Đề tài Xuất khẩu nước tương chin-Su qua thị trường Mỹ

Mục Lục: I. Lời mở đầu II. Miêu tả hoạt động kinh doanh II.1.Giới thiệu công ty II.2.Sản phẩm nước tương Chin-su . III.Phân tích Thị trường . III.1 Phân tích môi trường kinh doanh III.2 Phân tích thị trường nước tương tại Mỹ IV. Phân tích SWOT . V.CHIẾN LƯỢC KINH DOANH: V.1.Chiến lược Maketing V.1.1 Chiến lược sản phẩm V.1.2Chiến lược phân phối V.1.3 Chiến lược giá V.1.4 Chiến lược xúc tiến V.1.4.1 Quảng cáo V.1.4.2 Khuyến mãi V.1.4.3 PR V.1.4.4 Đội ngũ nhân viên V.2 Tổ chức thực hiện

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3100 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu nước tương chin-Su qua thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa giải. Phương pháp kết hợp này mang lại nhiều điểm ưu việt hơn phương pháp truyền thống đã đề cập ở trên, rút ngắn thời gian sản xuất còn 3 ngày, mùi vị nước tương được người tiêu dùng ưa chuộng, nồng độ 3-MCPD < 0.5 ppm. Ngoài ra, chin-su còn đạt được: Tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm HACCP của Châu Âu ; Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 ; Hoạt động duy trì năng suất toàn diện TPM. II.3. Chọn thị trường xuất khẩu sang thị trường Mỹ: i) Các yếu tố nội tài của công ty: Công ty thực phẩm Masan đang thu được nhiều thành công của sản sản phẩm Chin-su, và đặc biệt là nước tương Chin-su ở thị trường Việt Nam và châu Âu. Công ty có năng lực sản xuất lớn, nguồn tài chính dồi dào để đáp ứng cho nhiều chi phí xuất khẩu, có kinh nghiệm trong quản lý, đáp ứng yêu cầu chất lượng cao của thị trường nước ngoài ii) Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến tiềm năng xuất khẩu: người Việt Nam ở nước ngoài, với các tập quán, ẩm thực gần như giống người Việt trong nước đang là lượng khách hàng tiềm năng để Chin-su đáp ứng tôt nhất nhu cầu của họ. Do đó, với lượng Việt kiều đông nhất thế giới, Mỹ là thị trường đầy tiềm năng của nước tương Chin-su. Mặt khác, từ sau khi hiệp định thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, Mỹ là thị trường lớn của xuất khẩu hàng hóa Việt Nam, rất nhiều thông tin vê thị trường, sự hỗ trợ từ các cơ quan, chính phủ hai nước, cơ chế thông thoáng tạo điều kiện để Chin-su dễ tiếp cận thị trường Mỹ III.Phân tích Thị trường III.1 Phân tích môi trường kinh doanh  III.1.1. Môi trường kinh tế: Nền kinh tế Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới với nền công nghiệp hùng mạnh, nông nghiệp hiện đại và là trung tâm thương mại, tài chính của thế giới. Hoa Kỳ bước vào thế kỷ XXI với một nền kinh tế lớn hơn bao giờ hết và cùng với nhiều số liệu đánh giá là thành công chưa từng có. Nó không những phải kinh qua hai cuộc chiến tranh thế giới và sự suy thoái toàn cầu trong nửa đầu thế kỷ XX, mà còn phải vượt qua những thách thức từ cuộc Chiến tranh Lạnh trong 40 năm với Liên Xô cho đến những đợt lạm phát sâu sắc, thất nghiệp cao, và thâm hụt ngân sách nặng nề của chính phủ trong nửa cuối thế kỷ XX. Nước Mỹ cuối cùng đã có được một giai đoạn ổn định kinh tế vào những năm 1990: giá cả ổn định, thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong vòng gần 30 năm qua, chính phủ công bố thặng dư ngân sách, và thị trường chứng khoán tăng vọt chưa từng thấy. Thị trường tiêu thụ rộng lớn cộng với chủ nghĩa thực dụng năng động của người Mỹ đã tạo ra nhiều cơ hội để các nhà nhập khẩu xâm nhập thị trường này. Mặc dù chiếm chưa đến 5% dân số thế giới, nhưng nước Mỹ lại chiếm tới hơn 25% sản lượng kinh tế toàn thế giới. Nước Mỹ đứng thứ 10 trên thế giới về thu nhập bình quân đầu người mỗi năm Tuy nhiên vào thời điểm hiện tại, do chịu tác động của khủng hoảng tài chính khiến sức mua giảm mạnh. Nhiều mặt hàng trước đây XK sang Mỹ với số lượng lớn, đơn đặt hàng dài hạn. Nhưng hiện nay những đơn hàng như vậy không còn nhiều, số lượng cũng giảm mạnh. Nguyên nhân của tình trạng này là do người dân Mỹ cắt giảm chi tiêu, các ngân hàng có điều kiện cấp tín dụng với nhà nhập khẩu đã siết chặt việc cho DN nhập khẩu vay vốn. Điều này dẫn đến các nhà nhập khẩu của Hoa Kỳ không thể nhập hàng với số lượng lớn, thời hạn dài để bán cho các siêu thị. Doanh nghiệp nhập khẩu chuyển sang mua số lượng ít, với những hợp đồng ngắn hạn. Kết quả là việc hàng hóa XK của Việt Nam vào thị trường này giảm sút. Nhưng điều này lại không ảnh hưởng lớn đến các mặt hàng thiết yếu III.1.2. Môi trường chính trị: Hợp chủng quốc Hoa Kì đuợc tổ chức theo hình thức Nhà nước Liên bang, gồm 50 tiểu bang và 2 bang tách rời là Alaska và Haoai. Mỹ là một nhà nước được tổ chức theo chế độ cộng hòa dân chủ tư sản tổng thống. Dựa theo nguyên tắc “Tam quyền phân lập”, quyền lực chính trị được thực thi theo nguyên tắc phân quyền và đối trọng thông qua 3 cơ quan độc lập. Theo đó Quyền lâp pháp được trao cho Quốc hội, quyền hành pháp trao cho Tổng thống Mỹ, quyền tư pháp được giao cho Tối cao pháp viện. Mỗi cơ quan này thi hành quyền lực một cách đôc lập trong cơ chế kiểm soát và khống chế lẫn nhau. Quan hệ chính trị giữa hai nước, tuy đang được cải thiện, song vẫn còn nhiều nhạy cảm. Nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ chưa thực sự quan tâm phát triển quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Do còn có sự chống đối quan hệ với Việt Nam của một bộ phận người Việt tại Hoa Kỳ, nên nhiều Việt kiều ở Hoa Kỳ muốn phát triển quan hệ buôn bán và đầu tư với Việt Nam còn e ngại và chưa mạnh dạn làm ăn với trong nước. III.1.3. Môi trường luật pháp: Tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu đều phải chịu sự điều tiết của các Luật Liên bang về Thực phẩm, Dược phẩm và Hoa Kỳ (Federal Food, Drug, and Cosmetic Act -FDCA), Luật về Bao bì và Nhãn hàng (Fair Packaging and Labeling Act - FPLA), và một số phần của Luật về Dịch vụ Y tế (PHSA). Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về nhập khẩu thực phẩm vào Hoa Kỳ. Các quy định của FDA về nhập khẩu thực phẩm rất nhiều và chặt chẽ. Ngoài các qui định của FDA, có thể có các quy định riêng của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) và/hoặc Cục Nghề cá Hoa Kỳ (NMFS) đối với một số mặt hàng nông thủy sản cụ thể. Bên cạnh đó, FDA cũng thực thi rất nhiều quy định khác liên quan đến lưu thông hàng hóa giữa các bang, việc thử nghiệm hàng trước khi đưa vào lưu thông thương mại v.v. III.1.3.1. Luật thuế quan và hải quan: Hệ thống thuế quan: Hệ thống thuế quan của Mỹ là Biểu Thuế quan hài hoà của Hợp chúng quốc Hoa kỳ (Harmonized Tariff Schedule - HTS). Ðược chính thức thông qua ngày 1 tháng 1 năm 1989, hệ thống này được xây dựng dựa trên Hệ thống Mô tả hàng hoá và Mã số Hài hoà của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Brúc-xen. Ðược coi là hệ thống hài hoà, hệ thống thuế quan này được hầu hết các quốc gia thương mại lớn sử dụng. Hầu hết các loại thuế quan của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị - tức là mức thuế được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu. Mức thuế suất của Mỹ biến động từ dưới 1% đến gần 40%, đối với hàng dệt may nhập khẩu thường phải chịu thuế cao hơn. Hầu hết thuế tỷ lệ trên giá trị trong khoảng từ 2 đến 7%, với mức thuế trung bình là 4%. Một số hàng nhập khẩu, thường là nông sản và các loại hàng chế biến khác, là đối tượng chịu "thuế theo số lượng" - đó là một loại thuế ấn định đối với một số lượng nhất định. Một số sản phẩm phải chịu thuế gộp, loại kết hợp thuế theo tỷ lệ trên giá trị và thuế theo số lượng. Tuy nhiên đối với những sản phẩm khác, ví dụ như đường, phải chịu thuế định ngạch -- một mức thuế suất cao hơn được áp dụng đối với hàng nhập khẩu sau khi một lượng hàng cụ thể đã được nhập vào Mỹ trong năm, mức chênh lệch sẽ thấp hơn thuế suất phổ biến. Một số ít các trường hợp gần như đặc biệt phải chịu các mức thuế khác. Quy chế tối huệ quốc: Hầu hết các đối tác thương mại của Mỹ có chế độ buôn bán "Tối Huệ Quốc" (MFN). Hàng hoá của các nước thuộc diện đối xử tối huệ quốc sẽ chịu các mức thuế như nhau khi vào Mỹ. Khi Mỹ giảm, loại bỏ, hoặc thay đổi một loại thuế quan, thì sự thay đổi đó được áp dụng bình đẳng với tất cả các quốc gia được hưởng MFN. Hàng nhập khẩu từ các nước không có MFN sẽ phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều. Khi gia nhập Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) trong năm thành lập 1948, Mỹ đã đồng ý dành MFN cho tất cả các nước khác đã ký hiệp định. Chế độ này còn dành cho một số nước nhất định không tham gia vào GATT. Hiện nay, Mỹ dành chế độ MFN cho tất cả các thành viên của WTO và hầu hết các quốc gia khác. Ưu đãi thuế quan đặc biệt: Mỹ dành một ưu đãi thuế quan quan trọng đối với hàng hoá nhập khẩu đươc sản xuất từ những bộ phận chế tạo tại Mỹ. Ðiều khoản trong luật này là HTS số 9802 theo Hệ thống Hài hoà mới -- trước đây gọi là điều 807 theo Hệ thống Thuế quan cũ của Mỹ. Theo thoả thuận này, thuế chỉ đánh vào phần giá trị gia tăng ở nước ngoài của sản phẩm, không đánh thuế đối với những phần được sản xuất ở Mỹ. Thoả thuận này, được gọi là "hợp đồng phân chia sản phẩm", được sử dụng rộng rãi từ môtô đến sản phẩm bán dẫn, quần áo được may ở nước ngoài sử dụng vải được sản xuất ở Mỹ. Năm 1996, khoảng 8,5% tổng nhập khẩu của Mỹ đã áp dụng theo điều khoản HTS số 9802. Tính giá hải quan, các quy định khác: Mỹ chấp nhận dùng Hiệp định của WTO về tính giá hải quan làm cơ sở cho Luật tính giá hải quan của Mỹ, quy trình xác định giá trị của hàng nhập khẩu để áp dụng thuế tỷ lệ trên giá trị. Bằng việc tham gia vào hiệp định, Mỹ sử dụng các quy tắc trong Thoả thuận Giải quyết Tranh Chấp của WTO để giải quyết những tranh chấp. Luật hiện tại của Mỹ coi "giá trị giao dịch" là cơ sở để xác định giá trị của hàng nhập khẩu. Nhìn chung, giá trị giao dịch là mức giá thực tế đã trả hoặc phải trả cho hàng nhập khẩu đó, với một số chi phí bổ sung không bao gồm trong giá đó. Nếu phương pháp tính giá hải quan thứ nhất không được sử dụng, luật quy định phương pháp thứ hai sẽ được sử dụng. Theo thứ tự như sau: 1) giá trị giao dịch của hàng hoá giống hoặc tương tự, 2) giá trị suy diễn; 3) giá trị tính toán. Luật Hải quan của Mỹ cũng quy định rằng xuất xứ của của sản phẩm phải được giải trình rõ ràng và trung thực. Ðiều này vô cùng quan trọng đối với những sản phẩm muốn vào Mỹ thông qua các chương trình miễn thuế một chiều như GSP, CBI, và ATPA. Ðối với những sản phẩm đủ điều kiện được ưu đãi thuế trong ba chương trình này, ít nhất 35% chi phí sản xuất trực tiếp của hàng này phải nằm trong nước được hưởng lợi. III.1.3.2. Luật bồi thường thương mại: Hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành công nghiệp Mỹ chống lại hàng nhập khẩu không công bằng là Luật thuế bù giá (CVD) và Luật Chống phá giá. Cả hai luật này quy định rằng phần thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát hiện là được trao đổi không công bằng. Cả hai luật bao gồm những thủ tục tương tự để tiến hành điều tra, ấn định thuế, và sau đó là kiểm tra và có khả năng loại bỏ thuế. Luật thuế bù giá (CVD): Luật thuế bù giá quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của sản phẩm nước ngoài, mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây thiệt hại các nhà sản xuất những hàng hoá giống hoặc tương tự của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ giá phải bù lại có thể do chính phủ nước ngoài trực tiếp trả, nhưng luật này cũng áp dụng đối với loại trợ giá gián tiếp bị phát hiện sau khi điều tra theo luật thuế bù giá. Việc điều tra theo luật thuế bù giá thường được tiến hành do có đơn khiếu nại của các ngành công nghiệp trong nước trình lên Bộ Thương mại Mỹ và Ủy ban Thương mại Quốc tế, tuy nhiên Bộ Thương mại có thể tiến hành độc lập một luật thuế. Bộ Thương mại và Ủy ban Thương mại Quốc tế đều có thể tiến hành điều tra. Bộ Thương mại điều tra để xác định xem có sự trợ giá "chịu thuế" trực tiếp hoặc gián tiếp ở nước hoặc lãnh thổ xuất xứ cho việc chế tạo, sản xuất hoặc xuất khẩu sản phẩm là đối tượng bị điều tra hay không. Ðiều tra của Ủy ban Thương mại Quốc tế xác định xem việc khiếu nại của ngành công nghiệp Mỹ bị thiệt hại vật chất hoặc đe doạ thiệt hại vật chất, hoặc các cơ sở kinh doanh của một ngành có bị thiệt hại vật chất hay không do hàng nhập khẩu được trợ giá. "Thiệt hại vật chất" được định nghĩa trong luật không phải là những thiệt hại nhỏ, vô hình, hoặc không quan trọng. Ðể áp đặt thuế bù giá, bộ Thương mại phải xác định phần trợ giá chịu thuế bù giá và Ủy ban Thương mại Quốc tế phải tìm ra những thiệt hại. Luật thuế bù giá còn đề cập đến cả các loại "trợ giá ngược chiều" -- những hình thức trợ giá cho sản xuất các yếu tố đầu vào được tính vào sản phẩm cuối cùng xuất khẩu sang Mỹ. Luật chống phá giá: Luật chống phá giá được sử dụng rộng rãi hơn luật thuế bù giá. Thuế chống phá giá được ấn định vào hàng nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng nước ngoài được bán "phá giá", hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá "thấp hơn giá trị thông thường". Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ -- tức là giá mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu -- thấp hơn mức giá của hàng hoá đó ở nước xuất xứ. Cũng giống như trường hợp theo luật thuế bù giá, các thủ tục chống phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành công nghiệp hoặc bộ Thương mại tiến hành độc lập. III.1.3.3 Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ: Luật thuế xuất năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, bảo vệ chống lại việc xâm nhập hàng hóa giả, luật này quy định mức thuế rất cao đối với hàng nhập khẩu. Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực, song thuế suất đã được nhiều lần sửa đổi và hạ xuống nhiều. Luật buôn bán năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt buôn bán. Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng nhâp khẩu. Đạo luật nầy gây ra nhiều bất lợi chow hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ vì hàng của Mỹ đã được Chính phủ đưng sau lưng bảo hộ. Hiệp định buôn bán năm 1979: Bao gồm cac điều khoản về sự bảo hộ của chính phủ về các chướng ngại kĩ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế - một loại thuế đánh vào các loại hàng hóa bị cho là có trợ gía hoặc bán phá giá. Hiệp định này được thông qua nhằm mục đích thực hiện một số bộ luật được thương mại vòng đàm phán Tokyo của GATT. Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh 1988: Luật này ủy nhiệm tổng thống Mỹ tham gia vòng đàm phán Uruguay, đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt (Super301) chow phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa chow hàng hóa Mỹ vào và quy phạm quyền Sở hữu trí tuệ của Mỹ. III.1.3.4. Chính sách thuế của Mỹ: Hệ thống thuế quan (thuế nhập khẩu) của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan (gọi tắt là HS) của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tai Bruxen. Mức thuế nhập khẩu của Hoa Kỳ có thể thay đổi và được công bố hàng năm. Các loại thuế  Thuế theo trị giá: Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ phần trăm trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu. Ví dụ mức thuế tối huệ quốc năm 2004 đối với chè xanh có hương vị đóng gói không quá 3 kg/gói là 6,4%. Thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng: Một số hàng hoá, chủ yếu là nông sản và hàng sơ chế phải chịu thuế theo trọng lượng hoặc khối lượng. Loại thuế này chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong biểu thuế HTS của Hoa Kỳ. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 đối với cam là 1,9 cent/kg, đối với nho tươi trong khoảng 1,13 – 1,80 USD/m3 hoặc được miễn thuế tùy thời điểm nhập khẩu trong năm. (Xem thêm phần về Thuế Thời vụ dưới đây.)    Thuế gộp: Một số hàng hóa phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế theo số lượng. Hàng phải chịu thuế gộp thường là hàng nông sản. Ví dụ thuế suất MFN đối với nấm mã HTS 0709.51.01 áp dụng cho năm 2004 là 8,8 cent/kg + 20%. Thuế theo hạn ngạch: Ngoài ra, một số loại hàng hoá khác phải chịu thuế hạn ngạch. Hàng hoá nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch cho phép được hưởng mức thuế thấp hơn, trong khi đó hàng nhập vượt quá hạn ngạch phải chịu mức thuế cao hơn nhiều và có hệ quả như cấm nhập khẩu. Mức thuế MFN năm 2002 áp dụng đối với số lượng trong hạn ngạch bình quân là 9%, trong khi đó mức thuế đối với số lượng vượt hạn ngạch trung bình là 53%. Thuế hạn ngạch hiện nay đang được áp dụng với thịt bò, các sản phẩm sữa, đường và các sản phẩm đường.  Thuế theo thời vụ: Mức thuế đối với một số loại nông sản có thể thay đổi theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 đối với nho tươi nhập khẩu trong thời gian từ 15 tháng 2 đến hết ngày 31 tháng 3 là 1,13 USD/m3, trong thời gian từ 1 tháng 4 đến hết 30 tháng 6 là 1,80 USD/m3, và ngoài những thời gian trên được miễn thuế. Thuế leo thang: Một đặc điểm nữa của hệ thống thuế nhập khẩu của Hoa kỳ là áp dụng thuế suất leo thang, nghĩa là hàng càng chế biến sâu thì thuế suất nhập khẩu càng cao. Ví dụ, mức thuế FMN đối với cá tươi sống hoặc ở dạng philê đông lạnh là 0%, trong khi đó mức thuế đối với cá khô và xông khói là từ 4% đến 6%. Loại thuế này cá tác dụng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế hơn là hàng thành phẩm. Các mức thuế  Mức thuế tối huệ quốc (MFN), hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Việt Nam. Mức thuế tối huệ quốc (MFN) nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%. Hàng dệt may và giầy dép thường chịu mức thuế cao hơn. Mức thuế MFN theo giá trị nói chung bình quân khoảng 4%. Mức thuế MFN được ghi trong cột “General” của cột 1 trong biểu thuế nhập khẩu (HTS) của Hoa Kỳ.  Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dung đối với những nước chưa phải là thành viên WTO và chưa ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ như Lào, Cuba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn nhiều lần so với thuế suất MFN. Mức thuế Non- FMN được ghi trong cột 2 của biểu thuế HTS của Hoa Kỳ.  Mức thuế áp dụng với Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Hàng hoá nhập khẩu từ Canada và Mexico được miễn thuế nhập khẩu hoặc được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN. Ví dụ, mức thuế MFN năm 2004 áp dụng chung với dưa chuột chế biến là 9,6%, trong khi đó nếu nhập khẩu từ Canada hoặc Mêxicô thì được miễn thuế. Thuế suất ưu đãi đối với hàng nhập từ Canada và Mêxicô được ghi ở cột “Special” của cột 1 trong biểu thuế HTS trong đó (CA) là ký hiệu dành cho Canada và (MX) là ký hiệu dành cho Mêxicô.  Chế độ ưu đãi độ thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences - GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển được Hoa kỳ cho hưởng GSP được miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Chương trình GSP của Hoa kỳ thực sự được thực hiện từ 1 tháng 1 năm 1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay, chương trình này đã được gia hạn nhiều lần với một số sửa đổi. Theo luật Hoa Kỳ, Tổng thống bị cấm không được cho nước cộng sản hưởng GSP trừ phi (a) các sản phẩm của nước đó được hưởng đối xử không phân biệt (MFN); (b) nước đó là thành viên của WTO và là thành viên của Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF); và (c) nước đó không bị thống trị hoặc chi phối bởi cộng sản quốc tế.  Hàng năm, trên cơ sở đề xuất của Đại diện Thương mại Hoa kỳ (USTR) sau khi tham khảo ý kiến công chúng, Uỷ ban Thương mại Hoa kỳ (ITC), và các cơ quan hành pháp; Tổng thống quyết định những mặt hàng và những nước đựợc hưởng GSP. Để đuợc miễn thuế nhập khẩu theo chế độ ưu đãi này, (1) hàng phải được nhập trực tiếp từ nước hưởng lợi vào lãnh thổ hải quan Hoa Kỳ và (2) trị giá hàng hoá được tạo ra tại nước hưởng lợi phải đạt ít nhất 35%. III.1.4. Môi trường văn hóa – xã hội: 4.1 Ngôn ngữ: Mặc dù Hoa Kỳ không có ngôn ngữ chính thức ở cấp liên bang, tiếng Anh là ngôn ngữ quốc gia. Năm 2003, khoảng 215 triệu người hay 82 phần trăm dân số tuổi từ 5 trở lên nói chỉ tiếng Anh ở nhà. Tiếng Tây Ban Nha, có trên 10 phần trăm dân số nói ở nhà, là ngôn ngữ thông dụng thứ hai và được dạy rộng rải như ngôn ngữ ngoại quốc. Các di dân muốn nhập tịch phải biết tiếng Anh. Một số người Mỹ cổ vũ việc biến tiếng Anh thành ngôn ngữ chính thức của Hoa Kỳ vì nó là ngôn ngữ chính thức tại ít nhất 28 tiểu bang. Dù tồn tại đa ngôn ngữ nhưng tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ chình thức 214,8 triệu người sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp hằng ngày (năm 2003). Bang California có số người Việt đông nhất nước Mỹ, ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh. Quận Cam là quận đông dân đứng thứ nhì tại tiểu bang này và thứ năm toàn quốc. 4.2 Tôn giáo: Chính phủ Hoa Kỳ không kiểm soát tín ngưỡng của người Mỹ. Trong một cuộc thăm dò tư nhân thực hiện năm 2001, 76,7 % người Mỹ trưởng thành tự nhận mình là người Kitô hữu, giảm từ 86,4% trong năm 1990. Các giáo phái thuộc Tin Lành chiếm 52 phần trăm trong khi Công giáo La Mã từng là giáo phái riêng biệt lớn nhất chiếm 24,5 phần trăm. Tại tiểu Bang California tồn tại chủ yếu 2 tín ngưỡng là Phật giáo và Công giáo. Sinh hoạt các tôn giáo rất phong phú và đa dạng, nhiều chùa Phật giáo và giáo xứ Công giáo được xây dựng khắp nơi. Từ năm 1978, Đại Hội Thánh Mẫu của người Công giáo tổ chức hàng năm vào mùa hè tại Carthage, Missouri quy tụ khoảng 60 hay 70 ngàn người hành hương mỗi kỳ. Người dân ở đây sống rất phóng khoàng và có xu hướng hội nhập cao, họ sằn sàng chấp nhận các sản phẩm mới miễn là chúng tốt và giá cả hợp lí. Vấn đề tôn giáo không ảnh hưởng nhiều đến việc sử dụng nước tương hay việc ăn kiêng của người dân. 4.3 Giáo dục: Giáo dục Công lập Mỹ do chính quyền địa phương và tiểu bang đảm trách và được Bộ Giáo dục Hoa Kỳ chi phối bằng những qui định hạn chế về trợ giúp của liên bang. Trẻ em bắt buộc đi học tại đa số các tiểu bang từ sáu hoặc bảy tuổi cho đến khi được 18 tuổi.Trong số người Mỹ tuổi từ 25 và lớn hơn, 84,6 phần trăm tốt nghiệp trung học, 52,6 phần trăm học đại học, 27,2 phần trăm có bằng cử nhân, và 9,6 phần trăm có bằng trên cử nhân. Tỉ lệ biết chữ cơ bản là khoảng 99 phần trăm. Liên Hiệp Quốc cho Hoa Kỳ một chỉ số giáo dục là 99,9 bằng với 20 quốc gia khác vì có điểm số cao. Do đó có thể nói rằng người tiêu dùng Hoa Kỳ rất hiểu biết, am hiểu về sản phẩm đang sử dụng và sẽ luôn có sự lựa chọn khôn ngoan về sản phẩm sẽ sử dụng 4.4 Chăm sóc sức khỏe: Hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ vượt mức chi tiêu bất cứ quốc gia nào khác, tính theo cả số chi tiêu cho mỗi đầu người và phần trăm GDP.. Thói quen mua hàng tại những nơi uy tín và đảm bảo chất lượng của người Mỹ đã tạo ra một áp lực cạnh tranh rát lớn cho các nhà bán lẻ tại đây. Sản phầm muốn được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận thì phải tuyệt đối bảo đám về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và vấn đề bảo quản. 4.5 Văn hóa: Hoa Kỳ là một quốc gia đa văn hóa, là nơi sinh sống của nhiều nhóm đa dạng chủng tộc, truyền thống, và giá trị. Nói đến văn hóa chung của đa số người Mỹ là có ý nói đến "văn hóa đại chúng Mỹ." Đó là một nền văn hóa Tây phương phần lớn là sự đúc kết từ những truyền thống của các di dân từ Tây Âu, bắt đầu là các dân định cư người Hà Lan và người Anh trước tiên. Văn hóa Đức, Ireland, và Scotland cũng có nhiều ảnh hưởng. Một số truyền thống của người bản thổ Mỹ và nhiều đặc điểm văn hóa của người nô lệ Tây Phi châu được hấp thụ vào đại chúng người Mỹ. Sự mở rộng biên cương về phía tây đã đưa người Mỹ tiếp xúc gần đến nền văn hóa Mexico, và sự di dân mức độ lớn trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 từ Nam Âu và Đông Âu đã mang đến thêm nhiều yếu tố văn hóa mới. Sự di dân gần đây hơn từ châu Á và đặc biệt là từ châu Mỹ Latinh có nhiều ảnh hưởng rộng lớn. Kết quả sự trộn lẫn các nền văn hóa lại với nhau có thể có đặc tính như là một cái nồi súp nấu chảy mọi thứ văn hóa thành một thứ văn hóa chung Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ 2000, có 1.122.528 người tự nhận là thuần gốc Việt và 1.223.736 khi tính thêm các người Việt lai với các chủng tộc khác. Trong số đó, 447.032 người (39,8%) sống ở California và 134.961 (12,0%) sống ở Texas. Nơi người gốc Việt sống đông nhất bên ngoài nước Việt Nam là Quận Cam tại California, có 135.548 người Việt. Những công ty người Việt có ở khắp nơi tại Westminster và Garden Grove, còn được gọi là khu Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon): tại Westminster họ chiếm 30,7% dân số và tại Garden Grove họ chiếm 21,4% dân số. Đây là một cơ hội lớn để các các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm cơ hội xuất khẩu các mặt hàng phục vụ cho cộng đồng người Việt tại Mỹ. Cộng động người Việt tại Mỹ vẫn còn lưu dữ những nét văn hóa truyền thông của người Việt như hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, mọi người quay quần bên nhau để thăm hỏi và chức sức khỏe, thói quen nấu các món ăn Việt vẫn còn phổ biến trong cộng đồng. Đây là một đặc điểm quan trọng để chúng ta làm trỗi dậy lòng tư hào dân tộc và việc sử dụng các món ăn Việt phổ biến hơn. III.2. Phân tích thị trường nước tương tại Mỹ III.2.1. Mức độ phù hợp của sản phẩm : Về cơ bản, không phải thay đổi gì nhiều về sản phẩm, công thức chế biến vì đó là đặc trưng của sản phẩm. Chỉ cần thay đổi bao bì, nhãn mác để phù hợp với các yếu cầu của pháp luật Mỹ III.2.2. Quy mô và tiềm năng thị trường : Khách hàng mà công ty đang hướng đến là người Việt đang định cư ở Mỹ hay người Việt đang lưu trú tại Mỹ. Với trên 1,5 triệu người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ, số Việt kiều tại Mỹ chiếm khoảng một nửa số Việt kiều trên thế giới. ( cụ thể :1.521.353 theo thống kê năm 2005 ). Mỗi gia đình có trung bình 3,8 người, so với 3,2 người cho người Mỹ nói chung. Đặc điểm của nhóm khách hàng này là có thu nhập khá cao so với người Việt Nam. Số tiền thu nhập cho mỗi đầu người Mỹ gốc Việt hàng năm là 20.074 đô la, thấp hơn con số 26.688 đô la cho mỗi người Mỹ. Với cuộc sống ở một nước phát triển, không phải là giá cả mà chất lượng là điều mà họ quan tâm hàng đầu.Trong khi đó, đây là thị trường chưa được đáp ứng nhu cầu một cách tốt nhất Mặt khác sản phẩm nước tương Chin-su thuộc mặt hàng tiêu dùng với giá trị không quá cao ( như các sản phẩm ô tô, máy lạnh...) nên lượng cầu ít co giãn theo giá và thu nhập. Do đó khủng hoảng kinh tế, thu nhập giảm nhưng vẫn không ảnh hưởng nhiều đến lượng cầu nước tương của cộng đồng người Việt ở Mỹ. Do đó xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước tương của sản phẩm nước tương cao cấp Chin-su là rất khả quan III.2.3.Phân tích cạnh tranh : i)Các đối thủ canh tranh hiện tại : Tại Việt Nam, có khoảng 22 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nước tương và nước chấm. Nhưng hầu hết quy mô còn nhỏ, chưa có được thương hiệu, uy tín chất lượng trong thị trường. Đặc biệt sau điều tra về 3-MCPD, nhiều doanh nghiệp phải rút khỏi thị trường vì không đủ khả năng cải tiến quy trình sản xuất. Một số doanh nghiệp nước tương xuất khẩu như Trung Thành, Trung Nam Sơn nhưng với quy mô nhỏ Thị trường Mỹ đến nay là thị trường tiêu thụ lượng nước tương rất mạnh và chủ yếu là nước tương của Nhật Bản, Trung Quốc. Hiện có tất cả 18 doanh nghiệp sản xuất nước tương tại Hoa Kỳ. Trong đó, Yamasa Corp USA, Kikkoman Food Inc, San-J Intl Inc, Cub Shoyu Brewery Inc, Kamada America, Vietnam Food& Drink Inc, Kikkoman international, Mid Pac Food Inc,...là các doanh nghiệp có doanh thu hàng năm cao nhất. Có thể thấy một trong các đối thủ mạnh của Chin-su khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ không phải là các doanh nghiệp Việt Nam mà là ‘ Vietnam Food & Drink Inc’. Đây là một công ty tư nhân kinh doanh nước tương và nằm ở Landover, MD, được thành lập vào năm 1979 ở Maryland. Ước tính hiện tại cho thấy công ty này có doanh thu hàng năm là $ 1-2.500.000 ii) Các sản phẩm thay thế : đó là các loại nước sốt khác ( không phải là nước tương nhưng cũng có thể dùng chế biến các món ăn ) như : sốt cà chua, sốt cá... IV. Phân tích SWOT IV.1. Strength – S : IV.1.1. Về sản phẩm : - Công thức chế biến đặc biêt, đem lại hương vị khác biệt so với tất cả các sản phẩm cùng loại của công ty khác. Bằng chứng thuyết phục đó là sự đón nhận của Thị trường Việt Nam : chỉ trong vòng 7 năm xâm nhập thị trường, nước tương chin su đã chiếm hơn 70% thị phần trong nước và đang phục vụ tốt hơn nữa cho nhu cầu của người tiêu dùng - Chin-su là sản phẩm của người Việt, do đó hiểu người Việt hơn bất cứ ai. Với hương vị độc đáo, phù hợp với khẩu vị của người Việt đó là một lợi thế lớn của Chin-su so với các đối thủ khác. So với vị mặn của nước tương Trung Quốc hay vị ngọt của nước tương Nhật Bản thì nước tương Chin-su đem đến cho người tiêu dùng hương vị đặc biệt thơm ngon, hợp với khẩu vị của người Việt Nam. IV.1.2. Về tài chính : Masan Food có khả năng tài chính rất hùng mạnh. Trên cơ sở báo cáo hợp nhất, số liệu 8 tháng năm 2009 của Masan Group gần như hoàn toàn dựa trên số liệu 8 tháng năm 2009 của Masan Food vì Masan Group là công ty mẹ của Masan Food. Số liệu tài chính của Masan Food như doanh thu, giá vốn hàng bán, cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp gần như giống 100% với số liệu doanh thu, giá vốn hàng bán, cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của Masan Group. IV.1.3. Về sản xuất : Cty đã đầu tư, thiết kế, xây dựng Công nghệ hiện đại, dây chuyền thiết bị khép kín, tự động hóa cao của AVE - ITALIA. Tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm HACCP của Châu Âu. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 Hoạt động duy trì năng suất toàn diện TPM. Đây có thể coi là điểm mạnh của chin su so với các doanh nghiệp sản xuất còn nhỏ lẻ ở Việt Nam và sự khẳng định về chất lượng đối với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài khác IV.1.4. Về tổ chức : Doanh nghiệp đã tích lũy đáng kể kinh nghiệm tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ( đặc biệt là thị trường Nga, Bắc Âu ) ; nắm bắt khá kỹ lưỡng các yếu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trường cao cấp IV.2. Weakness – W : IV.2.1. Về Marketing: Cạnh tranh xuất khẩu vào Hoa Kỳ gay gắt và quyết liệt. Hoa Kỳ là thị trường lớn, do vậy, cả thế giới hướng vào thị trường này. Việt Nam mới chỉ thực sự thâm nhập thị trường Hoa Kỳ kể từ năm 2002 sau khi BTA ( hiệp định thương mại Viêt Nam – Hoa Kỳ ) có hiệu lực, trong khi đó các đối thủ cạnh tranh của ta đã có hệ thống bạn hàng nhập khẩu và phân phối tại thị trường này từ rất lâu IV.2.2. Về nguồn nhân lực : Hiện nay, tình trạng thiếu hụt nhân lực có chuyên môn, đặc biệt là các chuyên viên cấp cao ở thị trường Việt Nam, cũng như tình trạng chảy máu chất xám khiến nhân sự luôn là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Việc có được các người quản lý và nhân viên có kỹ năng và năng lực tại Việt Nam gặp rất nhiều cạnh tranh và có thể công ty, Masan Food và Techcombank sẽ không tuyển dụng hoặc giữ được các nhân sự cần thiết trong tương lai. Bất kì sự thay đổi nhân sự chủ chốt nào trong nội bộ Công ty cũng đều ảnh hưởng lớn đến hoạt động, doanh thu của Công ty. IV.2.3. Yếu tố sản xuất : Phần lớn nguyên vât liệu được nhập khẩu trực tiếp và thông qua nhà phân phối, nếu Masan Food không thể tìm được nguồn cung nguyên vật liệu với khối lượng và chất lượng phù hợp với nhu cầu sản xuất, hoặc giá cả và điều kiện hợp đồng phù hợp thì năng suất và chất lượng sản xuất chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng, từ đó gây ảnh hưởng cho doanh. IV.3 Oppotunities  - O : Đối tượng mà nước tương Chin-su đang hướng đến là Việt kiều tại Mỹ. Có thể nói đây là một thị trường tiềm năng bởi số lượng người Việt sang Mỹ định cư ngày càng gia tăng cùng với việc Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại WTO. Điều này cũng mang đến cho Chin-su cơ hội tiếp cận thị trường dễ dàng hơn. IV.3.1. Người Việt Nam ở Hoa kỳ cũng như những người tiêu thụ nước tương đều quan tâm đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt là các chỉ tiêu an toàn với sức khỏe. Trong khi đó, nước tương Chin-su đang hướng đến việc đem lại sản phẩm tốt nhất cho người tiêu dung, vừa hợp khẩu vị, ngon, sạch, an toàn cho sức khỏe. Do đó, Chin-su có nhiều cơ hội là sẽ là sự lựa chọn hàng đầu của kiều bào ta ở Mỹ khi mà đã có vị trí nhất định trên thị trường IV.3.2.Một cơ hội mở ra cho Masan Food khi quyết định đưa nước tương Chin-su xâm nhập thị trường Mỹ là hiện nay có rất ít doanh nghiệp sản xuất nước tương Việt Nam có uy tín, hội các đủ tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất khẩu nước tương sang Mỹ. IV.3.3. Việt kiều ở Mỹ rất tạo điều kiện để phát triển sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam. Cộng đồng người Việt ở Mỹ có rất nhiều người thành công trên thương trường, cũng như có nhiều người có trình độ có thể giúp sức cho sự phát triển kinh tế của VN trong các lĩnh vực: Luật Hải quan Mỹ, công nghệ thông tin, pháp luật, các doanh nghiệp Việt Kiều Mỹ sẵn sang giúp đỡ Chin-su trong việc tìm kiếm khách hàng, phân phối sản phẩm… Cộng đồng người Việt sẽ là cầu nối để nước tương Việt Nam Chin-su đến với rộng rãi cộng đồng người châu Á ở Mỹ, những nguwoif có nhu cầu về sản phẩm. IV.4 Threat – T : Các nguy cơ mà tập đoàn Masan Group nói chung và sản phẩm nước tương phải đối mặt khi xuất khẩu sang Mỹ là : IV.4.1. Sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ mạnh sản xuất nước tương của Trung Quốc và Nhật Bản: xét về khả năng tài chính lẫn kinh nghiệm kinh doanh nước ngoài trong lĩnh vực này thì Việt Nam đều yếu hơn các doanh nghệp đối thủ. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam được xếp thứ 67 trên thế giới, thua kém nhiều nước trong khu vưc như: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines … Nhiều doanh nghiệp còn bị động trong sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường. Doanh thu của một số doanh nghiệp có thể cao nhưng lợi nhuận thu được không tương xứng do tốn kém trong chi phí sản xuất, dây chuyền lạc hậu, năng suất không. Ngành sản xuất nước tương trong nước tuy xuất hiện lâu nhưng chất lượng chưa được nâng cao, chưa tạo ra được thương hiệu mạnh. Việt Nam vẫn chưa được hưởng mức thuế ưu đãi GSP của Hoa Kỳ dành cho các nước đang phát triển. Hiện nay, có khoảng 3.500 loại sản phẩm từ trên 140 nước và vùng lãnh thổ được hưởng GSP của Hoa Kỳ - tức là được nhập khẩu miễn thuế vào Hoa Kỳ. Mặt khác, những nước được hưởng GSP là những nước đang phát triển. Phần lớn những nước này có cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự như Việt Nam, trong đó, nhiều nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Malaysia, Philipin, Indonesia v.v.. Cước phí và thời gian vận tải hàng từ Việt Nam sang Hoa Kỳ thường cao hơn và lâu hơn so với từ các nước khác đến Hoa Kỳ (kể cả từ các nước xung quanh Việt Nam) do khoảng cách địa lý xa và chưa có tuyến vận tải biển hoặc hàng không trực tiếp giữa hai nước. Ví dụ, hiện nay, cước phí vận tải biển từ Việt Nam sang Hoa Kỳ cao hơn từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ khoảng 15-20%. Thời gian vận tải từ Việt Nam sang bờ Tây Hoa Kỳ trung bình khoảng 30 - 45 ngày so với từ Trung Quốc khoảng 12 - 18 ngày. Cước phí cao và thời gian vận tải dài là bất lợi rất khó khắc phục đối với hàng có hạn sự dụng ngắn như nước tương ( khoảng 1 năm ) IV.4.2. Rào cản thương mại từ phía thị trường Mỹ: Nhằm bảo hộ nền sản xuất trong nước và trong một số trường hợp vì mục đích chính trị, Mỹ đã sử dụng ngày càng nhiều và tinh vi các rào cản thương mại để ngăn chặn sự xâm nhập thị trường đối với hàng hóa xuất khẩu từ các nước khác, nhất là từ các nước đang phát triển. Nếu như biện pháp thuế quan rất rõ ràng và dễ dự đoán thì các biện pháp phi thuế quan có thể phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh do đó làm nhiễu tín hiệu chỉ dẫn quyết định của các doanh nghiệp càng làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập thị trường. i) Hàng rào kỹ thuật và an toàn thực phẩm cao và không ít trường hợp cao quá mức cần thiết. Đối với một số loại thực phẩm (ví dụ thực phẩm có hàm lượng axít thấp), các cơ sở sản xuất phải đăng ký cơ sở và qui trình sản xuất với Cơ quan Quản lý An toàn Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Hàng thực phẩm phải được FDA kiểm tra trước khi được phép nhập khẩu vào thị trường. Rất nhiều mặt hàng nông sản và của Việt Nam phải xin giấy phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn về lao động và môi trường, mà thực chất cũng là các hàng rào bảo hộ mậu dịch. ii) Kiện bán phá giá tại thị trường Mỹ: tuy sản lượng nhâp khẩu nước tương đóng chai của Việt Nam vào thị truờng Mỹ chưa lớn nhưng lượng nhập khẩu của mặt hàng này từ các đối thủ Trung Quốc và Nhật lại tương đối lớn, trong tương lại sản lượng này sẽ tăng cao nên nguy cơ bị kiện bán phá giá là rất lớn. iii) Hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ rất phức tạp và chồng chéo. Hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau và cả luật liên bang lẫn luật bang. Trong khi đó sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến thương mại nói chung và nhập khẩu vào Hoa Kỳ nói riêng còn rất hạn hẹp. IV.4.3. Nguy cơ thay đổi cung cầu và tập quán tiêu dùng của người Việt: mục tiêu xuất khẩu chính lúc đầu là nhằm phục vụ cộng đồng người Việt tại Mỹ nhưng cuộc sống hiện đại làm cho người Việt ở Mỹ ngày càng thích nghi với phong cách ẩm thực phương Tây, chấp nhận dùng các sản phẩm thay thế sẵn có, giảm nhu cầu về thực phẩm, gia vị truyền thống V.CHIẾN LƯỢC KINH DOANH: Qua việc phân tích môi trường kinh doanh, phân tích SWOT, có thể thấy việc xuất khẩu nước tương Chin-su qua thị trường Mỹ với quy mô lớn có mức độ khả thi cao. Công ty cần có những chiến lược hiệu quả để kết hợp điểm mạnh, cơ hội, hạn chế và vượt qua được điểm yếu và đối đầu, vô hiệu hóa những thách thức để thực hiện mục tiêu sẽ là sản phẩm nước tương hàng đầu cho người Việt ở Mỹ, thu hút được sụ tiêu dùng của cộng đồng người châu Á ở Mỹ ( Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...), có một vị thế nhất định trong thị trường nước tương ở Mỹ Với lợi thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ( hưởng vị đặc sắc, phù hợp với khẩu vị người Việt, an toàn với sức khỏe ), các chiến lược mà nước tương Chin-su sẽ theo đuổi khi xâm nhập thị trường Mỹ đó là chiến lược tạo sự khác biệt hóa cho sản phẩm V.1.Chiến lược Marketing V.1.1 Chiến lược sản phẩm Phối hơp Chiến lược chuẩn hóa sản phẩm và thay đổi, điều chỉnh sản phẩm V.1.1.1 Chuẩn hóa : - Nước tương chin-su chuẩn hóa về chất lượng của nước chấm, giữ nguyên hương vị độc đáo, mang đậm khẩu vị Viêt Nam - Chuẩn hóa thương hiệu ‘nước tương Chin-su’ đã nổi tiếng và có uy tín ở trong và ngoài nước V.1.1.2 Thay đổi : đó là về nhãn hàng hóa và bao bì sản phẩm  i)Yêu cầu về nhãn hàng hóa : Nhãn hàng của nước tương Chin-su phải thay đổi để phù hợp với quy định khắt khe của Mỹ như : Thông tin trên nhãn hàng: Luật quy định rằng các thông tin trên nhãn hàng phải được ghi rõ ràng để người tiêu thụ bình dân có thể đọc và hiểu được trong điều kiện mua và sử dụng thông thường ; Thông tin về dinh dưỡng: Nhãn hàng thực phẩm phải có thông tin về dinh dưỡng nhằm giúp cho người tiêu dùng lựa chọn thực phẩm phù hợp và tốt cho sức khỏe của mình ; nhãn hàng hóa được in song ngữ Anh-Việt ii) Về bao bì sản phẩm : do phải vận chuyển đi xa, và sẽ được bán ở môi trường có khí hậu khác với Việt Nam nên vỏ chai chứa nước tương cần được thay đổi V.1.2 Chiến lược phân phối V.1.2.1. Hệ thống phân phối tại Mỹ. Hệ thống kênh phân phối truyền thống (conventional distribution channel) bao gồm một hoặc nhiều nhà sản xuất, bán buôn, bán lẻ độc lập với nhau và mỗi chủ thể trong kênh phân phối đó tìm cách tối đa hóa lợi nhuận của mình ngay cả khi phải hy sinh lợi nhuận của cả hệ thống. Nhà bán buôn là những công ty mà hoạt động của họ chủ yếu liên quan đến hoạt động bán bán buôn. Nhà bán buôn mua hàng chủ yếu từ các nhà sản xuất và bán hàng chủ yếu cho các nhà bán lẻ, người tiêu dùng công nghiệp và những nhà bán buôn khác. Có thể chia nhà bán buôn thành 3 loại chính sau:  Nhà bán buôn có quyền sở hữu hàng hóa :là công ty sở hữu độc lập và có quyền sở hữu hàng hóa mà công ty đó mua bán. Loại hình này chiếm 50% tổng số nhà bán buôn ở Hoa Kỳ. Môi giới và đại lý: Môi giới là nhà bán buôn không có quyền sở hữu hàng hóa và có nhiệm vụ đưa người bán và người mua gặp nhau và giúp đỡ họ trong quá trình đàm phán. Đại lý là nhà bán buôn đại diện cho người mua hoặc người bán trên cơ sở tương đối thường xuyên và lâu dài. Đại lý cũng không có quyền sở hữu hàng hóa mua bán và chỉ thực hiện một số nhiệm vụ trong dây chuyền phân phối hàng hóa và dịch vụ. Chi nhánh và văn phòng bán hàng của nhà sản xuất: tự tiến hành các hoạt động bán buôn chứ không thông qua các nhà bán buôn độc lập khác. Bán lẻ là các hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ trực tiếp đến người sử dụng cuối cùng. Các chủ thể trong hệ thống phân phối là nhà sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ đều có thể tiến hành hoạt động bán lẻ song hầu hết hoạt động bán lẻ được tiến hành bởi các nhà bán lẻ. Cách phân loại phổ biến nhất là phân loại theo sự lựa chọn sản phẩm: Cửa hàng bán lẻ chuyên dùng (Specialty Stores): chỉ bán một số ít sản phẩm và người tiêu dùng có ít sự lựa chọn trong số những sản phẩm này. Cửa hàng bách hóa (Department Stores): bán nhiều loại sản phẩm khác nhau, chủ yếu là quần áo, đồ trang trí, trang sức, đồ dùng trong gia đình; mỗi loại sản phẩm được bán tại một khoang trong cửa hàng và được điều hành bởi những nhân viên am hiểu về loại hàng hóa đó. Siêu thị (Supermarkets): là loại cửa hàng quy mô tương đối lớn, chi phí thấp, lãi suất thấp, bán với số lượng nhiều và hầu hết là khách hàng tự phục vụ; chủ yếu bán các loại thực phẩm và sản phẩm trong gia đình. Cửa hàng tiện ích (Convenience stores): là các cửa hàng tương đối nhỏ năm ở gần các khu dân cư sinh sống, mở cửa 7 ngày trong tuần, nhiều giờ trong ngày và chỉ bán một số ít các sản phẩm quay vòng nhanh với mức giá tương đối cao. Cửa hàng lớn (Superstores): là những cửa hàng lớn hơn siêu thị rất nhiều và bán thực phẩm cũng như những đồ dùng khác có nhu cầu sử dụng hàng ngày với sự lựa chọn đa dạng. Những cửa hàng loại này cũng cung cấp những dịch vụ như là khô, bưu điện, rửa phim, chăm sóc thú nuôi trong gia đình, bảo dưỡng xe ô tô, thanh toán....Các tập đoàn bán lẻ giảm giá lớn như Wal-Mart, Kmart, Target. V.1.2.1. Chọn lựa hệ thống phân phối. i) Địa điểm phân phối: Trong giai đoạn đầu công ty chúng tôi chỉ tập trung vào thị trường người Việt tại Mỹ, cụ thể là Bang California vì tại đây theo thống kê cộng đồng người Việt đông nhất. Dự đoán nhu cầu tại phân khúc thị trường này là cao nhất. ii) Kênh phân phối sản phẩm nước tương Chinsu: Sau khi tiến hành tìm hiều và phân tính các kênh phân phối tại Mỹ nói chung và Bang California nói riêng, chúng tôi quyết định chọn cách tiếp cận thị trường thông qua việc xuất khẩu hàng hóa trong giai đoạn đầu. Thông qua các nhà phân phối tại Mỹ chúng tôi kí các kết các hợp đồng phân phối (Distributorship Contracts) cho sản sản phẩm của mình. Lý do chúng tôi chọn cách thức tiếp cận thị trường giai đoạn đầu như thế là như sau: - Hầu hết các kênh phân phối tại Mỹ rất dài và độc quyền rất cao nên các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường rất khó cạnh tranh. Theo ý kiến ông Nguyễn Vinh, Chủ tịch Công ty Bear USA Trading tại Mỹ, cho biết, "Những thương nhân này bảo vệ nhau mật thiết và chỉ mua hàng từ mối của mình chứ hiếm khi mua của người ngoài". - Vì thông thạo thị trường cũng như pháp luật nên các nhà phân phối sẽ đưa hàng hóa đến tay người tiêu dùng hiệu quả hơn. Hơn nữa, mặc dù các người phân phối độc lập về pháp lý nhưng họ vẫn phải chịu tác động của nhà sản xuất, chúng tôi vẫn có thể đưa ra cho nhà phân phối những chỉ dẫn liên quan đến phương thức hoạt động, cung cấp dich vụ ( quản cáo, hậu mãi…) - Hoạt động của nhà phân phối là độc lập, luôn nhân danh chính mình, chịu mọi rủi ro, tuy nhiên lại vì lợi ích của nhà sản xuất - Masan Food tiến hành ký hợp đồng phân phối với một nhà phân phối duy nhất tại Mỹ, cho phép nhà phân phối tiêu thụ sản phẩm dưới nhãn hàng hóa “nước tương Chin-su” và nhà phân phối có nghĩa vụ không bán hàng hóa cạnh tranh với hàng hóa của Chin-su Đây là cách tốt nhất để Chin-su có thể thực hiện mục tiêu xây dựng thương hiệu “là sản phẩm chất lượng cao cho cộng đồng người Việt tại Mỹ”. - Đây là hợp đồng dài hạn, Cty chúng tôi đảm bảo số lượng đơn đặt hàng ổn định từ nhà phân phối, đây là yếu tố rủi ro hay xảy ra đối với các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang nước ngoài. iii) Các tiêu chuẩn để lựa chọn nhà phân phối: Thị trường Mỹ là nơi có hoạt động vận tải và logistics rất mạnh, các tập đoàn, công ty thực hiện công việc phân phối hàng hóa có quy mô và dồi dào kinh nghiệm. Xét về tiềm lực và mục tiêu xâm nhập thị trường thì nhà phân phối của chúng tôi có các đặc điểm sau: - Là nhà phân phối hay nhà sản xuất (đối với nhà sản xuất phải có điều kiện là phải hoạt động trong ngành sản xuất và chế biến thực phẩm trên 10 năm kinh nghiệm) thuộc công ty hay tổ chức người Việt tại Mỹ. - Nhà phân phối phải đả bảo các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của FDA cũng như các quy định về kí thuật chế biến thực phẩm. - Có tầm ảnh hưởng về thị trường chế biến thực phẩm tại Mỹ. Ưu tiên cho các nhà phân phối có chi nhánh tại Bang California. V.1.2 Chiến lược giá Vì thị trường Việt Nam và Mỹ tách biệt nhau, thị trường Mỹ có cầu của sản phẩm ít co giãn theo giá do đó chính sách giá phân biệt rất phù hợp i) Các yếu tố ảnh hưởng tới chiến lược giá : Thu nhập : Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Mỹ : thu nhập của người dân cũng như Việt Kiều Mỹ giảm Nhu cầu : sản phẩm thực phẩm là nhu cầu thường xuyên của khách hàng. Đặc biệt nước tương là thành phần không thể thiếu trong các món ăn Việt Nam cũng nhu món ăn châu Á Cạnh tranh : Có rất nhiều đối thủ có tiềm lực mạnh trên thị trường nước tương. Có rất nhiều sản phẩm nước tương trên thị trường Mỹ của nhiều nhà sản xuất khác nhau, của các nước khác nhau trên thị trường Mỹ. Mức giá giao động từ $1- $90/1 chai/ 500ml Pháp luật : sản phẩm nước tương xuất khẩu qua Mỹ sẽ phải chịu các loại thuế và mức thuế nhất định từ phía Mỹ Chi phí sản xuất : Cty đang mở nhiều nhà máy sản xuất, Chin-su đang có quy mô hiệu quả kinh tế ( chi phí càng giảm khi tăng sản lượng ) Nhà phân phối nước tương Chin-su tại Mỹ : các đối thủ của Chin-su đã có sự hợp tác lâu dài với họ, Chin-su phải có giá phù hợp để ký kết được với nhà phân phối ii) Cơ sở để định giá : Đó là dự trên những phân tích tổng hợp về chi phí sản xuất, giá của đối thủ cạnh tranh, khách hàng iii) Chiến lược giá : đó là chiến lược giá trung hòa Giá của sản phẩm sẽ không quá cao hơn hay quá thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Mỹ iv) Lý do lựa chon chiến lược giá trung hòa : Điều kiên thị trường không cho phép sử dụng giá hớt váng hay thẩm thấu thị trường Khách hàng : khó xác định giá của thương hiệu khi Chin-su mới tham gia thị trường Mỹ. Định giá quá cao sẽ không thể cạnh tranh với những nước tương đã có thương hiệu từ lâu tại Mỹ, định giá quá thấp không tạo được hình ảnh về sản phẩm nước tương chất lượng cao, sự khác biệt về sản phẩm Chí phí : chi phí biến đổi không chiếm tỷ lệ cao trong chi phí sản phẩm ( vì chúng ta đã xuất khẩu trực tiếp sản phẩm cho nhà phân phối ). Định giá trung hòa vẫn đảm bảo được các mục tiêu lợi nhuận cho Cty Cạnh tranh : các đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường Mỹ rất nhạy cảm về doanh số, luôn tìm cách tấn công về giá cả, giá quá rẻ, họ vấn có thể rẻ hơn. Giá trung hòa sẽ giảm bớt được sự tấn công của đối thủ trong giai đoạn đầu V.1.4. Chiến lược xúc tiến sản phẩm : V.1.4.1 Chiến lược quảng cáo i) Mục tiêu quảng cáo : Đó là quản cáo thuyết phục, rất quan trọng trong giai đoạn xâm nhập thị trường. Chin-su phải thuyết phục cho người tiêu dùng biết được đây là sản phẩm hảo hạng, khẳng định sự khác biệt hóa của sản phẩm ( thông qua nhà phân phối) ii) Ngân sách quảng cáo : Kết hợp với chiến lược giá trung hòa, cần chi phí lớn để kết hợp, hướng dẫn, hỗ trợ nhà phân phối chiêu thị, làm tăng mức tiêu thụ của sản phẩm , đạt được mục tiêu doanh số iii) Thông điệp quảng cáo : «  Nước tương Chin-su đậm đà hương vị Việt , thơm ngon tới giọt cuối cùng » Phương tiện truyền thông : Ti vi : Kết hợp hình ảnh âm thanh, thu hút giác quan, tầm ảnh hưởng đến người tiêu dùng là rất cao ( kênh truyền hìn VTV4 dành cho người Việt ở Mỹ ) Báo chí : Trong đó, nhật báo, rất phổ biến với mọi người, khịp thời, độ tin cây cao ; đặc biệt là báo « Quê Hương » dành cho người Việt ở Mỹ V.1.4.2 Chiến lược khuyến mãi : Chiến lược khuyến mãi cũng phụ thuộc vào nhà phân phối, nhưng ta có thể hướng dẫn họ những kế hoạch như sau : i) Kích thích tiêu thụ ( consumer promotion) - Phát mẫu hàng miễn phí tới tận nhà hoặc phát tại tiêm, siêu thị trong thời gian đầu rất hiệu quả ( nhưng rất tốn kém) -Sản xuất nhiều kích cỡ chai nước tương, giảm giá theo sự tăng dung tích của chai, tức mua cang nhiều càng có lợi ii) Cổ động thương mại ( trade promotion) - thuyết phục người bán lẻ, bán sĩ kinh doanh thương hiệu : bằng cách chấp nhận chiêt giá, bớt tiền, không tính tiền ngay hàng trưng bày, thanh toán ngay tiền chen chỗ - thuyết phục người bán lẻ, bán sĩ mua hàng nhiều hơn số lượng mua thông thường : bằng cách giảm giá khi mua số lượng lớn, lưu kho, dự trữ hàng nhiều hơn - khích thích người bán lẻ và nhân viên của họ đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm : bằng cách hỗ trợ bán hàng, các chương trình thi đua khen thưởng, tổ chức thi đua bán V.1.4.3. Quan hệ công chúng : - Liên hệ với giới truyền thông Mỹ, PR thông qua các ấn phẩm : các bài báo, các bản tin của công ty Masan, và các tạp chí của Mỹ, đặc biệt các tạp chí âm thực, tạp chí của Việt kiều - Kết hợp với nhà phân phối Tổ chức các sự kiện về văn hóa ẩm thực Việt Nam V.1.4.4 Đội ngũ nhân viên : cần Tuyển chọn - những người giỏi có năng lực, am hiểu pháp luật để đàm phán với nhà phân phối Mỹ - cần tuyển chọn các nhà marketing giỏi, am hiểu thị trường Mỹ để có những chiến lược tốt - cần những chuyên gia tư vấn pháp luật, thị trường Mỹ. Đặc biệt cần tuyển chọn Việt kiều Mỹ, những người rất am hiểu về thị trường Mỹ, luật pháp Mỹ để đảm bảo hạn chế được những trục trặc rủi ro khi hoạt động trên thị trường Mỹ V.2 Tổ chức thực hiện  Giai đoạn 1 : giai đoạn chuẩn bị Tiến hành việc nghiên cứu, điều tra thị trường Mỹ một cách chi tiết ( khách hàng mục tiêu, đối thủ cạnh tranh, xu hướng tiêu dùng nước tương của người Việt ở Mỹ, người châu Á, người Mỹ, giá cả phù hợp) Tìm hiểu tất cả các quy định pháp luật liên quan tới việc xuất khẩu nước tương, chuẩn bị mọi chứng chỉ chất lượng, hồ sơ pháp lý liên quan - Tìm nhà phân phối phù hợp với các yêu cầu đặt ra Giai đoạn 2 : tiến hành xuất khẩu - Ký kết hợp đồng phân phối sản phẩm. Yêu cầu thực hiện các chiến lược cơ bản đã đặt ra, quảng cáo, khuyến mãi, PR... Hợp tác với các công ty nghiên cứu thị trường Mỹ, thu thập thông tin thị trường, phản hồi từ phía khách hàng hàng tháng, hàng quý để kịp điều chỉnh, thay đổi chiến lược, đề xuất lên nhà phân phối Tài liệu tham khảo : 1. Phạm Tố Mai ( 2008), Đề cương giảng dạy môn kinh doanh quốc tê 2. GS.TS Võ Thanh Thu ( 2001), “ Chiến lược xâm nhập thị trường Mỹ” 3. Dương Hữu Hạnh ( 2006), “Kinh doanh quốc tế trong thị trường toàn cầu” 4. Dương Hữu Hạnh ( 2006), “Các nguyên tác marketing trong canh tranh toàn cầu” 5. Philip Kotler – Thấu hiểu tiếp thị từ A đến Z – NXB Trẻ 2006 5. 6. http:/www.ebook.edu.vn Báo Vietnam Buisiness Forum: www.tinkinhte.com 7. 8. 9. 10. 11. 12.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXuất khẩu nước tương chin-su qua thị trường mỹ.doc
Luận văn liên quan