Bài tâp lớn luật dân sự:
Xã hội phát triển các quyền con người, quyền nhân thân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, các giá trị nhân thân ngày càng cao và được ghi nhận ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế. Trong hệ thống các quyền nhân thân của pháp luật các nước trong đó có Việt Nam ngày càng được mở rộng với sự ghi nhận nhiều quyền mới như quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể, quyền xác định lại giới tính, Với sự phát triển của y học, đã làm cuộc sống con người có bước đột phá kỳ điệu từ chỗ con người có thể bị chết do một bộ phận cơ thể nào đó bị bệnh giờ đây có thể sống nhờ vào việc thay thế hoặc cấy ghép các bộ phận đó nhờ sự phát triển của y học và những người hiến xác hoặc bộ phận của mình sau khi chết, .Vậy quyền của cá nhân trong việc hiến xác, bộ phận cơ thể trong pháp luật Việt Nam được quy định nhu thế nào và trong thực tiễn ra sao? Bài viết này tập trung đi sâu tìm hiểu đề tài“ Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.”
PHẦN MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG TÌM HIỂU 2
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT .2
I. Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết .2
II. Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật .4
III. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết .7
IV. Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết .11
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết .13
B. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI 16
I. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt Nam 16
1. Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế 16
2. Một số kiến nghị nên cho tử tù được quyền hiến xác nhưng vẫn còn rất nhiều tranh cãi và nhiều vấn đề đặt ra 18
II.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết ở một số quốc gia trên thế giới 19
C. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỐ LƯỢNG CÁ NHÂN HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TƯƠNG LAI .21
KẾT LUẬN 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .23
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4782 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG TÌM HIỂU................................................................................................2
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT...............................................................................................2
I. Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.............................................2
II. Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật.................................................................................................................................4
III. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.................................................................................................................................7
IV. Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết.............................................11
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết...............................................................................................................................13
B. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI......16
I. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt Nam......16
1. Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế......................................................16
2. Một số kiến nghị nên cho tử tù được quyền hiến xác nhưng vẫn còn rất nhiều tranh cãi và nhiều vấn đề đặt ra............................................................................................18
II.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết ở một số quốc gia trên thế giới..................19
C. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỐ LƯỢNG CÁ NHÂN HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TƯƠNG LAI.......................................21
KẾT LUẬN..............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................23
PHẦN MỞ ĐẦU.
Xã hội phát triển các quyền con người, quyền nhân thân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, các giá trị nhân thân ngày càng cao và được ghi nhận ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế. Trong hệ thống các quyền nhân thân của pháp luật các nước trong đó có Việt Nam ngày càng được mở rộng với sự ghi nhận nhiều quyền mới như quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể, quyền xác định lại giới tính,…Với sự phát triển của y học, đã làm cuộc sống con người có bước đột phá kỳ điệu từ chỗ con người có thể bị chết do một bộ phận cơ thể nào đó bị bệnh giờ đây có thể sống nhờ vào việc thay thế hoặc cấy ghép các bộ phận đó nhờ sự phát triển của y học và những người hiến xác hoặc bộ phận của mình sau khi chết,….Vậy quyền của cá nhân trong việc hiến xác, bộ phận cơ thể trong pháp luật Việt Nam được quy định nhu thế nào và trong thực tiễn ra sao? Bài viết này tập trung đi sâu tìm hiểu đề tài“ Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.”
NỘI DUNG TÌM HIỂU.
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT.
“Chết” được hiểu là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngừng vĩnh viễn mọi hoạt động sống (không thể phục hồi) của một cơ thể.
“Xác chết” được xem là cơ thể của người chết đã chấm dứt mọi hoạt động sống.
I. Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Giá trị nhân thân là giá trị gắn liền với mỗi cá nhân con người. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội,... hệ thống các quyền nhân thân của các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng với sự ghi nhận của nhiều quyền mới trong đó có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết. Luật pháp Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó và lần đầu tiên quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết được chính thức ghi nhận trong BLDS năm 2005 và Luật hiến, lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết liên quan đến người hiến nên không thể dịch chuyển cho người khác. Đây là một quyền nhân thân đặc biệt và rất nhạy cảm nên ngoài những đặc điểm chung của quyền nhân thân nó còn mang những đặc trưng riêng nhất định như sau:
1. Quyền hiến xác cá nhân sau khi chết mang đặc điểm chung của quyền nhân thân.
- Thứ nhất, mang tính cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân thân thuộc về cá nhân cụ thể từ khi người đó sinh ra hoặc do những căn cứ khác do pháp luật quy định. Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân là quyền nhân thân và quy định các biện pháp bảo vệ. Những quyền nhân thân này ứng với mỗi cá nhân, sẽ cho phép cá nhân khẳng định là họ mà không phải là ai khác, họ là một chủ thể độc lập trước xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp quyền nhân thân có thể dịch chuyển được nhưng phải do pháp luật quy định (các đối tượng sở hữu công nghiệp,....)
- Thứ hai, quyền hiến xác là quyền nhân thân không được xác định bằng tiền – Giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Về cơ bản, chủ thể của quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích vật chất. Nhưng không thể loại bỏ những trường hợp đặc biệt quyền nhân thân lại mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi ích vật chất mà chủ thể quyền được hưởng ở đây có được là do giá trị tinh thần mang lại. Do vây, có thể chia quyền nhân thân làm hai loại: quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Cho nên đối với quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài sản.
- Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập trực tiếp trên cơ sở của những quy định pháp luật.
- Thứ tư, quyền nhân thân là một quyền tuyệt đối. Mỗi chủ thể có một giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
2. Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết mang những điểm riêng.
Đem lại lợi ích cho người khác, cho toàn xã hội, là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc bệnh nguy kịch hiểm nghèo đang chờ sự giúp đỡ, đặc biệt là khi những người bệnh đó lại là người thân thích ruột thịt của mình, niềm vui khi thấy mình có thể cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích của chủ thể thực hiện quyền này chủ yếu là về mặt tinh thần bởi họ sẽ cảm thấy khi mình sống hết cuộc đời rồi khi chết đi vẫn có thể làm được một việc có ích. Đó là những điểm riêng biệt của quyền hiến xác so với các quyền nhân thân khác.
Tuy hiến xác sau khi chết cuả cá nhân sau khi chết là một quyền mang lại lợi ích vật chất cho cá nhân rất ít hầu như không đáng kể nhưng nó đem lại lợi ích to lớn chủ yếu cho người khác và cho xã hội. “Quyền” hiến xác của cá nhân sau khi chết được hiểu là cá nhân có thể tự do ý chí, mang tính chất “tự nguyện” chứ không bắt buộc, mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đủ tuổi,...đều có quyền tự quyết định đối với thân thể mình không ai có quyền ngăn cấm hay can thiệp việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết kể cả những người thân thích, ruột thịt,...
II. Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật.
1. Trong Bộ Luật Dân Sự 2005.
Hiến xác là một vấn đề dường như còn rất xa lạ không chỉ với người Việt Nam mà còn đối với nhiều quốc gia khác. Trong thực tế không mấy người có ý định sẽ hiến cơ thể mình cho việc cứu người hoặc cho việc nghiên cứu khoa học có thể một phần do khái niệm này còn quá mới lạ hoặc có thể do phong tục quan niệm từ xưa đến nay khi chết họ muốn toàn vẹn vì kết thúc cuộc sống ở thế giới này nhưng khi sang thế giới bên kia họ nghĩ rằng có thể sống tiếp. Nhưng cũng có nhiều trường hợp có người hiến xác thì những người thân của họ lại không chấp nhận hoặc việc đăng ký hiến xác của một cá nhân mà người thân của họ không biết đến khi người thân của họ chết họ mới biết và quá bất ngờ và thường không chấp nhận việc đó.
Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết là vấn đề được bàn luận và tranh cãi rất nhiều của các đại biểu quốc hội và rất nhiều ý kiến của dư luận và nó mới chính thức quy định cụ thể hóa tại Điều 34 BLDS năm 2005 thuộc nhóm các quyền nhân thân.
Điều 34 BLDS năm 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết: “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
Có thể nói việc hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết là quyền của mỗi cá nhân và trình tự thủ tục hiến xác, bộ phận cơ thể do pháp luật quy định.
2. Quy định trong một số văn bản pháp luật khác.
Việc quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của một cá nhân trước khi BLDS 2005 quy định thì chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này, cũng có một số văn bản Luật quy định nhưng còn mang tính chất chung chung không cụ thể như quy định tại Điều 30 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989: “ Lấy và ghép mô hoặc bộ phận của cơ thể con người. 1- Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của nhân thân người chết hoặc người chết có di chúc để lại. 2- Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa thành niên. 3- Bộ y tế quy định chế độ chăm sóc sức khỏe người cho mô hoặc một bộ phận của cơ thể.”
Ngoài ra, việc hiến xác, bộ phận cơ thể cũng được cụ thể hóa tại Điều 10 của Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng số 23 – HĐBT ngày 21/1/1991 như sau: “1- Việc lấy mô bộ phận cơ thể của người sống phải được người đó tự nguyện và viết thành văn bản. 2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người được tiến hành trong các trường hợp: Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của họ. Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho bằng văn bản. Người chết vô thừa nhận. 3- Cơ quan y tế được quyền tiếp nhận, bảo quản và sử dụng mô hoặc một bộ phận cơ thể con người. 4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người được tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này. 5- Cơ sở y tế tiến hành lấy mô hoặc một bộ phận cơ thể của người cho có trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho họ trước, trong và sau khi lấy.”
Vậy việc lấy mô, bộ phận cơ thể của người chết phải theo quy định phải được sự đồng ý tự nguyện của người đó hoặc người thân nhân của họ bằng văn bản và các y bác sĩ cũng phải tuân theo những trình tự thủ tục đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, ngày 21/11/2006 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Dự thảo Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác bao gồm 6 chương 40 Điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Việc thông qua Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đã mở ra cho ngành y tế nói chung và ngành phổ thuật ghép tạng của nước nhà nói riêng một cơ hội hết sức to lớn, tạo hành lang pháp luật đồng bộ không những thúc đẩy và phát triển hoạt động cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người mà còn đưa lại nhiều cơ hội lớn cứu sống người bệnh đang bệnh hiểm nghèo cần phải ghép mô, bộ phận cơ thể người như gan, thận,... mà không phải ra nước ngoài điều trị. Như vậy, qua đây chúng ta cũng thấy được sự phát triển và nhanh nhạy cũng như trình độ của các nhà lập pháp của Việt Nam, cũng như sự quan tâm của nhà nước tới sức khỏe của nhân dân.
3. Thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mang lại nhiều ý nghĩa vô cùng to lớn.
Việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết được ghi nhận trong các văn bản pháp luật có ý nghĩa vô cùng to lớn:
- Tạo hành lang pháp lý vững chắc cho pháp luật quốc gia để tạo sự bình đẳng nguồn tài nguyên chữa bệnh cứu người đang rất khan hiếm này cho những bệnh nhân đang đối mặt với sự sống và cái chết, mắc bệnh hiểm nghèo tăng thêm hi vọng và sự công bằng cho người nghèo bị bệnh nặng vẫn có niềm tin được cứu sống.
- Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể góp phần phổ biến đến nhiều người có mong muốn được hiến xác, bộ phận cơ thể nhưng chưa rõ những quy định của pháp luật qua đây có thể tạo niềm tin và khẳng định là quyền của mỗi cá nhân nên góp phần nâng sự hiểu biết của mỗi cá nhân nên góp phần tăng số lượng người hiến. Đó là một niềm khích lệ lớn lao cho những bệnh nhân chờ cơ hội sống, những người bệnh sẽ có niềm tin hy vọng rằng một lúc nào đó cơ hội sống sẽ đến và họ nên cố gắng để hy vọng.
- Đối với ban thân cá nhân sau khi hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, qua việc thực hiện quyền này sẽ thể hiện được ý nguyện của người đó vì mục đích nhân đạo.
- Việc ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết chính là sự đảm bảo cho sự tự do ý chí, tự nguyện lựa chọn hành động của cá nhân trong việc hiến xác một vấn đề hiện còn đang hết sức nhạy cảm.
Ngoài ra, những cá nhân hiến tặng xác hoặc bộ phận cơ thể sẽ được nhà nước truy tặng huy chương cao quý cho đóng góp của họ đối với xã hội mặc dù họ hiến tặng không vì mục đích này mà đơn giản chỉ là vì muốn góp một phần nào đó cứu giúp những người đang nguy kịch một việc làm có ích cuối cùng của họ. Việc truy tặng của nhà nước góp phần động viên về mặt tinh thần đối với người hiến và người thân của họ
- Đối với nhà nước việc ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết chứng tỏ sự quan tâm của nhà nước đối với quyền và lợi ích của mỗi công dân, đảm bảo tính công bằng bình đẳng về sức khỏe của nhân dân. Góp phần hoàn thiện và nâng cao dịch vụ y tế và cũng khẳng định trình độ và sự nhanh nhạy của các nhà làm luật.
III. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được quy định cụ thể tại Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác được quốc hội thông qua 21/11/2006 và có hiệu lực 1/7/2007: “ 1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép. 2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa hoc. 3. Không nhằm mục đích thương mại. 4. Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
1. Nguyên tắc “phi thương mại”.
- Nguyên tắc quan trọng hàng đầu việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết là nguyên tắc “phi thương mại” nghĩa là việc hiến bộ phận cơ thể chỉ nhằm mục đích duy nhất là mục đích nhân đạo, chữa bệnh cứu người, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học không nhằm mục đích lợi lợi nhuận. Việc hiến bộ phận cơ thể luôn phải được đặt ra như một sự kiểm soát đặc biệt của pháp luật đối với vấn đề có tính chất xã hội nhạy cảm này, nguy cơ các bộ phận cơ thể người trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng nhiều.
- Nếu như pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán bộ phận cơ thể người nhưng Việt Nam thì hoàn toàn nghiêm cấm việc thương mại hóa các bộ phận cơ thể người xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
+ “Bộ phận cơ thể người” là những bộ phận tạo nên con người hoàn chỉnh cấu thành sự sống gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con người không phải là hàng hóa đem ra mua bán trao đổi.
+ Việc hiến xác, bộ phận cơ thể là một nghĩa cử vô cùng cao đẹp mang lại niềm hi vọng sống, sự hồi sinh vào cuộc sống mới cho người khác.
+ Hơn nữa còn ngăn chặn nếu hoạt động “bán” bộ phận cơ thể được thừa nhận sẽ dẫn đến một tình trạng tiêu cực rất nguy hiểm cho xã hội- những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán có thể làm cho những kẻ chuyên kinh doanh bộ phận cơ thể người có thể sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương người khác thậm chí không từ một thủ đoạn nào để giết người để lấy bộ phận cơ thể họ.
Như vậy, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể không những không được đảm bảo mà quyền con người bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Do vậy, việc pháp luật ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể phải định ra một giới hạn, giới hạn về mục đích của việc hiến bộ phận cơ thể tránh tình trạng một người vì hoàn cảnh quá túng thiếu mà chấp nhận việc bán một bộ phận cơ thể lúc đó pháp luật cũng không cho phép, và giao dịch đó sẽ vô hiệu.
- Việc thực hiện tốt nguyên tắc “phi thương mại” cũng là một biện pháp để đảm bảo quyền con người và tạo sự bình đẳng gữa người nghèo và người giàu, bệnh nhân giàu và bệnh nhân nghèo sẽ có cơ hội được cứu sống bằng biện pháp cấy ghép bộ phận cơ thể là như nhau.
2. Nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
Thực chất đây là sự cụ thể hóa của nguyên tắc “phi thương mại”, việc hiến xác, bộ phận cơ thể không vì một mục đích nào khác ngoài mục đích chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học trong đó mục dích chữa bệnh là quan trọng nhất vì nhu cầu lấy bộ phận cơ thể để chữa bệnh cứu người rất lớn. Việc đặt ra nguyên tắc này nhằm đề cao giá trị cao quý của con người, sự sống của con người là đáng quý quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, con người là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật. Một trong những biện pháp để đảm bảo quyền sống cho con người chính là việc tạo điều kiện cả về mặt khoa học kỹ thuật, cả về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được nhiều bệnh nhân hiểm nghèo những người đang phải đối mặt với cái chết đang cận kề. Bên cạnh đó việc hiến xác, bộ phận cơ thể còn phục vụ cho việc giảng dạy nghiên cứu khoa học, thí nghiệm để nghiên cứu tìm ra những giải pháp mới để chữa bệnh hiệu quả hơn tất cả cũng vì sức khỏe của nhân loại trong hiện tại lẫn trong tương lai.
3. Nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện.
- Việc cá nhân hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là quyền của mỗi cá nhân, không phải là nghĩa vụ không ai có quyền hoặc cản trở người khác thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là mang tính “tự nguyện” tức là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ được ý chí bên ngoài hơn nữa vấn đề hiến xác hiện còn là một vấn đề rất nhạy cảm nên một cá nhân khi thực hiện việc hiến xác của mình sau khi chết phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường để tránh một số vấn đề đảm bảo tính minh bạch.
- Điều kiện để một cá nhân có thể thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể: Người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị ép buộc về mặt tinh thần khi thể hiện ý chí hiến của mình cho người khác mà mục đích hiến đã được xác định rõ ràng (Theo luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác là một cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực dân sự đầy đủ) thì đều có quyền bày tỏ nguyện vọng hiến xác, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế. Người đã đăng ký hiến xác, bộ phận cơ thể có quyền thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký. Ngoài ra, cơ sở y tế chỉ được lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống đã đăng ký hiến. Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải cấy ghép mô hoặc cần cấy ghép mô hoặc cần cho ghép mô cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy mô của người chưa đăng ký hiến nếu có sự đồng ý của người đó. Ví dụ như trong một gia đình có một gia đình có một đứa con mắc bệnh gan cần phải ghép gan nếu không kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng mà trong gia đình thì người cha lại có gan phù hợp để ghép cho người con nên trong trường hợp này nếu người cha đồng ý và có đủ điều kiện sức khỏe để hiến gan thì có thể hiến gan cho con.
Ngoài ra, nếu như ở Việt Nam quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết mới được ghi nhận trong BLDS năm 2005 và chỉ áp dụng nguyên tắc “tự nguyện” do xuất phát từ đặc điểm tâm lý, văn hóa, phong tục tập quán của người Việt rất coi trọng sự toàn vẹn của cơ thể của thi hài người quá cố thì pháp luật một số nước lại thừa nhận nguyên tắc “suy đoán ý chí” (presumed consent) cho phép lấy mô và bộ phận cơ thể người chết trừ khi người đó đã thể hiện rõ ràng sự phản đối khi họ còn sống nguyên tắc này áp dụng ở mức độ khác nhau: một là áp dụng ở mức độ “cứng” theo đó không cho phép gia đình của người chết can thiệp vào quá trình lấy bộ phận cơ thể, hai là ở mức độ “mềm”, theo đó việc lấy bộ phận cơ thể người chết phải được sự đồng ý của gia đình người đó, ba là áp dung ở mức độ “triệt để”, theo đó một cá nhân phải đăng ký tại tòa án về việc mình không muốn hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và đó là cách duy nhất để người đó không bị lấy bộ phận cơ thể khi chết. Quốc gia đầu tiên áp dụng nguyên tắc này là Singapore và sau đó là một số nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Áo, Bỉ,...bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ trước, trước đây vào thập niên 60, 70 của thế kỷ trước thì hầu hết các nước đều áp dụng nguyên tắc “tự nguyện hiến” nhưng việc áp dụng như vậy thì số lượng bộ phận cơ thể hiến tự nguyện rất ít không đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh. Việc áp dụng nguyên tắc “suy đoán ý chí” đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia thì trong tương lai Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc “suy đoán ý chí” một cách phù hợp nhằm tăng ngồn thu cung cấp bộ phận cơ thể phục vụ cho sự nghiệp chữa bệnh cứu người của ngành y tế nước nhà.
IV. Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết.
1. Chủ thể của quyền hiến xác sau khi chết.
Cũng giống như chủ thể của các quyền nhân thân khác, chủ thể của quyền hiến xác sau khi chết cũng là cá nhân. Căn cứ vào Điều 34 BLDS năm 2005: “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học…”. Như vậy, đối với quyền hiến xác pháp luật không có bất kỳ một sự phân biệt nào đối với các chủ thể có nghĩa là xét về mặt năng lực pháp luật, mọi cá nhân đều có quyền hiến xác sau khi chết và quyền này được pháp luật tôn trọng bảo vệ và đảm bảo sự bình đẳng cho các cá nhân thực hiện quyền này. Thậm chí một số cá nhân có bị pháp luật tước một số quyền công dân vì những lý do khác nhau thì quyền hiến xác của cá nhân vẫn được pháp luật thừa nhận tôn trọng và bảo vệ.
Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. tại Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) có quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác.” Bởi vì quyết định hiến xác sau khi chết là một quyết định quan trọng có ảnh hưởng lớn tới bản thân người hiến cũng như đối với xã hội, nên pháp luật đòi hỏi người hiến phải là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự, nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của việc hiến xác. Quyền hiến xác thuộc vào nhóm quyền nhân thân nên phải do cá nhân tự mình tham gia xác lập và thực hiện. Quyền này không thể thông qua người đại diện cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự vì những người này chưa nhận thức được rõ và sự nhạy cảm của vấn đề này. Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự chỉ được thay mặt thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản còn các quan hệ nhân thân vẫn phải do chủ thể đó tự quyết định thực hiện.
Nhưng khi một người đã chết việc hiến xác theo Điều 22 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó.
Tuy nhiên, còn một vấn đề cần phải nêu ra nữa là về độ tuổi của người hiến xác sau khi chết theo điểm b,c khoản 2 Điều 22 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác (2006) quy định: “…b, Trường hợp người chết không có thẻ đăng ký hiến xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con đã thành niên của người đó. c, Người chết không xác định được nơi cư trú cuối cùng và có giấy chứng tử do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó chết cấp” thì vệc quy định độ tuổi là không cấn thiết nếu được gia đình người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý bởi:
+ Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký sau khi chết, nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của pháp luật của họ có đơn muốn hiến.
+ Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực chủ thể tức là vấn đề khả năng nhận thức hành vi của mình là chưa đầy đủ thì vấn đề quy định quyền hiến xác còn đặt ra, nhưng trong trương hợp người đó đã chết thì trên cơ sở pháp luật quy định phải được sự đòng ý của gia đình của cá nhân đó thì vấn đề đặt ra độ tuổi đối với người hiến liệu có còn cần thiết nữa không.
2. Đối tượng của quyền hiến xác.
Đối tượng của quyền hiến xác là cả xác, là các bộ phận trên cơ thể của người hiến. Cả thể xác bao gồm các bộ phận cấu tạo nên một chỉnh thể con người như chân, tay, tim, gan,…Dưới góc độ sinh học cơ bản tất cả những gì thuộc về cơ thể con người, cấu tạo nên cơ thể con người được gọi là “bộ phận cơ thể”. Nên việc hiến xác được hiểu là hiến tất cả các bộ phận của cơ thể của cá nhân sau khi chết.
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
1. Kinh tế, xã hội.
Kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên việc học tập nghiên cứu khoa học của các y bác sĩ được nâng cao và có điều kiện tiếp cận với nền khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới, các trang thiết bị kỹ thuật trong việc nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực khám chữa bệnh cũng được cải thiện và nâng cao nên việc cấy ghép mô, thay đổi các bộ phận trong cơ thể khi nó không còn hoạt động bình thường nữa đang ngày càng được thực hiện rộng rãi. Mặt khác kinh tế xã hội phát triển nên các dịch vụ bảo hiểm chế độ phúc lợi xã hội ngày càng được cải thiện hơn nữa còn có nhiều quỹ từ thiện, quỹ tài trợ để hỗ trợ bệnh nhân nghèo có điều kiện khám chữa bệnh. Đồng thời kinh tế xã hội phát triển thì trình độ nhận thức và suy nghĩ của nhiều cá nhân thoáng hơn, pháp luật cũng ghi nhận quyền hiến xác của cá nhân được phổ biến rộng rãi nên ngày càng nhiều cá nhân đang ký hiến xác tăng thêm nguồn cung cấp cho y học và phục vụ công tác nghiên cứu của các y bác sĩ. Điều này đảm bảo cho việc nhiều bệnh nhân sẽ có cơ hội và hy vọng sống hơn có khả năng thành công cao hơn.
2. Phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo văn hóa truyền thống ảnh hưởng tới việc hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Đạo lý truyền thống của người Việt Nam quan niệm “nghĩa tử là nghĩa tận”. bao nhiêu hờn oán đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian, quan niệm nhân văn khác là “sống ở, thác về”, xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi tạm bợ, chết không phải là hết. Tín ngưỡng dân gian tin vào linh hồn, người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, cũng sinh hoạt như ở dương thế, do đó có tục lệ đốt vàng mã, nhà cửa, xe cộ, đầy tớ, tiền,…để viện trợ cho người chết. Một quan niệm nữa là “người chết cần được mồ yên mả đẹp”, việc “động mồ động mả” có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của con cháu. Nên việc hiến xác sau khi chết người ta cho rằng người chết sẽ không được yên nghỉ và khi sang thế giới bên kia thì thân thể không thể tòa vẹn và sẽ là điều bất hạnh đau khổ đối với gia đình người chết.
Người Việt Nam chủ yếu là theo đạo phật nên quan niệm về “cái chết” của Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ của mọi người. Theo giáo lý của đạo phật thì sự chết được hiểu như sự chấm dứt khả năng sống của một hình thái hiện hữu, chỉ là sự gián đoạn tạm thời của một hình thái. Nó không phải là sự tiêu diệt toàn bộ một cá nhân, đúng hơn nó là biểu hiện của một sự chuyển đổi sang một sự hiện hữu khác. Chỉ riêng các cơ quan năng ngưng vận hành, chứ năng lực, sự khao khát được hiện hữu nằm trong nghiệp lực vẫn tiếp tục thể hiện dưới một hình thái khác của sự sống. Và chỉ khi thần thức rời khỏ thể xác mới được gọi là chết, chứ không phải lúc tắt thở, và người ta tin rằng chính lúc tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trươc khi thần thức thoát đi là thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó do vậy người ta quan niệm là tốt nhất sau khi chết không được đụng dao kéo cắt sẻ thi hài trong vòng ba ngày sau khi chết lâm sàng nếu không nó sẽ gây ra sự rối loại cho tiến trình tái sinh và khi sang thế giới bên kia người đó sẽ đau đớn và không siêu thoát được. Theo pháp Hộ Niệm, người vừa tắt hơi, bị đụng chạm vào thân xác quá sớm là điều tối kỵ, có thể khiến họ bị đọa lạc xuống các cảnh giới vô cùng xấu trong ba đường ác . Đụng chạm sẽ làm cho họ đau đớn không chịu không nổi, chắc chắn sẽ làm cho thần thức người rối loạn, hãi kinh, bức xúc, tức giận... toàn là những nhân chủng rất xấu cho đời kiếp tương lai của họ. Nhưng theo y học thì việc cấy ghép bộ phận cơ thể phải tiến hành ngay sau khi người hiến tặng trút hơi thở cuối cùng nếu không kịp thời thì việc cấy ghép không hiệu quả. Nên vấn đề hiến xác sau khi chết vẫn còn gặp nhiều rào cản do quan niệm của Phật giáo.
3.Vấn đề nhận thức của mỗi người.
Vấn đề nhận thức và sự hiểu biết nhất định của mỗi cá nhân sẽ là yếu tố quyết định tất cả đối với việc hiến xác của mỗi cá nhân sau khi chết. Việc kinh tế, xã hội phát triển hiện đại hóa đi theo đó là cơ hội được học tập được mở mang nên nhận thức của mọi người càng cao và suy nghĩ thoáng hơn về vấn đề hiến xác sau khi chết. Đồng thời việc quy định về quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết được pháp luật ghi nhận và trên các phương tiện thông tin đại chúng báo, đài,... có nói nhiều về vấn đề này và những lợi ích mà nó mang lại nhiều hơn là những quan niệm tôn giáo mơ hồ chưa được chứng thực. Do vậy khi con người có những hiểu biết nhất định và ý nghĩa nhân đạo của vấn đề hiến xác sau khi chết thì những ảnh hưởng của phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo sẽ không còn thực sự lớn nữa và họ sẽ tích cực thực hiện quyền này để cứu sống người khác và phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học.
4. Sự ngăn cản từ phía người thân, gia đình của người hiến xác.
Ở Việt Nam, hiến xác là một vấn đề còn khá nhạy cảm và vẫn còn khá mới mẻ đối với chúng ta lại thêm nhiều rào cản từ phong tục tập quán,…nên việc quyết định hiến xác sau khi chết là một điều rất khó khăn nhưng khi quyết định được rồi lại có một rào cản rất lớn từ phía gia đình người thân của họ như một trường hợp thực tế đó là ông Quỳnh, một trong những người gửi đơn tình nguyện hiến xác hiện đang sống tại Hà Nội lo lắng nhất về điều đó sau khi qua đời.Trong khi tất cả 5 người con của vẫn hoàn toàn không biết gì về thông tin này. Ông không muốn cho họ biết cũng bởi ông hiểu rằng chẳng có ai chấp nhận ngay quyết định của ông” ngay cả chính người hiến cũng phải giấu người thân của mình vì sợ phản đối thì chúng ta phải hình dung ra thái độ gay gắt của người thân họ như thế nào khi họ chết. Việc mất đi người thân là một điều hết sức đau lòng một sự mất mát quá lớn nên khi người thân ra đi nên theo quan niệm họ không muốn người thân của mình chịu bất kỳ một sự đau đớn nào giày vò nào về thể xác nữa ngay khi người chết để lại di chúc là tâm nguyện cuối cùng của người chết. Do vậy, trong trường hợp này các y bác sĩ cũng không thể tiến hành việc lấy xác, bộ phận cơ thể của người chết được.
B. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI.
I. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt Nam.
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể đã được pháp luật dân sự năm 2005 ghi nhận và sự ra đời của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (2006) đến nay tuy thời gian cũng không quá dài nhưng cũng không qua ngắn trong việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể,…trong thực tiễn. Trên thực tế, việc thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân vẫn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại cần khắc phục.
Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế.
Từ khi quyền hiến xác sau khi chết của cá nhân được ghi nhận nhưng số người hiến xác sau khi chết còn rất ít trong khi đó việc nghiên cứu học tập của y khoa và số bệnh nhân chờ được ghép các bộ phận cơ thể còn đang rất nhiều mà ngân tạng, mô, các bộ phận cơ thể,…còn đang rất khan hiếm. Tại Việt Nam nhu cầu ghép tạng là rất lớn, nhất là ghép thận và ghép gan, nhưng y học không đáp ứng được chủ yếu vì thiếu nguồn tạng.
Theo số liệu Bộ Y tế công bố năm 2007: Số lượng bệnh nhân viêm thận mãn cần ghép thận là 6000 và bệnh nhân có chỉ định ghép gan là 1500. Một nghiên cứu khác cho thấy mỗi năm ở nước ta có 100 người bệnh suy thận giai đoạn cuối mới phát hiện trên 1 triệu dân. Như vậy ước tính trên toàn quốc hàng năm có khoảng trên 8000 người bệnh mới, trong khi các kỹ thuật điều trị thay thế thận (chủ yếu là sử dụng kỹ thuật lọc máu) chỉ đáp ứng được 10% số bệnh nhân trên. Nói cách khác, nhu cầu cần ghép thận mỗi năm là gần 8000 trường hợp! Trong khi đó chúng ta mới chỉ có gần 300 ca ghép thận trong 18 năm qua tại Việt Nam. Số lượng bệnh nhân được ghép gan còn ít hơn, gần 20 bệnh nhân. Nhu cầu ghép thận và gan ở nước ta là rất lớn nhưng số lượng bệnh nhân được ghép lại quá ít không phải do chúng ta không có khả năng ghép tạng. Những báo cáo khoa học của Bệnh viện Việt Đức, Học viện Quân Y, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi Đồng… cho thấy đội ngũ thầy thuốc Việt Nam đã và đang thực hiện rất tốt những ca ghép gan và thận. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của chúng ta là không có đủ người hiến tạng. Tất cả những trường hợp bệnh nhân Việt Nam được ghép tạng (tại Việt Nam hay tại nước ngoài) chủ yếu được lấy tạng ở người cho sống. Mô hình ghép tạng từ người cho mất não là một trong những giải pháp để có thể tăng số lượng ghép tạng. Tuy nhiên, trong khi ở các nước trên thế giới, có tới 90% ca ghép tạng là lấy tạng từ người chết não, chỉ 10% từ người cho sống thì ở Việt Nam, con số người chết não hiến tạng vẫn rất ít ỏi. Tại bệnh viện Việt Đức trong năm 2010 có hơn 1.000 trường hợp chết não nhưng chỉ có 4 trường hợp hiến tạng. Vì thế, từ đó tới nay, Việt Đức cũng mới chỉ dừng lại ở ghép tạng từ 4 người cho chết não với một trường hợp được ghép tim, 2 người được ghép gan, 8 người được ghép thận, 2 người được ghép van tim. Do không có nguồn của người hiến trong nước cung cấp không đủ nên đã có rất nhiều trường hợp phải ra nước ngoài ghép rất tốn kém.
Về nhu cầu mô, đặc biệt là ghép giác mạc, đến nay có tới 100.000 người bị mù 2 mắt do bệnh lý giác mạc, có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Theo số liệu tại Viện Mắt Trung ương, tới nay Viện mới chỉ ghép được 1.500 ca, chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ.
Bên cạnh việc thiếu nguồn cung cho việc chữa bệnh cứu người còn thiếu trầm trọng cho nhu cầu giảng dạy nghiên cứu khoa học trên xác chết là rất lớn. Với số lượng hiến xác tự nguyện hiện nay là khan hiếm trầm trọng. Do vậy cần tăng cường khuyến khích mọi cá nhân tự nguyện đăng ký hiến xác sau khi chết hơn nữa.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến số lượng người hiến xác sau khi chết hạn chế:
+ Thứ nhất, do phong tục tập quán của người Việt Nam ta “chết phải toàn thây” nên việc dụng chạm dao kéo vào người chết là một điều cấm kỵ.
+Thứ hai, do ảnh hưởng của tôn giáo chủ yếu là theo Phật giáo thì người chết chỉ là chấm dứt sự tồn tại ở thế giới này nhưng khi chết họ sẽ chuyển sang tồn tại ở một thế giới khác nên sự nguyên vẹn cơ thể là một điều quan trọng hơn nữa sau khi chết là lúc chuyển giao từ thể này sang thể khác nên hạn chế việc dụng chạm vào người chết.
+ Thứ ba, do một số người còn chưa biết đến quyền này do ít tiếp cận đến các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc biết nhưng chưa hiểu hết được những lợi ích mang lại cho người khác từ việc làm của mình hoặc là do người thân ngăn cản,…
2. Một số kiến nghị nên cho tử tù được quyền hiến xác nhưng vẫn còn rất nhiều tranh cãi và nhiều vấn đề đặt ra.
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác (2006) nêu rõ: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”. “Vậy tử tù có đầy đủ các quyền như vậy không?
Dù Luật đã quy định quyền hiến quyền hiến bộ phận cơ thể khi còn sống và cả sau khi chết như một quyền nhân thân của người từ đủ 18 tuổi, song trong trường hợp này, tử tù là chủ thể đặc biệt, đã có án và bị hạn chế một số quyền công dân. Thực tế, khi thảo luật Luật thi hành án hình sự tại kỳ họ Quốc hội vừa qua thì vấn đề này mới được đặt ra. Như thế có thể hiểu là cho đến nay, chưa có quy định nào về việc tử tù có được hiến xác, mô, bộ phận cơ thể hay không? Nhưng nếu hiểu rằng Luật 2006 đã bao hàm cả quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của tử tù, và Luật Thi hành án hình sự đã được thông qua tại kỳ họp Quốc hội có hiệu lực thi hành từ 1/7/2011 thì việc cho phép tử tù hiến cơ thể vẫn còn khá nhiều vướng mắc như:
+ Luật 2006, người đã hiến mô, bộ phận cơ thể khi sống hoặc sau khi chết sẽ được tặng truy tặng kỷ niệm chươngVì sức khỏe nhân dân.Vậy tử tù có hành vi nghĩa hiệp ấy có được tặng truy tặng hay không?
+ Rồi giả sử xác tử tù được hiến cho nghiên cứu y học thì tên anh ta có được ghi trong phòng tưởng niệm theo quy định luật này?
+ Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hình thức thi hành án tử hình duy nhất là bắn. Các văn bản dưới luật hướng dẫn việc xử bắn sẽ được thực hiện bằng đội hành quyết, bắn một loạt đạn, tiếp đó đội trưởng thi hành án thực hiện phát súng ân huệ. Theo quy trình ấy, thi thể tử tù sẽ bị bắn thủng nhiều và về mặt y tế thì khó có thể tìm thấy bộ phận cơ thể nào còn nguyên vẹn, đủ giá trị để hiến - ghép.
+ Luật Thi hành án Hình sự có hiệu lực từ 1/7/2011, trong đó quy định thay hình thức xử bắn bằng tiêm thuốc độc. Như vậy, việc lấy xác, bộ phận cơ thể tử tù sẽ càng khó khăn vì nếu tiêm thuốc độc thì dường như các cơ quan nội tạng đều rất khó còn có thể sử dụng được nữa.
Vậy có nên nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc trong điều kiện khan hiếm nguồn hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết hiện nay (Hiện nay, mới ghi nhận hai trường hợp tử tù xin hiến xác).
II.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết ở một số quốc gia trên thế giới.
Pháp luật các nước bên cạnh quy định nguyên tắc chung về hiến xác được cả thế giới thừa nhận về vấn đề này thì tùy theo thực tế, truyền thống, văn hóa đất nước cũng có những quy định riêng. Ở Pháp, trong các đạo luật về đạo đức y sinh quy định việc hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người phải tôn trọng các nguyên tắc như: tôn trọng cơ thể người; nguyên tắc phải có sự đồng ý của đương sự (Điều L.1211-2 Bộ luật Y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp); nguyên tắc an toàn về y tế và cẩn trọng (Điều L.1211-6/7 Bộ luật Y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp) và ở Pháp còn áp dụng nguyên tắc vô danh và nguyên tắc này chỉ áp dụng trong trường hợp lấy mô, bộ phận cơ thể của người chết để cấy, ghép, nguyên tắc này sẽ không áp dụng với người hiến khi còn sống. Đồng thời ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy đoán sự đồng ý, tức là khi phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng không lấy xác, bộ phận cơ thể của người đó. Nên vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân rất phổ biến so với nước ta. Ở các nước theo hệ thống suy đoán đồng ý như: Pháp, Tây Ban Nha, Na Uy, Bồ Đào Nha, Áo, hoặc Bỉ, pháp luật coi những người không thể hiện quan điểm đối lập với việc hiến mô, bộ phận cơ thể khi họ còn sống nghĩa là họ sẵn sàng hiến mô, bộ phận cơ thể của họ khi chết. Hệ thống này dựa vào giá trị rằng các cá nhân sẵn sàng hiến mô, bộ phận cơ thể của họ. Còn ở những nước quy định theo hệ thống chủ đồng ý như Anh, Mỹ, Newzealand, Đức, Hà Lan… trái lại chỉ những bệnh nhân trước khi chết thể hiện nguyện vọng muốn hiến thì mới được coi là người hiếnCả hai mô hình của đồng ý, suy đoán và chủ động đều dựa trên nguyên lý “sự mong muốn của người chết là cở sở quyết định và nó phải được tôn trọng” Thực tế ở Tây Ban Nha cho thấy cơ chế suy đoán sự đồng ý mang lại hiệu quả thi gom mô, bộ phận cơ thể cao hơn cơ chế chủ động đồng ý. Căn cứ vào biểu đồ UNOS (Mỹ) cung cấp về tình hoạt động lấy tạng ở Mỹ, chúng ta thấy số ca ghép tạng lấy từ người sống tăng nhanh tới 6499 ca vào năm 2001 lớn hơn số ca ghép tạng lấy từ người chết nhưng bản thân số ca ghép tạng lấy từ người chết cũng tăng. Theo số liệu thống kê cũng cho thấy ở một số nước Châu Âu từ 1996-2001 chúng ta có thể thấy tỷ lệ tăng giảm tương đối ổn định. Đối với Pháp tỷ lệ lấy tạng ở người chết não đã tăng từ 15 đến 20 trường hợp lấy trên 1triệu dân. Với số dân 60 triệu người, tức là có 1200 ca lấy tạng từ người chết não và lấy được trên dưới 2000 tạng, 2400 thận, 1500 tim. Còn theo thống kê của Tạp chí Lancet thì từ năm 1989 tức là từ khi Tổ chức cấy ghép quốc gia Tây Ban Nha (ONT) chính thức đi và hoạt động đến nay tỷ lệ người hiến năm 1989 là 14,3 người/1 triệu dân lân 33,7 người hiến/1 triệu dân năm 2002.
Tuy nhiên, thực tế áp dụng cho thấy hiện nay có một số quốc gia có thiên hướng theo cơ chế suy đoán đồng ý ngày càng tăng. Có thể kể ra một ví dụ như Ở Vương quốc Anh, Hội Y học nước này trong những năm gần đây đã kêu gọi sự điều chỉnh pháp luật Anh từ chủ động đồng ý sang cơ chế suy đoán sự đồng ý (British Medical Asociation, 2003). Thậm chí ở những nước có hệ thống y tế kém phát triển cũng có sự ủng hộ đối với cơ chế suy đoán đồng ý như Mexico. Một bản dự thảo luật đã được trình vào năm 2000 với mục đích chấp nhận hệ thống suy đoán đồng ý và các nhà lập pháp Achentina bỏ phiếu ủng hộ hệ thống này vào năm 2004.
Do việc quy định hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết, nhận thức, văn hóa truyền thống ở từng quốc gia có những nét khác nhau nên tình hình “hiến” cũng khác nhau. Có thể nói rằng việc hiến xác sau khi chết của cá nhân ở nước ngoài phổ biến hơn ở Việt Nam do vậy nguồn cung cấp cho việc chữa bệnh cũng như nghiên cứu khoa học cũng nhiều hơn ở Việt Nam.
C. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỐ LƯỢNG CÁ NHÂN HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TƯƠNG LAI.
- Không ngừng tăng cường các biện pháp tuyên truyền nâng cao sự hiểu biết của mọi người về mục đích cao cả và nhân đạo của việc hiến xác sau khi chết, từng bước tiến tới xóa bỏ những quan niệm do phong tục tập quán,…ảnh hưởng đến quyết định hiến xác của cá nhân.
- Ban hành các văn bản pháp luật quy định chặt chẽ và rõ ràng về vấn đề hiến xác, và mở rộng đối tượng được hiến xác để tăng thêm nguồn như quyền hiến xác của tử tù đây là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề này.
- Không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến đi đầu trong lĩnh vực cấy ghép mô, bộ phận cơ thể,…đầu tư các trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu khoa học của các y bác sĩ cũng như quá trình học tập của sinh viên y khoa và công tác khám chữa bệnh.
- Mở rộng các quỹ phúc lợi xã hội, các loại hình bảo hiểm để hỗ trợ nhân dân khám chữa bệnh, đặc biệt là bệnh nhân nghèo.
- Đồng thời nên quy định những trường hợp mà người hiến xác, bộ phận cơ thể người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó không được thực hiện, thì gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu.
KẾT LUẬN.
Quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết là một quyền nhân thân cơ bản của con người, nhưng việc thực hiện quyền này ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chết do nhiều yếu tố như văn hóa, kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo,.... Qua bài tìm hiểu trên em đã phần nào khái quát đi vào tìm hiểu về quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết nhưng do đề tài tìm hiểu quá rộng cần vốn kiến thức xã hội và sự hiểu biết pháp sâu rộng. Tuy nhiên, do nhận thức và tầm nhìn còn hạn hẹp nên không thể tránh được những sai sót trong khi làm bài nên em kính mong sự góp ý từ thầy cô để em có thể hoàn thiện bài làm của mình hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
Bộ luật dân sự năm 2005.
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 và các văn bản hướng dẫn.
Quy định hướng dẫn tư vấn, kiểm tra sức khỏe cho người hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống; hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và người hiến xác ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐ-BYT ngày 12/3/2008 của Bộ trưởng Bộ y tế.
Bộ môn luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân sự, tháng 12/2008.
Phùng Trung Tập, “Về quyền hiến bộ phận cơ thể và hiến xác sau khi chết”, Tạp chí toà án nhân dân, số 1/2006.
Bùi Đức Hiển, “Hoàn thiện hơn nữa Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4 (121) tháng 4/2008.
Một số website.
http:ledinhnghi.net. Quyền hiến bộ phận cơ thể .
www.http.tuoitre.vn
www.http.vietbao.vn
www.http.kilobooks.com
www.http.vietnamese-law-consultancy.com
www.http.vibonline.com.vn
www.http.wikisource.org
www.http.chinhphu.vn
www.http.sunlaw.com.vn
www.http.hanoimoi.com.vn
www.http.dantri.com.vn
www.http.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
www.http.tuvanluat.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn- Xác và quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn.doc