Đề tài Xu hướng của ngành dịch vụ giải trí điện ảnh Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Từ khi ra đời đến nay, dịch vụ giải trí luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, đóng vai trò đắc lực trong việc thỏa mãn các nhu cầu về tinh thần của con người.Khi đời sống ngày càng được nâng cao, nhu cầu giải trí cũng ngày một đa dạng phong phú, đòi hỏi các ngành dịch vụ giải trí phải phát triển nhanh chóng để kịp thời đáp ứng các nhu cầu đó.Ở một số nước, dịch vụ giải trí đã phát triển ở mức độ cao, trở thành một trong những ngành trọng điểm của nền kinh tế, đóng góp một phần quan trọng trong tổng sản phẩm công nghiệp của toàn nền kinh tế. Trong số các loại hình dịch vụ giải trí, không thể không kể đến ngành công nghiệp điện ảnh, ngành được coi là loại hình nghệ thuật ra đời muộn nhất nhưng đã có những bước phát triển nhanh chóng để trở thành một trong những ngành lớn mạnh và mang lại lợi nhuận lớn nhất hiện nay. Lịch sử điện ảnh tuy chưa được lâu xong đã chứng kiến sự ra đời của những tác phẩm kinh điển, có sức ảnh hướng lớn đến thị hiếu thưởng thức nghệt huật cũng như phương thức tiếp cận các dịch vụ giải trí cuat người tiêu dung.Các bộ phim bom tấn đem về nguồn lợi nhuận khổng lồ cũng như các kinh đô điện ảnh nổi tiếng trên thế giới giờ đây đã trở thành một phần tất yếu trong đời sống nghệ thuật.Sự phát triển của loại hình dịch vụ giải trí này, tuy nhiên lại không thống nhất và đồng đều ở mỗi nước khác nhau. Ở khu vực Châu Á, ngành điện ảnh có phần tụt hậu so với các nước phương Tây, tuy nhiên gần đây, cũng đã có những bước tiến đáng kể, bắt kịp với nền điện ảnh thế giới về cả phương diện nghệ thuật cũng như doanh thu. Tại Việt Nam, tuy vậy, ngành điện ảnh lại chưa phát triển xứng tầm với tiềm năng hiện có. Trong xu thế chung của thế giới ngày càng coi trọng phát triển các ngành dịch vụ, Việt nam tất yếu phải tìm cách thúc đẩy ngành dịch vụ nói chung và ngành dịch vụ điện ảnh nói riêng. Trong những điều kiện thuận lợi cũng như những hạn chế của Việt Nam, cần phát triển ngành điện ảnh theo hướng đi nào để tận dụng được tối đa các nguồn lực của đất nước cũng như nâng cao trình độ cung cấp ngành dịch vụ giải trí ở Việt Nam. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi sau đây sẽ trả lời câu hỏi nêu trên qua việc phân tích thị trường điện ảnh tại Việt Nam, các rào cản đối với điện ảnh Việt Nam khi xâm nhập thị trường thế giới, từ đó đưa ra xu hướng phát triển cho điện ảnh Việt Nam trong những năm tới. Trong quá trình nghiên cứu, do hạn chế về kiến thức, khả năng cũng như thời gian, tiểu luận còn có những điểm thiếu sót, do vậy rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, nhằm năng cao chất lượng bài tiểu luận.

doc29 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3404 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xu hướng của ngành dịch vụ giải trí điện ảnh Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loại phim kinh dị cũng được phát triển trong thời gian này.        Từ  thập niên 1980 trở đi, sự phát triển của công nghệ VCR đã tạo ra một loạt các phim “bom tấn”  với nhiều kỹ xảo hấp dẫn công chúng xem phim. Những “bon tấn” đầu tiên phải kể đến là Jaws, hay Star Wars. Năm 2009 được coi là năm làm ăn phát  đạt của ngành công nghiệp điện ảnh thế  giới với hàng loạt những bộ phim bom tấn và  mang lại doanh thu kỷ lục. Công nghệ làm phim 3D đã tạo một bước nhảy đột phá về loại hình giải trí này. Tuy nhiên giao đoạn này nền công nghiệp Điện ảnh gặp phải sự cạnh tranh lớn của một công nghệ mới, băng VCR.      Ngoài các dịch vụ giải trí trong các lĩnh vực trên còn có thể thấy sự phát triển các dịch vụ giải trí trong các lĩnh vực khác như: thể  thao, truyền hình, truyền thông… Việt Nam      Dịch vụ giải trí ở Việt Nam là một ngành còn mới mẻ và có sự phát triển rất mạnh mẽ những năm gần đây.      Trước những năm 30 của thế kỷ trước, dịch vụ giải trí đã xuất hiện. Tuy nhiên dịch vụ giải trí chỉ đơn thuần là các trò chơi dân gian, các nhóm hát dân ca hay các nhóm mãi võ. Giai đoạn này dịch vụ giải trí chủ yếu phục vụ tầng lớp quan lại, chức sắc.      Từ  những năm 30 đến 86 của thế kỷ 20 các dịch vụ giải trí bắt đầu có bước phát triển. Đối tượng phục vụ giải trí cũng rộng rãi hơn, hầu hết mọi người đều có thể được hưởng dịch vụ, tuy nhiên nhu cầu còn chưa cao hoặc do khó khăn về kinh tế cũng như đang trong giai đoạn chiến tranh. Thời kỳ này bắt đầu phát triển đài truyền thanh, các đoàn ca múa nhạc, phim ảnh… tổ chức các buổi biểu diễn, chiếu phim lưu động. Nền kinh tế khi đó còn khó khăn và mang nặng cơ chế bao cấp nên cũng như các ngành khác, ngành dịch vụ giải tríphát triển rất chậm thậm chí còn đi xuống.      Từ  sau thời kỳ đổi mới đến nay, nền kinh tế  Việt Nam phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của dịch vụ giải trí. Khi kinh tế phát triển nhu cầu giải trí tăng lên, các dịch vụ giải trí cũng trở nên phong phú và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Dịch vụ giải trí đã phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Các tổ chức, đơn vị làm dịch vụ giải trí giai đoạn trước hoặc giải thể hoặc thay đổi hình thức, cơ chế hoạt động để tồn tại, cạnh tranh và phát triển. Bắt đầu có các đơn vị tư nhân làm dịch vụ giải trí.      Các loại hình dịch vụ giải trí chủ yếu như  sau: Khu vui chơi giải trí Biểu diễn nghệ thuật Phim ảnh Dịch vụ giải trí qua internet, điện thoại, truyền hình Games… Khu vui chơi giải trí       Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều các khu vui chơi giải trí  được xây dựng.Các khu vui chơi này thường gắn liền với quang cảnh thiện nhiên, các trò chơi hay các giá trị văn hóa.Đi liền với các dịch vụ vui chơi giải trí trên là các dịch vụ tổ chức các tour du lịch.Một số khu vui chơi điển hình như: Khu du lịch suối tiên, Công viên văn hóa Đầm Sen, Thảo Cầm Viên, công viên nước hồ tây…Vào những dịp nghỉ lễ hay vào cuối tuần lượng khách tới giải trí tại các khu vui chơi giải trí tăng cao. Các khu vui chơi giải trí cũng liên tục đầu tư, đổi mới các dịch vụ giải trí để thu hút lượng khách, chẳng hạn: Nhiều chương trình vui chơi giải trí  mới lần đầu tiên được Đầm Sen thực hiện  trong dịp 2/9 vừa qua là "Du hành cùng những chú voi", "Du thuyền câu cá sấu", "Hội ngộ ảo thuật gia"... Biểu diễn nghệ thuật       Các chương trình biểu diễn nghệ thuật diễn ra dày  đặc khắp nơi từ thành thị đến nông thôn.Hình thành các tổ chức, công ty chuyên tổ chức sự kiện biểu diễn nghệ thuật, tổ chức các tour lưu diễn với nội dung phong phú: biểu diễn âm nhạc, ca nhạc, kịnh, xiếc, ảo thuật … Phim ảnh       So với thế giới, bộ môn nghệ thuật này xuất hiện và phát triển ở Việt Nam gần như  không chậm hơn.Thời gian gần đây các dịch vụ  giải trí phim ảnh phát triển rất nhanh.Ngoài các hãng phim của nhà nước đã có các công ty tư nhân  đứng ra làm và phân phối phim. Thể loại và  nội dung phim ảnh cũng đa dạng đáp ứng theo xu hướng phát triển của nhu cầu giải trí. Các rạp chiếu phim cũ được cải tạo lại, đồng thời mở thêm nhiều rạp chiếu phim mới với các trang thiết bị hiện đại về hình ảnh, âm thanh như âm thanh vòm, phòng chiếu phim 3D… nhằm đáp ứng thị hiếu thưởng thức phim ảnh ngày càng cao. Dịch vụ giải trí qua internet, điện thoại, truyền hình       Hiện nay, nhờ công nghệ phát triển, internet và điện thoại, truyền hình đã xóa đi khoảng cách về không gian và thời gian. Theo đó các dịch vụ giải trí thông qua internet và điện thoại cũng phát triển: chơi games, nghe nhạc, xem phim trực tuyến …Truyền hình từ chỗ phát số ít kênh với thời lượng hạn chế đã phát triển mạnh: truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số với số kênh và thời lượng không hạn chế, các sự kiện được tường thuật trực tiếp và truyền hình trên toàn thế giới.  XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐIỆN ẢNH Ở  VIỆT NAM: Điện ảnh là một khái niệm lớn bao gồm các bộ phim tạo bởi những khung hình chuyển động ; kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng để tạo thành một bộ phim; hình thức nghệ thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng ngành công nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn làm, quảng bá và phân phối phim ảnh      Khi mới được phát minh, điện ảnh chỉ được coi là các bộ phim ghi lại cảnh sinh hoạt đời thường, nhưng chỉ ít lâu sau, các bộ phim đã  được tạo ra với những ý đồ văn hóa nhất định và nhanh chóng trở thành một loại hình nghệ thuật quan trọng. Điện ảnh cũng trở thành một hình thức giải trí không thể thiếu trong đời sống thường nhật, đôi khi còn phát triển thành những hiện tượng văn hóa hoặc được sử dụng như các phương tiện tuyên truyền.  Thực trạng của nền điện ảnh: Thị  trường thế giới:        Thập niên 2000 mở đầu với sự nổi lên của dòng phim tài liệu với các bộ phim của đạo diễn Michael Moore như Bowling for Columbine và Fahrenheit 9/11. Sau thành công của những bộ ba phim như Bố già, Indiana Jones ở các thập niên trước, trào lưu làm các bộ phim có nhiều phần trở nên thịnh hành ở Hollywood như Ma trận, Cướp biển Caribe... Trong số đó, một bộ ba phim đã đạt được thắng lợi vang dội về cả doanh thu và nghệ thuật là loạt phim Chúa tể của những chiếc nhẫn (The Lord of The Rings) của đạo diễn Peter Jackson.          Điện ảnh thế giới năm qua vẫn tiếp tục cho ra mắt những siêu phẩm, thu hút người xem đến rạp ngày càng đông. Bên cạnh những phim hài, tình cảm, hành động…  thường thấy thì năm nay còn có những điểm khác biệt. CGI áp đảo      Ngày nay CGI (Computer-Generated Imaging - dựng hình ảnh bằng máy tính) đã trở thành một phần không thể thiếu. Loại phim hoạt hình máy tính (hoạt hình 3D) đang lấn lướt phim hoạt hình truyền thống và là một tâm điểm của dòng phim thương mại (với hàng loạt những bộ phim thành công với doanh thu hàng trăm triệu USD): The Incredibles; Sherk I,II, III; Ice Age.Và năm nay Bee Movie (Ong vàng phiêu lưu ký) cũng khiến bao khán giả xuýt xoa trầm trồ về sự tinh tế trên từng chiếc cánh của những chú ong xinh đẹp.Ngay cả trong những bộ phim truyện, yếu tố vi tính cũng vẫn được tận dụng để tăng sức hấp dẫn cho bộ phim. Các bộ phim như Spiderman, The Matrix, Lord of the Rings, Blade và Star Wars đều có các nhân vật dựng bằng máy tính.      Điều này đã khiến các diễn viên yên tâm hơn khi thực hiện những pha nguy hiểm và đẩy những diễn viên đóng thế vào tình trạng thất nghiệp. Những nhà làm phim của Walt Disney Enchanted (chuyện thần tiên ở New york) đã sử dụng công nghệ quét 3D Realscan tạo ra các nhân vật 3D đóng thế và các nhân vật thật Giselle (Amy Adams), Robert (Patrick Dempsey) và Queen Narissa (Susan Sarandon) khiến bộ phim phong phú rực rỡ mà lại rút ngắn thời gian quay và giảm cả chi phí sản xuất bộ phim.      Tuy nhiên, việc lạm dụng các kỹ xảo vi tính đặt Hollywood trước một thử thách mới về việc đánh giá chính xác vai trò của con người trong diễn xuất cũng như những biểu cảm trên gương mặt của những hình mô phỏng con người Phim 3D lên ngôi      Công nghệ chuyển hóa hình ảnh từ 2 chiều thành 3 chiều  đã cung cấp cho khán giả những trải nghiệm thú  vị. Những bộ phim 3D tuy có kinh phí sản xuất lớn nhưng luôn luôn thu hút được sự chú ý của khán giả.Phim 3D được kỳ vọng là tương lai của nền điện ảnh .Bộ Avatar được coi là cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp sản xuất phim.Avatar đã mở ra một bước ngoặt mới cho công nghệ làm phim - công nghệ RealD 3D. Là một bộ phim hành động, khoa học viễn tưởng, tất cả hình ảnh trong phim đều do máy tính thực hiện, nhưng khi kết hợp những quái vật, rồng bay, hay những máy bay với nhau, nó đều toát lên tính chân thực hấp dẫn. Công nghệ tối tân phần nào cũng giúp sức đẩy nội dung phim lên một tầm nhất định. Avatar đã thành công khi đoạt 2 giải Oscar cùng doanh thu 1,6 tỉ USD tính đến thời điểm này. Các nhà phê bình điện ảnh đều đánh giá Avatar là “kỳ quan của mọi kỳ quan”. Nhờ đó, đạo diễn James Cameron cũng tự tin tuyên bố: “3D sẽ là tương lai của điện ảnh”. Sau hiện tượng ăn khách của phim Avatar-3D, thì Alice ở xứ sở thần tiên -3D hứa hẹn sẽ khuấy động trí tưởng tượng của người xem trên toàn thế giới.Không chỉ dừng lại ở đó c ơn sốt phim 3D chắc chắn sẽ tiếp tục với phần 3 của Toy story, phần 4 của Shrek và phần 7 của Saw. Siêu người hùng Iron man sẽ tiếp tục sứ mạng đầy vinh quang với Iron man 2 qua diễn xuất của ngôi sao phim Wrestler Mickey Rourke. Thế giới game cũng không nằm ngoài vòng phủ sóng, phần tiếp theo của các phim làm từ game như Meet the fockers, Cats & dogs và The abd lieutenant hi vọng hốt bạc nhờ vào những ảnh hưởng tốt có được từ trước đó. Trong khi đó, Hãng Disney đang toan tính thu phục tín đồ game bằng một phim chuyển thể từ trò chơi được nhiều người biết đến là Prince of Persia. Nền điện ảnh Châu Á phát triển mạnh      Sau những thế lực điện ảnh Trung Quốc tạo được chỗ đứng ở Mỹ, thì đột phá tiếp theo của điện ảnh Châu Á chính là điện ảnh  Hàn Quốc trên màn ảnh Mỹ... Hàn Quốc được biết đến với những bộ phim có cốt truyện hay, được thực hiện theo bài bản phim Mỹ.      Nhiều hãng phim lớn của Mỹ đã nghĩ ra một phương pháp khá hữu hiệu để tranh thủ sự sáng tạo của nền điện ảnh trẻ này: họ mua bản quyền kịch bản của nhiều bộ phim Hàn Quốc để về dựng lại theo cách Mỹ.      Warner Bros đã mua bản quyền của Il Mare và Kết hôn với mafia, DreamWorks sẽ dựng lại Cô nàng ngổ ngáo và Câu chuyện hai chị em, Miramax/Dimension sẽ tung ra "version" Mỹ của Vợ tôi là găngxtơ và Thầy giáo Kim, còn Universal sẽ khai thác kịch bản của Old boy... Dù thế nào chăng nữa, điện ảnh Hàn Quốc cũng đã trực tiếp và gián tiếp gia tăng sự ảnh hưởng của mình tại thị trường phim lớn và cũng khắc nghiệt nhất thế giới này. Phim hoạt hình ngày càng tăng sức hút      Hoạt hình từng chỉ là mảng phim dành cho thiếu nhi và chiếm một thị phần nhỏ trong nền công nghiệp điện ảnh. Nhưng với sự phát triển không ngừng về công nghệ làm phim cũng như những cốt truyện độc đáo, ngày càng có nhiều phim hoạt hình thống trị các bảng xếp hạng doanh thu.      Phải nói rằng thị trường phim hoạt hình đạt được thành công như ngày nay phần nào là nhờ vào hiệu  ứng từ các trò chơi điện tử. Nhiều thế  hệ người lớn quen với thế giới 3D của các trò chơi này giờ đây cũng cảm thấy thích thú  khi xem những bộ phim hoạt hình vốn được coi là sản phẩm giải trí dành cho thiếu nhi. Ví  dụ như Coraline, bộ phim hoạt hình 3D hết sức tinh tế kể về một cô gái mạo hiểm, đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của khán giả người lớn và thu về 75,2 triệu USD riêng ở Bắc Mỹ. Trào lưu phim làm lại      Hiện nay khán giả yêu điện ảnh thường nghe rất nhiều các thuật ngữ đã trở nên quen thuộc trên các phương tiện thông tin như “phim làm lại”,  “phim xây dựng lại”, “phim sản xuất lại”  hay “làm lại phim”… Những thuật ngữ này không hề xa lạ, chúng biểu thị cho một dòng phim đã xuất hiện khá lâu ở nhiều nền điện  ảnh trên thế giới, đó là dòng phim làm lại.Cơ  sở đầu tiên cho một bộ phim gốc được nhào đi nhào lại, đấy là bản thân nó phải là tác phẩm đã được khẳng định về thành công nghệ thuật lẫn doanh thu phòng vé. Có như vậy thì các nhà sản xuất mới chịu bỏ tiền ra “xào nấu” lại. Vì thế phim làm lại muốn đạt đến độ hay hoặc muốn vượt mặt phim gốc là điều không hề dễ dàng gì. Có thể nói phim gốc là một phần quảng bá và bảo chứng thành công cho phim làm lại, nhưng đồng thời nó cũng là chướng ngại vô cùng khó khăn nếu phim làm lại không đủ sức vượt qua nó.         Đối với một tác phẩm điện ảnh được xây dựng lại từ một bộ phim truyền hình thì  các nhà sản xuất và êkip thực hiện sẽ gặp rất nhiều chướng ngại và khó khăn. Vì về  cơ bản phim truyền hình kéo dài về thời gian, không gian, sự kiện, tình huống, bối cảnh, nhân vật khá lớn… Do vậy trong một bộ phim nhựa vài ba tiếng đồng hồ các nhà làm phim không thể  bê nguyên dung lượng khổng lồ ấy vào phim của mình. Họ phải biết lựa chọn bối cảnh hợp lý  nhất, sự kiện cần thiết nhất, các chi tiết và  tình huống đắt nhất, những nhân vật thực sự nổi bật và ấn tượng… trong phim truyền hình để  đưa vào phim của mình. Trong quá trình làm lại bộ  phim các tác giả cũng có thể lược bỏ  bớt hoặc thêm thắt quá trình diễn biến trong phim truyền hình sao cho hợp lý nhất trong bản phim điện  ảnh. Do đó phim điện ảnh làm lại không sao chép một cách y nguyên từ phim truyền hình mà chỉ lấy một phần ý tưởng, bối cảnh, nhân vật và  phần cốt chính của phim. Chúng ta đã từng biết đến những bộ phim truyền hình nhiều tập nổi tiếng của Mỹ như Wild Wild West (Miền Tây hoang dã), Mission Impossible (Nhiệm vụ bất khả thi), Charlie’s Angels (Những thiên thần của Charlie), Sex and the city (Tình dục là chuyện nhỏ), Hanna Montana… đã từng làm công chúng Mỹ và khán giả yêu điện ảnh thế giới rất ngưỡng mộ và say sưa ngồi trước máy thu hình dõi theo từng tập. Khi các nhà làm phim Hollywood biến chúng thành các tác phẩm điện ảnh thì chúng cũng thu được thành công vang dội không kém phiên bản phim truyền hình. Thậm chí những phim điện ảnh làm lại này còn thành công hơn so với nguyên tác phim truyền hình về chất luợng nghệ thuật và gây sức hút lớn đối với khán giả.           Đối với các nước châu Á có nền điện  ảnh phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông…  phim làm lại của họ cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể đặc biệt là phim truyền hình làm lại. Có thể kể đến các tác phẩm  điện ảnh làm lại đình đám những năm gần  đây, như phim Đầu danh trạng (2007) của Trần Khả Tân làm lại từ phim Thích mã phiên bản 1973 của đạo diễn Hồng Kông Trương Triệt, The Connected của Trần Mộc Thắng làm lại từ phim Cellular của Hollywood, Ông bà Smithcủa điện ảnh Mỹ, Hàn Quốc cũng đã tái sản xuất dưới phiên bản tiếng Hàn với cái tên Nữ thám tử xinh đẹp… Phim điện ảnh làm lại ở các nền điện ảnh châu Á xuất hiện rất ít không ồ ạt như Hollywood, nhưng phim truyền hình thì được tái sản xuất rất nhiều. Chúng ta đều đã quen thuộc với những bộ phim kiếm hiệp chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Kim Dung như Anh hùng xạ điêu, Thiên long bát bộ, Tiếu ngạo giang hồ, Ỷ thiên đồ long ký, Lộc đỉnh ký… hay các phim Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Tây du ký, Hồng lâu mộng, Tam quốc diễn nghĩa…  được các nhà làm phim Trung Quôc, Hồng Kông nhào đi nhào lại và thu được những thành công đáng kể. Và có lẽ các nhà chế tác phim Trung Quốc, Hồng Kông chưa có ý định ngừng nghỉ tái sản xuất các phim này.        Với các nước châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Phillipin, Hồng Kông, Trung Quốc… thường xuyên nhìn ngó các phim truyền hình của nhau. Nếu một bộ  phim của nước nào gây được tiếng vang thì ngay lập tức các nhà làm phim nước khác sẽ lên kế  hoạch mua bản quyền sản xuất lại. Đầu năm 2009 khắp cả châu Á lên “cơn sốt” với bộ  phim truyền hình làm lại của Hàn Quốc Boys Over Flowers. Tác phẩm gây ra làn sóng hâm mộ khổng lồ mà đến tận bây giờ vẫn chưa dứt. Hàng loạt các sản phẩm ăn theo phim bán chạy rất nhanh, thổi bùng nhiều diễn viên vô danh thành người nổi tiếng. Đây có thể nói là bộ phim làm lại thành công nhất của điện ảnh châu Á từ trước đên nay. Trước đó bộ phim này cũng đã được sản xuất hai lần, lần đầu tiên là phiên bản của Nhật, sau đó là Đài Loan. Nếu kể đến phiên bản của Trung Quốc và Phillipin mới được làm lại thì tổng cộng là sáu phiên bản, nhưng Boys Over Flowers của Hàn Quốc vẫn là bộ phim làm lại thành công nhất cho đến thời điểm này. Xu hướng sản xuất đi sản xuất lại phim truyền hình lẫn nhau của các nước châu Á hầu như chưa có dấu hiệu thoái trào. Hiện tại nó vẫn là trào lưu gây nhiều ảnh hưởng nhất đối với nhiều nền sản xuất phim truyền hình ở các nước châu Á.   Thị  trường Việt Nam:      Điện ảnh Việt Nam bắt đầu từ năm 1923, khi xuất hiện bộ phim đầu tiên Kim Vân Kiều do người Pháp và người Việt cùng thực hiện. Trước đó, điện ảnh đã du nhập vào Việt Nam từ cuối thập niên 1890. Từ năm 1925 xuất hiện những hãng phim Việt Nam, có những bộ phim Việt Nam hợp tác với nước ngoài. Đến thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, ở miền Bắc với những diễn viên như Trà Giang, Thế Anh, đạo diễn Hải Ninh, Nguyễn Hồng Sến đã thực hiện những bộ phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nổi gió, Em bé Hà Nội... ghi dấu ấn cho nền điện ảnh Cách mạng. Miền Nam với Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Lê Dân, Lê Mộng Hoàng đã thực hiện Chân trời tím, Loan mắt nhung, Người tình không chân dung... đạt được doanh thu cao và giành những giải thưởng trong các liên hoan phim châu Á.      Sau năm 1975, các đạo diễn Lê Hoàng Hoa, Nguyễn Hồng Sến tiếp tục thực hiện những bộ phim như Ván bài lật ngửa, Cánh đồng hoang... thu hút được nhiều khán giả, giành được giải thưởng trong những liên hoan phim quốc tế. Vượt qua giai đoạn khủng hoảng của thập niên 1990, gần đây điện ảnh Việt Nam lấy lại được khán giả với những bộ phim ăn khách như Gái nhảy, Những cô gái chân dài... Một số bộ phim Việt Nam đã được khán giả nước ngoài biết tới, trong đó nhiều phim của các đạo diễn Việt kiều. Mùi đu đủ xanh của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng đã được đề cử giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1994.       Năm 2009 có thể xem là một năm đáng nhớ  của điện ảnh Việt Nam. Chỉ xét về  số lượng và tần số xuất hiện của những bài báo về điện ảnh trên các báo in, báo  điện tử, các phương tiện thông tin đại chúng khác không kém bất cứ một loại hình nghệ thuật nào, thậm chí còn vượt trội rất nhiều trong thời gian có  các sự kiện điện ảnh như Liên hoan phim Quốc gia, Giải Cánh diều vàng, những dịp phim mới sản xuất ra mắt khán giả hoặc các phim Việt Nam được chọn dự thi hay đoạt giải tại các Liên hoan...             Mà điện ảnh, cũng như bất cứ một nghệ thuật nào, cần làm nên những “đợt sóng” trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, cho nên, khi tạo được những “sự kiện đình đám” cũng là lúc điện ảnh đang có sự cựa mình…             Điểm nhấn đậm nét nhất của điện ảnh năm 2009 là sự thành công ở trong nước và quốc tế của nhiều bộ phim do Nhà nước tài trợ hoặc đặt hàng. Đầu tiên phải kể đến phim Đừng đốt (đạo diễn Đặng Nhật Minh, hãng phim Hội Điện ảnh Việt Nam sản xuất). Hiếm có bộ phim đặt hàng nào lại vừa làm tốt nhiệm vụ chính trị, lại vừa khiến khán giả xúc động như Đừng đốt. Xây dựng trên chất liệu cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm - cuốn sách lần đầu tiên được xuất bản tại VN năm 2005 đã làm rung động hàng triệu con tim khán giả, trở thành một hiện tượng xã hội, sau đó được tái bản nhiều lần và được dịch để phát hành ở nhiều nước. Ra mắt khán giả trong dịp kỷ niệm 34 năm Đại thắng Mùa xuân năm 2009, phim Đừng đốt có sức lay động khi tái hiện những tháng ngày sống, chiến đấu và hy sinh của BS Đặng Thùy Trâm, về số phận cuốn nhật ký của chị và những đổi thay trong cuộc đời người lính Mỹ sau khi đọc nhật ký của Chị. Đừng đốt cũng đạt được những thành công ở trong nước và quốc tế: Giải Bông sen vàng, Giải Biên kịch xuất sắc và giải của BGK Báo chí tại LHPVN lần thứ XVI, Giải A của Bộ Quốc phòng dành cho các tác phẩm VHNT về đề tài Lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng 5 năm (2004-2009); Giải Khán giả bình chọn tại LHPQT Fukuoka - Nhật Bản. Phim cũng được Hội đồng Quốc gia chọn gửi đi tham dự giải Oscar năm 2009 của Viện Hàn lầm Điện ảnh Mỹ.               Một điểm  nhấn xứng đáng khác trong bức tranh điện ảnh 2009 được tạo nên bởi các hãng phim tư nhân. Theo thời điểm quyết định cấp phép phổ biến, có 4 phim được xuất xưởng trong năm 2009 là Chuyện tình xa xứ, Huyền thoại bất tử, 14 ngày phép và Bẫy rồng - cả 4 phim đều của các đạo diễn Việt kiều.   Nếu như những mùa phim Tết trước đây thường chỉ có 3 bộ phim tư nhân “làm mưa làm gió” trên màn ảnh từ Nam chí Bắc thì mùa phim Tết Canh Dần tới đây, có đến 5 bộ phim để khán giả lựa chọn. Ngoài Bẫy rồng sẽ còn “đứng  lai rai” ở rạp, sẽ có bốn phim mới chuẩn bị ra mắt công chúng là: Những nụ hôn rực rỡ (Hãng phim BHD, đạo diễn Nguyễn Quang Dũng), Công chúa Teen và ngũ hổ tướng (Hãng phim Phước Sang, đạo diễn Lê Lộc), cùng hai phim của Hãng phim Thiên Ngân là Nhật kí Bạch Tuyết (đạo diễn Lê Bảo Trung) và Khi yêu đừng quay đầu lại (đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh). Ba bộ phim đầu thuộc loại phim tình cảm hài nặng gam màu giải trí, chủ yếu dành cho khán giả trẻ - tầng lớp thượng đế đông đảo nhất tại các rạp chiếu phim. Riêng Khi yêu đừng quay đầu lại là bộ phim mà nhà sản xuất muốn kết hợp yếu tố hấp dẫn của tình ái trong sự bí ẩn liêu trai với yếu tố triết lý về ý nghĩa cuộc sống, cái chết và tình yêu đối với con người. Không thể nói rằng các phim tư nhân đã đạt được chuẩn mực nghề nghiệp của một tác phẩm điện ảnh, nhưng có thể khẳng định rằng những bộ phim này đã đáp ứng thị hiếu của số đông khán giả thường xuyên của các rạp chiếu phim hiện nay tức là nhắm đúng mục tiêu của nhà sản xuất: thu hút thật đông người xem trong mùa phim Tết. Bởi vậy, tuy chưa có được những tác phẩm xuất sắc nhưng phim tư nhân năm 2009 đã có những bước tiến đều cả về số lượng và chất lượng.              Điểm nhấn cuối cùng của điện ảnh 2009 là Luật sửa đổi và bổ sung một một số điều của Luật Điện ảnh đã được Quốc hội thông qua tháng 6/2009 và có hiệu lực từ ngày 1/10/2009 đã có những điều chỉnh căn bản liên quan đến việc đầu tư của Nhà nước cho việc sản xuất phim. Cụ thể, khoản 3 điều 24 được sửa đổi như sau: “Đối với phim sử dụng ngân sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải thành lập Hội đồng thẩm định kịch bản, được quyết định hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật đấu thầu để lựa chọn dự án sản xuất phim, đảm bảo chất lượng tác phẩm và hiệu quả kinh tế - xã hội”. Nghĩa là chủ đầu tư quyết định lựa chọn dự án sản xuất phim (không phân biệt hãng phim “trong” hay “ngoài” nhà nước) theo hai hình thức sau: Đối với dự án sản xuất phim đã có kịch bản được tuyển chọn, chủ đầu tư quyết định hình thức đấu thầu phù hợp để chọn nhà sản xuất. Đối với dự án sản xuất phim có hồ sơ tham gia đấu  thầu bao gồm kịch bản và phương án sản xuất, phát hành, chủ đầu tư quyết định hình thức đấu thầu phù hợp để chọn dự án  sản xuất phim.      Sự thay đổi này khắc phục được bất cập trước đây trong Luật Điện ảnh khi quy định Nhà nước sẽ đầu tư sản xuất phim thông qua hình thức đầu thầu lựa chọn nhà sản xuất trên cơ sở kịch được Hội đồng thẩm định và tuyển chọn, dẫn đến khả năng đơn vị sản xuất hoặc cá nhân có kịch bản rất có thể không chấp nhận đơn vị trúng thầu được giao làm phim. Theo quy định  mới, cách thẩm định và tuyển chọn kịch bản sản xuất phim từ nguồn kinh phí Nhà nước sẽ tiến tới những thay đổi, sao cho có sự gắn kết vững chắc với dự án sản xuất phim hoặc sẽ cơ sở để tuyển chọn và đưa vào sản xuất không phải chỉ là kịch bản mà kịch bản chỉ là một phần của dự án sản xuất phim. Đây là cách làm theo thông lệ quốc tế mà điện ảnh ta muốn phát triển không thể không tiếp thu.       Chúng ta có thể thấy rằng phim truyền hình nhiều tập được sản xuất trong năm qua tăng về số  lượng, một số khá về chất lượng, được  đông đảo công chúng đón nhận nhiệt tình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xuất hiện không ít phim chất lượng thấp, kéo dài vô lý, cấu trúc câu chuyện rời rạc, xung đột giả tạo, thể hiện đơn giản, một chiều, thiếu chất ngẫu hứng làm men cho nghệ thuật bay thoát...            Với những điểm nhấn đậm nét và có sức lan tỏa trong bức tranh điện ảnh 2009, và những bài học kinh nghiệm được rút ra, hy vọng rằng năm 2010 sẽ là một năm sôi động với nhiều sự kiện nổi bật hơn của điện ảnh Việt Nam! Rào cản đối với Việt Nam:      Những năm gần đây, thị trường điện ảnh của chúng ta có sôi động hơn trước. Nhưng tỉnh táo nhìn lại, sự sôi động đó chưa phải là một làn sóng mạnh mẽ của một cuộc bùng nổ, của sự phát triển. Thời gian qua, nền điện ảnh có sôi động đôi chút với những bộ phim được tiếp thị rầm rộ của một số hãng phim tư nhân nhưng cũng chỉ có một vài bộ phim ăn khách và có lãi. Với những bộ phim giải trí mang tính thương mại nhiều hơn là nghệ thuật đó, chưa thể nói điện ảnh VN đang phát triển. Những người yêu điện ảnh nước nhà vẫn cứ phải hoài tưởng đến những bộ phim kinh điển của Việt Nam như: Cánh đồng hoang, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm... Điện ảnh VN vẫn còn làm ăn theo kiểu manh mún, cầm chừng. Những nhà làm phim, sản xuất phim, kinh doanh phim, phát hành phim đã cùng ngồi lại để tiếp tục thảo luận về vấn đề "muôn năm cũ": điện ảnh Việt Nam yếu kém những khâu nào và giải pháp ra sao trong bối cảnh cơ chế thị trường, với nhu cầu ngày một bức thiết về hội nhập điện ảnh. Chúng ta đang thiếu một chiến lược đầu tư phát triển nền điện ảnh, thiếu chiến thuật tiếp cận thị trường. Quả thực, với việc chiều lòng thị trường nội địa còn gặp nhiều khó khăn thì những rào cản để gia nhập thị trường thế giới của nền điện ảnh nước ta sẽ là vô cùng lớn. Rảo cản khách quan - Những vấn đề về CSVC-KT :      CSVC-KT luôn là 1 trong những yếu tố quan trọng hạng đầu trong bất kì lĩnh vực nào. Trong thời đại bùng nổ CM KH-KT, điện ảnh thế giới luôn đánh giá cao những bộ phim mang kĩ xảo cao cùng công nghệ sản xuất phim tiên tiến. Nhưng với CSVC còn yếu và KT còn thấp, điện ảnh Việt Nam đã vấp phải một rào cản khá lớn khi vươn ra thị trường thế giới.      Sự yếu kém này được lý giải bằng sự kiện Việt Nam bước sang giai đoạn đổi mới vào những năm cuối thập niêm 1980. Những năm trước, trong thời kỳ bao cấp, các hãng phim được nhà nước cấp kinh phí để sản xuất phim, khâu phát hành phim do cơ quan khác quản lý.Thời kỳ này, sự cắt giảm ngân sách của Nhà nước làm cho điện ảnh không đủ kinh phí để sản xuất phim và thực sự bước vào khùng hoảng. Nhà nước bắt đầu xóa bỏ bao cấp dành cho điện ảnh, chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch toán kinh tế, có sự tài trợ một phần của Nhà nước. Các máy móc thiết bị làm phim đã cũ kỹ, tiền của Nhà nước đầu tư cho điện ảnh cũng bị thất thoát.      Tiếp đó, từ giữa thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam bắt đầu bước dần ra khỏi thời kỳ khủng hoảng.Số lượng phim dần tăng lên nhưng hầu hết những bộ phim này, với tư duy làm phim cũ, đã không kéo được khán giả tới rạp, các phim làm ra tiếp tục thua lỗ.Nhà nước vẫn cấp kinh phí để sản xuất những phim kỷ niệm các ngày lễ lớn. Những bộ phim đó thường được thực hiện với kinh phí lớn, nhưng ít được khán giả quan tâm, thậm chí Ký ức Điện Biên (2004) kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ được đầu tư 13 tỷ đồng, khi công chiếu ba ngày chiếu tại rạp Đống Đa Thành phố Hồ Chí Minh chỉ bán được 60 vé. Tại Hà Nội, ngoài hai suất chiếu phục vụ công ích cũng chỉ chiếu được tám suất doanh thu, bình quân 25, 30 vé. Chính sự thua lỗ này kô chỉ làm nản lòng nhà sản xuất mà còn dẫn đến việc thiếu kinh phí để đầu tư, phát triển CSVC-KT .      Nói đến CSVC, ông Ngô Thảo - đại diện Hãng phim BHD lại nhắc đến nỗi "khắc khoải" : “ Thời buổi này chúng ta làm được phim hay mới là chuyện lạ. Cả miền Bắc hiện vẫn chưa có một phim trường nào thực sự.” Cơ sở “hạ tầng” như phim trường thì cứ phập phù, có gì làm đó, đi mượn là chính, thậm chí quay phim lịch sử Việt phải sang Trung Quốc thuê phim trường, bối cảnh.. Trong khi nhiều khu đất trống của chính ngành ĐAVN bị bỏ hoang hoặc không sử dụng đúng muc đích. Và nhiều dự án “dự định”vẫn chỉ nằm trên giấy. Các vấn đề liên quan đến đạo cụ, phục trang cũng vô cùng thiếu thốn. Trong khi Trung Quốc có những kho chứa rộng hàng ngàn ha để chứa trang phục cổ trang phục vụ cho điên ảnh thì người ta chỉ thấy trên màn ảnh rộng Việt Nam những ông vua,bà chúa ăn mặc không khác các tiết mục hát chèo, cải lương là mấy, với phục trang hết sức sơ sài, có hơi hướng cắt may dát vàng bạc lấp lánh như đồ hàng mã. Thử hỏi đến khán giả Việt Nam còn thấy khó chịu thì sao khán giả thế giới có thể chấp nhận?       Còn về mặt kĩ thuật thì còn tồn tại nhiều bất cập nhức nhối hơn. Kỹ thuật điện ảnh chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khách quan (phim, phương tiện, thiết bị) và chủ quan (nhà quay phim, kĩ thuật viên ánh sáng, âm thanh) thì ở cả 2 mặt khách quan và chủ quan này, điện ảnh Việt Nam đều chưa thể bắt kịp với thế giới. Làm phim kô có lãi, thiếu vốn; tiền đầu tư cho máy móc, phương tiện lại rất tốn kém, mua được thiết bị hiện đại thì thiếu người đủ chuyên môn vận hành; có thiết bị, có người lại nảy sinh vấn đề kô có nơi lắp đặt,ứng dụng, nếu lắp đặt ứng dụng được thì lại gặp trở ngại kỹ thuật kô đồng bộ. Đây có lẽ là cách nhìn có phần quá tiêu cực nhưg sự thật không phải không tồn tại. Thực tế cho thấy tuy luôn thiếu và ít nhưng thống kê số tiền để đầu tư cho ngành điện ảnh Việt Nam những năm qua không hề nhỏ, nhưng cách mua sắm trang thiết bị không khoa học, không có kế hoạch chiến lược nên cho đến bây giờ vẫn là sự cũ kỹ, thiếu đồng bộ, nhiều thiết bị hiện đại tạm thời “để dành” trong kho. Bên cạnh đó,khi cả thế giới đang chao đảo trước những bộ phim 3D kỹ thuật cao, sống động như thật thì phim ảnh Việt Nam mới bỡ ngỡ làm quen với phương pháp làm phim sitcom hay kĩ thuật thu tiếng trực tiếp. Phim truyện nhựa VN khi mang ra nước ngoài tham dự các LHP quốc tế, luôn bị “vướng” ở chất lượng kỹ thuật. Không âm thanh thì hình ảnh hoặc chất lượng phim nhựa kém - do bị chuyển đổi từ phim kỹ thuật số sang phim nhựa cho đúng quy định của các LHP quốc tế, cho dù là dùng máy quay kỹ thuật số hiện đại nhất bây giờ là Red One cũng không thể bằng chất lượng quay bằng phim nhựa…Quả thật, với kĩ thuật còn non kém nhu vậy việc lấn sân qua thị trường thế giới với Việt Nam quả thực là rất nan giải.     Theo kinh nghiệm của ông J. Herman (Giám đốc Trung tâm Cinematheque ) thì: Bất kỳ nước nào cũng có thể có những nghệ sĩ lớn. Nhưng để có một ngành công nghiệp điện ảnh, ta cần thiết lập một hệ thống thương mại chính quy, có tổ chức và làm ra tiền. Nếu muốn hội nhập VN phải có nền công nghiệp điện ảnh. Xem ra việc đó không hề đơn giản vì để có nền công nghiệp điện ảnh đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn, phải có sự hỗ trợ của Chính phủ. Mà nền điện ảnh của VN hiện nay đang bị xã hội hóa quá mạnh và đang bị nghiệp dư hóa. Với tình hình như hiện nay thì VN chỉ có thể giao lưu quốc tế chứ hội nhập thì chắc khó.   Rào cản chủ quan – Những vấn đề về nhân lực:      Có ý kiến cho rằng điện ảnh là môn nghệ thuật thứ 7, đã là một môn nghệ thuật thì cứ hay cứ truyền cảm ắt sẽ được đón nhận, đâu nhất thiết phải hoành tráng, phải tốn kém? Xin được trích lời đạo diễn Bùi Thạc Chuyên:” Nếu ngay bây giờ cho tôi 20 triệu USD, tôi cũng không thể cho ra một sản phẩm tương đương Hollywood. Tôi không dám chắc tôi tiêu tốn 20 triệu USD ấy mà thu về được 40 triệu USD tiền bán vé, theo thông lệ tối thiểu. Tôi cũng chắc chắn không đạo diễn VN nào dám đảm bảo về điều đó. Vấn đề của chúng ta không phải là thiếu tiền mà là thiếu người để vận hành một bộ máy làm phim chuyên nghiệp.”      Khó khăn chung là thực tế điện ảnh Việt Nam còn đầy chộn rộn, bát nháo, nhiều người yêu nghề sẽ cảm thấy chơi vơi. Nhà nước thì không có hỗ trợ, đầu tư cho tài năng. Tư nhân thì lăng nhăng sao cũng được miễn là kiếm tiền. Người làm nghề phải vật lộn, nhiều khi bị cuốn vào cuộc sống kiếm ăn… Với thực trạng nhân lực đầy nan giải thì việc hội nhập điện ảnh thế giới quả thật xa vời.      Trước hết về về đào tạo nhân lực, lực lượng làm điện ảnh chủ yếu xuất thân từ 2 nôi đào tạo tại Hà Nội và TP.HCM. Tuy nhiên, công tác đào tạo tại các cơ sở trên vẫn tồn tại khá nhiều bất cập. Bất cập ngay từ khâu tuyển sinh. Ngoài số ít tài năng thực sự thì hiện tượng “chạy trường” khá phổ biến. Ngoài ra, cái thuận lợi chung là bây giờ cho giáo dục giới trẻ là cơ hội nhiều hơn, làm phim dễ dàng hơn, nhanh chóng nổi tiếng hơn nhưng thường không đam mê và kiên nhẫn như lớp đi trước. Nhiều người trẻ vội chạy theo danh và lợi, không quyết chí, không bền bỉ, thiếu khát vọng lớn. Điều này cũng hợp với xu thế thời đại bây giờ, nhưng khi cái đích của họ chỉ như vậy thì nghề nghiệp khó phát triển. Thế hệ tương lai của điện ảnh Việt Nam cần có một môi trường đào tạo chuyên nghiệp và thực sự nghiêm túc.      Thứ hai là vấn đề xung quanh đạo diễn và các nhà sản xuất. Các nhà làm phim VN chưa biết cách chấp nhận thất bại, từ nhà sản xuất đến đạo diễn, ai cũng chịu áp lực “không thắng phim này là phá sản, phim không ăn khách là không ai dám giao tiền cho làm phim nữa”, nên nảy ra tâm lý đón ý chiều lòng khán giả thái quá và sinh ra hẳn một dòng “phim tết”. Không nền điện ảnh nào chỉ tồn tại bằng phim chiếu tết cả, cũng như không ai phân biệt phim nghệ thuật với phim thị trường như ta cả. Chúng ta làm ít, rón rén trong mức đầu tư 4-7 tỉ đồng/phim, cho 100 phòng chiếu, chiếu hai tháng trước và sau tết, chúng ta chưa có thị trường điện ảnh và đang bị rơi rụng đội ngũ làm phim. Điện ảnh Việt Nam đã trượt không phải vì xã hội phát triển lên còn điện ảnh phát triển theo chiều ngược lại, mà vì các nghệ sĩ cũng như các nhà sản xuất bị cuốn theo những giá trị nhất thời mang tính đại chúng. Đại chúng bao giờ cũng tốt, cũng đúng, nhưng một nền văn hóa phát triển lại nhờ ở những số ít tinh hoa và dũng cảm, nhưng họ thường vừa mới xuất hiện thì đã bị cuốn theo cơn lốc của văn hóa đại chúng.       Một vấn đề nữa là đề tài, kịch bản hay thiếu trầm trọng. Đề tài phim của ta cứ lặp đi lặp lại. Hết phim về chiến tranh đến phim đấu tranh chống tiêu cực rồi lại phim về những chuyện quẩn quanh ở xóm làng, khu phố. Thi thoảng có một số bộ phim chất lượng khá thì cũng lấy từ những tác phẩm văn học cũ. Chẳng hạn: phim Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông chuyển thể từ những tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu; Mê Thảo, thời vang bóng chuyển thể từ hai tác phẩm của Nguyễn Tuân; Chuyện của Pao chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi qua bờ rào đá; Dưới cờ đại nghĩa chuyển thể từ tiểu thuyết Người Bình Xuyên... Những tác phẩm mang hơi thở thời hiện đại rất ít. Nếu cứ “ăn theo” mãi như thế thì nền điện ảnh sẽ vẫn mãi nghèo nàn và nghiệp dư. Việc mua lại những tác phẩm của nước ngoài rồi gia công, viết lại thành kịch bản của mình, không phải là mới. Hollywood đã làm từ lâu. Vấn đề là họ làm hay, còn chúng ta làm dở nên phim sống sượng, không đúng với văn hoá, tâm hồn Việt nên phản cảm, phản tác dụng. Để điện ảnh Việt Nam phát triển còn cần có chiến lược, chiến thuật tiếp cận thị trường. Nghĩa là cần có chiến lược quảng bá, nghiên cứu về nhu cầu thị hiếu khán giả một cách nghiêm túc, để có thể bán được phim. Sự đầu tư mạnh mẽ của những nhà kinh doanh giỏi là cần thiết cho sự phát triển điện ảnh.      Ngoài ra, nhắc đến điện ảnh thì không thể không nhắc đến diễn viên - những người truyền tải trực tiếp nội dung phim đến khản giả. Trên màn ảnh rộng, mọi cử chỉ, hành động, xúc cảm dù là nhỏ nhất trên khuôn hình đều được phản ảnh và khắc họa rất rõ nét, vì vậy đòi hỏi với diễn viên điện ảnh cao hơn rất nhiều một diễn viên thông thường Diễn viên Việt Nam kô phải không có người xuất sắc, nhưng những hiện tượng xuất sắc đó còn quá ít. Một thực tế dễ dàng nhận ra là là dàn diễn viên Việt Nam người diễn được thì quá già, còn người trẻ thì diễn nhìn không có hồn. Thường thì đạo diễn VN chỉ quan tâm chau chuốc tạo một hình tượng thật tốt cho các diễn viên chính còn các diễn viên phụ như diễn viên quần chúng ấy thì hỡi ôi từ ngoại hình đến cách diễn rất ư là tệ. Với chất lượng thiếu đồng đều, điện ảnh Việt rất khó có thể thành công lớn trên thế giới.      Nhìn vào biểu cam kết về dịch vụ phim ảnh ở Việt Nam, có thể thấy nhà nước khá thoáng và cới mở trong việc mở cửa thị trường phim ảnh. Ngoài yêu cầu về “Chỉ dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh với đối tác Việt Nam đã được phép cung cấp các dịch vụ này tại Việt Nam. Phần vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh. “ với dịch vụ sản xuất, phát hành phim cùng yêu cầu “Các nhà văn hoá, các tụ điểm chiếu phim, câu lạc bộ và hiệp hội chiếu phim công cộng, các đội chiếu bóng lưu động của Việt Nam không được phép tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh hay liên doanh với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài “ cho dịch vụ chiếu phim thì hầu như không còn hạn chế nào.      Tuy nhiên,dù cánh cửa có rộng mở nhưng đôi chân không vững vàng cũng khó có thể tiến xa được. Đã có rất nhiều cuộc hội thảo về điện ảnh Việt Nam và không cuộc nào không nhắc tới “đổi mới & hội nhập” như một yêu cầu cấp thiết và quan trọng để điện ảnh Việt Nam có một vị trí trong nền điện ảnh khu vực và thế giới. Nhưng, điều mà ai cũng thấy, sau cuộc hội thảo, thì hình như mọi thứ vẫn không có gì thay đổi, cho dù sắp hết thập kỷ đầu tiên thế kỷ 21. Với nhiều yếu kém và hạn chế về cả mặt chủ quan và khách quan, lời khuyên tốt nhất với điện ảnh Việt Nam hiện nay là nên chọn giải pháp an toàn, hướng sự tập trung vào phát triển thị trường nội địa nhưng vẫn tranh thủ cập nhật, tiếp thu những thành tựu của điện ảnh thế giới .    Xu hướng phát triển của điện ảnh Việt Nam: Tập trung nâng cao trình độ sản xuất cũng như  chất lượng phim chủ yếu  để phục vụ thị trường trong nước :          Do nền điện ảnh Việt Nam còn khó non trẻ, hơn nữa các rào cản của thị  trường thế giới quá nhiều nên điện  ảnh Việt Nam vẫn tập trung vào sản xuất các phim phục vụ khách hàng trong nước. Chưa có bộ phim nào được đầu tư với quy mô quốc tế, cũng ko có chương trình quảng bá hay mở rộng thị trường phim ra thị trường thế giới. Phim Việt Nam được đưa ra nước ngoài thường theo con đường là trao đổi phim truyền hình , tham gia các cuộc thi hoặc trình chiều trên truyền hình cáp Việt Nam tại nước ngoài. Hầu hết khách hàng nước ngoài là  các Việt Kiều.          Đối với thị trường trong nước, hàng năm thì liên tục có những tác phẩm mới được trình chiếu ( cả phim truyền hình lẫn phim nhựa) nhiều về số lượng và chất lượng cũng được nâng cao, thu hút sự chú ý của khán giản. Ví dụ như phim Đừng đốt, Trăng nơi đáy giếng và Chơi vơi  đã trụ rạp được 2-3 tuần. Ba bộ phim này còn tạo được dấu ấn tại LHP Việt Nam XVI diễn ra vào trung tuần tháng 12/2009 vừa qua với những Bông Sen Vàng.  Dòng phim thương mại giải trí tiếp tục  được đầu tư và  khai thác :         Trong LHP lần thứ 16 Hội thảo nhất trí rằng đến thời điểm này  đừng nói đến chuyện phân biệt giữa dòng phim chính thống với phim thị trường, phim tư nhân với phim nghệ thuật, cũng không phân biệt giữa các hãng phim nhà nước - tư nhân. "Cần khẳng định rằng chúng ta phê phán các xu hướng thương mại hoá  điện ảnh (chạy theo đồng tiền bất kể tính thẩm mỹ và chất lượng nghệ thuật của sản phẩm), nhưng nên ủng hộ những phim có nội dung lành mạnh, có tính giáo dục mà lại thu hút được đông khán giả nhờ cách dàn dựng hấp dẫn. Đây là phim thương mại thực sự, và cái đích của những người làm điện ảnh là tìm cách để ngày càng tăng tính nghệ thuật trong những phim thuộc dòng này..." Năm 2010  Bộ phim Để mai tính dựa theo kịch bản của Dustin Nguyễn, do Charlie Nguyễn (từng thành công với Dòng máu anh hùng ) đạo diễn, có nội dung hài hước, lãng mạn. Câu chuyện tình giữa Mai (Kathy Uyên) và Dũng (Dustin Nguyễn) - một nữ Việt kiều Đức và một lao công trong khách sạn năm sao - đầy kịch tính với nhiều tình huống thú vị. Nhìn chung kịch bản không phải lạ nhưng Để mai tính chứa đựng nhiều bất ngờ. Phim quay tại Hà Nội, TP.HCM, Nha Trang, hứa hẹn sẽ có những góc máy tuyệt đẹp. Một trong những cố vấn về kịch bản của phim chính là biên kịch Vincent Ngo, người được mệnh danh là"bác sĩ kịch bản"của Hollywood, là tác giả kịch bản của bộ phim Mỹ Siêu nhân cái bang (Hancock) sản xuất năm 2008. Với đôi diễn viên chính: Dustin Nguyễn và Kathy Uyên, từng đoạt giải Cánh diều vàng, qua bàn tay chỉ đạo của Charlie Nguyễn, Để mai tính hứa hẹn sẽ thu hút khán giả. Cùng vai trò như Charlie Nguyễn, một đạo diễn Việt kiều khác là Victor Vũ cũng đang nỗ lực hoàn tất phần hậu kỳ phim Giao lộ định mệnh (Inferno).Phim do hãng Saiga sản xuất, quy tụ dàn diễn viên đầy tiềm năng của điện ảnh Việt hiện nay là Bình Minh, Trần Bảo Sơn, Vũ Thu Phương, Tăng Bảo Quyên, Diễm My, Hứa Vĩ Văn, Đại Nghĩa… Sau thành công của Chuyện tình xa xứ (Passport to love ), đạo diễn Victor Vũ cho biết anh đang hướng đến một thể loại mới: tình cảm, ly kỳ, hồi hộp gay cấn theo trường phái của thần tượng - đạo diễn Mỹ gốc Anh Alfred Hitchcock. Bắt đầu từ một vụ tai nạn giao thông kinh hoàng, 100 phút phim hứa hẹn dẫn dắt người xem bước vào một thế giới với nhiều câu chuyện bí ẩn đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Phim đánh dấu sự tái hợp của Victor Vũ với bộ đôi diễn viên từng cộng tác với anh trong phim Chuyện tình xa xứ là Bình Minh và Tăng Bảo Quyên.  Đề tài chiến tranh,lịch sử, các anh hùng dân tộc vẫn luôn hấp dẫn :          Đề tài chiến tranh trong phim truyện Việt Nam đã xuất hiện từ những ngày khởi đầu của phim truyện nước nhà rồi hình thành nên cả một nền điện ảnh cách mạng Việt Nam.Đây luôn là mảng phim truyền thống của điện ảnh nước ta và được phản ánh qua nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử.          Tuy không phải là một đề tài mới nhưng dường như nó vẫn còn nguyên sức hấp dẫn đối với rất nhiều các thế hệ đạo diễn điện ảnh. Trong xu thế ấy, lớp đạo diễn trẻ hiện nay cũng không hề bỏ quên mảng đề tài này mà còn mạnh dạn thể hiện nó với cái nhìn của riêng mình ở các phim: ‘Nhìn ra biển cả’ - chân dung tuổi trẻ của Hồ Chủ tịch của đạo diễn  Vũ Châu. Dự kiến Nhìn ra biển cả sẽ đóng máy sau hai tháng. Bộ phim được hoàn thành hậu kỳ ở Thái Lan hoặc Việt Nam trước tháng 5/2010 để kịp công chiếu vào kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bộ phim lịch sử 'Khát vọng Thăng Long" sẽ bấm máy vào ngày 15/3, mang đậm bản sắc dân tộc. Bộ phim lịch sử Tây Sơn hào kiệt do hãng Lý Huỳnh sản xuất chào đón kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, chi phí 14 tỉ đồng, với sự tham dự của nhiều thế hệ diễn viên như NSND Thế Anh, NSND Đoàn Dũng, NSƯT Lý Huỳnh, Lý Hùng, Thùy Lâm, Mộng Vân, Công Hậu, Tấn Beo… dự kiến khởi chiếu vào dịp lễ 30.4 cũng là một lựa chọn đầy thú vị cho khán giả yêu điện ảnh.          Điểm qua các sáng tác phim truyện của lớp đạo diễn trẻ hiện nay, chúng ta dễ nhận thấy rằng họ đã có nhiều nỗ lực khi mạnh dạn tìm tòi nhiều chất liệu cho tác phẩm của mình. Như đã nói, thời kỳ đầu phim Việt Nam chỉ tập trung ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Còn lớp đạo diễn trẻ ngày nay khi làm về đề tài truyền thống lại không theo lối mòn ấy. Phim của họ làm ra không mang tư tưởng bao quát lớn, không chú ý đến cái chung mà đi vào miêu tả các số phận riêng. Tuy vẫn còn nhiều khiếm khuyết nhưng dẫu sao các tác phẩm của họ đã góp phần tăng thêm sự phong phú cho cách nhìn, cách nghĩ về đề tài truyền thống của điện ảnh Việt Nam.  Đón nhận sự trở về đầy nhiệt huyết của dòng phim Việt kiều:         Chính xác hơn là những bộ phim được thực hiện bởi những nhà làm phim người Việt sống ở nước ngoài.Các bộ phim trên, xét trên nhiều góc độ khác nhau, xứng đáng được đánh giá là đã góp phần mang lại màu sắc tươi mới cho bức tranh điện ảnh Việt Nam trong năm 2009. Bên cạnh đó, niềm hi vọng xen lẫn kì vọng của người yêu điện ảnh còn đặt vào sự trở lại của hai vị đạo diễn “kiệm lời mà phim sâu sắc” là Nguyễn Võ Nghiêm Minh với bộ phim chiếu Tết Khi yêu đừng quay đầu lại và dự án phim đã hoàn tất phần ghi hình trong năm qua Để Mai tính của đạo diễn Charlie Trực Nguyễn. Không chỉ là màu sắc mà còn có cả âm sắc, những bộ phim được thực hiện bởi những đạo diễn người Việt xa xứ sẽ có tác động rất lớn đến thị trường phim ảnh nước nhà: tăng số người làm phim và số lượng phim, kích thích sự chú ý của công chúng dần dần đưa phim Việt ra rạp suốt 4 mùa trong năm chứ không chỉ là đầu Xuân như hiện tại.Trong năm 2010 bộ phim Giao lộ định mệnh của Đạo diễn Việt kiều Victor Vũ được đánh giá là một trong những bộ phim được mong đợi nhất năm 2010.“Giao lộ định mệnh”, bộ phim thứ hai tại Việt Nam của đạo diễn trẻ sinh năm 1975 này (và là phim truyện thứ 4 của anh), vì thế mà trở thành một dự án hứa hẹn, về cả tay nghề đạo diễn lẫn khả năng hút khách.Với một vài thử sức ở phim video của hãng phim Chánh Tín và tác phẩm mở hàng “Khi yêu đừng quay đầu lại” của hãng phim Thiên Ngân, thể loại phim kinh dị vẫn đang trên đường tìm kiếm sự hấp dẫn khán giả nội. Trong khi thể loại phim hài hay hành động khẳng định ưu thế ở các rạp chiếu vào mùa phim Tết, thì kế hoạch công chiếu một phim tâm lý, kinh dị vào dịp hè của Victor Vũ có thể là một thử nghiệm táo bạo và khôn ngoan.  Đầu tư nước ngoài tăng :          Kinh phí làm phim sẽ  phải tăng lên 20%-30%. Theo thông tin của VnMedia, bộ phim Bi, đừng sợ ( bộ phim được chờ đợi trong năm 2010) đã được quỹ Fonds Sud của Pháp tài trợ hơn 100 ngàn USD cho phần hậu kỳ. E-kip làm phim hiện đang trong giai đoạn làm âm thanh để cố gắng hoàn thành trước LHP Cannes 2010. Đây hứa hẹn sẽ là bộ phim tiếp bước “Chơi vơi” tạo nên sự chú ý với điện ảnh Việt năm nay.Ngoài ra còn mở rộng hợp tác với các nền điện ảnh khác như Hàn Quốc , Đài Loan, Nhật Bản Khai thác sang lĩnh vực phim thần tượng:           Dòng phim thần tượng của  Đài Loan, Hàn Quốc đã quen thuộc với khán giả  Việt Nam.Tuy nhiên, các nhà làm phim Việt gần đây mới quan tâm đến trào lưu này.Một vài phim như Dốc tình, 39 độ yêu, Hoa dã quỳ, Tuyết nhiệt đới… với diễn viên đẹp, bối cảnh lãng mạn và những chuyện tình yêu thơ mộng ít nhiều xây dựng được hình ảnh cho diễn viên Việt, nhưng chỉ như những mảnh ghép rời rạc, chưa thành trào lưu, nội dung cũng chưa thật sự chinh phục người xem. Bỗng dưng muốn khóc của đạo diễn Vũ Ngọc Đãng có thể nói là bộ phim thần tượng thành công hiếm hoi của Việt Nam, và cặp diễn viên Tăng Thanh Hà - Lương Mạnh Hải bỗng dưng… thành sao.Gọi giấc mơ về (đạo diễn Xuân Cường) cũng xây dựng hình ảnh cho Minh Hằng và Huỳnh Đông; Tường Vy cánh mỏng của đạo diễn Trần Quang Đại làm nên thành công của Ngân Khánh.Từ những thành quả ban đầu, phim thần tượng bắt đầu thu hút các nhà sản xuất và đạo diễn phim Việt. Chưa có kịch bản nội ưng ý, họ khai thác những kịch bản ngoại đã ăn khách.  Đạo diễn Vũ Ngọc Đãng đang bắt tay thực hiện phim Ngôi nhà hạnh phúc phiên bản Việt (kịch bản gốc Hàn Quốc). Thách thức là dàn diễn viên Minh Hằng - Lương Mạnh Hải, Thủy Tiên - Lam Trường phải vượt qua cái bóng của các ngôi sao Hàn xuất sắc, Bi Rain và Song Hyu Kyo. Trong năm 2010 thì bộ phim Giấc Mơ Biển - bộ phim truyền hình mới về đề tài mùa hè trong đó có những thần tương tuổi “teen” như Huỳnh Minh Nhựt, Xuân Nghi cũng đang được các bạn trẻ mong đợi          KẾT LUẬN          Qua tìm hiểu về tình hình thực tê thị trường điện ảnh tại Việt Nam cũng như các hạn chế đối với việc sản xuất và giới thiệu các sản phẩm điệna nhr Việt nam đối với thế giới, ta có thể thấy nền  điện ảnh Việt Nam còn chưa đủ sức cạnh tranh với các đối thủ quốc tế. Tuy gần đây một số bộ phim do Việt Nam sản xuất đã gây được tiếng vang nhất định tại các liên hoan phim quốc tế cũg như thu được phản hồi tốt từ khán giả trong nước, nhìn chung điên ảnh Việt Nam vẫn chưa phát triển đúng mức, và phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt của phim nước ngoài ngay tại thị trường nội địa. Thương hiệu phim Việt nam, do đó cũng không có sức hấp dẫn lớn đối với khách hàng nước ngoài.          Như vậy dễ thấy hướng đi cho điện ảnh Việt Nam trong thới gian tới vẫn sẽ là tập trung phục vụ thị trường trong nước, chiếm lĩnh thị trường nội địa trước khi đề ra những kế hoạch xâm nhập thị trường thế giới. Để làm được điều này, các nhà sản xuất phim Việt nam cần có những thay đổi nhằm điều chỉnh phù hợp với thị hiếu của người xem cũng như các cải tiến trong phuwong thức sản xuất. Việc cập nhật với các xu hướng mới trong việc thưởng thức phim của khán giả đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thu hút người xem đến với các bộ phim trong nước sản xuất thay vì các bộ phim nước ngoài. Tuy nhiên, ngoài mục tiêu quảng bá, tăng doanh thu cho phim nội địa, cũng cần chú trọng các bộ phim mang tính nghệ thuật cao, như vậy mới có thể nâng cao chất lượng điện ảnh Việt Nam một cách vững chắc. Bằng việc tân dụng các lợi thế sẵn có của điện ảnh Việt Nam, cũng như các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, điện ảnh Việt Nam có thể đạt được những bước tiến lớn, đưa dịch vụ giải trí Việt Nam sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới.  Sau đây là dàn ý của bài tiểu luận : DÀN BÀI : Xu Hướng Của Ngành Dịch Vụ Giải Trí Điện Ảnh Việt Nam I)                Khái Quát Chung Về Sự Phát Triển Của Dịch Vụ Giải Trí 1)    Một số khái niệm a)     Khái niệm dịch vụ b)    Khái niệm dịch vụ giải trí 2)    Xu hướng chung về của dịch vụ giải trí a)     Trên thế giới -         Công viên giải trí -         Nghệ thuật biểu diễn -         Điện ảnh -         Kinh doanh sòng bạc -         Thể loại khác b)    Tại Việt Nam -         Khu vui chơi giải trí -         Biểu diễn nghệ thuật -         Dịch vụ internet, truyền hình.. -         Các dịch vụ khác II)           Xu Hướng Phát Triển Ngành Điện Ảnh Tại Việt Nam 1)    Khái niệm Điện Ảnh 2)    Thực trạng nền điện ảnh a)     Trên thế giới : -         CGI áp đảo -         3D lên ngôi -         Nền điện ảnh châu Á phát triển -         Hoạt hình tăng sức hút -         Trào lưu phim làm lại b)    Tại Việt Nam : -         Giai đoạn 1923- 1975 : -         Giai đoạn 1975- 2009 : +)  Các giải thưởng lớn +) Dòng phim giải trí +) Hãng phim tư nhân +) Luật sửa đổi và bổ sung một một số điều của Luật Điện ảnh… c)     Rào cản khi ra nhập thị trường thế giới -         Rảo cản khách quan - Những vấn đề về CSVC-KT -         Rào cản chủ quan – Những vấn đề về nhân lực 3)    Xu hướng phát triển điện ảnh tại Việt Nam : -         Tập trung nâng cao trình độ sản xuất cũng như chất lượng phim chủ yếu để phục vụ thị trường trong nước -         Dòng phim thương mại giải trí tiếp tục được đầu tư và khai thác -         Đề tài chiến tranh,lịch sử, các anh hùng dân tộc vẫn luôn hấp dẫn -         Đón nhận sự trở về đầy nhiệt huyết của dòng phim Việt kiều -         Đầu tư nước ngoài tăng -         Khai thác sang lĩnh vực phim thần tượng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXu Hướng Của Ngành Dịch Vụ Giải Trí Điện Ảnh Việt Nam.doc
Luận văn liên quan