Đối với cà phê, EU là thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất của cà phê Việt
Nam. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang EU đạt 879
triệu USD, chiếm tỷ trọng 40-50% kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
So với thị phần nhập khẩu mặt hàng này của EU thì kim ngạch nhập khẩu cà
phê của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng từ 4-5% kim ngạch nhập khẩu cà phê
của EU hàng năm.
Về chè, xuất khẩu chè tiếp tục tăng trƣởng một cách khá ổn định về
khối lƣợng. Trong mấy năm qua, Việt Nam xuất khẩu chè sang khu vực EU
không nhiều, mỗi năm chỉ đƣợc vài ba triệu USD. Trong khi đó, EU phải
nhập khẩu gần nhƣ 100% chè uống, khối lƣợng lên tới 450.000-470000
tấn/năm.
Tuy đƣợc hƣởng mức thuế thấp nhƣng mặt hàng nông sản của Việt
Nam xuất khẩu vào EU vẫn chƣa phản ánh đúng đƣợc tiềm năng. Nguyê n
nhân một phần là do hàng nông sản của ta xuất sang EU thƣờng ở dạng thô,
chƣa có tên tuổi, việc sản xuất chế biến và tiêu thụ hàng nông sản chƣa đa
dạng, chƣa chuyên sâu, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng còn yếu. Mẫu mã, bao b ì
hàng nông sản của Việt Nam vẫn còn sơ sài đơn điệu.
102 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2523 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng hóa vào thị trường EU_cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khe nhất của thị trƣờng EU thì bắt buộc
phải tăng cƣờng áp dụng các hệ thống quản lý hiện hành của EU đó là:
ISO14000, HACCP....
- Đối với tiêu chuẩn chất lƣợng: áp dụng hệ thống quản lý chất lƣợng
ISO 9000 giúp cho các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt
đƣợc các mục tiêu tăng năng suất và chất lƣợng sản phẩm, giảm tỷ lệ phế
phẩm để duy trì sản phẩm luôn có chất lƣợng đồng nhất.
- Đối với tiêu chuẩn bảo vệ môi trƣờng: EU yêu cầu hàng hóa phải đáp
ứng các tiêu chuẩn liên quan đến môi trƣờng nhƣ tiêu chuẩn GAP (Good
Agricultural Pratice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels); tiêu chuẩn SA
8000 (Social Accountability 8000); Hệ thống quản lý môi trƣờng ISO 14000.
- Đối với tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm: các công ty chế biến thực phẩm
phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Việc áp dụng hệ thống HACCP:
(hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá trình
chế biến thực phẩm) là yêu cầu bắt buộc. HACCP đƣợc thiết kế riêng cho
công nghiệp thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm. Hệ thống
HACCP có tính bắt buộc đối với các công ty chế biến thực phẩm tại EU.
- Đối với tiêu chuẩn an toàn cho ngƣời sử dụng: Ký mã hiệu trở nên
quan trọng số 1 trong việc lƣu thông hàng hóa trên thị trƣờng EU. Các sản
phẩm có liên quan tới sức khỏe ngƣời tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy
định của EU. Ví dụ: ký mã hiệu CE là bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bị điện
áp thấp, thiết bị y tế, nguyên vật liệu xây dựng...
- Đối với tiêu chuẩn về lao động: Ủy ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt
động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp
này sử dụng lao động cƣỡng bức, và cấm nhập khẩu hàng hóa mà quá trình
sản xuất sử dụng bất kỳ hình thức lao động cƣỡng bức nào đƣợc xác định
71
trong Hiệp ƣớc Geneva ngày 25/09/1926, ngày 7/9/1956 và các Hiệp ƣớc Lao
động Quốc tế số 29 và 105.
Để tránh tình trạng xấu nhất có thể xảy ra đối với hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào thị trƣờng EU sau này (hàng Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng
GSP nữa) thì áp dụng ISO 9000, ISO 14000 và HACCP là biện pháp tốt nhất
để doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trên thị trƣờng EU.
Chúng ta đã có những bài học đắt giá về những trƣờng hợp hàng xuất
khẩu của chúng ta không đáp ứng đƣợc các yêu cầu kỹ thuật do EU đặt ra đã
bị trả hàng về. Do đó, việc tìm hiểu những thông tin này là rất cần thiết, qua
đó chúng ta có thể thay đổi việc tổ chức sản xuất của mình sao cho phù hợp,
đáp ứng với những tiêu chuẩn của EU đặt ra. Điều này sẽ góp phần giúp cho
các doanh nghiệp Việt Nam tránh đƣợc những tổn thất về mặt tài chính không
đáng có và đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lƣợng hàng hóa của Việt
Nam, tạo đƣợc lòng tin đối với thị trƣờng này [17].
2.2. Xây dựng chiến lược thâm nhập thị trường và đẩy mạnh công tác
Marketing xúc tiến xuất khẩu trên thị trường EU
Cho đến nay, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam chƣa có chỗ
đứng vững chắc trên thị trƣờng EU mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang EU vẫn tăng mạnh trong những năm vừa qua. EU là một thị trƣờng
khó tính, kênh phân phối rất phức tạp nên không dễ dàng cho các doanh
nghiệp Việt Nam vốn non nớt về kinh nghiệm có thể thâm nhập thị trƣờng
này. Vì vậy, nghiên cứu và xây dựng một chiến lƣợc thâm nhập vào thị
trƣờng EU là hết sức cần thiết.
Để thâm nhập vào thị trƣờng EU, các doanh nghiệp Việt Nam có thể
lựa chọn một số phƣơng thức sau:
- Xuất khẩu qua trung gian: đƣợc sử dụng ở thời kỳ đầu mới khai phá thị
trƣờng EU khi đó còn là một thị trƣờng khá mới mẻ với các doanh nghiệp,
72
hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thƣơng trƣờng nên không thiết lập đƣợc
quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác EU. Do vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam đã xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian chủ yếu là từ Châu
Á.
- Xuất khẩu trực tiếp: là con đƣờng chính của các doanh nghiệp Việt
Nam để thâm nhập thị trƣờng EU, tuy nhiên hình thức này chỉ thích hợp với
thời kỳ đầu khi quy mô xuất khẩu còn bé, các mặt hàng xuất khẩu còn phân
tán, dễ tạo ra thế bị động cho các nhà xuất khẩu do khó nắm bắt thông tin về
thị trƣờng.
- Liên doanh: có thể dƣới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng
hóa. Hình thức này rất phù hợp vì ngƣời tiêu dùng EU có thói quen sử dụng
hàng hóa có nhãn hiệu nổi tiếng và đƣợc biết đến từ lâu, chất lƣợng là yếu tố
quyết định thành công trên thị trƣờng này chứ không phải là giá cả. Hiện tại,
hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chƣa có danh tiếng trên thị trƣờng EU, mặt
khác năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, vì vậy liên
doanh dƣới hình thức sử dụng giấy phép, nhãn hiệu hàng hóa, tên thƣơng
phẩm có thể là biện pháp tốt nhất để các nhà xuất khẩu Việt Nam thâm nhập
dễ hơn vào thị trƣờng EU.
- Đầu tƣ trực tiếp: đây cũng là một giải pháp cần xem xét đến trong
tƣơng lai tuy nhiên hiện tại đây chƣa phải là một giải pháp thích hợp để thâm
nhập vào thị trƣờng EU.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp Việt Nam phải vừa duy trì xuất
khẩu qua trung gian và xuất khẩu trực tiếp để thâm nhập thị trƣờng EU, vừa
phải nghiên cứu để lựa chọn cách thâm nhập bằng hình thức liên doanh và
đầu tƣ trực tiếp. Dù lựa chọn phƣơng thức thâm nhập thị trƣờng nào trong số
những phƣơng thức nêu trên thì chúng ta cũng cần phải nghiên cứu kỹ các
yếu tố nhƣ dung lƣợng thị trƣờng, thị hiếu tiêu dùng, kênh phân phối, đối thủ
cạnh tranh, giá cả... và cần phải nắm vững các nguyên tắc khi thâm nhập thị
73
trƣờng này. Sự hạn chế thông tin về các đối thủ cạnh tranh thƣờng dẫn đến
những hạn chế và làm cho ƣu thế cạnh tranh trở nên không bền vững. Hiểu
biết về các đối thủ cạnh tranh sẽ giúp tránh cạnh tranh trực tiếp với các đối
thủ mạnh hơn và tìm ra các thị trƣờng riêng của mình, điều này hoàn toàn
đúng ở cả hai cấp độ quốc gia và công ty. Vì vậy, để thâm nhập thị trƣờng EU
cần phải xây dựng một chiến lƣợc lâu dài và thích hợp với điều kiện phát triển
kinh tế của Việt Nam thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam mới có chỗ đứng
ổn định và vững chắc trên thị trƣờng EU.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần nâng cao năng lực tiếp thị, tích
cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trƣờng EU bằng cách
chủ động tìm kiếm đối tác, chào hàng thông qua các hội chợ, triển lãm, hội
thảo chuyên đề tổ chức tại Việt Nam hay EU. Tìm hiểu, nghiên cứu thị trƣờng
thông qua Phòng thƣơng mại EU tại Việt Nam, cục xúc tiến thƣơng mại- Bộ
Thƣơng mại, Tham tán thƣơng mại ở các nƣớc thành viên EU, Trung tâm
thông tin thƣơng mại- Bộ Công Thƣơng và qua các tài liệu chuyên ngành để
nắm đƣợc thông tin về chính sách kinh tế và thƣơng mại, quy chế nhập khẩu
của EU, nhu cầu và thị hiếu về hàng hóa và những mặt hàng xuất khẩu nào
của Việt Nam sang thị trƣờng này sẽ mang lại hiệu quả cao ở từng thời điểm.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần trực tiếp tìm kiếm bạn hàng, trƣng bày
và giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu và nghiên cứu thị trƣờng EU ngay tại các
nƣớc thành viên EU. Việc làm này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có đƣợc
thông tin chính sách và kịp thời về thị trƣờng và bạn hàng, do đó có thể sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà thị trƣờng này cần, đáp ứng tốt nhất
nhu cầu về thị hiếu của thị trƣờng EU tại từng thời điểm trong năm.
Các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu và ứng dụng các nghiệp vụ
Marketing để tìm ra những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị trƣờng
EU, thực hiện hoạt động quảng cáo, khuếch trƣơng sản phẩm để sản phẩm có
74
đƣợc chỗ đứng, duy trì và phát triển trên thị trƣờng. Tổ chức các dịch vụ hậu
mãi để duy trì và củng cố sản phẩm Việt Nam đối với ngƣời tiêu dùng EU [2].
2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa
thông qua việc áp dụng khoa học công nghệ trong khâu sản xuất hàng xuất
khẩu
EU là thị trƣờng tiêu dùng khắt khe có nhiều rào cản kỹ thuật. Trên thị
trƣờng, giá cả có thể quan trọng nhƣng chất lƣợng là yếu tố đƣợc quan tâm
hàng đầu đối với phần lớn mặt hàng đƣợc tiêu thụ tại đây. Ngƣời tiêu dùng
EU không chỉ quan tâm tới chất lƣợng sản phẩm mà còn gồm cả dịch vụ sau
bán hàng. Nét độc đáo của sản phẩm so với các loại sản phẩm của các đối thủ
cạnh tranh sẽ có sức hút lớn đối với họ. Do đó, cần đầu tƣ cho các khâu quảng
cáo, tiếp thị, cải tiến công nghệ để tạo ra sự hấp dẫn hơn giữa các sản phẩm
của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Trên 80% tiêu chuẩn hàng hóa của
EU là theo tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn hƣớng vào thị
trƣờng EU thì phải áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn ISO9000, HACCP, ISO
14000, SA8000...
Để hàng hóa xuất khẩu ra có chất lƣợng cao thì một trong những yếu tố
quan trọng là công nghệ. Tuy nhiên, công nghệ hiện đại đòi hòi chi phí cao,
trong khi các doanh nghiệp Việt nam thƣờng có năng lực tài chính thấp, để hạ
giá thành công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hiện đại hóa
công nghệ theo các hƣớng sau:
- Nhập thiết bị công nghệ của nƣớc ngoài, học tập nguyên tắc tự thiết kế,
tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo ở Việt
Nam những chi tiết mà Việt Nam chƣa đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nƣớc
ngoài.
- Mua thiết bị có hàm lƣợng công nghệ hiện đại, nhƣng mức tự động hóa
thấp, sau đó tự nâng cấp trình độ tự động hóa bằng thiết kế của ngƣời Việt
Nam, sử dụng linh kiện cả trong và ngoài nƣớc sản xuất.
75
- Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá
đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ
thuật của Nhà nƣớc cùng đầu tƣ nghiên cứu thiết kế chế tạo.
- Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin qua mạng để đi theo các
hƣớng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh
nghiệp.
- Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ
ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài.
- Dựa vào sự hỗ trợ của Nhà nƣớc, các trƣờng đại học, viện nghiên cứu
để hiện đại hóa công nghệ của mình.
- Tìm kiếm cơ hội liên doanh với các đối tác EU có khả năng công nghệ
hiện đại.
- Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hóa công nghệ là một quá trình phát
triển tích tụ từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh
nghiệp cần có để tạo ra sản phẩm có ƣu thế cạnh tranh tổng hợp [8].
2.4. Phối hợp với các hiệp hội, ngành hàng thực hiện các biện pháp để
phòng tránh bị kiện chống bán phá giá
Nhƣ chúng ta đã biết, thời gian qua trên thế giới có rất nhiều vụ kiện
chống bán phá giá (CBPG) và số lƣợng các vụ kiện ngày càng tăng nhanh.
Trong đó, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia bị kiện nhiều nhất;
riêng năm 2004 đã có tới 6 vụ (trong tổng số 20 vụ kiện CBPG từ trƣớc đến
nay). Nhìn lại 20 vụ kiện CBPG đối với hàng Việt Nam, thì vụ kiện về cá da
trơn (cá basa) và tôm là 2 vụ có quy mô và phức tạp nhất. Khởi kiện nhiều
nhất là EU (9 vụ), tiếp đến là Hoa Kỳ (2 vụ), Canađa (2 vụ) còn lại là Ba Lan,
Thổ Nhĩ Kỳ, Peru [20].
Để tránh đƣợc những vụ kiện chống bán phá giá lên hàng hóa xuất
khẩu của mình từ các nƣớc khác nói chung và từ EU nói riêng, các doanh
nghiệp nên thực hiện một số biện pháp sau:
76
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần chuẩn bị và hoàn thiện tài liệu, sổ sách
liên quan đến công tác kế toán, kiểm toán quá trình sản xuất và kinh donah
nhằm minh bạch hóa và là những bằng chứng thuyết phục chống lại việc áp
đặt thuế chống bán phá giá. Đây là những cơ sở quan trọng nhất xác định có
hay không hàng xuất khẩu của Việt Nam bán phá giá. Thông thƣờng, Ủy ban
Châu Âu muốn ra phán quyết áp thuế chống bán phá giá phải dựa trên những
điều tra, xác minh tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, toàn bộ những chi
phí đầu vào và chi phí đầu ra của doanh nghiệp sẽ đƣợc phản ánh trên sổ sách
kế toán và do công ty kiểm toán chứng nhận. Nếu nhƣ, những chi phí này
tƣơng ứng với cùng các quốc gia trong khu vực có cùng trình độ phát triển và
rõ ràng, minh bạch thì Ủy ban Châu Âu sẽ khó khăn khi đƣa ra một chứng cứ
để áp thuế chống bán phá giá. Cho nên, để dễ dàng trả lời các câu hỏi của Ủy
ban này thì nhất thiết các doanh nghiệp Việt Nam phải có hệ thống sổ sách kế
toán thật minh bạch, đầy đủ và rõ ràng.
Thứ hai, tập trung vào sản xuất những mặt hàng có giá bán cao. Biện
pháp này xuất phát từ lý do sau:
- Những mặt hàng có giá bán thấp thƣờng là những mặt hàng dễ làm, dễ
bán nhƣng lại gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt của nhiều đối thủ cạnh tranh
trên thị trƣờng EU nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Thái Lan...và nhiều
quốc gia xuất khẩu khác có cùng trình độ sản xuất và cũng là nhóm hàng xuất
khẩu chủ yếu của các quốc gia này thì việc cạnh tranh mạnh mẽ sẽ xẩy ra là
tất yếu. Nếu cạnh tranh về giá cả thì một số mặt hàng xuất khẩu của ta không
thể cạnh tranh đƣợc với mặt hàng của Trung Quốc kể cả về số lƣợng. Bên
cạnh đó, giá cả của nhiều nhóm hàng của các quốc gia khác cũng có giá tƣơng
tự nhƣ giá của Việt Nam. Rõ ràng là, nếu các doanh nghiệp Việt Nam chỉ tập
trung vào sản xuất những mặt hàng có mức giá rẻ sẽ gặp phải nhiều bất lợi về
cạnh tranh.
77
- Hơn nữa, các mặt hàng giá rẻ của Việt Nam cũng thƣờng xuyên là tâm
điểm của các vụ kiện chống bán phá giá của EU. Do vậy, các doanh nghiệp
Việt Nam nên thay đổi lại cơ cấu sản xuất và kinh doanh, nhắm tới các mặt
hàng có giá cao hơn, vừa tránh đƣợc rào cản chống bán phá giá, đồng thời
vừa tiếp cận với nhóm khách hàng có thu nhập cao, vừa nâng cao uy tín và
khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trƣờng EU.
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện mô hình
nhƣợng quyền kinh doanh. Đây là mô hình rất phổ biến trên thế giới nhƣng lại
chƣa quen thuộc với các doanh nghiệp Việt Nam. Mô hình nhƣợng quyền
kinh doanh có hai loại điển hình là nhƣợng quyền phân phối sản phẩm và
nhƣợng quyền sử dụng công thức kinh doanh. Với hình thức nhƣợng quyền
phân phối sản phẩm, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam
có thể mua giấy phép (licensing) sử dụng thƣơng hiệu của mặt hàng của các
quốc gia có thƣơng hiệu nổi tiếng trên thị trƣờng EU, tự điều hành hoạt động
kinh doanh một cách độc lập trong một khoảng thời gian nhất định mà ít bị
ràng buộc bởi những quy định từ các doanh nghiệp nhƣợng quyền. Điều này
giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tránh đƣợc những vụ kiện chống bán phá
giá, uy tín của doanh nghiệp Việt Nam tăng lên và khả năng cạnh tranh sẽ
đƣợc nâng lên. Biện pháp này còn là một yếu tố giúp các doanh nghiệp Việt
Nam xây dựng và phát triển thƣơng hiệu trong tƣơng lai. Với hình thức
nhƣợng quyền sử dụng công thức kinh doanh thì các doanh nghiệp sản xuất
và xuất khẩu của Việt nam còn đƣợc chuyển giao thêm các kỹ thuật kinh
doanh và cách thức điều hành quản lý. Đây là hình thức kinh doanh hiệu quả
nhất bởi doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải thực hiện những quy định, quy trình
nghiêm ngặt trong kinh doanh theo tiêu chí đặt ra của các doanh nghiệp có
thƣơng hiệu nổi tiếng và quen thuộc với các khác hàng EU. Trong hình thức
này, mối liên hệ giữa bên cho thuê và bên đi thuê thƣơng hiệu rất chặt chẽ để
đảm bảo uy tín và giá trị thƣơng hiệu luôn đƣợc giữ vững. Với hình thức này,
78
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp thu đƣợc kinh nghiệm quản lý, cách thức
điều hành sản xuất kinh doanh phù hợp với những nhóm khách hàng có thu
nhập cao và yêu cầu khắt khe về sản phẩm, những nhóm khách hàng quen sử
dụng hàng có thƣơng hiệu nổi tiếng.
Thứ tƣ, thực hiện tốt quan hệ công chúng. Đó là thiết lập những mối
quan hệ với các hiệp hội, đại diện nhóm khách hàng, nhóm bảo vệ môi
trƣờng, hiệp hội công đoàn trên thị trƣờng EU...có liên quan đến mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Trong thƣơng mại quốc tế, việc sử dụng biện pháp
quan hệ công chúng rất phổ biến nhằm tạo ra những làn sóng phản đối từ phía
ngƣời tiêu dùng EU, hay những sức ép từ các hiệp hội, ngành nghề về những
quyết định chƣa đúng đắn của chính phủ các quốc gia trong EU. Những yếu
tố này dễ dàng thay đổi các quyết định của chính phủ hay Ủy ban Châu Âu.
Điều quan trọng là các doanh nghiệp cần tạo ra những mối quan hệ tốt, những
điều thiện cảm đối với những nhóm công chúng này nhƣ tích cực bảo vệ môi
trƣờng, thực hiện tốt Luật Lao động, nhằm bảo đảm quyền lợi ngƣời lao động
trong các doanh nghiệp. Đây cũng là biện pháp mà các doanh nghiệp Việt
nam chƣa khai thác tốt bởi thiếu tính tập hợp, tập trung, liên kết giữa các
doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng EU.
Thứ năm, nâng cao vai trò của hiệp hội ngành nghề của Việt Nam trong
liên kết hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu. Việt Nam gia nhập
vào WTO chƣa lâu, các doanh nghiệp phần nào còn bỡ ngỡ do vậy sự hỗ trợ
của các hiệp hội ngành nghề là rất cần thiết, các hiệp hội sẽ là cầu nối giữa
các doanh nghiệp Việt Nam với thị trƣờng EU, giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các Hiệp hội của EU, cùng với các doanh nghiệp Việt Nam tìm ra
cách thức để giải quyết khi vấp phải những rào cản thƣơng mại và phi thƣơng
mại.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên kêu gọi sự hỗ trợ từ phía Nhà
nƣớc trong việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm đối với hàng hóa có nguy
79
cơ bị kiện chống bán phá giá để góp phần hạn chế đƣợc những thiệt hại do
các vụ kiện chống bán phá giá gây ra cho các doanh nghiệp Việt Nam [15].
2.5. Xây dựng thương hiệu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tại thị
trường EU
Tuy hàng Việt Nam xuất khẩu vào EU qua các năm có tăng song vẫn
chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhu cầu của EU hàng năm. Các nƣớc khu
vực Châu Á nhƣ Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông... đã nhập khẩu hàng của
Việt Nam sau đó tái chế và tái xuất sang thị trƣờng EU. Do vậy hàng Việt
Nam vẫn chƣa thâm nhập trực tiếp đƣợc nhiều vào thị trƣờng EU. Một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này là các doanh nghiệp
Việt Nam chƣa chú trọng xây dựng thƣơng hiệu riêng cho hàng hóa của mình.
Trong thời đại ngày nay, mỗi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động
và phát triển, muốn đứng vững trên thị trƣờng thì cần phải có những sản phẩm
đóng vai trò chủ đạo và có thƣơng hiệu riêng. Thƣơng hiệu là hình ảnh của
sản phẩm, hình ảnh của doanh nghiệp, thể hiện uy tín của doanh nghiệp và
thay mặt doanh nghiệp cam kết với khách hàng về chất lƣợng và độ an toàn
của sản phẩm, nên đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có trách nhiệm hơn với tên
tuổi của mình.
Với ý nghĩa nhƣ vậy, việc xây dựng, củng cố và phát triển thƣơng hiệu
là công việc vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của mỗi doanh
nghiệp Việt Nam. Để làm tốt việc này, các doanh nghiệp cần thực hiện những
điều sau:
- Cần coi thƣơng hiệu là tài sản quý giá mà mọi doanh nghiệp cần có.
- Xây dựng chiến lƣợc phát triển và quảng bá thƣơng hiệu ngay từ khi
mới thành lập doanh nghiệp
- Khi đã có thƣơng hiệu thì cần tiến hành đăng kí thƣơng hiệu tại thị
trƣờng EU
80
- Có đội ngũ chuyên gia xây dựng thƣơng hiệu có tầm nhìn xa, nắm vững
chiến lƣợc Marketing doanh nghiệp, hiểu biết sâu sắc về sản phẩm, có khả
năng sáng tạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, màu sắc, hình ảnh để diễn đạt ý
tƣởng.
Xây dựng đƣợc thƣơng hiệu thì việc bảo vệ thƣơng hiệu cũng là vấn đề
vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trƣờng EU
trong điều kiện hội nhập hiện nay. Thƣơng hiệu là tài sản vô hình nhƣng có
giá trị rất lớn. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, đăng ký thƣơng hiệu tại
thị trƣờng nƣớc ngoài và EU nói riêng mang ý nghĩa sống còn. Doanh nghiệp
cần tìm hiểu kỹ thuật sở hữu của EU. Sản phẩm của mình thuộc hệ thống sở
hữu trí tuệ nào để doanh nghiệp có thể tham gia đăng ký theo hệ thống đó.
Việt Nam chỉ bảo hộ thƣơng hiệu là nhãn mác, bao bì...của sản phẩm, nhƣng
ở EU cho phép đăng ký cả mùi vị, màu sắc, khẩu hiệu, nhạc hiệu...của sản
phẩm mà doanh nghiệp đăng ký.
Hiện nay, các nƣớc thành viên EU đang áp dụng hệ thống CTM
(Community Trade Mark). Nếu doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu vào EU
thì có thể đăng ký qua hệ thống CTM. CTM không yêu cầu nƣớc xuất xứ của
doanh nghiệp có nhu cầu đăng ký thƣơng hiệu phải gia nhập vào hệ thống
này. Doanh nghiệp chỉ cần đăng ký một lần qua hệ thống này thì thƣơng hiệu
sẽ đƣợc bảo hộ tại toàn bộ các thành viên EU và cả Thụy Sĩ. Chi phí một lần
đăng ký là khoảng 4000USD, đơn sẽ nộp ở văn phòng tại Thụy Sĩ, không cần
qua Cục sở hữu Công nghiệp. CTM không yêu cầu doanh nghiệp phải có sản
phẩm tại tất cả các nƣớc mà chỉ cần có ở một nƣớc trong khu vực đƣợc bảo
hộ, đồng thời doanh nghiệp cũng không cần phải đăng ký thƣơng hiệu tại Việt
Nam trƣớc khi đăng ký vào EU. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, việc đăng ký thƣơng hiệu vào từng nƣớc chiếm chi phí
khá lớn trong khi doanh nghiệp xuất khẩu với số lƣợng nhỏ. Do đó, đăng ký
81
qua hệ thống CTM này sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng đƣợc thị trƣờng, đồng
thời bảo vệ đƣợc thị phần của mình trong toàn cộng đồng Châu Âu [16].
2.6. Áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh hàng xuất khẩu
Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thƣơng mại
điện tử vì thƣơng mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn
nhƣ cung cấp thông tin nhanh chóng và cập nhật về thị trƣờng EU, sự biến
động cung cầu, giá cả, thị hiếu và sở thích của ngƣời tiêu dùng EU..(qua một
số website nhƣ www.europa.eu.int) giảm chi phí cho doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đối tác. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng
xây dựng website cho mình để cung cấp thông tin về doanh nghiệp nói chung,
thông tin về uy tín của doanh nghiệp trên thị trƣờng, các mặt hàng xuất khẩu,
thông tin về các chính sách Marketing, xúc tiến bán hàng, chính sách khách
hàng..để đối tác EU nắm bắt và quyết định đặt quan hệ hợp tác. Website của
doanh nghiệp đƣợc ví nhƣ một văn phòng ảo, bởi nó góp phần xây dựng uy
tín, hình ảnh cho doanh nghiệp. Văn phòng này hoạt động 24h mỗi ngày, 7
ngày trong tuần, trong khi đó để duy trì một văn phòng đại diện ở EU đòi hỏi
chi phí cao và đôi khi không hiệu quả [3].
2.7. Tìm nguồn tín dụng hỗ trợ nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tham gia sản xuất và
kinh doanh xuất nhập khẩu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn kinh
doanh ít, lại chƣa có nhiều kinh nghiệm trong thƣơng trƣờng của một nền
kinh tế thị trƣờng, nên gặp rất nhiều hạn chế trong việc xúc tiến thƣơng mại
cũng nhƣ việc đề ra chiến lƣợc lâu dài vƣơn ra thị trƣờng nƣớc ngoài. Để hạn
chế bớt những khó khăn về vốn, các doanh nghiệp cần tiếp cận các nguồn vốn
của các ngân hàng hay của các quỹ tín dụng trong khi nhà nƣớc chƣa có ngân
hàng chuyên doanh hoặc quỹ bảo lãnh tín dụng.
Các doanh nghiệp cần khai thác tác dụng tích cực của Quỹ hỗ trợ xuất
khẩu, tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc, các tổ chức quốc tế hay các hiệp
82
hội ngành hàng để tham gia triển lãm, hội chợ, hội thảo ở trong nƣớc hoặc ở
nƣớc ngoài, tìm kiếm sự hỗ trợ ở trong và ngoài nƣớc để lập văn phòng,
phòng trƣng bày, lập kho ngoại quan hay chi nhánh công ty tại nƣớc ngoài để
thực hiện công tác khuếch trƣơng cho sản phẩm hay dịch vụ của mình [8].
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC
1. Tiếp tục coi EU là thị trƣờng trọng điểm, xây dựng chiến lƣợc phát
triển thị trƣờng EU thông qua việc đàm phán, kí kết các hiệp định thỏa
thuận song phƣơng và đa phƣơng
Nhà nƣớc nên căn cứ vào việc chuyển hƣớng cơ cấu kinh tế của EU và
vai trò của khối này trên trƣờng quốc tế để định hƣớng thị trƣờng và đƣa ra
các chính sách thƣơng mại thích hợp. Nghĩa là cần có một chính sách coi thị
trƣờng EU là một trong những thị trƣờng xuất khẩu quan trọng nhất.
Với kim ngạch và cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sang
thị trƣờng EU ta thấy EU là một thị trƣờng chiến lƣợc đối với hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhƣ giày dép, dệt may, thủy
hải sản, nông sản, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ...sẽ còn tiếp tục gia tăng lƣợng
kim ngạch xuất khẩu vào EU. Bên cạnh đó xu hƣớng chuyển dịch sang xuất
khẩu các hàng có hàm lƣợng chất xám cao nhƣ đồ điện tử, vi tính..đang dần
tăng lên và nhu cầu về thị trƣờng các loại hàng hóa này sẽ trở nên ngày càng
bức thiết hơn bao giờ hết.
Theo kinh nghiệm của các nƣớc đi trƣớc theo con đƣờng công nghiệp
hóa hƣớng về xuất khẩu thì bằng mọi cách phải thâm nhập đƣợc vào thị
trƣờng các nƣớc phát triển để tạo hiệu quả cao, không chỉ về doanh thu mà cả
về công nghệ, phân công lao động quốc tế, lợi thế so sánh trên thị trƣờng thế
giới. Việt Nam cần khai thác những mặt mạnh của EU trong kỹ thuật cơ khí
tiên tiến, chế biến nông, thủy sản, lắp ráp ô tô, điện tử, kinh nghiệm quản lý
kinh tế và sản xuất công nghiệp. Muốn nắm bắt đƣợc lợi thế này, một chính
83
sách công nghiệp và chiến lƣợc thị trƣờng cụ thể đối với EU là không thể
thiếu.
Là thị trƣờng rộng lớn, có nhu cầu rất đa dạng và phức tạp về hàng hóa,
EU là một trong những thị trƣờng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam hiện
nay. Trong khi thị trƣờng Châu Á tạm thời bị thu hẹp, thị trƣờng Mỹ bắt đầu
hé mở thì EU là sự lựa chọn lý tƣởng cho chúng ta để thực hiện quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế “hƣớng về xuất khẩu” và chiến lƣợc “đẩy mạnh
xuất khẩu”. Tuy nhiên, EU hiện đang đƣợc coi là thị trƣờng có mức bảo hộ
cao nhất. Sự bảo hộ đƣợc thể hiện dƣới hình thức thuế quan và phi thuế quan.
Hàng rào thuế quan đã giảm dần song hàng rào phi thuế quan ngày càng trở
nên ngặt nghèo hơn. Do đó, Nhà nƣớc nên chủ động đề nghị EC mở rộng quy
mô mậu dịch và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng của ta vào thị trƣờng này,
nhất là hàng nông sản, thủy hải sản, rau quả, thịt gia súc, gia cầm, đồ gỗ, đồ
gia dụng... Những mặt hàng cần có sự đàm phán ở cấp Chính phủ phải lên kế
hoạch đàm phán cụ thể để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp.
Mục tiêu đàm phán sẽ là mở cửa thị trƣờng, thống nhất hóa các tiêu chuẩn vệ
sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan
của EU.
Chính phủ cần tích cực và chủ động đàm phán với EU nhằm sớm ký
kết Hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng Việt Nam- EU. Cho đến nay,
quan hệ thƣơng mại Việt Nam- EU mới chỉ đƣợc điều chỉnh bởi hai hiệp định
là Hiệp định về hàng dệt may và Hiệp định khung về hợp tác Việt Nam-EU
mà chƣa có một hiệp định thƣơng mại chính thức. Việc sớm kí kết Hiệp định
thƣơng mại song phƣơng sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
đƣợc hƣởng nhiều ƣu đãi hơn từ phía EU, chủ động tìm đối tác và thâm nhập
thị trƣờng EU. Với lợi thế là một nƣớc đang phát triển trong quan hệ thƣơng
mại với EU- một trong ba cƣờng quốc kinh tế trên thế giới, EU qua Hiệp định
thƣơng mại sẽ dành nhiều ƣu đãi hơn cho Việt Nam về chế độ đãi ngộ tối huệ
84
quốc và đãi ngộ quốc gia, mở cửa nhiều thị trƣờng hơn cho hàng hóa xuất
khẩu của Việt nam thâm nhập dễ dàng vào thị trƣờng EU [2].
2. Hoàn thiện hành lang pháp lý, môi trƣờng kinh doanh tạo điều kiện
cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
Để tạo lập và thúc đẩy các cơ hội bình đẳng và không phân biệt đối xử
trong cạnh tranh của các tổ chức, cá nhân kinh doanh, tránh những hành vi
hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trƣờng nhằm bảo
vệ lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc, của doanh
nghiệp, góp phần khuyến khích sản xuất và xuất khẩu. Nhà nƣớc cần phân
định rõ việc quản lý vĩ mô của Nhà nƣớc với việc quản lý kinh doanh của các
đơn vị kinh tế, xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô có hiệu quả. Nhà nƣớc thực
hiện việc hƣớng dẫn, giám sát, uốn nắn những lệch lạc và bổ khuyết những
nhƣợc điểm của kinh tế thị trƣờng, nhằm phát huy tác động tích cực và hạn
chế tác động tiêu cực của nó.
Tiếp tục cải thiện môi trƣờng kinh doanh theo hƣớng tạo thuận lợi hơn
nữa cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài; Thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nƣớc
làm ăn kém hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho khối doanh nghiệp này thực
sự bƣớc vào kinh tế thị trƣờng. Hình thành các loại hình doanh nghiệp mới
nhƣ thí điểm mô hình công ty mẹ-con..và tạo điều kiện dễ dàng chuyển đổi
loại hình doanh nghiệp, do trong quá trình hoạt động có sự biến động về tổ
chức, nhân thân chủ doanh nghiệp và môi trƣờng kinh doanh, các doanh
nghiệp thƣờng có nhu cầu chuyển đổi từ loại hình này sang loại hình khác
trong khi vẫn giữ hoạt động sản xuất kinh doanh bình thƣờng. Các giải pháp
hợp nhất, chia tách doanh nghiệp cũng là các giải pháp thƣờng xuyên đòi hỏi
các thủ tục pháp lý tƣơng ứng..Đáp ứng đƣợc những yêu cầu đó sẽ kích thích
sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nƣớc cần sớm ban
hành Luật khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền, mở rộng quyền kinh
85
doanh cho các loại hình doanh nghiệp…Đồng thời từng bƣớc xóa bỏ chính
sách bảo hộ về thuế và thực hiện các quy định đối xử quốc gia phù hợp với
tiến trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế.
Nhà nƣớc cần tạo môi trƣờng kinh tế-xã hội ổn định bằng cách xây
dựng kết cấu hạ tầng sản xuất, quan trọng nhất là giao thông vận tải, thông tin
liên lạc; kết cấu hạ tầng xã hội và các dịch vụ công cộng khác nhƣ bảo đảm an
ninh, dịch vụ tài chính, tín dụng….Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội tốt sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tạo ra những sản phẩm
có sức cạnh tranh cao, khuyến khích đƣợc xuất khẩu.
Trên cơ sở môi trƣờng kinh doanh và chính sách cạnh tranh bình đẳng
trong nƣớc đƣợc hoàn thiện nhằm xây dựng một cơ chế thị trƣờng tƣơng đối
hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn của EU về cơ chế thị trƣờng, có vậy EU mới công
nhận Việt Nam theo cơ chế thị trƣờng, và Việt Nam mới có cơ sở pháp lý
trong đàm phán với EU và EU mới đối xử công bằng với tất cả các doanh
nghiệp Việt Nam có quan hệ thƣơng mại với các đối tác EU.
Hệ thống quy phạm pháp luật của EU rất đồ sộ và chặt chẽ. Những quy
phạm pháp luật của EU liên quan đến thƣơng mại hàng hóa, dịch vụ, sở hữu
trí tuệ và đầu tƣ liên quan đến thƣơng mại phần lớn đều thống nhất với những
quy định của WTO. Khi các nƣớc khu vực CEEC (10 quốc gia mới gia nhập
vào EU năm 2004, bạn hàng truyền thống của Việt Nam) là thành viên của
EU thì những nƣớc này phải điều chỉnh hệ thống pháp quy của họ, kể cả
những cam kết quốc tế song và đa biên cho đồng nhất với những quy định của
EU. Vì vậy, để tiếp tục và tăng cƣờng phát triển quan hệ kinh tế, thƣơng mại
với EU, Việt Nam cần rà soát lại hệ thống pháp quy để điều chỉnh các quy
định không còn phù hợp hoặc chƣa minh bạch.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thƣơng mại theo
hƣớng xóa bỏ các thủ tục phiền hà, nhất là thủ tục xuất nhập khẩu, ổn định
môi trƣờng pháp lý để tạo sự tin tƣởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích
86
họ yên tâm đầu tƣ lâu dài vào sản xuất kinh doanh. Sớm hoàn thiện chính
sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hƣớng nhất
quán trong một khoảng thời gian dài để không gây băn khoăn cho doanh
nghiệp trong việc tính toán hiệu quả kinh doanh. Tính toán hợp lý thuế thu
nhập doanh nghiệp để tạo thêm sức cạnh tranh cho hàng hóa ở thị trƣờng
trong cũng nhƣ ngoài nƣớc. Tiến dần đến luật hóa các quy định trong sản xuất
kinh doanh. Tăng cƣờng tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng thí
điểm mô hình liên kết trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất
khẩu nhƣ doanh nghiệp liên kết với các trƣờng, viện nghiên cứu, các tổ chức
tài chính hoặc trong hiệp hội doanh nghiệp [2].
3. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trƣờng EU
EU là một thị trƣờng lớn với 27 quốc gia thành viên với dân số gần nửa
tỷ ngƣời nên nhu cầu nhập khẩu hàng hóa hàng năm rất lớn. Các mặt hàng
nhập khẩu của EU phần lớn là những mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng của
Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU vẫn
chƣa đạt đƣợc nhƣ đúng tiềm năng, nguyên nhân một phần do hoạt động xúc
tiến thƣơng mại còn yếu, doanh nghiệp chƣa tiếp cận đƣợc với thị trƣờng một
cách có hiệu quả.
Nhà nƣớc hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị
trƣờng. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tìm đối tác EU, nhất là những đối tác đáng tin cậy. Do vậy cần phải nâng
cao vai trò của các thƣơng vụ Việt Nam trong việc xúc tiến thƣơng mại, tìm
kiếm đối tác, ngân hàng tin cậy cho các doanh nghiệp trong nƣớc. Thƣơng vụ
sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm những thông tin về thị trƣờng
EU nhƣ: những thay đổi về hệ thống pháp luật, quy chế nhập khẩu, thuế quan,
tỷ giá hối đoái, lạm phát, xu hƣớng thƣơng mại, tình hình tăng trƣởng kinh tế
của EU, diễn biến đối với từng mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nhƣ dự báo
cung cầu, giá cả, vấn đề cạnh tranh, thị hiếu, kênh phân phối...
87
Các thƣơng vụ Việt Nam tại các nƣớc EU nên hỗ trợ tích cực khi các
doanh nghiệp đi thực tế nghiên cứu, khảo sát thị trƣờng EU để công việc triển
khai có hiệu quả, tránh tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, chi phí đi lại và
nghiên cứu thị trƣờng của các doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng cần
khuyến khích xuất khẩu nên đƣợc Chính phủ hỗ trợ một phần.
Nhà nƣớc nên bổ sung ngân sách cho hoạt động xúc tiến thƣơng mại
bao gồm cả ngân sách hỗ trợ doanh nghiệp và ngân sách tăng cƣờng cho hoạt
động chuyên môn của Thƣơng vụ. Ngân sách này nên có tỷ lệ tƣơng thích với
tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu và trong khuôn khổ cho phép của WTO. Thiết
lập sự cạnh tranh về ngân sách giữa các tổ chức xúc tiến thƣơng mại và hỗ trợ
kinh doanh. Ngân sách xúc tiến thƣơng mại nên đƣợc phân bổ cho các tổ chức
hỗ trợ xuất khẩu khác nhau.
Nhà nƣớc và các hiệp hội ngành hàng cũng nên hỗ trợ doanh nghiệp để
thành lập văn phòng xúc tiến thƣơng mại đầu tƣ tại EU. Điều này sẽ góp phần
tiết kiệm đƣợc rất nhiều thời gian và chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Văn phòng tập trung vào các hoạt động tƣ vấn và giới thiệu bạn hàng tiềm
năng, các thị trƣờng và các dạng thức hợp tác để mở rộng thị trƣờng xuất
khẩu cho hàng hóa Việt Nam; góp phần đề xuất và thực hiện việc cải tiến
công nghệ, mẫu mã, mạng lƣới phân phối...nhằm cải thiện và nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Đây sẽ là đầu mối hỗ trợ các doanh
nghiệp Việt Nam nghiên cứu thị trƣờng, tham gia triển lãm, hội chợ quốc tế,
giới thiệu môi trƣờng đầu tƣ ở Việt Nam và các dự án liên doanh. Ngoài ra
văn phòng cũng thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin ƣu đãi thuế quan và
hạn ngạch, phối hợp với các luật sƣ để giải quyết những tranh chấp liên
quan...
Ngoài hình thức tham gia hội chợ, triển lãm, kho ngoại quan là hình
thức tốt nhất để thƣờng xuyên giới thiệu sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của
Việt Nam cho ngƣời tiêu dùng EU. Việc xây dựng kho ngoại quan sẽ làm cho
88
hàng hóa Việt Nam có mặt thƣờng xuyên tại thị trƣờng Châu Âu với văn
phòng hoặc đại diện liên lạc, đại lý hàng hóa, đại diện xúc tiến thƣơng mại lo
việc cung cấp thông tin cơ bản, quảng bá thƣơng hiệu, giới thiệu sản phẩm và
nhà sản xuất.
Ngoài ra, còn tăng tính cơ động trong việc chào hàng với việc cho phép
ký gửi hàng mẫu ở các đại lý, mạng lƣới kho hàng, các đối tác, các hiệp hội
ngành nghề. Hàng Việt Nam cũng có thể tham gia các tuần lễ giới thiệu sản
phẩm Châu Á hoặc riêng Việt Nam hoặc theo từng lĩnh vực hoặc ngành nghề.
Kho ngoại quan có thể phục vụ hậu cần cho các hội chợ quốc tế và hội
chợ địa phƣơng (nhất là việc chuẩn bị trƣớc hội chợ và chăm sóc khách hàng
tiềm năng sau hội chợ), cũng có thể tiết kiệm, giảm chi phí gửi ngƣời lo gian
hàng. Kho ngoại quan cũng góp phần tăng tính chủ động xúc tiến thƣơng mại
khi mở các hội chợ tại chỗ, các hội thảo, tổ chức các hoạt động PR tại Châu Âu.
Ngoài ra hệ thống kho này còn cung ứng cho các kênh phân phối mới
với các phân khúc thị trƣờng theo chùm khách hàng, theo chuỗi giá trị, các
phân khúc thị trƣờng. Có thể cung ứng nhanh để nắm bắt các cơ hội, cung
ứng với giá tốt hơn khi cầu vƣợt cung. Kho ngoại quan sẽ giúp hàng Việt
Nam vƣợt rào cản chất lƣợng và kiểm tra hàng hóa để tiện buôn bán và giao
hàng chắc chắn hơn, tăng độ tin cậy ở các bạn hàng nhập khẩu.
Kho ngoại quan cũng là cửa ngõ để có thể đƣa hàng Việt Nam đi vào
các thị trƣờng khác, nhất là 27 nƣớc thành viên EU, thị trƣờng Bắc Phi và các
nƣớc trao đổi hàng với Châu Âu.
Thông qua văn phòng xúc tiến thƣơng mại, phòng trƣng bày và kho
ngoại quan, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận thêm các khách hàng
tiềm năng phong phú. Ví dụ nhƣ các hệ thống siêu thị. Hiện phần lớn các tập
đoàn siêu thị đều mua qua các tổng đại lý từng vùng châu lục. Một tổng công
ty thƣơng mại có kho ngoại quan hàng Việt Nam tại Châu Âu có nhiều cơ hội
bán hàng cho hệ thống siêu thị tại đây theo phƣơng thức B2B (từ doanh
89
nghiệp đến doanh nghiệp) cộng với đảm bảo chất lƣợng khi giao hàng và có
thể cung ứng các lô hàng bán thử.
Bên cạnh việc xây dựng kho ngoại quan, cần sớm tận dụng thị trƣờng
của các nƣớc thành viên mới làm thị trƣờng trung chuyển hàng hóa. Hiện nay
số lƣợng Việt Kiều kinh doanh tại khu vực Trung và Đông Âu rất đông. Do
lực lƣợng Việt Kiều này đã thông thạo ngôn ngữ, thông thạo môi trƣờng kinh
doanh, nếu có sự hỗ trợ của chính phủ, kết hợp với sự năng động sáng tạo của
các doanh nghiệp trong nƣớc, thực sự họ trở thành lực lƣợng nòng cốt trong
việc xây dựng tại đây một thị trƣờng trung chuyển hàng hóa và dịch vụ sang
khu vực thị trƣờng thống nhất rộng lớn của EU [18].
4. Thúc đẩy đầu tƣ đổi mới công nghệ, gắn nhập khẩu công nghệ từ EU
với xuất khẩu hàng hóa sang thị trƣờng EU
Cho tới nay có một vấn đề mà hàng xuất khẩu Việt Nam gặp phải đó là
tuy giá thành rẻ nhƣng chất lƣợng hàng hóa lại không cao. Trong khi thị
trƣờng EU ngày càng một khó tính hơn thì việc chất lƣợng sản phẩm không
cao đã làm giảm đi sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên
thị trƣờng; Việc đầu tƣ đổi mới công nghệ là yêu cầu cấp thiết cho hoạt động
sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trƣờng đặc biệt khó tính này. Để đảm bảo
công nghệ mới là phù hợp với tiêu chuẩn của EU, chúng ta nên nhập khẩu
công nghệ từ EU và gắn việc nhập khẩu công nghệ này vào với việc xuất
khẩu hàng hóa sang thị trƣờng EU. Bằng cách này, hàng hóa đƣợc sản xuất ra
sẽ có cơ hội đƣợc thâm nhập và vƣợt qua đƣợc các rào cản kỹ thuật do EU đặt
ra đồng thời chúng ta còn nhập khẩu đƣợc công nghệ hiện đại phục vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu,
thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu nói chung sang thị trƣờng EU nói riêng, do đó
mở rộng đƣợc thị trƣờng xuất khẩu. Đây là một phƣơng pháp hữu hiệu hỗ trợ
và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU.
90
Công nghệ của EU tiên tiến, hiện đại song giá thành lại quá cao do đó
muốn nhập khẩu đƣợc cần có sự hỗ trợ từ phía chính phủ. Tuy nhiên, ngân
sách nhà nƣớc ta còn hạn hẹp, nƣớc ta vẫn còn là một nƣớc nghèo không thể
đáp ứng đƣợc yêu cầu này, do vậy, thu hút các nhà đầu tƣ EU tham gia vào
quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam là giải pháp thay thế tối ƣu để
Việt Nam đƣợc nhập khẩu các công nghệ của EU và sử dụng công nghệ này
vào việc phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang thị trƣờng này. Sẽ
dễ dàng hơn nhiều bởi thị trƣờng EU sẽ không chê một sản phẩm đƣợc sản
xuất theo đúng công nghệ của chính mình.
Để thực hiện đƣợc biện pháp này, Nhà nƣớc cần có chính sách ƣu đãi
dành cho các nhà đầu tƣ EU ngoài những ƣu đãi và quyền lợi mà họ đƣợc
hƣởng theo Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài của Việt Nam, chẳng hạn những ƣu đãi
về thuế nhập khẩu công nghệ từ EU, thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận
ra nƣớc ngoài...[3]
5. Tiếp tục phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và các mặt hàng
xuất khẩu mới mà thị trƣờng EU đang có nhu cầu lớn
Nhà nƣớc cần có chính sách cụ thể để phát triển các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực sang thị trƣờng EU. Thông qua sự hỗ trợ về vốn, ƣu đãi về thuế
và tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
Việt Nam có thể phát triển đƣợc nền sản xuất nội địa.
Đối với hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trƣờng
EU là giày dép và dệt may, do đặc thù riêng trong sản xuất và xuất khẩu là ta
chủ yếu làm gia công cho nƣớc ngoài nên hiệu quả thực tế thu đƣợc từ xuất
nhập khẩu là thấp, hơn nữa là gia công theo đơn đặt hàng và sản xuất theo kỹ
thuật nƣớc ngoài nên chúng ta hoàn toàn bị động về mẫu mã, sản xuất cũng
nhƣ tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, Nhà nƣớc cần có chính sách cụ thể để khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tƣ sản xuất chứ không đơn thuần chỉ làm gia
công để tăng hiệu quả xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp đã trực tiếp sản
91
xuất và xuất khẩu hai mặt hàng này, Nhà nƣớc nên có chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp này tiếp tục đầu tƣ vốn và đổi mới công nghệ trong
quá trình sản xuất để cải tiến sản phẩm phù hợp với thị hiếu của ngƣời tiêu
dùng EU, nâng cao chất lƣợng, tăng cƣờng xuất khẩu theo phƣơng thức mua
đứt bán đoạn (mua nguyên liệu bán thành phẩm), giảm dần phƣơng thức gia
công xuất khẩu đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sản phẩm có tỷ lệ nội
địa hóa cao, tiến tới xuất khẩu sản phẩm 100% nguyên liệu trong nƣớc nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu hai mặt hàng này.
Đối với mặt hàng đang đƣợc ƣu chuộng trên thị trƣờng EU nhƣ hàng
thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng... Nhà nƣớc cần có chính sách cụ thể
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tƣ vốn và công nghệ hiện đại để mở rộng
quy mô sản xuất, nâng cao năng suất và chất lƣợng sản phẩm, đa dạng hóa và
nâng cao trình độ tiếp thị sản phẩm nhằm mục đích tăng khối lƣợng và nâng
cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng này sang EU.
Đối với mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu sang thị trƣờng EU
nhƣ cà phê, chè, rau quả...Nhà nƣớc cần xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có
chính sách cụ thể khuyến khích đầu tƣ vốn tạo ra các vùng sản xuất chuyên
canh ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để bảo đảm sản
phẩm làm ra có năng suất và chất lƣợng cao, đồng đều, khối lƣợng lớn và giá
thành hạ. Việc tạo ra vùng sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu giúp cho công
tác thâm canh, chăm sóc và lựa chọn, đảm bảo chất lƣợng hàng hóa tốt khi
đem xuất khẩu.
Nhà nƣớc cũng cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo đầu tƣ theo chiều sâu
để nâng cao chất lƣợng, giá trị gia tăng, tính độc đáo và tính khác biệt của sản
phẩm, đa dạng hóa mặt hàng nhằm tăng nhanh khối lƣợng và nâng cao hiệu
quả xuất khẩu sang thị trƣờng EU. Đối với các doanh nghiệp lớn của Nhà
nƣớc thuộc ngành điện tử-tin học, viễn thông. Nhà nƣớc cần có chính sách hỗ
92
trợ về vốn và khuyến khích họ tập trung nghiên cứu cơ bản để tạo ra các sản
phẩm công nghệ cao [11].
6. Có chính sách phát triển nguồn nhân lực để nâng cao khả năng xuất
khẩu vào thị trƣờng EU
Hiện nay, nƣớc ta rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao, bởi vậy dẫn tới hàng hóa sản xuất ra chất lƣợng còn thấp, không
đồng đều, kiểu dáng đơn điệu, thiếu tính sáng tạo, giảm khả năng cạnh tranh
của hàng hóa trên thị trƣờng. Nhà nƣớc cần tổ chức nhiều chƣơng trình đào
tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các
ngành chế biến, chế tạo, đồng thời cũng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ
thƣơng mại giỏi thì mới có thể đƣa những sản phẩm có chất lƣợng tốt đến tay
ngƣời tiêu dùng EU đƣợc. Hiện nay có sự hẫng hụt, chênh lệch lớn về những
kiến thức quản lý kinh tế nói chung, quản lý thƣơng mại nói riêng giữa nƣớc
ta so với ngay các nƣớc trong khu vực, chính vì vậy, đã đẩy Việt Nam vào
tình trạng bất lợi trong các cuộc đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thƣơng với
các đối tác giàu kinh nghiệm nhƣ các đối tác đến từ EU.
Nhà nƣớc cần chú trọng tổ chức các chƣơng trình đào tạo chuyên sâu
về ngoại thƣơng cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty xuất
khẩu. Xây dựng chính sách về chế độ bồi dƣỡng, đào tạo và tào tạo lại, tuyển
chọn cán bộ ngoại thƣơng một cách chặt chẽ và nghiêm túc cả về phẩm chất
đạo đức, năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ.
Hàng năm, Nhà nƣớc nên cử các cán bộ sang học tập, nghiên cứu tại
EU. Mặc dù hiện nay tiếng Anh đƣợc sử dụng phổ biến song chúng ta cũng
cần các cán bộ ngoại thƣơng giỏi tiếng Pháp, Đức, Tây Ban Nha...và am hiểu
về văn hóa mỗi quốc gia thành viên. Nhƣ vậy sẽ tạo thuận lợi cho phía Việt
Nam trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu, hợp tác kinh doanh,
liên doanh với đối tác EU nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
sang EU.
93
Nhà nƣớc cũng cần tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao
kiến thức kinh doanh và trình độ quản lý cho đội ngũ các nhà quản lý và chỉ
đạo kinh doanh của các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng hóa sang EU.
Mở các lớp thuyết trình giới thiệu các thông tin mới nhất về chế độ, chính
sách, thể lệ liên quan đến kinh doanh thƣơng mại cũng nhƣ các hƣớng dẫn về
nghiệp vụ nhƣ Marketing, vận tải, bao bì hàng hóa, bảo hiểm xuất khẩu, kỹ
thuật đàm phán. Tổ chức các hội nghị, hội thảo với EU để trao đổi, học tập
kinh nghiệm từ giới kinh doanh EU.
Đặc biệt Nhà nƣớc nên tích đầu tƣ hơn nữa vào việc đào tạo các luật sƣ
có năng lực, trình độ, có bằng cấp quốc tế, thông thạo luật Việt Nam cũng
nhƣ là luật quốc tế để có thể góp phần giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam
trong những tranh chấp thƣơng mại quốc tế [8].
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần tháo gỡ những khó
khăn rào cản mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải trong quá trình xuất
khẩu hàng hoá vào thị trƣờng EU từ đó đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng
hoá vào thị trƣờng này. Việt Nam cũng nhƣ Liên minh Châu Âu (EU) đang có
những nỗ lực để xích lại gần nhau hơn. Sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau sẽ tạo đà
cho việc phát triển hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng EU, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh đƣợc thị trƣờng và Việt
Nam sẽ vƣơn lên là đối tác thƣơng mại quan trọng của EU trong tƣơng lai.
94
KẾT LUẬN
Cho đến nay, Liên minh Châu Âu đƣợc xem là một thể chế kinh tế
chính trị lớn mạnh hàng đầu thế giới. Càng ngày liên minh Châu Âu càng
đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh
trên toàn thế giới.
Việt Nam đang nỗ lực hết mình để phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất
khẩu ra khắp các thị trƣờng trên toàn thế giới, trong đó trọng tâm là thị trƣờng
EU. Với tất cả những kết quả mà xuất khẩu của Việt Nam đã đạt đƣợc tại thị
trƣờng EU, chúng ta có cơ sở để tin vào sự lớn mạnh hơn nữa về quan hệ hợp
tác thƣơng mại của Việt Nam và EU. EU cũng tạo điều kiện cho Việt Nam để
hàng hóa xuất khẩu Việt Nam đƣợc thâm nhập vào thị trƣờng khó tính này.
Chính sự hợp tác, nỗ lực của hai bên đã góp phần thúc đẩy quan hệ thƣơng
mại giữa hai bên ngày càng phát triển.
Từ việc tìm ra những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt
Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang EU, khóa luận đã cung cấp một cái nhìn
tổng quan nhất đối với tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị
trƣờng EU hiện nay, qua đó cũng đề xuất một số giải pháp góp phần đẩy
mạnh quan hệ thƣơng mại hợp tác giữa hai bên. Em hy vọng bài khóa luận
của em sẽ cung cấp cho thầy cô và các bạn những thông tin hữu ích và phần
nào hiểu rõ hơn về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang
các thị trƣờng trên thế giới nói chung và sang thị trƣờng EU nói riêng.
Em xin gửi lời chân thành cảm ơn tới PGS.TS Phạm Duy Liên, thầy đã
hƣớng dẫn cho em hoàn thành khóa luận này, em cũng xin chân thành cảm ơn
các cô chú ở Viện nghiên cứu Châu Âu, Thƣ viện Quốc gia, Viện kinh tế và
chính trị thế giới, Viện kinh tế Trung Ƣơng, các thầy cô, bạn bè đã quan tâm
và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khóa luận.
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thƣơng (2001), Chiến lƣợc phát triển xuất khẩu thời kỳ 2001-2010.
2. PGS.TS Vũ Chí Lộc (2004), Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sang thị trƣờng Châu Âu, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. TS. Nguyễn Quang Minh, Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang
thị trƣờng EU, Luận văn thạc sĩ kinh tế, 2004.
4. PGS.TS Đinh Công Tuấn (2008), Quan hệ kinh tế Việt Nam-EU năm
2005, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, năm 2008.
5. PGS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2008), Một số thành tựu phát triển của
Liên minh Châu Âu năm 2007, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, năm 2008.
6. GS.TS Võ Trí Thành (2007), Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trƣờng EU:
Tổng quan và đánh giá sử dụng cách tiếp cận Tỷ trọng thị trƣờng không
đổi (CMS)”, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.
7. GS.TS Võ Trí Thành (2007), Khảo sát doanh nghiệp xuất khẩu vào thị
trƣờng EU, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.
8. GS.TS Võ Trí Thành (2007), Xuất khẩu vào thị trƣờng EU: Trở ngại và
khuyến nghị chính sách, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.
9. TS. Nguyễn Anh Tuấn, Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh hàng
may mặc của Việt Nam trên thị trƣờng EU, Luận án Tiến sĩ kinh tế, 2006.
10. Phạm Quang Thao (1997), Những điều cần biết về thị trƣờng EU, Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
11. Phòng thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam (2005) , Cẩm nang xuất
khẩu cho doanh nghiệp, Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội, 2005.
12. European Union Economic and Commercial Counsellors (2007), 2007
commercial consellors report on Vietnam, 2007.
96
13. Võ Trí Thành, Đinh Hiền Minh, Phạm Thiên Hoàng (2007), Vietnam’s
export to the EU: An overview and assessment using CMS- based
approach, Nhà xuất bản Tài Chính, Hà Nội.
14. Võ Trí Thành, Đinh Hiền Minh, Phạm Thiên Hoàng (2007), Exporting to
the EU: Obstacles and policy recommendations, Nhà xuất bản Tài Chính,
Hà Nội.
15. http:www.eurostat.com
16.
17. http:/www.nciec.gov.vn
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
27.
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4305_5987.pdf