Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2005

Mục lục Lời mở đầu. 1 Nội dung. 2 I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế. 2 1.Thừa kế theo pháp luật. 2 2.Diện và hàng thừa kế. 3 a.Diện thừa kế .3 b.Hàng thừa kế 5 II.Quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế - Thực tiễn áp dụng. 11 III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế. 16 IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật. 17 Kết luận. 18 Lời mở đầu Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó, đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ làm giảm đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Diện và hàng thừa kế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.

doc19 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3826 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác. Do đó, đối với người Việt Nam hiện nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của mình bằng cách thảo một bản di chúc. Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ làm giảm đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có. Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu. Tầm quan trọng của pháp luật ngày càng nâng cao. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết. Trong vấn đề thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế là vấn đề vô cùng quan trọng. Nó xác định phạm vi và thứ tự được hưởng thừa kế của những người được hưởng thừa kế. Hiện nay quy định của pháp luật tuy đã khá chặt chẽ nhưng thực tế vẫn còn những điểm cần khắc phục, bởi vậy em đã chọn đề tài “Diện và hàng thừa kế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. Nội dung I.Một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế. 1.Thừa kế theo pháp luật. Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế. Theo điều 674 Bộ luật dân sự 2005: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Theo quy định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại di sản qua đời, tài sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó. Những người thừa kế này được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Những người thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm vi di sản mình nhận được. Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành nhiều hàng thừa kế. Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan hệ hộn nhân, quan hệ huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thứ hai, thứ ba là các hàng dự bị, chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không được quyền nhận. 2.Diện và hàng thừa kế a.Diện thừa kế: Diện những người thừa kế là phạm vi những người hưởng di sản thừa kế của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được pháp luật quy định dựa trên ba mối quan hệ chính với người để lại di sản: Quan hệ hôn nhân: xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. Quan hệ huyết thống: quan hệ giữa những người cùng dòng máu (cụ với ông, bà; ông, bà với cha, mẹ; cha mẹ với các con; anh chị em ruột…) Quan hệ nuôi dưỡng: xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (cha mẹ nhận nuôi con nuôi). Ở Việt Nam thời phong kiến, dựa theo khuôn mẫu gia đình “tam, tứ đại đồng đường” là kiểu gia đình mở rộng, nơi ba bốn thế hệ chung sống dưới cùng một mái nhà. Nên diện thừa kế theo pháp luật được xác định hết sức rộng rãi, bao gồm toàn bộ những người thích thuộc của người chết mà không theo mức độ gần gũi. Theo sự ghi nhận của các bộ dân luật thời phong kiến thì tất cả người thân thuộc của người chết dù xa hay gần, dù thân hay sợ đều thuộc diện thừa kế theo luật của người đó. Khi không còn ai bên nội tộc còn sống thì di sản được chuyển dịch sang bên ngoại. Sau khi giành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam dân chủ công hòa, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật xác định phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luât: Thông tư 1742 do Bộ tư pháp ban hành ngày 19/8/1956 quy định diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: vợ hoặc chồng, các con đẻ, các con nuôi, cháu, chắt, cha mẹ của người để lại di sản và những người thừa kế khác. Nhưng thông tư này không xác định rõ những người thừa kế khác là ai nên trong thời kỳ này anh, chị, ông, bà không thuộc diện thừa kế. Thông tư 594 xác định diện thừa kế bao gồm: vợ góa (cả vợ cả và vợ lẽ); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, ông bà nội, ông bà ngoại; anh chị em ruột và anh chị em nuôi. Thông tư này đã thêm được anh chị em và ông bà vào diện thừa kế nhưng lại bỏ đi cháu, chắt ra khỏi diện thừa kế. Thông tư 81 xác định rõ cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Đây là một quan điểm tiến bộ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Vì vậy, diện thừa kế được quy định trong thông tư bao gồm: vợ góa (vợ cà và vợ lẽ) hoặc chồng góa, các con đẻ và con nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi. Ngoài ra thông tư còn quy định “người thừa tự” cũng là người thừa kế theo pháp luật tức là cháu được quyền thừa kế của ông bà nếu cha mẹ không còn. Pháp lệnh thừa kế do Hội đồng Nhà nước ban hành vào ngày 30/8/1990. Diện thừa kế theo pháp lệnh này mở rộng hơn so với Thông tư 81. Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại tài sản theo trực hệ được xác định đến tận 4 đời (từ đời cụ xuống đời chắt). Đối với những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản theo bàng hệ (ngành ngang) đã được mở rộng sang hai đời (chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người chết là cháu và ngược lại). Pháp lệnh thừa kế bác bỏ quyền thừa kế của anh chị em nuôi. Bộ luật dân sự 1995 không quy định trực tiếp về diện thừa kế nhưng dựa vào hàng thừa kế theo pháp luật và những người thừa kế thế vị thì đã xác định được diện thừa kế bao gồm: vợ hoặc chồng; các con đẻ và các con nuôi (thuộc hàng thừa kế thứ nhất); bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi; ông bà nội ngoại; anh chị em ruột (thuộc hàng thừa kế thứ hai); cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại (thừa kế thế vị). Cho đến nay Bộ luật dân sự 2005 thì diện thừa kế vẫn được xác định như năm 1999. Tuy nhiên có một điểm khác biệt là chắt được liệt thêm vào hàng thừa kế thứ ba. b.Hàng thừa kế Theo pháp luật, di sản của người chết đượcchia cho những người thân thích, gần gũi đối với người chết. Tuy nhiên mức độ gần gũi, thân thiết của những người thân thích đó với người chết là khác nhau khiến cho việc phân chia di sản thừa kế trở nên khó khăn, phức tạp. Vấn đề này xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới chứ không phải chỉ ở riêng Việt Nam và phần lớn các nước đặt ra quy định về hàng thừa kế để giải quyết vấn đề này. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế để giải quyết vấn đề này. Hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó họ cùng hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại. Theo Khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự 2005, pháp luật Việt Nam chia những người trong diện thừa kế ra làm ba hàng: Hàng thứ nhất bao gồm:vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Ở hàng thừa kế này có hai mối quan hệ giữa những người có quyền hưởng di sản của nhau: + Quan hệ thừa kế của vợ chồng: Căn cứ để xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân. Theo điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Vì thế vào thời điểm mở thừa kế nếu quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại được thì họ được quyền hưởng thừa kế của nhau. Do rất nhiều thay đổi trong luật pháp nên việc xác định quyền thừa kế của vợ chồng cần chú ý các trường hợp sau: Trường hợp một: vợ chồng đã chia tài sản chung hoặc sống ly thân hoặc một người đã bỏ đi sống với người khác một cách bất hợp pháp nhưng chưa ly hôn, về mặt pháp lý quan hệ hôn nhân vẫn còn tồn tại. Nên người này được quyền thừa kế khi người kia chết. Trường hợp hai: vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án chấp nhận hoặc đã được chấp nhận nhưng quyết định hoặc bản án cho ly hôn chưa có hiệu lực pháp luật thì một người chết. Khi đó người còn lại vẫn được quyền hưởng di sản của người chết. Trường hợp ba: nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc hôn nhân đều tiến hành trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc (ngày Luật hôn nhân và gia định năm 1959 có hiệu lực ở miền Bắc) và trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam (ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật trên toàn quốc) thì việc người đó có nhiều vợ vẫn được chấp nhận. Do đó khi người này chết thì tất cả các bà vợ (còn sống vào thời điểm đó) đều có quyền hưởng thừa kế theo hàng thứ nhất và ngược lại người chồng có thể hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất khi các bà vợ qua đời. Trường hợp bốn: nếu cán bộ chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi tập kết ra Bắc, lấy vợ ở miền Bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại. Trường hợp năm: đối với các trường hợp hôn nhân không đăng ký kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế (gồm các cuộc hôn nhân tiến hành trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa họ vẫn được thừa nhân nên họ là người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất của nhau. Trường hợp sáu: hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống chung với nhau trước ngày Luật Hôn nhân gia đình 1986 có hiệu lực mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng đó vẫn được chấp nhận. Và họ vẫn là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau. Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ và con. Quan hệ này được xác lập theo hai căn cứ. Thứ nhất là mối quan hệ huyết thống giữa những người cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai đời liền kề nhau. Trong đó cha mẹ đẻ là người đã sinh ra người đó nên được pháp luật quy định ở hàng thừa kế thứ nhất. Thứ hai là mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ nuôi dưỡng ở đây có thể là của bố mẹ đẻ với con đẻ cũng có thể là của bố mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Do đó việc pháp luật quy định bố mẹ nuôi và con nuôi vào hàng thừa kế thứ nhất là hoàn toàn hợp lý. Sau đây là một số trường hợp cần lưu ý trong việc xác định quyền thừa kế trong mối quan hệ này: Trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì người này được hưởng thừa kế ở hàng nhất đối với cả hai người và ngược lại. Trong trường hợp người này có con nuôi mà chưa đăng ký việc nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật thì quyền thừa kế giữa họ sẽ không được công nhận cho đến khi họ đăng ký. Tiếp đến là mối quan hệ giữa cha mẹ và các con dâu và con rể. Theo quy định của pháp luật thì con dâu, con rể không nằm trong diện thừa kế. Nhưng trong trường hợp con dâu, con rể tham gia lao động chung trong gia đình, xây dựng khối tài sản trong gia đình cha, mẹ thì khi cha mẹ chết đi họ vẫn được hưởng một phần tài sản xứng đáng với công sức mà họ bỏ ra nhưng không phải với tư cách người thừa kế mà là người đồng sở hữu tài sản. Việc chia tài sản cho con dâu, con rể sẽ được chia ngay từ lúc xác định tài sản của người chết trong khối tài sản chung, rút phần của người chết ra để chia cho những người thừa kế, phần của con dâu, con rể và những người khác (nếu có) nằm trong khối tài sản chung chưa bị chia kia. Đối với mối quan hệ của “con riêng với bố dượng, mẹ kế cần có nhiều điểm lưu ý. Như trường hợp mẹ kế sống với bố còn con riêng sống với mẹ đẻ như vậy hai người này không có quan hệ huyết thống mà cũng chẳng có quan hệ nuôi dưỡng; hoặc là các trường hợp con riêng sống với bố dượng, mẹ kế nhưng bị ghét bỏ, không nhận được sự quan tâm, chăm sóc nuôi dưỡng (các trường hợp này rất phổ biến ở nhiều nước) nên việc chọn cho con riêng, bố dượng, mẹ kế thừa kế của nhau trong các trường hợp này là không hợp lý. Vì thế điều 679 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định: “con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và 677 của Bộ luật này”. Như vậy là trong trường hợp pháp luật xác định được chắc chắn mối quan hệ nuôi dưỡng của con riêng với bố dượng, mẹ kế là mối quan hệ nuôi dưỡng như cha con hoặc mẹ con thì họ mới được hưởng thừa kế của nhau và còn được hưởng thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc thừa kế thế vị. Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. + Mối quan hệ giữa ông bà và cháu: Theo pháp luật Việt Nam quy định thì mối quan hệ giữa ông bà và cháu là mối quan hệ huyết thống. Do đó việc thừa kế của ông bà khi cháu chết và cháu nhận thừa kế khi ông bà qua đời là đương nhiên theo luật. Nhưng một người có thể có nhiều ông bà hoặc nhiều cháu nên điểm b Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự đã quy định rất rõ là ông bà phải là ông bà nội hoặc ngoại. Còn cháu phải là cháu ruột của người đó. Đối với trường hợp cháu nuôi thì pháp luật Việt Nam không thừa nhận quyền thừa kế của họ. Tức là đối với cha đẻ, mẹ đẻ của một người với con nuôi người đó thì không có quyền thừa kế. Nhưng đối với quyền thừa kế giữa bố mẹ nuôi của một người với con đẻ của người đó thì lại được pháp luật công nhận ở điều 677 - thừa kế thế vị. Theo ý kiến của riêng em thì nên chia ra các trường hợp: Thứ nhất nếu ông bà là cha mẹ nuôi của cha mẹ đẻ của người chết thì họ đương nhiên là người thừa kế ở hàng thứ hai của người chết và ngược lại. Thứ hai nếu ông, bà là cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ nuôi của cha hoặc mẹ nuôi người chết. Nếu sau khi bố mẹ nuôi chết, ông hoặc bà tiếp tục nuôi dưỡng người con nuôi thay cha mẹ nuôi và được pháp luật thừa nhận là có mối quan hệ nuôi dưỡng thì sẽ tính như trường hợp bố mẹ nuôi thứ hai và sẽ thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Nếu ông bà và người chết không có mối quan hệ nuôi dưỡng thì sẽ không thừa nhận quyền thừa kế của họ. + Quan hệ thừa kế giữa anh, chị, em ruột: Căn cứ để phát sinh quyền thừa kế giữa những người này cũng là mối quan hệ huyết thống. Anh ruột, chị ruột, em ruột là những người cùng cha cùng mẹ hoặc cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ, con trong giá thú hay con ngoài giá thú miễn là họ có chung dòng máu của người sinh ra mình thì đương nhiên theo pháp luật họ được quyền hưởng thừa kế ở hàng thứ hai của nhau. Ngoài ra pháp luật còn quy định rõ con riêng của vợ hoặc chồng không phải là an hem ruột của nhau; con nuôi không phải là anh chị em ruột đối với con đẻ của bố hoặc mẹ nuôi nên không được nhận thừa kế từ những anh chị em đó những vẫn được nhận thừa kế từ anh chị em ruột của chính mình và ngược lại. Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. + Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột với cháu ruột: Quan hệ thừa kế giữa những người này với nhau cùng là dựa trên mối quan hệ huyết thống. Bác ruột là anh hoặc chị của cha hoặc mẹ người chết, chú ruột là em trai của cha người chết, cô ruột là em gái của cha người chết, cậu ruột là em trai của mẹ người chết, dì ruột là em gái của mẹ người chết. Nhưng ở mỗi nơi có một cách dùng từ khác nhau ví dụ ở miền trung thì bác chỉ có nghĩa là anh trai của bố nên ta có thể hiểu tóm gọn lại bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột là những anh chị em ruột của bố hoặc mẹ và từ đó xác định ngược lại được cháu ruột phải là con đẻ của những anh chị em ruột của người chết. Những người này theo pháp luật được xếp hưởng thừa kế vào hàng thứ ba của nhau. + Quan hệ thừa kế giữa cụ và chắt: Cụ nội là người thân sinh ra ông nội hoặc bà nội, cụ ngoại là người thân sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại người chết. Nên mối quan hệ giữa cụ nội cụ ngoại và chắt là mối quan hệ huyết thống. Những người này được hưởng thừa kế ở hàng thứ ba của nhau. Nhưng theo em việc xác định mối quan hệ huyết thống giữa chắt và các cụ so với xác định giữa cháu và các cô, dì, chú, bác là khó khăn phức tạp hơn rất nhiều vì nó là một quan hệ nuôi dưỡng hoặc huyết thống. Do đó việc để cho quyền thừa kế giữa cụ và chắt với cháu và cô, dì, chú, bác là bất hợp lý vì như thế sẽ khiến việc chia tài sản ở hàng thứ ba trở nên khó khăn và phức tạp. Theo ý kiến của em nên để quyền thừa kế của cụ với chắt xuống hàng thứ tư. II.Quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế - Thực tiễn áp dụng. Theo quy định tại Điều 674 Bộ luật dân sự 2005 thì: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Theo nguyên tắc phân chia di sản theo trình tự hàng, người thừa kế ở hàng thứ nhất có quyền hưởng di sản trước tiên so với các hàng thừa kế sau. Thừa kế theo hàng là thừa kế theo trật tự hàng gần hơn loại hàng xa hơn. Thừa kế theo trật tự hàng mang tính chất tuyệt đối. Theo quy định của pháp luật về thừa kế, di sản thừa kế được chia theo pháp luật tuân theo trật tự hàng thừa kế, do vậy không thể có trường hợp những người thừa kế thuộc hai hàng khác nhau cùng được hưởng di sản chia theo pháp luật. Theo quy định tại khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự thì: “Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. Theo quy định trên thì sự hoán vị thừa kế xảy ra trong trưởng hợp đặc biệt sau đây: Người lập di chúc đã định đoạt tài sản của mình cho những người khác hưởng một phần tài sản và truất quyền thừa kế của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, các con chưa thành niên mà truất quyền của các con đã thành niên và có khả năng lao động, do vậy di sản thừa kế của người lập di chúc sau khi chết thì một phần được chia theo di chúc, một phần được chia theo pháp luật cho những người thừa kế ở hàng thứ hai. Trường hợp thứ nhất, ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ còn các con đều đã trưởng thành mà người lập di chúc truất quyền thừa kế của toàn bộ các con nhưng sau đó có một người con đã chết trước hoặc cùng chết một thời điểm với người lập di chúc mà người này có con. Theo hiệu lực pháp luật của di chúc thì phần di chúc liên quan đến người con đã chết trước hoặc cùng thời điểm với ông, bà vô hiệu. Phần di sản liên quan đến phần của di chúc vô hiệu được chia theo pháp luật. Tuy nhiên, chia theo pháp luật phần di sản tương ứng với phần di sản của người con nếu không có di chúc mà còn sống thì được hưởng theo pháp luật hay chia toàn bộ di sản của người chết để lại di chúc cho cháu của người ông là ông, bà nội,ngoại có cha, mẹ đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di chúc là ông, bà nội ngoại được thừa kế thế vị? Giải quyết vấn đề đặt ra, cần thiết phải xác định những mối quan hệ sau đây liên quan đến quy định của pháp luật thừa kế. Di chúc trong trường hợp này chỉ vô hiệu một phần, phần của di chúc liên quan đến người con đã bị truất quyền thừa kế nhưng người này lại chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, tính phần thừa kế theo pháp luật của người đó còn sống thì hưởng, để cho con của người này được thừa kế thế vị; phần di sản còn lại được chuyển giao cho những người thừa kế tại hàng thứ hai được hưởng. Ví dụ: ông A có ba người con là B, C, và D đều đã trưởng thành. Ông A chết có để lại di chúc truất quyền thừa kế của B, C và D nhưng không chỉ định cho ai khác hưởng di sản. Nhưng anh C và ông A chết cùng thời điểm do tai nạn giao thông, vào thời điểm này anh C đã có hai người con là E và Q. Di sản của ông A có 360 000 000 đồng. Theo cách lập luận trên, việc di sản của ông A được thực hiện theo một trong hai cách hiểu rất khác nhau. + Cách hiểu thứ nhất: anh B, C và D đều bị ông A truất quyền hưởng di sản nhưng anh C đã chết cùng thời điểm với ông A, phần di chúc liên quan đến C vô hiệu, phần di chúc liên quan đến anh B và D có hiệu lực pháp luật. Vậy di sản của ông A được chia như sau: C = 360 000 000 : 3 = 120 000 000 đồng. Do anh C đã chết cùng thời điểm với ông A, các con của anh C là E và Q được thừa kế thế vị theo quy định tại điều 677 Bộ luật dân sự. Theo đó con của anh C là: E = Q = 120 000 000 : 2 = 60 000 000 đồng Di sản còn lại của ông A được chuyển giao cho những người ở hàng thứ hai hưởng là 240 000 000 đồng. + Cách hiểu thứ hai: Ba người con của ông A đều bị truất quyền hưởng di sản nhưng anh C đã chết cùng thời điểm với ông A, do vậy phần di chúc liên quan đến quan đến anh C vô hiệu và toàn bộ di sản của ông A được chia theo pháp luật. Do anh C đã chết cùng thời điểm với ông A, do vậy 2 người con của ông C được thừa kế thế vị. Tại hàng thừa kế thứ nhất của ông A chỉ còn 1 suất thừa kế liên quan đến anh C và các con của anh C được thế vị là: E = Q = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng Cách hiểu thứ hai đúng pháp luật vì vẫn tuân theo nguyên tắc hưởng di sản theo trình tự hàng thừa kế và không thể có hai hàng thừa kế cùng được hưởng di sản. Cách hiểu thứ nhất không đúng với nguyên tắc phân chia di sản theo pháp luật vì những người thừa kế thuộc hàng thừa kế khác nhau cùng được hưởng di sản. Hai cách hiểu khác nhau đã cho ta thấy được việc áp dụng pháp luật thừa kế để giải quyết những tình huống cụ thể có thể có những sai sót. Vì vậy, khi giải quyết tình huống phân chia di sản theo pháp luật cụ thể, thì việc áp dụng pháp luật phải tuân theo nguyên tắc trật tự hàng thừa kế. Trường hợp thứ hai, nếu tại hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản chỉ còn có các con đã trưởng thành và đều bị người lập di chúc truất quyền thừa kế và người lập di chúc cũng không định đoạt cho một ai khác thừa kế theo di chúc. Các con của người để lại di sản đều đã có con nhưng họ đều đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì trong trường hợp này di chúc vô hiệu, theo đó toàn bộ di sản của người chết để lại được chia theo pháp luật cho những người thừa kế là các con của người để lại di sản ở hàng thừa kế thứ nhất được hưởng nếu còn sống, để cho các cháu được thừa kế thế vị hay di sản của người chết để lại trong trường hợp này được chia cho những người thừa kế ở hàng thứ hai? Trong trường hợp này, các con của người để lại di sản đều đã trưởng thành và đều đã có con, họ đều bị người lập di chúc truất quyền hưởng di sản nhưng họ đều đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, do vậy di chúc vô hiệu. Theo quy định tại điều 675 Bộ luật dân sự về những trường hợp thừa kế theo pháp luật thì di sản của người chết được chia theo pháp luật mà các con của người này thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Ví dụ: Ông A có hai người con là B và C. Anh B có con là E và F. Anh C có con là Q và K. Ông K chết cùng thời điểm với anh B và anh C, có để lại di chúc truất quyền thừa kế của anh B và anh C và không chỉ định cho bất kỳ ai khác hưởng di sản của ông. Di sản của ông có 720 000 000 đồng. Vậy di sản của ông A chia như sau: B = C = 720 000 000 đồng : 2 = 360 000 000 đồng Do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A, do vậy con của họ được thừa kế thế vị theo quy định tại điều 677 Bộ luật dân sự. E = F = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng Q = K = 360 000 000 đồng : 2 = 180 000 000 đồng Trong trường hợp này, di sản của ông A không thể chuyển giao cho những người thuộc hàng thừa kế thứ hai được hưởng. Vì hiệu lực pháp luật của di chúc vô hiệu và di sản của ông A đã được chia theo pháp luật và các cháu của ông A đã thừa kế thế vị, do anh B và anh C chết cùng thời điểm với ông A. Trường hợp thứ ba, nếu toàn bộ người ở hàng thừa kế thứ nhất đều bị người để lại di sản truất quyền thừa kế theo di chúc và tại hàng này không có cha, mẹ, vợ hoặc chồng của người để lại di sản. Các con của người để lại di sản đều còn sống vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản thì di sản của người chết được chuyển giao cho những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ hai được hưởng. Ví dụ: ông A có một người em ruột là ông M và có hai người con là B và C, đều đã trưởng thành. Ông A chết có để lại di chúc truất quyền thừa kế của anh B và anh C. Di sản của ông A có 90 000 000 đồng. Do hai người con của ông A bị truất quyền hưởng di sản của ông A, do vậy di sản của ông A được chuyển sang hàng thừa kế thứ hai được hưởng, theo đó ông M được hưởng thừa kế di sản của ông A theo pháp luật là 90 000 000 đồng. Trường hợp thứ tư, những người thừa kế tại hàng thứ nhất đều đã chết trước người để lại di sản và trong số họ có người đã có con, do vậy di sản của người chết không thể chuyển xuống cho những người thừa kế hàng thứ hai được hưởng mà vẫn chia di sản theo hàng thừa kế thứ nhất để có căn cứ xác định phần di sản của người được hưởng thừa kế thế vị. Ví dụ: ông A có ba người con là anh B, anh C và chị D. Anh C có hai con là M và N. Cả ba người con của ông A đều đã chết trước ông A. Ông A qua đời vào tháng 3, 2007 không để lại di chúc. Vậy di sản của ông A được chia như sau: Hàng thừa kế thứ nhất của ông A có ba người nhưng đều đã chết trước ông A nhưng anh C đã có con, vậy di sản của ông A được chia cho 1 suất thừa kế (là anh C nếu còn sống thì hưởng) và trong trường hợp này, các con của anh C được thừa kế thế vị. Vậy M = N = 90 000 000 đồng : 2 = 45 000 000 đồng Theo những nội dung phân tích trên đây, nhận thấy pháp luật thừa kế của nước ta còn nhiều vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật đặc bieetk là mối quan hệ giữa thừa kế thế vị và trường hợp di sản được chuyển cho những ngưởi thừa kế tại hàng thứ hai. III.Diện và hàng thừa kế theo pháp luật - Một số điểm hạn chế Thứ nhất, hàng thừa kế thứ hai cháu chỉ được thừa kế của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi ở hàng thừa kế thứ nhất có một người thừa kế là cha đẻ (mẹ đẻ) bị mất quyền hưởng di sản hoặc có nhiều người thừa kế nhưng tất cả đều không có quyền hưởng di sản hoặc không nhận di sản,thì cháu cùng với anh chị em ruột của người chết sẽ được hưởng di sản của ông bà. Trên thực tế trường hợp này rất khó xảy ra. Mặt khác, quan hệ giữa cháu nội với ông nội, bà nội là quan hệ huyết thống trực hệ và nếu xét về quan hệ gia đình truyền thống thì giữa ông nội, bà nội và cháu nội là một gia đình, cháu phải nuôi dưỡng thờ cúng ông bà, cho nên cháu cần được hưởng di sản trước anh chị em ruột của người chết. Trường hợp không có cháu hoặc chắt thì anh chị em ruột được hưởng di sản của người chết. Thứ hai, theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì cháu ở hàng thứ hai chỉ được nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi hàng thứ nhất có một người thừa kế duy nhất còn. Trường hợp này nếu cha đẻ, mẹ đẻ của cháu không nhận hoặc không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì di sản chia cho người thừa kế hàng thứ hai là cháu. Ngược lại, nếu hàng thứ nhất nhiều người thừa kế trong đó có một người là cha hoặc mẹ cháu không nhận di sản, không có quyền nhận di sản…thì phần di sản lẽ ra cha mẹ cháu được hưởng sẽ chia cho những người thừa kế cùng hàng là cô, dì, chú, bác ruột của cháu. Trường hợp này vô hình chung những người thừa kế hàng thứ nhất được hưởng nhiều hơn một suất theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo quyền lợi của các cháu, pháp luật nên cho phép cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu không được hưởng. Thứ ba, khoản 3 Điều 676 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế hàng sau chỉ được hưởng di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết…Quy định này mâu thuẫn với Điều 677 là cháu thừa kế thế vị khi bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, vì vậy nếu cháu thế vị thì hàng thứ hai hoặc thứ ba không được hưởng di sản. IV.Hoàn thiện một số quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật. Đối với thừa kế theo pháp luật, nên cấu trúc lại Điều 676 về người thừa kế theo pháp luật. Nên chia điểm b Điều 676 thành 2 hàng (hàng 2 và 3) thừa kế. Hàng thứ nhất gồm cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi người chết. Hàng thứ hai gồm cháu gọi người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Hàng thứ ba gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột của người chết. Hàng thứ tư gồm cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. Xét về quan hệ huyết thống trực hệ thì cháu ruột với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại gần gũi hơn quan hệ anh, chị, em ruột với nhau. Về quan hê nuôi dưỡng, cháu có nghĩa vụ nuôi ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại nếu không có người nuôi dưỡng. Mặt khác, theo tập quán thì cháu phải thờ cũng ông, bà. Vì những lẽ trên, quy định cháu ở hàng thứ hai là phù hợp. Trường hợp không xếp cháu là hàng thứ hai thì không nên quy định về thừa kế thế vị như Điều 677 sẽ hạn chế quyền lợi của các cháu khi mà bố hoặc mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại, thì cháu không hưởng di sản của ông nội, bà nội,hoặc ông ngoại, bà ngoại. Vì vậy nên quy định là trường hợp bố hoặc mẹ từ chối, không có quyền nhận di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại thì các con của người từ chối nhận di sản (cháu) sẽ hưởng di sản của ông nội, bà nội hoặc ông ngoại, bà ngoại. Kết luận Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDiện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2005.doc
Luận văn liên quan