Đề tài Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - Ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu

Những năm gần đây, thế giới chứng kiến sự phát triển đầy ấn tượng của thị trường dịch vụ tài chính toàn cầu với sự mở rộng quy mô của các tập đoàn tài chính sang các nước ở tất cả các châu lục. Sự tăng trưởng vượt bậc ấy không chỉ xuất phát sự nới lỏng quy định của Chính phủ các nước về việc mở rộng phạm vi kinh doanh của ngân hàng ra các lĩnh vực tài chính khác (bảo hiểm, chứng khoán). Làn sóng tập đoàn hóa các tổ chức tài chính không chỉ dừng lại ở những nước phát triển và những nước công nghiệp mới mà còn ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình cải cách và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng và các TCTD khác trong nền kinh tế. Việt Nam là một nước có nền kinh tế chuyển đổi, có tốc độ tăng trưởng GDP cao (8,4% năm 2006) và ngành ngân hàng thời gian qua đang dần được củng cố về mọi mặt theo thông lệ quốc tế. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ ngày 11/1/2007 mở ra cho nước ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, trong đó phải thực hiện cam kết về mở cửa ngành ngân hàng, theo đó những ngân hàng và tập đoàn tài chính lớn trên thế giới được phép mở ngân hàng con 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa là hệ thống ngân hàng nước ta phải đối diện với một cuộc cạnh tranh quyết liệt trước các tập đoàn tài chính nước ngoài. Trước tình hình đó, nhu cầu xây dựng và phát triển các tập đoàn tài chính - ngân hàng đầu tiên ở nước ta trở nên bức thiết hơn bao giờ hết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã quyết định chọn đề tài : “Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu” cho khóa luận của mình.

doc101 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2479 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - Ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yếu của việc xây dựng tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam Như đã phân tích ở chương 1, việc hình thành tập đoàn tài chính ngân hàng là xu thế chung và không thể tránh khỏi trong thời kỳ phát triển cao của dịch vụ tài chính ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam trong vị thế là một thành viên mới của tổ chức thương mại thế giới càng không thể đứng ngoài xu thế khách quan ấy. Quá trình tập đoàn hóa các định chế tài chính, nhất là các NHTM NN nói riêng càng trở nên cấp thiết do năm nguyên nhân chính sau đây: Thứ nhất: giúp gia tăng mức độ đóng góp của khu vực tài chính cho nền kinh tế: Tập đoàn tài chính ngân hàng xuất hiện với doanh thu và lợi nhuận lớn sẽ góp phần chủ yếu làm gia tăng tỷ trọng khu vực tài chính trong GDP một quốc gia. Các quốc gia phát triển thuộc nhóm OECD có tỷ trọng khu vực tài chính trong GDP khá cao (15 - 25%). Riêng ở Trung Quốc tỷ trọng này trong những năm gần đây là 20%. Còn Việt Nam, ngành Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 1,81% GDP. Ngành tài chính có vai trò đặc biệt quan trong đối với nền kinh tế, nhất là đối với những nước chưa có kênh phân phối vốn hiệu quả như Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Sở dĩ như vậy là vì trong nền kinh tế, nếu hệ thống tài chính được vận hành tốt sẽ dẫn đến sự dịch chuyển hiệu quả của luồng vốn tiết kiệm vào đầu tư, đảm bảo khai thác hiệu quả các nguồn lực nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất có thể. Để trở thành một nước công nghiệp hóa, các định chế tài chính phải có quy mô tương xứng mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Thứ hai: làm đối trọng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài: trước thực tế từ ngày 1/4/2007, các ngân hàng con 100% vốn nước ngoài chính thức được phép thành lập tại Việt Nam và được đối xử bình đẳng như các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước, hệ thống tài chính của nước ta đứng trước thách thức lớn chưa từng có của áp lực cạnh tranh gay gắt với các tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới. Các ngân hàng nước ngoài được thành lập ở Việt Nam này chủ yếu do các tập đoàn tài chính lớn thành lập nên có nhiều lợi thế về quy mô lớn, trình độ quản lý tốt, đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và trình độ cao, cung cấp sản phẩm đa dạng và nhất là những sản phẩm dịch vụ mới, giá dịch vụ thấp hơn, v.v.. sẽ là những đối thủ cạnh tranh “nặng ký” với các ngân hàng Việt Nam. Do vậy, để giải quyết bài toán về vốn, cơ cấu và tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh tài chính, các NHTM tất yếu phải xây dựng lộ trình xây dựng thành lập các tập đoàn tài chính – ngân hàng, nhằm từng bước trở thành đối trọng cạnh tranh ngang bằng với các tập đoàn tài chính hàng đầu thế giới. Thứ ba, đáp ứng nhu cầu được cung cấp trọn gói dịch vụ tài chính ngân hàng cho khách hàng cả cá nhân và tổ chức. Trong báo cáo cập nhập kinh tế Việt Nam mới được Citigroup công bố, Việt Nam sẽ có thể duy trì mức độ tăng trưởng 8% trong vòng 5 năm tới. Điều này nói lên tiềm năng về một nền kinh tế đang phát triển và mở ra cơ hội ngày càng tăng cao thu nhập cho người dân. Khi đó, nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ trọn gói sẽ tăng lên, nhất là khi dân số Việt Nam hiện đang là dân số trẻ, độ tuổi trung bình là 22, khả năng hấp thu những yếu tố hiện đại cao, trong đó việc sử dụng các dịch vụ tại ngân hàng như một địa chỉ quen thuộc. Thứ tư, xu hướng sáp nhập và mua lại nhằm tận dụng những lợi thế, khắc phục các hạn chế, yếu kém của nhau. Thay vì giằng xé những thị phần nhỏ bé của nhau, các định chế tài chính nhỏ lẻ liên kết lại, giúp đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành nên những tổ chức tài chính lớn với sức cạnh tranh cao hơn. Như vậy, việc xây dựng tập đoàn tài chính - ngân hàng là một xu thế tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập tài chính Việt Nam với thế giới, không chỉ nhằm bảo vệ sự an toàn cho bản thân các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại, trước sự xâm nhập từ bên ngoài mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế. IV - bài học kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu 1. Quá trình hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Châu Âu Dưới sự lãnh đạo chung của ngân hàng Trung ương Châu Âu, từ giữa những năm 1970 trong xu thế phát triển của ngành ngân hàng trên toàn cầu, hệ thống NHTM Châu Âu cũng phát triển đáng kể, cạnh tranh tốt với các ngân hàng nước ngoài mạnh. Từ những năm 1989, các quốc gia thành viên EU đồng loạt giảm bớt các quy định, cho phép những ngân hàng đa năng (universal banking) không những được cung cấp các dịch vụ về ngân hàng, chứng khoán như trước đây mà còn được sở hữu các công ty bảo hiểm. Năm 2002 là mốc lịch sử quan trọng với sự ra đời của chỉ thị 2002/87/EC về tập đoàn tài chính bao gồm ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Với môi trường pháp lý cởi mở hơn đã tạo điều kiện cho tập đoàn tài chính - ngân hàng ra đời và hoạt động hiệu quả. Sau những nới lỏng các quy định trong hoạt động tài chính, đã có sự tăng lên đáng kể về vốn và quy mô của các NHTM Châu Âu nhờ các vụ mua lại và sáp nhập. Bảng 7: Những vụ sáp nhập lớn của Châu Âu Đơn vị: tỷ euro Bên chiếm lĩnh Nước Bên mục tiêu Nước Năm Giá giao dịch Allianz (NH) Đức Dresdner Bank (NH) Đức 2001 22,3 Lloyds TSB Group (NH) UK Scottish Widows Fund & Life (NH) UK 2000 12,0 Fotis (BH) Bỉ General de Banque (NH) Bỉ 1998 10,5 Nationale Nederlanden (BH) Hà Lan NMB Posbank group (NH) Hà Lan 1991 5,6 ING Group (BH) Hà Lan BHF Bank (NH) Đức 1999 2,3 (Nguồn: Ngân hàng trung ương Châu Âu) Mọi hoạt động mở rộng kinh doanh, sáp nhập và hợp nhất của các ngân hàng, công ty bảo hiểm ở Châu Âu đều nhằm hướng tới mục đích là tăng vốn và năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng đa năng. 2. Một số tập đoàn tài chính - ngân hàng Châu Âu Tập đoàn BNP - Paribas: được hình thành năm 2000, từ vụ mua lại toàn bộ cổ phần của ngân hàng Paribas của ngân hàng thương mại BNP. Tập đoàn này với 117.000 nhân viên, mở chi nhánh và công ty con trên khắp nước Pháp và 90 chi nhánh ở nước ngoài tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tất cả đều có chung một logo. Tập đoàn này kinh doanh chủ yếu trên 4 nhóm sản phẩm gồm: Dịch vụ doanh nghiệp, Đầu tư, Quản lý tài sản và dịch vụ bán lẻ. Các ngân hàng con cũng như các chi nhánh của ngân hàng thành viên đều quản trị kinh doanh theo các nhóm sản phẩm nói trên. Lãnh đạo tập đoàn này là Đại diện các quan chức cao cấp của các ngân hàng thành viên, chịu trách nhiệm đưa ra các quy chế, các chuẩn mực hoạt động và phương thức quản trị thống nhất cho toàn bộ các Ngân hàng thành viên. Tập đoàn HSBC Holdings: Đến nay mới sau 8 năm thành lập HSBC Holdings đã là một trong những tập đoàn cung cấp các dịch vụ Tài chính – Ngân hàng hàng đầu thế giới với tổng tài sản là 1.276.778 triệu USD với vốn chủ sở hữu là 67.259 triệu USD. Tập đoàn này sở hữu 9.500 văn phòng với 260.000 nhân viên, có mặt tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tập đoàn HSBC hoạt động tại 5 khu vực là Châu Âu, Hồng Kông, các nước khác trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương bao gồm cả khu vực Trung Đông, Châu Phi, Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Các công ty thành viên chính của HSBC Holdings: Công ty xuất phát là: HSBC Bank Plc; Các công ty thành viên khác là HSBC North America Holdings Inc; HSBC Finance (Netherlands); HSBC Investment Bank Holdings plc; HSBC Insurance Holdings Limited; HSBC Latin America Holdings (UK) Limited và Group Financiero HSBC, v.v.. Dưới các công ty con là các công ty cháu. Các công ty con hay cháu có thể là sở hữu hoàn toàn hay theo tỷ lệ vốn liên kết của Ngân hàng sáng lập HSBC Holdings. Tập đoàn Dresdner - Allanz ra đời năm 2000 từ cuộc hợp nhất giữa ngân hàng thương mại Dresdner và Công ty bảo hiểm Allanz trong nội bộ nước Đức. Hai Định chế Tài chính Ngân hàng và phi Ngân hàng hợp nhất với nhau thành một liên minh tài chính - ngân hàng hỗn hợp nhằm củng cố địa vị tài lực và đặc biệt là để tận dụng tối đa lợi thế của các bên: Công ty bảo hiểm Allanz phát huy được tối đa nguồn lợi thu được từ việc mở rộng thị trường và sử dụng hệ thống bán lẻ trông qua các nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng, còn Ngân hàng Dresdner thì tập trung được nguồn lực khổng lồ vào việc kinh doanh trong lĩnh vực đàu tư tài sản tài chính. Tập đoàn mới này do Ngân hàng Dresdner đóng vai trò sáng lập và chi phối. Tập đoàn này sau khi ra đời đã hoàn toàn có đủ điều kiện và thực lực để một mặt tự phòng vệ, một mặt vươn ra thị trường tài chính thế giới với tư cách là một tập đoàn tài chính xuyên quốc gia mang quốc tịch Đức. Tháng 2/2006 tại Châu Âu, tập đoàn UnitCredit Group của Italya đã được một Ngân hàng thương mại lớn thứ 2 của Đức - Hypo Vereisbank Bank of Australia (HVB) sáp nhập vào, và trở thành một tập đoàn toàn cầu, kinh doanh nhóm sản phẩm chính gồm: dịch vụ bán lẻ; dịch vụ quản lý tài sản, dịch vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tài trợ bất động sản thương mại và ngân hàng đầu tư. Tập đoàn “lãnh đạo” bằng các “nguyên tắc vàng” (Gold principles) - Theo đó: mỗi Ngân hàng thành viên là một pháp nhân độc lập và được hoạt động theo cấu trúc sản phẩm, cấu trúc tổ chức cũng như phương thức quản trị hoàn toàn giống nhau. Mỗi ngân hàng được chia thành 5 bộ phận (lĩnh vực) kinh doanh theo 5 nhóm sản phẩm như đã nêu ở trên, đồng thời trong mỗi bộ phận này đều có cấu trúc tổ chức theo 5 nhóm chức năng độc lập tương đối khác nhau gồm: Tiếp thị, Kiểm soát, Marketting, sản phẩm dịch vụ và tổ chức nhân sự. Tất cả các ngân hàng thành viên hoạt động theo cùng một kiểu cấu trúc tổ chức và lĩnh vực hoạt động. Hội đồng quản lý tập đoàn bao gồm các quan chức cấp cao của các ngân hàng thành viên, vẫn hưởng lương chính từ các Ngân hàng thành viên và một phần phụ cấp với tư cách là thành viên kiêm nhiệm trong ban lãnh đạo của tập đoàn do các ngân hàng thành viên đóng góp. 3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Qua nghiên cứu quá trình hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Châu Âu mà một số mô hình mang quốc tịch Châu Âu, chúng ta có thể có được những bài học quý báu cho Việt Nam trong quá trình xây dựng những tập đoàn tài chính - ngân hàng từ các NHTM. Thứ nhất, từ thực tiễn của Châu Âu, với chỉ thị thống nhất 2002/87/EC đã tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho tập đoàn tài chính - ngân hàng ra đời và hoạt động hiệu quả. Do vậy, muốn xây dựng những tập đoàn tài chính - ngân hàng thành công ở Việt Nam cần có một môi trường pháp lý phù hợp, đủ thông thoáng để các tập đoàn được thiết lập và phát triển nhanh và cũng đủ chặt chẽ để các tập đoàn này phát triển bền vững, an toàn. Thứ hai, những tập đoàn lớn mạnh, đa năng, đa lĩnh vực ở Châu Âu đều là kết quả của những cuộc sáp nhập, hợp nhất hay tự thiết lập các công ty con độc lập với công ty mẹ. Do đó, sáp nhập, hợp nhất hay tự thiết lập công ty con trong quá trình tập đoàn hóa là một xu thế khách quan. Nhưng những động thái này tất yếu không được tiến hành một cách tùy tiện mà phải tuân thủ một số quy tắc nhất định Bên bị sáp nhập không thể tự cứu mình trước ngưỡng cửa suy thoái hoặc phá sản. Tất cả các bên sáp nhập hay được thiết lập thành các công ty con độc lập trong tập đoàn đều tìm thấy lợi ích lớn hơn trong một không gian thị trường lớn hơn. Lợi thế của mọi cuộc sáp nhập luôn thuộc về bên có quyền chi phối. Vì vậy, một NHTM không nên chỉ mua cổ phần của một định chế tài chính khác ở tỷ lệ quá nhỏ để chấp nhận vị thế không có vai trò gì trong Hội đồng quản trị và càng không nên mua cổ phiếu ưu đãi để đóng vai trò là người hưởng cổ tức thuần túy. Thứ ba, các tập đoàn tài chính Châu Âu như BNP - Paribas, UnitCredit Group,… đều là mô hình ngân hàng đa năng. Theo đó, tập đoàn không có tư cách pháp nhân, các công ty thành viên đều là các pháp nhân độc lập. Cơ quan đầu não của tập đoàn là các quan chức cấp cao của các công ty thành viên và hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm. Mô hình này đã tồn tại những hạn chế tương đối so với các mô hình khác. Do vậy, Việt Nam cần lựa chọn một mô hình: ngân hàng đa năng (universal banking), quan hệ công ty mẹ - con (parent - subsidiary relationship) hay công ty sở hữu tài chính (financial holding company) phù hợp với thực tế đất nước và định hướng phát triển của từng ngân hàng. Thứ tư, cần xây dựng ngân hàng mẹ thành hạt nhân mạnh của tập đoàn, với mô hình tổ chức hoạt động đảm bảo vai trò quản trị điều hành hiệu quả, quản trị tốt rủi ro và hướng tới: khách hàng là trọng tâm phục vụ như một số tập đoàn tài chính - ngân hàng Châu Âu đã làm được. Chương III Những đề xuất xây dựng mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam I - lựa chọn mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam Với tình hình phát triển hiện nay của thị trường tài chính nói chung và hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng, vấn đề xây dựng tập đoàn tài chính - ngân hàng cần được xem xét một cách thận trọng và quan trọng hơn cả, là làm sao lựa chọn được một mô hình phù hợp nhất nhằm góp phần tăng sức cạnh tranh và đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam tiến tiệm cận với thông lệ quốc tế. Để xác định và lựa chọn ra một mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng phù hợp với Việt Nam hiện nay, chúng ta cần dựa trên các nguyên tắc: Phù hợp với Luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế Kế thừa và phát huy những ưu điểm của mô hình tổ chức hoạt động hiện tại. Không áp dụng một cách dập khuôn, máy móc mô hình của nước ngoài. Vai trò chủ chốt của ngân hàng mẹ trong tập đoàn về chức năng tập trung nguồn vốn và quyền lực quản trị điều hành. Không gây xáo trộn lớn tới hoạt động kinh doanh. Bộ máy gọn nhẹ, không trùng lặp, chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ. Trong các mô hình phổ biến đã được phân tích kỹ ở chương I, cùng với sáu nguyên tắc xác định mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng, và tham khảo cấu trúc tổ chức của một số tập đoàn tài chính Châu Âu, thiết nghĩ nên lựa chọn mô hình hỗn hợp giữa cấu trúc holding với cấu trúc nhất thể (tập trung quyền lực), hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, vừa tập trung vừa phân quyền nhưng hướng tới hiệu quả tổng thể của tập đoàn. Mô hình đó không chỉ phù hợp với tình hình nền kinh tế nói chung và thị trường tài chính nước ta nói riêng, mà còn phù hợp với thực tế các NHTM hàng đầu Việt Nam đều là những ngân hàng hoạt động đa năng. Mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng lựa chọn Đại hội đồng cổ đụng Ngõn hàng HĐQT Ban TGĐ Ủy ban quản lý rủi ro Cỏc phũng chức năng hỗ trợ Cỏc chi nhỏnh ngõn hàng Cụng ty con (Cty chứng khoỏn, Cty bảo hiểm,…) Cụng ty liờn doanh, liờn kết ......... Ban Kiểm soỏt HĐQT, Ban Kiểm soỏt, Ban điều hành, Cỏc phũng ban chức năng Trong mô hình này, tập đoàn không phải là một pháp nhân, nhưng ngân hàng mẹ và các công ty con là các pháp nhân độc lập và tự chủ trong hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Ngân hàng mẹ vừa nằm vốn vừa trực tiếp kinh doanh. Có 3 cấp quan hệ: Cơ quan đầu não của tập đoàn, bao gồm Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc không chỉ tập trung vào việc ra các quyết định điều hành hoạt động kinh doanh của một pháp nhân độc lập là ngân hàng (kinh doanh sản phẩm ngân hàng), mà còn kiêm nhiệm vai trò xây dựng chiến lược, điều phối các hoạt động của tập đoàn. Do vậy, các thành viên này, bên cạnh việc hưởng lương chính của Ngân hàng, còn được hưởng phụ cấp trách nhiệm do các công ty thành viên của tập đoàn đóng góp. Các ban chức năng là bộ phận tham mưu, giúp việc cho Ban lãnh đạo tập đoàn trong việc xây dựng chiến lược, điều hành tập đoàn, kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty con. Các chi nhánh ngân hàng kinh doanh dịch vụ ngân hàng Các công ty con và chi nhánh của công ty con thực hiện kinh doanh dịch vụ tài chính phi ngân hàng Tính tập trung của mô hình này, thể hiện ở sự kiểm soát của tập đoàn về: Quyết định các vấn đề mang tính chiến lược Quyết định các chính sách chung và điều hành các giao dịch bên trong tập đoàn Tuyển chọn, bổ nhiệm hoặc cử, đánh giá, giám sát, miễn nhiệm các cán bộ cao cấp của tập đoàn. Tính chất phân quyền thể hiện: các công ty con, chi nhánh ngân hàng có quyền khá rộng rãi trong việc thực hiện các quyết định đầu tư, kinh doanh và tự chủ về tài chính. Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên tập đoàn chịu sự giám sát trực tiếp của các ban chức năng của tập đoàn. Ưu điểm của mô hình: Kết hợp được nguyên tắc tập trung và phân quyền theo hướng: các nhà quản lý cấp cao của tập đoàn tập trung vào các quyết định mang tính chiến lược, dài hạn và quan trọng nhằm đảm bảo tối ưu hóa toàn bộ các hoạt động của tập đoàn. Các quyết định điều hành kinh doanh được phân cho cấp dưới thực hiện. Nhấn mạnh sự tối ưu hóa toàn bộ hoạt động của tập đoàn và các công ty thành viên thông qua việc huy động các nguồn lực lớn hơn để xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh một cách có hiệu quả, điều hòa các giao dịch bên trong của tập đoàn. Quan hệ liên kết giữa ngân hàng mẹ với các công ty con dựa vào liên kết tài chính mà chủ yếu dưới hình thức góp vốn cổ phần. Mọi quan hệ trong tập đoàn được thực hiện theo hợp đồng kinh tế. Nói cách khác, cách thức hoạt động trong tập đoàn dựa trên nền tảng đầu tư tài chính dưới sự điều chỉnh của hợp đồng kinh tế. Về vấn đề đầu tư chéo trong tập đoàn, theo người viết trong giai đoạn đầu của việc hình thành và phát triển tập đoàn tài chính - ngân hàng, Chính phủ không nên cho phép việc đầu tư chéo, mà chỉ nên cho phép khi thị trường tài chính đã thực sự vững mạnh và phát triển cao độ. Một cách cụ thể hơn, các tập đoàn sẽ có cấu trúc sở hữu từ đơn giản cho đến phức tạp, tùy theo từng giai đoạn phát triển của thị trường tài chính trong nước. Về phương thức hình thành tập đoàn tài chính, xét trên tình hình thực tế hệ thống các ngân hàng nước ta hiện nay, chủ trương đi từ các NHTM NN phát triển lên thành tập đoàn tài chính - ngân hàng có lẽ là phương thức phù hợp nhất nhờ những tiền đề ban đầu của NHTM NN, đặc biệt là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - ngân hàng được đánh giá là ngân hàng năng động và nhiều tiềm năng nhất trong toàn hệ thống NHTM NN. Ii - Đánh giá khả năng xây dựng Vietcombank thành tập đoàn tài chính - ngân hàng của Việt Nam Xây dựng tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam là tất yếu và không thể tránh khỏi trong bối cảnh hội nhập tài chính quốc tế nói riêng và hội nhập nền kinh tế - xã hội nói chung. Tuy nhiên, để xây dựng thành công mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở nước ta cần phải dựa trên những điều kiện nền tảng và khả năng đáp ứng của nội lực ngân hàng. Qua những hiểu biết chung về tập đoàn tài chính - ngân hàng và những phân tích về thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam, người viết đánh giá Vietcombank là ngân hàng triển vọng nhất để xây dựng thành tập đoàn tài chính - ngân hàng, nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu trong Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến 2010 : “phấn đấu thành lập ít nhất một tập đoàn tài chính - ngân hàng, hoạt động đa năng trên thị trường tài chính trong và ngoài nước”. 1. Điều kiện vĩ mô 1.1. Môi trường pháp lý Cũng như tất cả những tổ chức tín dụng hay định chế tài chính khác, tập đoàn tài chính - ngân hàng muốn được ra đời, tồn tại và phát triển theo những định hướng đúng đắn và phù hợp với thực trạng nền kinh tế thì nhất thiết phải có một hệ thống luật điều chỉnh tổng thể và chi phối các tập đoàn tài chính ấy. ở Việt Nam, môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng nhất là về vấn đề cung cấp các dịch vụ ngân hàng đã được hình thành và đang ngày càng hoàn thiện là một trong những thuận lợi cho Vietcombank nói riêng và các định chế tài chính nói chung trong việc định hướng xây dựng tập đoàn tài chính trong tương lai. Sở dĩ như vậy là vì, với những quy định trong Luật TCTD được bổ sung và sửa đổi có hiệu lực từ 1/10/2004, các TCTD Việt Nam trong đó có ngân hàng được phép thực hiện kinh doanh đa năng các dịch vụ, bao gồm: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và quản lý, khai thác, bán tài sản thông qua việc thành lập các công ty thực thuộc. Các công ty trực thuộc ngân hàng có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và được thành lập bằng vốn tự có của ngân hàng. Bên cạnh đó, một loạt các hệ thống văn bản dưới Luật đối với từng lĩnh vực được ban hành như Quyết định số 1627/2001/NHNN về quy chế cho vay của TCTD, v.v.. Chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2006 – 2010 đã được Thống đốc NHNN phê duyệt ngày 19/8/2005 đã góp phần hoàn thiện khuôn khổ thể chế về dịch vụ ngân hàng, nhằm định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng và góp phần điều chỉnh phù hợp hành vi của các chủ thể tham gia trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống văn bản pháp lý của Việt Nam chưa có một văn bản nào quy định về vấn đề sáp nhập, hợp nhất hay mua lại các TCTD. Trong khi đó khung pháp lý về những hoạt động này là nền tảng quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn công khai minh bạch tại các TCTD. Văn bản pháp lý khác không kém phần quan trọng và có tác động trực tiếp tới việc hình thành và phát triển tập đoàn tài chính là luật điều chỉnh mô hình kinh doanh mới này về các vấn đề nền tảng như: định nghĩa tập đoàn tài chính, những tiêu chí và điều kiện để thành lập một tập đoàn tài chính, những quy định về cấu trúc tổ chức quản lý tập đoàn, v.v.. đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính và chuẩn mực kế toán. Nhưng trong Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005, tại điều 149 mới chỉ đưa ra định nghĩa hết sức khái quát: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế”. Và cho đến giờ vẫn chưa có một văn bản hướng dẫn của Chính phủ về vấn đề này. 1.2. Chính sách và cơ chế phát triển tập đoàn tài chính ngân hàng Mặc dù tập đoàn tài chính được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và không theo mệnh lệnh hành chính, song Chính phủ có một vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định và thực thi chính sách hình thành và phát triển tập đoàn tài chính trên cơ sở các NHTM lớn, nhất là các NHTM NN. Theo Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg, việc cải cách các NHTM NN được thực hiện theo hướng “từng bước cổ phần hoá các NHTM NN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng” và “phấn đấu hình thành được ít nhất một tập đoàn tài chính hoạt động đa năng trên thị trường tài chính trong và ngoài nước” nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nhưng cơ chế, chính sách cụ thể để thực hiện và thúc đẩy việc chuyển đổi các NHTM NN còn thiếu. 1.3. Sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính Sự phát triển của thị trường tài chính là môi trường thuận lợi cho NHTM mở rộng lĩnh vực kinh doanh, tạo tiền đề mở rộng quy mô hoạt động, hình thành các công ty con kinh doanh đa lĩnh vực. Nhìn chung trong thời gian qua, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam tăng trưởng khá cao ở cả 3 lĩnh vực: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm với các sản phẩm dịch vụ ngày càng đa dạng từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Theo nhận định của giới chuyên môn, thị trường tài chính Việt Nam đang là một trong những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới trong những năm gần đây. Đặc biệt trong năm 2006, thị trường vốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao vượt bậc và nhanh chóng trở thành “địa điểm” đầu tư hấp dẫn. Các ngân hàng lớn lần lượt thiết lập các công ty chứng khoán, bên cạnh các công ty hoạt động về bảo hiểm, quản lý tài sản, cho thuê tài chính,…. Tuy nhiên, so với thị trường ở các nước trong khu vực, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam còn nhiều hạn chế như: sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tài chính còn nghèo nàn và đơn điệu về số lượng lẫn chất lượng, khả năng cung ứng các dịch vụ tài chính mới còn hạn chế. Do đó, nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các tập đoàn tài chính ngân hàng, đòi hỏi một sự phát triển mạnh mẽ và đồng bộ của thị trường dịch vụ tài chính. 2. Vài nét về ngân hàng Vietcombank - Là NHTM quốc doanh được thành lập từ 1/4/1963 - Vốn điều lệ: 4.357 tỷ đồng (31/12/2006) - Là NHTM phục vụ đối ngoại lâu đời nhất tại Việt Nam. - Là trung tâm thanh toán ngoại tệ liên ngân hàng của trên 100 ngân hàng trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. - Là NHTM đầu tiên ở Việt Nam hoạt động kinh doanh ngoại tệ, luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. - Là NHTM đầu tiên phát hành và thanh toán thẻ quốc tế Visa, MasterCard và là đại lý thanh toán thẻ lớn nhất tại Việt Nam: Visa, American Express, MasterCard,…Hiện đang là ngân hàng độc quyền phát hành thẻ American Express tại Việt Nam. - Là NHTM hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, ứng dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. - Là NHTM duy nhất tại Việt Nam được tạp chí “The Banker” - một tạp chí ngân hàng có tiếng trong giới tài chính quốc tế của Anh quốc bình chọn là “Ngân hàng tốt nhất của Việt Nam” liên tục trong 5 năm. 3. Điều kiện nội tại của Vietcombank Vietcombank là NHTM NN, nên được sự hậu thuẫn rất lớn từ phía Nhà nước cả về tài lực, trí lực và môi trường vĩ mô thuận lợi. Hơn nữa, Vietcombank cũng đang sở hữu những điều kiện nội tại tích cực, đầy triển vọng để phát triển thành tập đoàn tài chính - ngân hàng hoạt động hiệu quả, đúng bản chất của một tập đoàn trên thị trường tài chính Việt Nam. 3.1. Mô hình tổ chức hoạt động Hội đồng quản trị Ban Tổng Giỏm đốc Ban kiểm soỏt ALCO Hội đồng tớn dụng TW P. Kiểm tra nội bộ TW Hội đồng tớn dụng cỏc ĐCTC HỘI SỞ CHÍNH P. Quan hệ KH P. Quan hệ NH Đại lý P. Quản lý vốn LDCP P. Đầu tư dự toỏn P. Tổng hợp thanh toỏn P. Qlý đề ỏn cụng nghệ Trung tõm tin học Trung tõm thanh toỏn P. Kế toỏn quốc tế P. Kế toỏn tài chớnh P. TH và Phõn tớch KT P. Quản lý thẻ P. Quản lý ngõn quỹ P. Vốn P. KD ngoại tệ P. Kế toỏn vốn P. Quản lý tớn dụng P. Cụng nợ P. Thụng tin Tớn dụng P. Tổ chức Cỏn bộ và Đào tạo Văn phũng P. Thụng tin tuyờntruyền P. Phỏp chế P. Quản lý xõy dựng cơ bản P. Quản trị Cỏc bộ phận hỗ trợ khỏc MẠNG LƯỚI TRONG NƯỚC Sở giao dịch Cỏc chi nhỏnh Cỏc cụng ty con MẠNG LƯỚI NGOÀI NƯỚC Văn phũng đại diện Paris –Moscow-Singapore Cụng ty tài chớnh Việt Nam tại Hồng Kụng Vietcombank là doanh nghiệp Nhà nước, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty 90,91; bao gồm hai cấp: trụ sở chính và chi nhánh. Tại hội sở chính có Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám đốc và các khối phòng ban chức năng trực thuộc. Cơ cấu này được phân biệt chủ yếu ở hai chức năng cơ bản là chức năng quản trị điều hành và chức năng quản lý kinh doanh. Nhưng trên thực tế, chức năng, quyền hạn của Hội đồng quản trị chưa được phân định rõ ràng và thực thi đúng, dẫn đến sự phối kết hợp giữa Hội đồng quản trị và Ban điều hành không hiệu quả, nhập nhàng về trách nhiệm. Ban Kiểm soát thay vì kiểm soát hoạt động của Hội đồng quản trị, thì lại trực thuộc Hội đồng này, Uỷ ban ALCO, Hội đồng tín dụng lại thuộc Ban Tổng Giám đốc. Do vậy, các hoạt động quản trị ngân hàng chủ yếu và quan trọng như quản trị rủi ro, quản lý thanh khoản, quản lý tài sản nợ - có, kiểm soát kiểm toán nội bộ,… thiếu sự hợp tác và rất phân tán, không được cập nhật về thông tin. Vấn đề kiểm soát rủi ro chưa được chú trọng, trong khi đó ngân hàng được xem là một ngành kinh doanh rủi ro. Đó có thể được xem là điểm yếu nhất của hệ thống tổ chức Vietcombank trong quá trình xây dựng thành tập đoàn. 3.2. NHTM NN đầu tiên được Cổ phần hóa Tập đoàn thực sự phải là tập hợp đa sở hữu. Vì vậy, trong mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng, công ty mẹ - NHTM phải hoạt động theo loại hình ngân hàng cổ phần. Xét ở điều kiện này, Vietcombank là NHTM NN đầu tiên có thể đáp ứng được. Ngày 26/9/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1289/QĐ-TTg phê duyệt phương án cổ phần hóa Vietcombank. Theo đó, Hình thức cổ phần hóa: được xác định là giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại Vietcombank, phát hành cổ phần thu hút thêm vốn theo nguyên tắc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, qua nhiều giai đoạn với tỷ lệ vốn Nhà nước giảm dần nhưng không thấp hơn 51% vốn điều lệ (giá trị phần vốn Nhà nước tại Vietcombank theo sổ sách kế toán đã được kiểm toán tại thời điểm 31/12/2006 là 11.127.248 triệu đồng). Cơ cấu phát hành cổ phiếu: Theo phương án cổ phần hóa, vốn điều lệ của Vietcombank là 15.000 tỷ đồng. Trong giai đoạn một, tổng khối lượng phát hành trong đợt đầu là 30% vốn điều lệ, trong đó cổ phần bán đấu giá công khai trong nước là 6,5% vốn điều lệ, cổ phần bán ưu đãi cho cán bộ, công nhân viên và cho các đối tượng nắm giữ trái phiếu tăng vốn là 3,5% vốn điều lệ; cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược không quá 20% vốn điều lệ. Trong giai đoạn hai, Vietcombank sẽ phát hành và niêm yết tại nước ngoài nhưng tỷ lệ không vượt quá 15% vốn điều lệ. Về nhà đầu tư chiến lược: Vietcombank sẽ chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là các tổ chức tài chính có quy mô và năng lực tài chính tầm cỡ quốc tế hoặc khu vực; có kinh nghiệm đầu tư thành công tại khu vực; có chiến lược và văn hóa kinh doanh phù hợp; có chuyên môn, có kinh nghiệm và chuyên nghiệp trong cùng lĩnh vực hoạt động và đảm bảo không có xung đột về lợi ích với chiến lược phát triển của Vietcombank. Vietcombank sẽ có tối đa không quá 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược thực hiện trước khi bán đấu giá cổ phần lần đầu (IPO) và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Với nhà đầu tư chiến lược trong nước, đối tượng lựa chọn là các đối tác hoặc bạn hàng truyền thống. Nhà đầu tư chiến lược phải cam kết đầu tư dài hạn, không được chuyển nhượng cổ phần trong thời gian ít nhất là 5 năm, kể từ ngày NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Các nhà đầu tư chiến lược được tham gia trong cơ cấu tổ chức quản lý Vietcombank sau cổ phần hóa. Như vậy, với việc lựa chọn kỹ càng các nhà đầu tư chiến lược giúp Vietcombank khi đi vào hoạt động theo mô hình NHTMCP sẽ sở hữu một đội ngũ quản lý, điều hành tiên tiến, đầy năng lực và am hiểu thị trường. Đó là chìa khóa thành công trong tương lai cho sự vận hành tốt một tập đoàn tài chính - ngân hàng có cơ cấu tổ chức phức tạp, quy mô lớn với đa dạng các rủi ro. 3.3. Quy mô hoạt động Để chuyển đổi sang tập đoàn tài chính - ngân hàng hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Công ty mẹ - NHTM phải nắm giữ/ chi phối một số công ty con có tư cách pháp nhân. Theo Bản cáo bạch và trang tin trên www.vietcombank.com.vn, Vietcombank có hệ thống các công ty con, công ty liên doanh liên kết: Công ty tài chính Việt Nam tại HongKong (Vinafico), được thành lập năm 1987, với lĩnh vực hoạt động chính là tài chính và đầu tư, vốn điều lệ là 36.021.000 HK$ Công ty TNHH Cao ốc Vietcombank 198, hoạt động trong lĩnh vực cho thuê văn phòng, thành lập năm 1996 với vốn điều lệ 14.914.439 USD. Công ty cho thuê tài chính (VCBL) là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được thành lập năm 1998, hạch toán độc lập trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với vốn điều lệ là 100 tỷ đồng. VCBL hoạt động chính trong lĩnh vực cho thuê tài chính các máy móc thiết bị và các động sản khác; tư vấn, nhận bảo lãnh về những dịch vụ có liên quan đến cho thuê tài chính. Công ty quản lý nợ và quản lý tài sản (VCB-AMC) được thành lập vào năm 2002 với tổng vốn điều lệ 5,2 tỷ đồng. VCB-AMC với hoạt động chính là quản lý nợ và khai thác tài sản bảo đảm nợ vay. VCBS là công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank Securities Company Ltd)- thành viên 100% vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, được thành lập từ năm 2002, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Công ty được cấp phép hoạt động đối với tất cả các nghiệp vụ chứng khoán: môi giới chứng khoán, lưu ký chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính doanh nghiệp, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn phát hành và tự doanh. Vốn điều lệ là 60 tỷ đồng (VCB đang hoàn thành thủ tục nâng vốn điều lệ lên 200 tỷ đồng) Công ty liên doanh TNHH Vietcombank-Bombay-Bến Thành với đối tác Bombay Investment - HongKong, hoạt động trong lĩnh vực cho thuê văn phòng, được thành lập năm 2005, với vốn điều lệ là 17.600.000 USD Ngân hàng liên doanh Chohung Vinabank (CVB) là ngân hàng liên doanh giữa Vietcombank với đối tác Chohung Bank - Hàn Quốc, với vốn điều lệ hiện nay là 230 tỷ đồng, đã được thành lập từ năm 1993. Vốn góp của Vietcombank chiếm 50%. Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Chứng khoán Vietcombank (Vietcombank Fund Management)- VCBF là liên doanh giữa Vietcombank (tỷ lệ vốn góp là 51% Vốn điều lệ của VCBF) với công ty Viet Capital Holdings Pte của Singapore với vốn điều lệ 8 tỷ đồng (được ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp phép hoạt động từ ngày 2/12/2005). Sau khi nhận giấy phép, VCBF đã ra mắt Quỹ VPF1 với quy mô vốn 200 tỷ đồng, tương đương 12,5 triệu USD. Ngoài VPF1, VCBF dự kiến tiếp tục huy động vốn từ các nhà đầu tư và lập thêm các quỹ tại Việt Nam, cũng như tại nước ngoài. VCBF sẽ chú trọng đầu tư vào các công ty có lịch sử kinh doanh tốt, có tiềm năng phát triển, được cổ phần hóa hoặc có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu, niêm yết cổ phiếu trong và ngoài nước. Trong năm 2007, Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Vietcombank - Cardif (VCB Cardif) sẽ được thành lập, với quy mô vốn 140 tỷ đồng, gồm 45% vốn góp của Vietcombank, 43% vốn Cardif và 12% vốn còn lại của SeaBank. VCB Cardif sẽ hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ; đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; giám định tổn thất; quản lý quỹ và đầu tư vốn; các lĩnh vực khác liên quan đến bảo hiểm nhân thọ. Hệ thống các công ty này hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực tài chính phi ngân hàng và đều có tư cách pháp nhân, hoạch toán độc lập với ngân hàng mẹ - Vietcombank. Đấy là những nỗ lực đáng kể để thực hiện chiến lược phát triển đến năm 2010 của Vietcombank : “trở thành một tập đoàn tài chính - ngân hàng, hoạt động đa năng hàng đầu Việt Nam và trở thành ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới”. Tuy nhiên, với tiềm lực tài chính hạn chế, số lượng các công ty con được thành lập còn ít và phần lớn hoạt động theo mô hình công ty TNHH 100% vốn của ngân hàng mẹ. Các công ty con do ngân hàng mẹ nắm giữ 100% vốn rất khó mở rộng quy mô, do phụ thuộc hoàn toàn về vốn của ngân hàng mẹ. Nhận thức được hạn chế này, trong kế hoạch cổ phần hóa của mình, Vietcombank đã quyết định sẽ cổ phần hóa tất cả công ty con của ngân hàng sau khi quá trình cổ phần hóa ngân hàng mẹ hoàn thành. 3.4. Tiềm lực tài chính Tiềm lực tài chính mạnh là điều kiện mang tính nền tảng của một tập đoàn kinh doanh, đặc biệt điều kiện này càng quan trọng hơn đối với tập đoàn tài chính - ngân hàng. Vietcombank tự hào là ngân hàng có hệ số an toàn vốn đạt trên chuẩn 8% theo thông lệ quốc tế (8,5% năm 2006), tổng vốn điều lệ lớn thứ hai trong toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam với 4.357 tỷ đồng (31/12/2006), dẫn đầu về hiệu quả hoạt động kinh doanh trên toàn hệ thống với lợi nhuận trước thuế đạt 3.894 tỷ đồng (năm 2006). Có thể nói, so với các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam thì Vietcombank có khả năng tài chính tốt, nhưng khả năng tài chính đó vẫn đang ở thời kỳ đầu phát triển, chưa thể tạo được nền tảng vững chắc cho việc hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng. Cổ phần hóa là phương thức chủ yếu để tăng quy mô tài chính mà Vietcombank đã lựa chọn cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước. Theo Quyết định phê duyệt phương án Cổ phần hóa Vietcombank mà Thủ tướng Chính phủ đã ký, vốn điều lệ sẽ là 15 nghìn tỷ đồng, đưa Vietcombank trở thành một đại gia trên thị trường tài chính Việt Nam, một ngân hàng tầm cỡ trong khu vực. Đó là nền tảng khá vững để Vietcombank tiến hành các bước hướng tới một tập đoàn tài chính - ngân hàng thành công. Iii - những đề xuất 1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Khi ngân hàng hay các TCTD khác phát triển mạnh và trở thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng, điều đó chứng tỏ các thị trường tài chính ở đó đã ở trình độ khá cao cùng với một thể chế và nền tảng pháp lý phát triển ở mức độ tương xứng mới có đủ khả năng hỗ trợ và tạo điều kiện tốt. Do vậy, đã đến lúc hệ thống pháp luật về ngân hàng nói riêng và thị trường dịch vụ tài chính nói chung cần có những bước “chuyển mình” mang tính đột phá, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập tài chính quốc tế. 1.1. Hành lang pháp lý Nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ, tạo điều kiện cho loại hình tập đoàn tài chính - ngân hàng được thiết lập và phát triển, Chính phủ cần ban hành hệ thống Luật và các văn bản dưới Luật điều chỉnh hoạt động của tập đoàn tài chính - ngân hàng. Các văn bản pháp lý cần thiết phải nói lên được các yêu cầu và điều kiện về các khía cạnh: Điều kiện đối với các ngân hàng muốn đăng ký thành lập tập đoàn tài chính - ngân hàng phải đáp ứng đủ các chỉ tiêu tài chính: hệ số an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ nợ xấu,…điều kiện minh bạch thông tin ngân hàng, đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín trên thế giới,… Những quy định điều chỉnh trực tiếp tập đoàn tài chính - ngân hàng: tài trợ vốn cho các đơn vị thành viên phi ngân hàng từ nguồn huy động trong dân cư và các tổ chức kinh tế, việc bán chéo sản phẩm, việc chia sẻ thông tin,… Hoàn chỉnh khung pháp lý về hoạt động mua bán, sáp nhập trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng, thông qua tỷ lệ nắm giữ cổ phần vốn tối thiểu, khi giao dịch phải qua phê chuẩn của NHNN và Bộ Tài chính, sáp nhập đến mức nào để đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh cạnh tranh, chế độ thuế, nguyên tắc hạch toán kế toán, định giá ngân hàng,… Mặt khác, Luật các TCTD dự kiến sẽ được trình Quốc hội xem xét và thông qua vào năm 2008 cần quy định rõ loại hình TCTD theo mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng, đây cũng là cơ sở pháp lý trực tiếp cho việc thành lập, quản lý và tiến hành hoạt động. 1.2. Cơ chế, chính sách khuyến khích của Chính phủ và Nhà nước Trước thực tế nước ta, chưa có một tập đoàn tài chính - ngân hàng nào, việc hình thành tổ chức này chưa có tiền lệ nên là một vấn đề mới mẻ. Để các nhà lãnh đạo các ngân hàng, các TCTD khác có sự hiểu biết về khái niệm mới này và có sự nhận thức được tầm quan trọng, tính tất yếu của nó, NHNN nên mở những diễn đàn, hội thảo khoa học có sự tham gia của các chuyên gia thấu đáo về vấn đề này. Từ đó, mỗi ngân hàng sẽ tự nghiên cứu để thấy vấn đề này là thiết thực đối với ngân hàng mình và đề ra phương hướng tự xây dựng tập đoàn (đối với các ngân hàng lớn) hoặc tự nguyện liên kết (đối với các ngân hàng nhỏ). Đẩy nhanh quá trình thực hiện lộ trình cổ phần hóa tất cả các NHTM gắn liền với hiện đại hóa công nghệ và trình độ quản lý… Thiết nghĩ, không nhất thiết Nhà nước nắm giữ trên 51% cổ phần. Bởi hai lý do: Nhà nước vẫn có khả năng chi phối với tư cách là cổ đông lớn nhất mà không cần nắm giữ đến 51% cổ phần; và việc nắm giữ trên 51% sẽ làm hạn chế quy mô vốn và khả năng mở rộng quy mô vốn của tổ chức tài chính này. Theo lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện nay, tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi NHTM CP của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng. Do vậy, cần nới lỏng hơn nữa tỷ lệ tham gia cổ phần, nhất là tỷ lệ tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài để các ngân hàng có thể tìm được những cổ đông chiến lược phù hợp, đồng thời có thể tạo động lực để các tổ chức tài chính nước ngoài tích cực thực hiện những cam kết hỗ trợ, nâng cao năng lực của các ngân hàng Việt Nam như: tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ nhân viên, truyền đạt kinh nghiệm quản lý cho cán bộ lãnh đạo,… Củng cố, phát triển các NHTM CP theo hướng tăng nhanh, mạnh tiềm lực tài chính gắn với nâng cao trình độ quản lý, điều hành ngân hàng, khuyến khích quá trình cạnh tranh tăng vốn điều lệ phù hợp với nhu cầu phát triển của ngân hàng. Khuyến khích các giao dịch mua lại và sáp nhập, nhất là đối với các ngân hàng yếu kém, có nguy cơ phá sản. Quá trình sáp nhập cũng có thể diễn ra giữa các NHTM NN sau cổ phần hóa với các NHTM CP nhằm tăng cường năng lực và quy mô cho các NHTM NN trong chiến lược phát triển lên thành tập đoàn tài chính - ngân hàng. 1.3. Công tác giám sát Sự hình thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng đặt ra rất nhiều thách thức cho cơ quan giám sát thị trường dịch vụ tài chính quốc gia. Trước khi có tập đoàn tài chính, mỗi lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm) do một cơ quan giám sát khác nhau. Trong việc giám sát mỗi lĩnh vực, các cơ quan giám sát có mục tiêu, phạm vi, quyền hạn, cách thức, phương pháp giám sát khác nhau. Nhưng tập đoàn là một chỉnh thể tổng hợp ba lĩnh vực kinh doanh nói trên. Do vậy, Một là, cần có một cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan giám sát, từ đó đưa ra những đánh giá chính xác và tổng thể trên phạm vi cả tập đoàn nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là giám sát hiệu quả tập đoàn tài chính. Hai là, đánh giá rủi ro một cách tổng thể cả tập đoàn, việc này sẽ giúp đánh giá rủi ro tập đoàn chính xác và đầy đủ hơn, mặt khác sẽ giúp Ngân hàng Nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý và giám sát các tập đoàn tài chính ngân hàng. Ba là, yêu cầu về thông tin nhằm đánh giá liệu các tập đoàn có đáp ứng được các yêu cầu về mặt luật pháp hay không. Muốn vậy, cần thành lập một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về báo cáo tổng hợp, đồng thời chịu trách nhiệm về các thông tin liên quan như thông tin chi tiết về cơ cấu tổ chức của tập đoàn, thông tin về quyền sở hữu, quyền quyết định, kế hoạch chiến lược của tập đoàn, v.v.. Nói tóm lại, phương pháp giám sát và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan giám sát ngành tài chính Việt Nam là điều kiện quan trọng, tạo tiền đề cơ bản về môi trường pháp lý, nhằm duy trì sự ổn định, an toàn của các tổ chức tài chính nói riêng và toàn hệ thống tài chính nói chung. 2. Về phía Vietcombank 2.1. Hoàn tất quá trình Cổ phần hóa Vietcombank đề ra phương hướng nhiệm vụ với phương châm: “tập trung thực hiện chương trình cổ phần hóa, tạo nền tảng cơ bản cho việc xây dựng tập đoàn tài chính - ngân hàng”. Theo đó, tập trung khẩn trương thực hiện những bước tiếp theo của quá trình cổ phần hóa theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN khi mà phương án cổ phần hóa đã Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ Quyết định số 1289/QĐ-TTg vào ngày 26/9/2007. 2.2. Cơ cấu lại tổ chức và quản lý của ngân hàng mẹ Cấu trúc tổ chức và quản lý hiện nay của Vietcombank không phù hợp với sự vận hành của một NHTM CP, tiền đề để xây dựng lên thành tập đoàn. Hội đồng quản trị với Ban điều hành không có sự tách bạch, phân định rõ ràng về nghĩa vụ cũng như trách nhiệm. Ban kiểm soát chưa hoạt động đúng chức năng là bộ phận độc lập với HĐQT tiến hành giám sát mọi hoạt động ngân hàng, mà lại trực thuộc HĐQT (một thành viên HĐQT là trưởng Ban kiểm soát), do vậy hiệu quả kiểm soát không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro hoạt động. Việc phân chia các phòng ban còn theo các nghiệp vụ kinh doanh, theo kiểu “cung cấp cho khách hàng cái mà mình có”, chưa dựa vào khách hàng, chưa xem khách hàng là trung tâm phục vụ. Hơn nữa, Vietcombank còn chưa chú trọng đến việc kiểm soát các loại rủi ro phức tạp trong kinh doanh ngân hàng: rủi ro rín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động,… ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐễNG HĐQT Ban kiểm soỏt Kiểm toỏn nội bộ Ban Tổng Giỏm đốc Uỷ ban quản lý rủi ro Hội đồng tớn dụng Hội đồng nhõn lực và đói ngộ Khối Ngõn hàng cỏ nhõn P. Kiểm tra, kiểm soỏt nội bộ P. Thẩm định tớn dụng P. Quản lý tớn dụng P. Cụng nghệ thụng tin P. Quản lý nguồn vốn ………. P. Kế toỏn P. Nhõn sự P. Hành chớnh P. Nghiờn cứu phỏt triển P. Thư ký phỏp chế P. Tư vấn tài chớnh….. ………. Văn phũng HĐQT Bộ phận Front office Bộ phận Back office Bộ phận Service office Khối Ngõn hàng doanh nghiệp Khối Dịch vụ tài chớnh Uỷ ban ALCO Uỷ ban quản lý rủi ro tớn dụng Theo ý kiến của người viết, Vietcombank nên cơ cấu lại tổ chức như sau: Đây là mô hình mà các ngân hàng tiên tiến trên thế giới như HSBC, Citigroup… đang áp dụng. Bởi, nó mang lại nhiều ưu điểm phù hợp với hoạt động của NHTM CP quy mô lớn. (1) Mô hình đảm bảo tuân thủ các chiến lược khách hàng Việc chia thành 3 bộ phận front office, back office, service office đã thể hiện chến lược của ngân hàng là tập trung vào khách hàng, luôn coi trọng tính chuyên nghiệp để nắm chắc đặc điểm, động thái của từng nhóm khách hàng, từ đó phục vụ khách hàng tốt nhất, tạo nên dấu ấn riêng của Vietcombank. Front office là nơi đón tiếp, tiếp nhận mọi nhu cầu của khách hàng, các nhu cầu này sẽ được phục vụ, giải quyết, thẩm định ở bộ phận chuyên nghiệp là back office. Và mọi hoạt động của ngân hàng được hỗ trợ từ bộ phận service office. Đây là một mô hình mà chưa một NHTM Việt Nam nào làm được, mặc dù đã có sự phôi thai ở một số NHTM CP như ACB, Sacombank,… (2) Phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các ban, phòng. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất. HĐQT là cơ quan quản lý, có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm Tổng giám đốc theo một quy trình nghiêm ngặt. Ban kiểm soát phải trực thuộc Đại hội đồng cổ đông nhằm có sự đánh giá và giám sát khách quan nhất. Ngoài ra, vai trò điều hành kinh doanh của Ban Tổng giám đốc được phân cấp rõ ràng với HĐQT, giữa Ban Tổng giám đốc với các phòng ban trực thuộc thông qua cơ chế làm việc rõ ràng. Với mô hình tổ chức này đã khắc phục được những yếu kém tồn tại trong chế độ làm việc lạc hậu do chế độ sở hữu Nhà nước để lại. (3) Mô hình tổ chức đảm bảo cơ chế giám sát rủi ro độc lập, kiểm soát lẫn nhau, nhằm cung cấp cho cấp trên những thông tin từ nhiều khía cạnh mà vẫn đảm bảo được tính chuyên nghiệp, chất lượng của thông tin. Mô hình quản trị rủi ro Đại hội đồng cổ đụng Kiểm toỏn nội bộ Ban kiểm soỏt HĐQT Uỷ ban quản lý rủi ro Ban Tổng Giỏm đốc Uỷ ban quản lý tài sản nợ cú (ALCO) Uỷ ban quản lý rủi ro tớn dụng - Rủi ro thanh khoản - Rủi ro hối đoỏi - Rủi ro lói suất Rủi ro tớn dụng Phũng kiểm tra, kiểm soỏt nội bộ Rủi ro hoạt động Phũng cụng nợ Khối phũng vốn Phũng Quản lý tớn dụng Phũng Cụng nghệ thụng tin Phũng Kế toỏn Trong cơ quan quyết định cao nhất là Đại hội đồng cổ đông, có Ban kiểm soát trực thuộc, thay mặt các cổ đông giám sát toàn bộ hoạt động của ngân hàng; nhằm đảm bảo mọi hoạt động của HĐQT, Ban điều hành tuân thủ các chiến lược, định hướng đã được Đại hội đồng cổ đông đề ra. Trong Ban kiểm soát, có bộ phận kiểm toán nội bộ. Mô hình hiện tại của Vietcombank, Ban kiểm soát lại thuộc HĐQT. Hơn nữa, ủy ban ALCO, Hội đồng tín dụng trung ương đều thuộc Ban điều hành là một điều bất hợp lý. Hơn nữa lại chưa có ủy ban riêng chịu trách nhiệm quản lý rủi ro tín dụng - rủi ro cơ bản trong kinh doanh ngân hàng. Trong mô hình quản trị rủi ro mới theo tiêu chuẩn quốc tế, các bộ phận quản lý rủi ro sẽ báo cáo trực tiếp lên HĐQT của ngân hàng và thông báo cho Tổng Giám đốc về các hoạt động của mình. HĐQT là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng trước Đại hội đồng cổ đông trước mọi vấn đề có liên quan đến rủi ro của ngân hàng. Chính vì thế, ủy ban quản lý rủi ro (trong đó có 2 bộ phận chuyên trách là ủy ban ALCO, ủy ban quản lý rủi ro tín dụng) trực thuộc HĐQT. Còn phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ trực thuộc Ban Giám đốc, độc lập với hoạt động hàng ngày; phối hợp với các phòng ban khác để phát hiện, phòng ngừa các rủi ro hoạt động để báo cáo cho Ban Giám đốc, từ đó báo cáo cho HĐQT những thông tin liên quan đến rủi ro hoạt động. Đây là một mô hình quản trị rủi ro hiệu quả đã được thực nghiệm chứng minh bởi các ngân hàng lớn trên thế giới. Vietcombank với định hướng trở thành một tập đoàn tài chính - ngân hàng, hoạt động với quy mô lớn hơn, thì cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro phức tạp hơn; trong khi đó, hệ thống quản trị rủi ro hiện tại của Vietcombank đang trở nên lỗi thời, mất tác dụng, không phù hợp với hoạt động của một NHTM CP; thì yêu cầu áp dụng mô hình quản trị rủi ro mới càng trở nên cấp thiết. 2.3. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng Vietcombank với thế mạnh là hoạt động đối ngoại, nhất là tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối. Do vậy, Vietcombank cần xác định đó là “sản phẩm lõi” của mình và có chiến lược phát triển rõ ràng, rồi từ đó thực hiện kế hoạch đa dạng hóa sản phẩm. Vietcombank cần thực hiện kế hoạch đa dạng hóa sản phẩm theo xu hướng chung của các tập đoàn tài chính trên thế giới là tập trung vào khách hàng, đối với mỗi đối tượng khách hàng có sự phân chia theo nghiệp vụ ngân hàng. Điều này được thực hiện thành công khi áp dụng mô hình tổ chức mới (đã được trình bày ở phần 2.3 của chương này). Theo đó, trong bộ phận front office, được chia ra 3 mảng hoạt động mà cơ sở phân chia là dựa vào khách hàng: khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp, dịch vụ tài chính. Giỏm đốc Khối Ngõn hàng Cỏ nhõn SẢN PHẨM Thẻ thanh toỏn (quốc tế, nội địa) Tiền gửi & Đầu tư Tớn dụng cỏ nhõn Bảo hiểm HỖ TRỢ KấNH PHÂN PHỐI Hỗ trợ Nghiệp vụ &IT Quản lý rủi ro Nhõn sự Marketing &PR Giỏm đốc Cỏc chi nhỏnh Giỏm đốc Ngõn hàng Điện tử Ngõn hàng đối tỏc Mô hình khối ngân hàng cá nhân Mô hình khối ngân hàng doanh nghiệp Giỏm đốc Khối Ngõn hàng Doanh nghiệp SẢN PHẨM Quản lý tiền mặt HỖ TRỢ KấNH PHÂN PHỐI Hỗ trợ Nghiệp vụ &IT Quản lý rủi ro Nhõn sự Marketing &PR Giỏm đốc Cỏc chi nhỏnh Giỏm đốc Ngõn hàng Điện tử Ngõn hàng đối tỏc Thanh toỏn quốc tế Tớn dụng doanh nghiệp Tài chớnh doanh nghiệp Tiền tệ & Nguồn vốn Bằng cách tổ chức này, Vietcombank có khả năng cung cấp một dịch vụ trọn gói chất lượng cao hơn cho từng đối tượng khách hàng cụ thể. Đây là nền tảng cho sự phát triển của tập đoàn khi có sự phối kết hợp giữa các lĩnh vực tài chính khác nhau, khách hàng sẽ được phục vụ một cách toàn diện, mặt khác, ngân hàng có thể sử dụng hiệu quả tối đa các nguồn lực sẵn có, giúp phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. 2.4. Cơ cấu lại các công ty con Sau khi tiến hành xong quá trình cổ phần hóa ngân hàng mẹ - Vietcombank, đó là lúc cần tiến hành cổ phần hóa các công ty con trực thuộc. Trong mối quan hệ giữa ngân hàng mẹ và các công ty con, cần đảm bảo vai trò chi phối của ngân hàng mẹ đối với các công ty con thông qua mối quan hệ tài chính. Các công ty con là các pháp nhân độc lập. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty con, công ty liên doanh liên kết để cùng với ngân hàng mẹ cung cấp các gói sản phẩm dịch vụ đa dạng, hoàn hảo, các giải pháp tài chính hiệu quả, sáng tạo, mang lại các giá trị gia tăng mới, giúp thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Qua đó, thực hiện sứ mệnh của toàn bộ hệ thống Vietcombank “luôn mang đến cho khách hàng sự thành đạt”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXây dựng mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam và kinh nghiệm từ một số nước Châu Âu.doc
Luận văn liên quan