Dịch vụ giáo dục – một ngành kinh tế quan trọng?
Luật thương mại Việt Nam, hiệu lực từ01 – 01 – 2006, khoản 1 điều 3 định nghĩa: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”
So với định nghĩa của luật thương mại, hiệu lực từ01 – 01 – 1998 có sựthay đổi: nhóm
từ“ nhằm mục đích lợi nhuận” được thay bằng “nhằm mục đích sinh lợi”. Theo Luật
mẫu của liên hợp quốc vềLuật thương mại quốc tế, vềtrọng tài thương mại quốc tế, định
nghĩa: “Thuật ngữthương mại bao gồm các vấn đềnẩy sinh từtất cảcác quan hệthương
mại dựa trên cơsởcó hoặc không có hợp đồng, gồm việc cung cấp hoặc trao đổi hàng
hoá hay dịch vụ, thoảthuận phân phối, tổchức đại diện thương mại dịch vụtưvấn,
cấp phép, ngân hàng, bảo hiểm, khai thác hoặc thoảthuận nhượng quyền hoặc vận
chuyển ”.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3786 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch vụ giáo dục – một ngành kinh tế quan trọng?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DỊCH VỤ GIÁO DỤC – MỘT NGÀNH KINH TẾ
QUAN TRỌNG?
Lương Ngọc Toản
Nguyễn Quang Toản
Trung tâm chất lượng quốc tế IQC
Tại hội thảo này, chúng tôi những thầy giáo lâu năm, với tất cả nhiệt huyết và lo lắng
bồn chồn của mình đối với ngành giáo dục Việt Nam ở thế kỷ 21, xin cung cấp đến quí vị
đại biểu một số thông tin chưa thật mạch lạc và hệ thống để chúng ta cùng suy ngẫm.
Liệu có cách gì “ thoát khỏi” thực trạng giáo dục hiện nay của Việt Nam để hội nhập
thành công vào thi trường giáo dục và thị trường lao động của thế giới.
c - Dịch vụ giáo dục và thương hiệu quốc gia
• Chuyên gia thương hiệu hàng đầu thế giới Simon Anholt là người
đầu tiên tìm cách xác định giá trị của thương hiệu quốc gia. Được sự hỗ trợ
của Viện thị trường toàn cầu – GMI (Global Market Institute), năm 2005, đã
thăm dò 25.000 người, đã xếp hạng được 35 nước đủ trình độ cần thiết để
tham gia xếp hạng thương hiệu quốc gia. Top 10 được công bố tháng 04-
2005 như sau:
1- Anh 6- Đức
2- Thuỵ sĩ 7- Nhật
3- Canada 8- Pháp
4- Ý 9- Úc
5- Thuỵ điển 10- Mỹ
Simon Anholt cũng đã tính được giá trị thương hiệu quốc gia của 35
nước. Thí dụ:
Của Mỹ: 18.000 tỷ USD
Của Nhật: 6.000 tỷ USD
Của Đức: 3.000 – 4.500 tỷ USD
Của Balan (thứ 35): 43 tỷ USD
• Sáu tiêu chí xếp hạng thương hiệu quốc gia như sau:
• Sức thu hút đầu tư và chính sách nhập cư
• Chất lượng hàng xuất khẩu
• Sự lôi cuốn về văn hoá và di sản
• Trình độ nhân lực
• Chất lượng quản lý
• Chất lượng du lịch
Giáo dục, đặc biệt giáo dục đại học, có vai trò khá quan trọng trong
việc tạo ra và gia tăng thương hiệu quốc gia, nhất là đóng góp vào trình độ
nhân lực, chất lượng quản lý chất lượng du lịch của một quốc gia.
d - Giáo dục đại học (GDĐH) đáp ứng yêu cầu xã hội hay HƯỚNG
DẪN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI?
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin liên
quan đến các chỉ tiêu chất lượng phân hạng học thuật các trường đại học/cao
đẳng toàn cầu năm 2004.
Trên thế giới có khoảng 50.000 trường ĐH/CĐ. Đại học Giao thông
Thượng hải, lần thứ 2 vừa công bố xếp hạng các trường ĐH/CĐ Top 20,
Top 100, Top 200, Top 300, Top 400 vàTop 500
( được thế giới đánh giá là nghiệm túc,
khách quan.
Các chỉ tiêu và trọng số xếp hạng học thuật trường ĐH/CĐ như sau:
CHỈ TIÊU
(Criteria)
PHẢN ẢNH KẾT QUẢ
(Indicator)
Mã hoá
(Code)
Trọng số
(Weight)
Chất lượng
giáo dục
(Quality of
Education)
Số lượng cựu sinh viên của trường được giải Nobel
hay các giải có giá trị quốc tế như giải Fields (về
toán học)…
Alumi 10%
Số lượng các nhà khoa học của Trường được giải
Nobel và các giải khoa học có giá trị quốc tế như
giải Fields (về toán học)
Award 20% Chất lượng
đội ngũ giảng
viên (Quality
of Faculty)
Số lượng các công trình khoa học của giảng viên,
các nhà khoa học, cựu sinh viên của trường được
trích dẫn, hay nhắc đến trong những công bố của 21
ngành khoa học (1981 – 2003)
HiCi 20%
Đầu ra của
nghiên cứu Các công trình khoa học có tính khám phá được
công bố ở 2 tạp chí nổi tiếng là NATURE và
N & S 20%
CHỈ TIÊU
(Criteria)
PHẢN ẢNH KẾT QUẢ
(Indicator)
Mã hoá
(Code)
Trọng số
(Weight)
SCIENCE (1981 – 2003)
(Research
Output)
Số các công trình của Trường được liệt kê trong
danh mục trích dẫn khoa học
năm 2003.
SCi 20%
Quy mô của
Trường (Size
of Institution)
Nghiên cứu khoa học với sự tôn trọng qui mô (số
GV toàn thời gian) của Trường Size 10%
Dựa vào kết quả điều tra xếp hạng theo vùng năm 2005 được kết quả
sau:
Region Top 20 Top
100
Top
200
Top
300
Top
400
Top 500
North and
Latin
America
17 55 101 138 164 200
Europe 2 37 79 125 171 209
Asia/Pacific 1 8 21 37 66 89
Africa 1 2 4
Total 20 100 201 301 403 502
Nước có số trường được xếp hạng cao nhất là Mỹ (170 trường). Nước
có số trường được xếp hạng thấp nhất là Bồ đào nha (01 trường). Bao giờ
các trường đại học Việt Nam được xếp hạng trong Top 500 hoặc Top
1000 của thế giới?
Bốn chỉ tiêu xếp hạng các trường đại học/cao đẳng trên thế giới hoàn
toàn là những chỉ tiêu về học thuật, dựa trên triết lý Academic Freedom,
nhằm phát huy tối đa tiềm năng của mỗi con người. Nhờ tự do học thuật
nhân loại ngày nay mới có những thành tựu KH – CN mà mọi người co thể
chưa nhận ra, chưa công nhận ở thời điểm phát minh. Có khi vài chục năm
sau xã hội mới thấy hết ý nghĩa vĩ đại của nó. Thí dụ: Thuyết tương đối của
Einstin chẳng hạn. Theo chúng tôi, đây là thông tin quan trọng để trả lời
rằng, mục đích của GDĐH là hướng dẫn sự phát triển xã hội.
3 - Dịch vụ giáo dục và thương mại dịch vụ có liên quan gì?
Nếu dịch vụ giáo dục và thương mại dịch vụ có liên quan mật thiết với
nhau, thì chúng ta cần phải nhìn nhận và đối xử với nó theo cách khác. Khi
mọi người nói “bất vụ lợi” (non-profit) thường hàm ý “bất vụ lợi cá nhân”,
cần đặt lợi ích cộng đồng, xã hội trên lợi ích cá nhân hay lợi ích tổ chức.
Để trả lời câu hỏi trên, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin để quí
vị trong hội nghị tham khảo.
• Giáo dục có phải là THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ (Trade in Services)?
Điều 1, Chương 3 Hiệp định Việt - Mỹ về quan hệ thương mại có ghi
như sau:
“Thương mại dịch vụ được định nghĩa là VIỆC CUNG CẤP MỘT
DỊCH VỤ” (Trade in services is defined as the supply of a service)
Cũng theo Điều 1 ở trên, phạm vi điều chỉnh của định nghĩa là:
“Các dịch vụ” bao gồm bất kỳ dịch vụ nào trong bất kỳ lĩnh vực nào
trừ các dịch vụ được cung cấp khi thi hành thẩm quyền của chính phủ, tức là
mọi dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thuơng mại cũng như không có
cạnh tranh với một hay nhiều nhà cung ứng”
Trong định nghĩa thương mại dịch vụ. có nhóm từ CUNG CẤP DỊCH
VỤ, ta nên hiểu như thế nào. Theo điều 11 chương 3 thì: “Cung cấp một
dịch vụ bao gồm việc sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán và cung ứng một dịch
vụ”.
Theo hiệp định trên, giáo dục là một trong 52 lĩnh vực thương mại dịch
vụ mà Mỹ sẽ đầu tư vào Việt Nam. Sau 3 năm, 11 – 12 – 2005 Mỹ được
quyền liên doanh đầu tư, sau 7 năm, 11-12-2008 Mỹ được quyền đầu tư
100% vốn vào lĩnh vực giáo dục và nhiều lĩnh vực dịch vụ khác tại Việt
Nam.
• Trường học có phải là công ty (Company)
Điều 9, chương 1, Hiệp định Việt – Mỹ về quan hệ thương mại có ghi:
“Công ty có nghĩa là bất kỳ một thực thể nào được thành lập hay tổ chức
theo luật áp dụng BẤT KỲ VÌ MỤC ĐÍCH LỢI NHUẬN hay PHI LỢI
NHUẬN, do Chính phủ hay tư nhân sở hữu hoặc kiểm soát” (doanh nghiệp
là công ty)”.
• Nếu trường học là công ty, dịch vụ giáo dục là thương mại dịch vụ
thì khách hàng của ngành giáo dục là ai?
Tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000:2000 định nghĩa khách hàng (customer)
như sau: “Khách hàng là tổ chức hay cá nhân nhận một sản phẩm / dịch
vụ”.
Thí dụ: người tiêu dùng, người hưởng dịch vụ, người sử dụng cuối
cùng, người hưởng lợi, người bán lẻ và người mua.
Còn Điều 11, Chương 3, Hiệp định Việt – Mỹ về quan hệ thương mại
cũng cho rằng: “Người tiêu dùng dịch vụ (service consumer) là bất kỳ người
nào tiếp nhận hay sử dụng một dịch vụ”.
Theo chúng tôi, trong trường học thì khách hàng trực tiếp của trường là
học sinh, sinh viên…. Là những người tiêu dùng dịch vụ giáo dục, dù họ nhỏ
hay lớn, đã là khách hàng họ có quyền phát biểu ý kiến của mình về cách
đào tạo, cách giảng dạy của thầy/ cô giáo (khách hàng là thượng đế, khách
hàng luôn luôn có lý…). Vậy trong các trường, nhất là các trường ĐH/CĐ,
việc thăm dò ý kiến của người học về giảng dạy của thầy/ cô giáo là điều cần
phải làm thường xuyên. Ý kiến phản hồi của người học và người sử dụng
lao động có thể phản ánh tới 50% chất lượng giáo dục của nhà trường.
Vậy mà, từ bao lâu nay, chúng ta đã bỏ qua, chúng ta hoạch định nội dung
và phương pháp giảng dạy dựa hoàn toàn theo ý chí chù quan của Bộ, của
trường, của Thầy/cô
f - Dịch vụ giáo dục có phải là thành phần kinh tế quan trọng trong
GNP một quốc gia.
Học phí hàng năm trên toàn thế giới khoảng 2000 tỷ USD. (GNP của
Việt Nam năm 2005 khoảng trên 50 tỷ USD). Chiếc bánh khổng lồ 2000 tỷ
USD thật hấp dẫn. Để chiếm lĩnh thị phần trong số 2000 tỷ USD, các quốc
gia đang xây dựng THƯƠNG HIỆU GIÁO DỤC của mình để hấp dẫn khách
hàng. Có rất nhiều cách để họ cung ứng dịch vụ giáo dục, như là:
- Mời chào người học đến nước họ với những ưu đãi đối với người học đến
từ các nước.
- Đưa dịch vụ giáo dục của họ đến “TẬN NHÀ” người học, tức thành lập
các trường của họ ở các nước bản địa.
Nhiều quốc gia đang nhanh chóng chuyển từ một nước NHẬP KHẨU
GIÁO DỤC trở thành một nước XUẤT KHẨU GIÁO DỤC. Dưới đây,
chúng tôi cung cấp vài thông tin liên quan.
• Thí dụ xuất khẩu giáo dục của Úc.
Những năm 1970 – 1980, giáo dục của Úc còn miễn phí. Năm học
2003 – 2004, 220.000SV từ các nước đã đến học tại Úc (85% từ Châu Á).
Thành phố Rochkhampton, cách Sydney 1.000km, thành lập trường đại
học năm 1995. Năm 2004, trường này có 4000 SV, nhưng chi nhánh của
trường này tại Sydney có 4.300 SV, trong đó 97,3% là SV nước ngoài, học
phí 9.200 USD – 19.100 USD/ năm học/SV. Khoa kinh tế - kinh doanh Đại
học Sydney có doanh thu xuất khẩu giáo dục như sau: 1999: 8,7 triệu USD,
2004: 39 triệu USD (40% SV của khoa từ các nước).
Năm 2004, giá trị xuất khẩu giáo dục của Úc là 5,6 tỷ USD.
• Thí dụ xuất khẩu giáo dục của Malaysia.
Năm 1997, 38.000 sinh viên Malaysia đi du học các nước. Lúc này
Malaysia là nước nhập khẩu giáo dục. Nếu tính trung bình chi phí 15.000
USD/ năm/ SV, thì Malaysia hàng năm phải trả cho việc nhập khẩu giáo dục
khoảng 600 triệu USD. Nhờ những nhận thức đúng đắn về vai trò kinh tế
của giáo dục, mà năm 2004 đã có 42.000 sinh viên từ 150 quốc gia tới du
học tại Malaysia.
Chỉ sau không quá 5 năm, Malaysia đã chuyển đổi từ nước nhập khẩu
giáo dục trở thành nước xuất khẩu giáo dục, không những thu về gần 1 tỷ
USD/ năm từ giáo dục mà lớn hơn nhiều là THƯƠNG HIỆU MALAYSIA
đã thấm sâu vào tiềm thức hàng ngàn, hàng vạn SV từ hàng trăm quốc gia đã
đến học tập ở Malaysia.
Việt Nam đang là nước nhập khẩu giáo dục và xuất khẩu chủ yếu lao
động phổ thông, tay nghề thấp (ôsin, công nhân, v.v.). Theo Bộ LĐTB &
XH và Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam, 2001 – 2005 chúng ta xuất
khẩu 295.331 lao động tay nghề thấp đến Malaysia, Đài loan, Hàn quốc.
Tổng thu nhập là 1,6 tỷ USD. Nếu chia bình quân thì giá trị lao động rất thấp
khoảng 120 USD/tháng/lao động. Có lẽ nhiều người chưa biết rằng, ở
TPHCM, có trường dạy ngoại ngữ của nước ngoài có doanh số khoảng trên
dưới 200 tỷ VNĐ; trường International School dạy từ cấp 1 đến cấp 3 có
doanh số hàng năm khoảng 10 triệu USD, Trung tâm ngoại ngữ ILA của
Anh, sau 5 năm đã thu hút 10.000 trẻ em tại TPHCM với học phí trung bình
200 USD/tháng/HS.
Các nước xuất khẩu giáo dục tức xuất khẩu chất xám, nhưng thường họ
rất thiếu lao động phổ thông. Giá trị xuất khẩu chất xám của một trí thức có
thể thuê được hàng chục, thậm chí hàng trăm lao động phổ thông. Bài toán
thật đơn giản nhưng không phải quốc gia nào cũng làm được.
Còn ở nước ta, mọi người thường nói; “Người Việt Nam rất thông
minh”. Vậy mà sau 30 năm (1975 – 2005) giáo dục Việt Nam ngày càng lùi
xa các nước. Du học Thái lan, Malaysia đang là ước mơ của nhiều người
Việt Nam. Việt Nam vẫn là nước nhập khẩu giáo dục và xuất khẩu lao động
phổ thông (ôsin, công nhân…). Với thực trạng giáo dục của nước ta hiện
nay, bao giờ Việt Nam trở thành nước xuất khẩu giáo dục?
Kính thưa quí vị đại biểu.
Gần đây, các báo viết và báo điện tử đăng tải rất nhiều góp ý kiến với
Đại hội X của Đảng. TS Nguyễn sĩ Dũng, trong bài “Nhận diện bóc lột trong
điều kiện mới” (Báo Tuổi trẻ 07-03-2006) đã viết: “Bóc lột hay đúng hơn là
sự ám ảnh của nó đang làm tê liệt khả năng phản ứng của xã hội ta đối với
đòi hỏi của nền kinh tế thị trường … Việc giải phóng khỏi một khái niệm
xưa cũ và trói buộc phải là một phần tất yếu của sự nghiệp đổi mới”. Dịch
vụ giáo dục cũng vậy. Có phải quan niệm cổ xưa và sự ám ảnh về “Thương
mại hoá giáo dục” (có lẽ mọi người nghĩ đến các hiện tượng gian lận thương
mại) đang là một trong những rào cản kìm hãm dịch vụ giáo dục của Việt
Nam hay không? Mà rào cản này lại có nguồn gốc từ những con người thiếu
thông tin, có quyền ra quyết định.
Đến đây, chúng tôi xin chép lại một câu của GS. TS. Nguyễn Trường
Tiến trên Vietnam Net ngày 28 – 02 – 2006 để chúng ta cùng suy ngẫm khi
Ông đưa ra một cách xoá đói giảm nghèo mới “… phải biết xoá đói về thông
tin, trí tuệ, xoá nghèo về nhân cách và đạo đức làm người”.
Chúc quí vị sức khoẻ. Chúc hội thảo thành công.
Ghi chú 1:
Ngày 13-07-2000, được sự chấp thuận của Uỷ ban thường vụ quốc hội, Chính phủ Việt
Nam ký Hiệp định Việt – Mỹ về quan hệ thương mại. Hiệp định có hiệu lực từ 10-12-
2001. Chúng ta sẽ phải làm đúng những gì mà Hiệp định đã ghi.
Ghi chú 2:
Luật thương mại Việt Nam, hiệu lực từ 01 – 01 – 2006, khoản 1 điều 3 định nghĩa: “Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”
So với định nghĩa của luật thương mại, hiệu lực từ 01 – 01 – 1998 có sự thay đổi: nhóm
từ “ nhằm mục đích lợi nhuận” được thay bằng “nhằm mục đích sinh lợi”. Theo Luật
mẫu của liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế, về trọng tài thương mại quốc tế, định
nghĩa: “Thuật ngữ thương mại bao gồm các vấn đề nẩy sinh từ tất cả các quan hệ thương
mại dựa trên cơ sở có hoặc không có hợp đồng, gồm việc cung cấp hoặc trao đổi hàng
hoá hay dịch vụ, thoả thuận phân phối, tổ chức đại diện thương mại … dịch vụ tư vấn,
cấp phép, ngân hàng, bảo hiểm, khai thác hoặc thoả thuận nhượng quyền hoặc vận
chuyển …”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trung_tam_chat_luong_quoc_te_icq1_0337.pdf