1.6.2. Phân tích tín dụng:
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn cho vay, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi, tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra.
Phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thật của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó về nhận định về thái độ trả nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay. Kết quả của giai đoạn này là báo cáo kết quả thẩm định để chuyển sang bộ phận có quyền thẩm định quyết định.
4.1.6.3. Quyết định và ký hợp đồng tín dụng:
Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay vốn khách hàng. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quy trình tín dụng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Dựa vào các nguồn thông tin từ gian đoạn trước chuyển sang, báo cao kết quả thẩm định và các thông tin bổ sung khác. Người có quyền quyết định ở giai đoạn này sẽ quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.Nếu cho vay thì tiến hành lập các hợp đồng tiếp theo.
4.1.6.4. Giải ngân:
Sau khi là hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng bắt đầu giải ngân. Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải ngân cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng.
4.1.6.5. Giám sát tín dụng:
Giám sát tín dụng nhằm đảm bảo cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này.
Các phương pháp giám sát tín dụng có thể áp dụng bao gồm:
Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ.
Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ.
Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư nhụ của khách hàng đứng tên vay vốn.
Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay.
Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác.
Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thấp khác.
4.1.6.6. Thanh lý hợp đồng:
Thanh lý hợp đồng tín dụng xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng hoặc do khoản vay đã đến hạn. Đây là khâu kết thúc quy trình tín dụng. Khâu này gồm có các việc quan trọng cần xử lý:
(1) thu nợ cả lãi và gốc;
(2) tái xét hợp đồng tín dụng;
(3) thanh lý hợp đồng tín dụng.
Toàn bộ các khâu của quy trình tín dụng được mô tả như hình vẽ trên đây.Khách hàng:
Cung cấp các tài liệu và thông tin
Nhân viên tín dụng:
tiếp xúc, hướng dẫn,
Phỏng vấn khách hàng
Lập hồ sơ:
Giấy đề nghị vay
Hồ sơ pháp lý
Phương án/Dự án
Thu thập thông tin qua phỏng vấn, viếng thăm, trao đổi.
Tổ chức phân tích và thẩm định:
Pháp lý
Bảo đảm nợ vay
Kết quả ghi nhận:
Biên bản, báo cáo
Tờ trình
Giấy tờ về bảo đảm nợ
Cập nhật thông tin thị trường, chính sách, khung pháp lý
Quyết định tín dụng:
Hội đồng phán quyết
Cá nhân phán quyết
Từ chối
Giấy báo lý do
Hợp đồng tín dụng:
Đàm phán
Ký kết HĐ tín dụng
Ký kết HĐ phụ khác
Chấp thuận
Giải ngân:
Chuyển đổi vào tài khoản khách hàng
Trả cho nhà cung cấp
Tổ chức giám sát:
Nhân viên kế toán
Nhân viên tín dụng
Thanh tra, kiểm soát viên
Giám sát tín dụng
Vi phạm hợp đồng
Thu nợ cả gốcvà lãi
Đầy đủ và đúng hạn
Thanh lý HĐTD mặc nhiên
Không đủ,
Không đúng hạn
Biện pháp: Cảnh báo, Tăng cường kiểm soát, Ngừng giải ngân, Tái sét tín dụng
Không đủ,
Không đúng hạn
Thanh lý hợp đồng tín dụng bắt buộc
Xử lý:
+ Tòa án
+ Cơ quan thẩm quyền
Mô tả quy trình tín dụng
4.2. Đầu tư vào các hoạt động kinh doanh
4.2.1. Góp vốn và mua cổ phần.
NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.
4.2.2. Kinh doanh ngoại hối.
NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
4.2.3. Tài trợ xuất – nhập khẩu.
ôXuất khẩu:
Cho vay thu mua hàng xuất khẩu.
Cho vay nộp thuế xuất khẩu.
Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo hiểm cho mua suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi kiểm tra hóa đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
Các hỗ trợ cần thiết khác cho sự khác biệt về tập quán, luật pháp,…
Cho thuê kho bãi để chứa và đóng gói hàng hóa xuất khẩu với giá cả phải chăng (do lợi thế về quy mô số lượng).
Chiết khấu hối phiếu cho nhà xuất khẩu được nhận tiền sớm.
Giúp quản lý nợ, quản lý sổ cái bán hàng, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm rủi ro không thanh toán của bên mua hàng, xếp hạng hạn mức tín dụng và thu hộ.
Cho vay trên cơ sở bộ chứng từ thanh toán theo phương thức nhờ thu (ứng trước tiền hàng xuất khẩu).
ôNhập khẩu:
Mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu.
Cho vay ứng trước 1 phần để thanh toán cho người bán hay ứng trước tiền thuế nhập khẩu.
Bảo lãnh và tái bảo lãnh việc thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
Cho thuê kho bãi để chứa và bảo quản an toàn hàng hóa nhập khẩu với giá cho thuê phải chăng ( nhờ lợi thế về quy mô số lượng khách hàng của ngân hàng) tại các địa điểm hay các địa phương khác nhau.
Cho vay để thanh toán tiền hàng nhập khẩu cho nhà xuất khẩu nếu đến hạn mà nhập khẩu chưa có tiền.
Hỗ trợ về mặt chuyên môn, kỹ thuật từ giúp soạn thảo hợp đồng thương mại, mua bảo hiểm cho suốt quá trình vận chuyển và chuyển giao hàng hóa, theo dõi và kiểm tra hóa đơn chứng từ và hàng hóa cả về số lượng, quy cách và chất lượng.
Các hỗ trợ khác do sự bất cập về tập quán, luật pháp,…
4.2.4. Kinh doanh dịch vụ bảo hiểm.
NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
4.3. Các hoạt động sử dụng vốn khác
4.3.1. Cho thuê tài chính.
NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính.
4.3.2. Tham gia thị trường tiền tệ:
NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của Ngân
hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị
trường tiền tệ..
5. Giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác huy động vốn của NHTM.
5.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn.
5.1.1. Đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi theo kỳ hạn:
Đến nay, hầu hết các NHTM đều có đầy đủ các loại tiền gửi với kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, và 13 tháng hoặc tới 36 tháng cho khách hàng lựa chọn.
5.1.2. Đa dạng hóa sản phẩm theo loại đồng tiền gửi:
Hiện nay, các NHTM đều có các loại tiền gửi VND, USD, EUR và tiền gửi vàng cho khách hàng lựa chọn.
5.1.3. Đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi theo số dư:
Theo hướng này ngân hàng trả lãi suất khác nhau tùy theo từng bậc số dư, do vậy còn gọi là tiền gửi bậc thang. Thật ra, khái niệm tiền gửi bậc thang không lạ gì đối với NHTM Việt Nam, nhưng hầu hết đều xây dựng tiền gửi bậc thang theo kỳ hạn chứ chưa chú ý lắm đến tiền gửi bậc thang theo số dư. Sacombank đã triển khai loại tiền gửi bậc thang theo số dư. Với sự thành công bước đầu, các ngân hàng khác cũng sẽ làm theo xu hướng này để cạnh tranh.
5.1.4. Đa dạng hóa sản phẩm tiết kiệm theo sổ dư:
Thật ra, sản phẩm này cũng giống như sản phẩm tiền gửi theo số dư, chỉ khác ở chỗ áp dụng cho đối tượng khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền tiết kiệm định kỳ bằng VND hoặc USD.
Sacombank cũng là ngân hàng đi đầu và tỏ ra khá thành công trong việc đa dạng hóa sản phẩm theo hướng này.
Xu hướng đa dạng hóa sản phẩm tiền gửi và sổ tiết kiệm theo số dư, ngoài việc tạo ra cho khách hàng có thêm sự lựa chọn, nó còn có tác dụng tích cực khác là giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí. Do lãi suất tăng lên theo số dư, nên khách hàng có khuynh hướng gộp các tài khoản tiền gửi hoặc tiết kiệm lại để có số dư lớn hơn. Vì thế, số lượng tài khoản của một khách hàng nào đó có khuynh hướng giảm đi trong khi số dư trong tài khoản tăng lên. Nhờ vậy, ngân hàng có thể tiết kiệm được chi phí giao dịch.
5.1.5. Đa dạng hóa sản phẩm theo nhóm khách hàng:
Thật ra, các NHTM Việt Nam cũng đã đa dạng hóa sản phẩm theo hướng này nhưng chỉ dừng lại ở chỗ chia khách hàng bằng 2 loại: khách hàng tổ chức (kể cả doanh nghiệp) và khách hàng cá nhân. Nên sản phẩm tiền gửi thực tế chưa đáp ứng hết được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Do vậy, trong tương lai hướng đa dạng này nên tiếp tục khai thác. Đa dạng hóa sản phẩm theo nhóm khách hàng là hướng đa dạng bằng cách chia khách hàng ra theo nhóm đặc thù, đồng thời thiết kế sản phẩm tiền gửi hoặc tiết kiệm có những nét đặc thù dành riêng cho nhóm đối tượng khách hàng đó.
5.2. Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý.
Chính sách lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của chính sách tiền tệ, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kì luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kì.
Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010, hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn. Đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Xong, với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất
trực tiếp là cần thiết.
Trước mắt, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Để phát huy được tốt vai trò thì cần có sự giúp đỡ của Ngân hàng Trung ương để điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản- làm cơ sở định hướng chuẩn cho lãi suất thị trường liên Ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm, và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở. Nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các hành vi trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lí để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nãy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kì vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời NHTM sẽ đươc Ngân hàng Nhà nước tích cực hỗ trợ thanh khoản với kì hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp với diễn biến nền kinh tế.
Tuy nhiên về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt, và trọng tâm của NHTM 2010. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên sẽ hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành trong dài hạn, bên cạnh sự nổ lực của toàn ngành Ngân hàng,cũng rất cần thiết phải có sự chỉ đạo sát sao của chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho việc cung cấp vốn cho khu vực Ngân hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế cả nước.
5.3. Phát triển hoạt động Marketing.
5.3.1. Xây dựng hình ảnh và thương hiệu ngân hàng:
Một NHTM có hình ảnh tốt và thương hiệu mạnh cũng góp phần đáng kể trong việc thu hút khách hàng đến gửi tiền. Điều này xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng là dựa trên nền tảng niềm tin của công chúng. Hình ảnh và thương hiệu mạnh mang lại niềm tin cho công chúng khiến cho họ không ngần ngại khi quyết định gửi tiền.
Trong những năm gần đây, các NHTM Việt Nam bắt đầu chú ý đến việc xây dựng hình ảnh và thương hiệu của mình. Điều này, một mặt xuất phát từ tình hình cạnh tranh ngày nay trở nên gay gắt hơn. Mặt khác, trình độ quản trị ngân hàng ngày càng được nâng cao dần. Hầu hết các NHTM hiện nay đều biết sử dụng các sự kiện hoặc hinhg thức tài trợ như tặng học bổng cho sinh viên, tài trợ cho bóng đá, bóng chuyền,… để quảng bá hình ảnh và thương hiệu cuả mình. Thậm chí, có ngân hàng còn tuyển chọn nhân sự được đào tạo bài bản ở nước ngoài về phụ trách mảng nghiệp vụ này. Điều đó hoàn toàn tốt và đáng khích lệ. Tuy nhiên, xây dựng thương hiệu cũng cần chú ý đến những việc hết sức nhỏ nhặt. Tại sao vậy? Vì đôi khi những chuyện tưởng chừng nhỏ nhặt ấy lại tàn phá hình ảnh và giá trị thương hiệu mà ngân hàng tốn kém không ít để xây dựng nên.
5.3.2. Tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái và thỏa mãn khi bước chân đến gửi tiền:
Điều này thoạt nghe tưởng chừng đơn giản và chẳng có gì mới mẻ nhưng thực tế cho thấy đến nay vẫn còn một số ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn chưa làm được. Một số khác đã có nhiều tiên bộ, nhưng nếu so với cung cách phục vụ của ngân hàng nước ngoài thì các NHTM Việt Nam còn khoảng cách khá xa. Trong thời đại cạnh tranh và bùng nổ thông tin như ngày nay, cung cách phục vụ tỏ ra quan trọng hơn bao giờ hết. Vì cạnh tranh và bùng nổ thông tin khiến cho các lợi thế cạnh tranh khác như đầu tư công nghệ, lãi suất, đa dạng hóa sản phẩm,… rất dễ bị các đối thủ cạnh tranh “bắt chước” nhanh chóng, khiến cho lợi thế cạnh tranh chẳng mấy chốc đã bị triệt tiêu.Ngoài ra, quy trình nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng đang áp dụng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự thoải mái của khách hàng khi đến gửi tiền.
5.3.3. Khuyến mãi thu hút tiền gửi:
Lâu nay, người ta chẳng lạ gì với khuyến mãi. Nào là “đại giá”, nào là “đợt siêu thị khuyến mãi”. Những ai thường đi du lịch hoặc sinh sống ở nước ngoài dễ dàng quen thuộc với cụm từ “buy one get one free” hoặc chuyện một siêu thị đang “special” một hàng nào đó. Ý nghĩa của special là khuyến khích người tiêu dùng mua nhiều và mua ngay sản phẩm của siêu thị, nhanh chóng giảm lượng hàng tồn kho và tiết kiệm chi phí liên quan đến tồn kho. Qua đó, gián tiếp gia tăng lợi nhuận cho siêu thị.
Thế nhưng có lẽ, ít ai nghe một ngân hàng thương mại đang “special” lãi suất tiết kiệm định kỳ 3 tháng, trong khi một ngân hàng thương mại khác lại “special” lãi suất tiết kiệm định kỳ 6 tháng. Chuyện này vẫn thường xảy ra nếu bạn gửi tiền ở NHTM ở New Zealand.
Ví dụ: Tình huống Ngân hàng Westpac.
Chị A vốn là khách hàng của The National Bank. Bấy lâu nay, tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi định kỳ của chị đều mở ở The National Bank. Trước đó một tuần, chị nhận được thư của ngân hàng thông báo rằng khoản tiền định kỳ 3 tháng của chị sắp đến hạn và sẽ được ngân hàng tự động tái tục đầu tư với lãi suất 6,5% cao hơn 0,25% so với lãi suất lỳ gửi trước, do lãi suất trên thị trường gần đây gia tăng, nếu chị không có chỉ định gì khác. Chị A thầm mừng khi thấy lãi suất định kỳ của chị tăng thêm được 0,25%, nhưng niềm vui chưa được lâu thì chợt tắt khi chị phát hiện rằng Westpac đang special lãi suất tiền gửi định kỳ 3 tháng lên đến 7,5%, chênh lệch đến 1% so với The National Bank. Nếu chị đã mừng khi thấy có được mức lãi suất tăng thêm 0,25% của The National Bank, thì chị không thể nào chấp nhận mất đi 1% nếu không rút tiền nhanh chóng từ The National Bank để gửi vào Westpac, vì hầu như từ chất lượng dịch vụ đến mức độ rủi ro của hai ngân hàng này như nhau.
Hôm sau, chị A quyết định đến ngay The national Bank rút khoản tiền gửi định kỳ 3 tháng trị giá 50.000 dollar chuyển sang gửi cho Westpac với lãi suất special lên đến 7,5%.
Nhiều khách hàng có nhu cầu gửi tiền định kỳ 3 tháng của The National Bank cũng phản ứng tương tự như chị A, trừ một số khách hàng do quá trung thành hoặc do gửi tiền chưa đến hạn. Kết quả là, đợt khuyến mãi của Westpay đã “cuỗm” đi một số khách hàng của The National Bank. Không chịu thua, ngay lập tức The National Bank ra thông báo special lãi suất định kỳ 6 tháng lên đến 7,7%, trong khi ở Westpac loại lãi suất tiền gửi này chỉ có 6,5%. Lúc này, một số khách hàng có tiền gửi định kỳ đến hạn và có nhu cầu gửi tiền kỳ hạn 6 tháng liền rút tiền chạy sang The National Bank để được hưởng lãi suất
special cho loại tiền gửi kỳ hạn 6 tháng.
5.4. Mở rộng mạng lưới hoạt động.
5.4.1. Mở rộng mạng lưới chi nhánh để đưa dịch vụ tiền gửi đến sát địa bàn dân cư:
Đây là điều mà NHTM nào cũng nghĩ đế, nhưng không may là việc này không phải ngân hàng nào cũng làm được vì mở rộng mạng lưới chi nhánh rất tốn kém. Bù lại, mở rộng mạng lưới chi nhánh mang đến cho ngân hàng nhiều lợi ích khác nữa bên cạnh hổ trợ cho việc huy động tiền gửi. Xét về mạng lưới chi nhánh, hiện nay Agribank có ưu thế hơn các ngân hàng khác nhờ có mạng lưới chi nhánh rộng khắp cả nước từ thành thị cho đến nông thôn. Có được điều này nhờ Agribank là NHTM nhà nước. Trong khi đó, các NHTM cổ phần thường khó khăn hơn khi mở rộng mạng lưới chi nhánh. Đặc biệt, Sacombank là ngân hàng cổ phần có mạng lưới chi nhánh rộng nhất trong số NHTM cổ phần.
5.4.2. Phát triển công nghệ hiện đại để khách hàng có thể giao dịch qua điện thoại hoặc internet:
Ngày nay nhờ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng cũng phát triển theo. Ở các nước phát triển, khách hàng có thể ngồi tại nhà tiến hành các giao dịch tiền gửi qua internet hoặc điện thoại di động. Vào khoảng thời gian năm 2004, ACB đã đi đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng qua internet và điện thoại di động. Tuy mới dừng lại ở mức độ truy cập thông tin tài khoản nhưng cũng đã góp phần mang lại sự tiện lợi cho khách hàng rất nhiều và nhờ đó càng dễ thu hút tiền gửi khách hàng hơn. Ngày nay, bất cứ lúc nào khách hàng của ACB muốn biết số dư tiền gửi của mình chỉ cần soạn tin nhắn như sau: “ACB SD mã khách hàng” trên điện thoại di động của mình sau đó gửi đến số 997. Lập tức vài phút sau, khách hàng nhận được tin nhắn trả lời cho biết tài khoản của khách hàng có số dư là bao nhiêu. Tất cả những tiện ích này đều được ACB cung cấp kèm theo sản phẩm tiền gửi và khách hàng không phải trả bất cứ chi phí nào cho dịch vụ kèm theo. Không dừng lại, ACB còn tạo thêm tiện ích cho khách hàng bằng giao dịch qua điện thoại di động. Khách hàng có thể soạn tin nhắn gửi đến 997 để chuyển tiền từ tài khoản của mình cho tài khoản khác trong và ngoài nước.
5.5. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ.
Hiện nay, phần lớn các ngân hàng đều chuyển sang cơ chế giao dịch “một cửa”, nghĩa là khách hàng đến gửi tiền chỉ cần tiếp xúc và làm việc với duy nhất một giao dịch viên. Điều này góp phần tạo sự thoải mái cho khách hàng. Thế nhưng, đôi khi khách hàng cảm thấy không hài lòng vì giao dịch viên tỏ ra không hiểu biết rộng hết các nghiệp vụ để có thể tư vấn cho khách hàng. Mặt khác, giao dịch viên thường chỉ quan tâm đến khía cạnh thực hiện nghiệp vụ ngân hàng mà quên đi rằng với cơ chế giao dịch một cửa, giao dịch viên đồng thời cũng là nhân viên “bán hàng”, do đó, cũng cần có kỹ năng bán hàng và phục vụ khách hàng. Là nhân viên bán hàng mà không biết giới thiệu sản phẩm và tư vấn sử dụng sản phẩm cho khách hàng, thì khó có thể bán được hàng!
6. Những khó khăn và thuận lợi trong việc huy động và quản lý nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại.
6.1. Khó khăn
Trong hoạt động ngân hàng, thì việc lường trước những rủi ro là điều cần thiết và quan trọng nhất, nhằm để dảm bảo cho việc huy động, quản lý, cũng như sử dụng nguồn vốn co hiệu quả, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, tránh những tổn thất nghiêm trọng cho ngân hàng. Khó khăn lớn cho ngân hàng trong việc lường trước những rủi ro này. Sau đây là một số rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải.
6.1.1. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do khách nợ không còn khả năng chi trả. Trong hoạt động của công ty, rủi ro tín dụng phát sinh khi công ty bán chịu hàng hóa thể hiện ở khả năng khách hàng mua chịu có thể thất bại trong việc trả nợ. Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay nợ có thể mất khả năng trả nợ một khoản vay nợ đó. Lưu ý rằng, trong hoạt động tín dụng, khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp vốn tín dụng thì đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi về được khoản tín dụng gồm cả gốc và lãi.
Khi thực hiện giao dịch tín dụng, từ lúc giải ngân cho đến khi thu hồi vốn về cả gốc và lãi, ngân hàng không biết chắc được giao dịch đó có hoàn thành hay không, nó có khả năng hoàn thành cũng có khả năng không hoàn thành. Do đó, rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch tín dụng đó. Có thể nói, tất cả các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng bao gồm cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, bao thanh toán và bảo lãnh ngân hàng đều chứa đựng rủi ro tín dụng. Lúc quyết định cấp tín dụng, ngân hàng chưa biết chắc được khả năng có thu hồi được khoản tín dụng ấy hay không đơn giản là vì lúc đó việc thu hồi khoản tín dụng chưa xảy ra.
6.1.2. Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất gây ra. Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí trả lãi của ngân hàng tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi cho vay của ngân hàng giảm theo.
Rủi ro lãi suất phát sinh khi ngân hàng không khớp được giữa lãi suất thu được từ tài sản sinh lãi và lãi suất chi ra cho nguồn vốn phải trả lãi. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hàng trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính ngân hàng cũng tìm ẩn rủi ro lãi suất rất lớn. Rủi ro lãi suất trong hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào các tài sản tài chính có thu nhập cố định như tín phiếu và trái phiếu các loại, thể hiện ở chỗ giá cả của các tài sản này thay đổi khi lãi suất thay đổi.
6.2.3. Rủi ro tỷ giá:
Trong hoạt động tín dụng bằng ngoại tệ của các NHTM chứa đựng rủi ro ty giá rất lớn. Hầu hết các dịch vụ NHTM hình thành nên tài sản Nợ, tài sản Có hay các khoản thanh toán bằng ngoại tệ đều chịu ảnh hưởng của những khó khăn về tỷ giá và những tổn thất về ngoại hối. Rủi ro tỷ giá của NHTM có thể phát sinh qua những hoạt động dưới đây:
Hợp đồng với khách hàng nội địa liên quan đến tài sản Có, tài sản Nợ và các giao dịch ngoại bảng bằng ngoại tệ.
Hợp đồng với khách hàng nước ngoài liên quan đến tài sản Có, tài sản Nợ và các giao dịch ngoại bảng bằng ngoại tệ hay nội tệ.
Mua và bán ngoại tệ (giao ngay và kỳ hạn) với khách hàng hoặc cung cấp dịch vụ phòng ngừa tổn thất ngoại hối cho khách hàng.
Giao dịch ngoại tệ tren tài khoản riêng của NHTM, chẳng hạn như giao dịch kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
Thế nhưng, bất luận giao dịch gì, phát sinh như thế nào, các giao dịch đều hình thành nên các khoản thu và các khoản chi bằng ngoại tệ cho ngân hàng, từ đó gây ra rủi ro về tỷ giá. Dẫn đến tổn thất các khoản thu và chi ngoại tệ cho ngân hàng:
ôTổn thất các khoản phải thu ngoại tệ:
Tổn thất phát sinh khi giá trị quy ra nội tệ thu về sụt giảm do ngoại tệ xuống giá so với nội tệ. Tổn thất các khoản phải thu có thể phát sinh từ những hoạt động sau đây:
Hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ.
Cho vay và thu lãi bằng ngoại tệ.
Thu đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp bằng ngoại tệ về từ nước ngoài.
Nhận cổ tức đầu tư bằng ngoại tệ.
ôTổn thất các khoản phải chi ngoại tệ:
Tổn thất phát sinh khi giá trị quy ra nội tệ chi ra tăng lên do ngoại tệ lên giá so với nội tệ. Tổn thất các khoản phải trả có thể phát sinh từ những hoạt động sau đây:
Hoạt động nhập khẩu phải chi trả bằng ngoại tệ.
Trả nợ vay và trả lãi vay bằng ngoại tệ.
Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp ra nước ngoài bằng ngoại tệ.
Trả cổ tức đầu tư bằng ngoại tệ.
6.2. Thuận lợi.
Trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển như hiện nay, các nhà doanh nghiệp đang ráo riết chạy theo các ngành nghề kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận. Trong khi đó, vấn đề vốn lại là vấn đề khó khăn nhất. Điều này làm cho nhu cầu vay vốn, cần đầu tư càng ngày càng cao. Họ tìm đến ngân hàng ngày càng nhiều, sử dụng dịch vụ của ngân hàng ngày càng thường xuyên. Đây cũng là điều thuận lợi đối với ngân hàng để tồn tại trong một nền kinh tế ngày càng phát triến.
Bên cạnh đó, NHTM còn có một hậu phương đó là NHTW. Trong những trường hợp NHTM gặp sự cố về vốn, thì NHTW sẽ trợ giúp bằng cách cho vay.
-----THE END-----
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vốn và huy động vốn quản lý vốn của ngân hàng thương mại.doc