Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất của nghề chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu bò, càng quan trọng khi nền công nghiệp chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà thâm canh tăng năng xuất .Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng, rẻ tiền và phù hợp với điều kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [14]. Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng cỏ, nhưng lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát triển chăn nuôi ngày một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được. Do đó đòi hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học đến các phương thức cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị diện tích đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên [10].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh cãi. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe (1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao phủ bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quản canh được gọi là bãi cỏ tự nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh dưỡng cao hơn [44]. Đa số các tác giả cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục, nơi có lượng mưa dao động từ 250 – 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở vùng nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng trong mùa khô Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có những đề nghị khác nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn hay tạm thời) còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề nghị là chăn dắt) chủ yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn [36] . Theo Hoàng Chung (2006): Đồng cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ
với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm sinh, có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối [11].
Việt Nam là nước “nhiệt đới gió mùa ẩm” [21], thảm thực vật về cơ bản thuộc “rừng mưa nhiệt đới” [45], không có đồng cỏ rộng như các nước vùng ôn đới, hay Châu Phi nhiệt đới [20]. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích rộng lớn không có nhiều lắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và Mai Sơn (tỉnh Sơn La), Lai Châu, đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và một số đồng cỏ thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha. Các thảm cỏ tự nhiên thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những khu vực này dùng từ “bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [24]. Theo Hoàng Chung (2004) thì đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá rừng mà thành [10], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc mà nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức quan trọng vì trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-100% [22]. Đáp ứng nhu cầu thức ăn cho gia súc, một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết khi muốn phát triển chăn nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế nhất mà nhiều nước, kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [14]. Trên thực tế hiện nay nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách bừa bãi không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống, đồi trọc, không còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia súc, đặc biệt là về mùa đông [34]. Để phục vụ cho sự phát triển chăn nuôi, nhiều địa phương ngoài việc biết khai thác các loài cây, cỏ trong các loại hình tự nhiên khác nhau thì nhiều cây trồng cũng được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh Tặng,
Nguyễn Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), Lê Sinh Tặng (1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975), Nguyễn Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương Thành Liên (1981), Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu lên được tập đoàn cây thức ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử dụng hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích thành phần dinh dưỡng của một số loài cỏ ở nước ta như : Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Hoàng Kim Nhuệ (1979), Võ Văn Trị (1983), [10].
Hà Hiệu là xã miền núi của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của xã năm 2007 là phát triển đàn gia súc lên 2.299 con (trâu: 864 con, bò:1435 con) [4]. Với diện tích không lớn (4006,66 ha), đất nông nghiệp ít và đã ở mức độ khai thác cao, đất rừng cũng đang bị thoái hoá. Để có thể nâng cao đời sống và đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái cần có sự chuyển đổi phương hướng sản xuất, đặc biệt là với chăn nuôi đại gia súc.
Với mục đích xác lập đàn gia súc ổn định lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế miền núi và các phương án sử dụng hợp lý loại hình đồng cỏ và cây cỏ tự nhiên, cỏ và cây trồng khác ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng đề tài “Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn”. Đề tài nhằm đánh giá thực trạng các loài cây cỏ được dùng làm thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn và mức độ sử dụng hiện tại của người dân địa phương với các loài này. Từ đó có thể rút ra kết luận khoa học nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản, cần thiết cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên tại địa phương, đem lại hiệu quả kinh tế cao mà không gây ảnh hưởng gì đến môi trường sống.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 21
1.4. Nhận xét chung 26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý 28
2.2. Địa hình, địa mạo 28
2.3. Khí hậu 29
2.4. Thủy văn 29
2.5. Các nguồn tài nguyên 30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. 32
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu 42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi 87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn nuôi 90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát triển. 93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 97
2. Đề nghị 98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
109 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3191 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------@&?---------------
Trần Thị Hương Lam
ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC HIỆN CÓ Ở XÃ HÀ HIỆU HUYỆN BA BỂ TỈNH BẮC KẠN
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60-42-60
LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HOÀNG CHUNG
THÁI NGUYÊN NĂM 2007
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan. Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Trần Thị Hương Lam
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo PGS - TS Hoàng Chung đã tận tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn Tiến sỹ Lê Ngọc Công cùng toàn thể các thầy cô giáo, các cán bộ, nhân viên khoa Sinh trường Đại học sư phạm Thái Nguyên. Xin cám ơn cán bộ, nhân viên phòng thí nghiệm Trung tâm - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và bạn bè đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu khoa học.
Nhân đây tôi cũng xin cám ơn Sở Giáo Dục – Đào Tạo Thái Nguyên, Phòng Giáo Dục – Đào Tạo Phổ Yên, Trung tâm KTTH – HN & Giáo dục thường xuyên Phổ Yên đã giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2007
Tác giả
Trần Thị Hương Lam
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
CTV: Cộng tác viên
DS : Dạng sống
ĐVTA: Đơn vị thức ăn
HTX : Hợp tác xã
NC: Nghiên cứu
PTNT: Phát triển nông thôn
TS : Tổng số
VCK: Vật chất khô
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loại cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày.
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Bảng 1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam.
Bảng 1.5:Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính.
Bảng 1.6: Giá trị dinh dưỡng của Ngô trong các giai đoạn khác nhau. Bảng 4.1: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ tự nhiên. Bảng 4.2: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự nhiên. Bảng 4.3: Năng suất các thảm cỏ trong đồng cỏ tự nhiên.
Bảng 4.4: Thành phần loài ở các điểm nghiên cứu trong thảm cỏ dưới rừng. Bảng 4.5: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ dưới rừng. Bảng 4.6: Năng suất các thảm cỏ dưới rừng.
Bảng 4.7: Thành phần loài trong các thảm cỏ soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.8: Những dạng sống chính của thực vật trong các soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.9: Năng suất các thảm cỏ trong soi bãi hoang hóa.
Bảng 4.10: Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi.
Bảng 4.11: Một số chỉ tiêu của các cây cỏ trồng tại xã Hà Hiệu.
Bảng 4.12: Giá trị dinh dưỡng của các loài cỏ trồng dùng làm thức ăn cho gia súc.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 21
1.4. Nhận xét chung 26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý 28
2.2. Địa hình, địa mạo 28
2.3. Khí hậu 29
2.4. Thủy văn 29
2.5. Các nguồn tài nguyên 30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. 32
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu
42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi
87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn nuôi
90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát triển.
93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
97
2. Đề nghị
98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
100
MỞ ĐẦU
Đồng cỏ là cơ sở quan trọng nhất của nghề chăn nuôi gia súc đặc biệt là trâu bò, càng quan trọng khi nền công nghiệp chăn nuôi ngày càng phát triển trên đà thâm canh tăng năng xuất .Cỏ không những là nguồn thức ăn gia súc có chất lượng, rẻ tiền và phù hợp với điều kiện nhiều nước mà cỏ còn có những tác dụng khác như bảo vệ và cải tạo đất trồng dưới dạng này hay dạng khác [14]. Đồng cỏ là kho dự trữ nguồn năng lượng tiềm tàng, gia súc sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Con người đã từ lâu biết khai thác đồng cỏ, nhưng lúc đầu còn hoàn toàn dựa vào tự nhiên. Nhưng nhu cầu phát triển chăn nuôi ngày một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước không thể đáp ứng được. Do đó đòi hỏi loài người phải đầu tư trí tuệ cho việc khai thác đồng cỏ. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu một cách toàn diện từ những đặc điểm sinh thái, sinh vật học đến các phương thức cải tạo, sử dụng hợp lý để tạo ra sản phẩm tối đa trên đơn vị diện tích đồng cỏ trồng cũng như tự nhiên [10].
Tuy nhiên, đến nay quan niệm về đồng cỏ là vấn đề còn đang tranh cãi. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những đặc điểm cần có của loại hình đồng cỏ hoặc nhóm đặc điểm và cũng đã đưa ra hàng loạt định nghĩa về đồng cỏ. Theo A.O.Felipe (1965), những vùng đất rộng lớn, kể cả đồng bằng cũng như miền đồi núi, bao phủ bởi cỏ địa phương được sử dụng cho chăn thả quản canh được gọi là bãi cỏ tự nhiên. Còn đồng cỏ nhân tạo được xây dựng lên để thay thế bãi cỏ tự nhiên bằng cách trồng những loài cỏ có năng xuất và giá trị dinh dưỡng cao hơn [44]. Đa số các tác giả cho rằng đồng cỏ (Grassland) là vùng đất được che phủ bởi thảm cỏ liên tục, nơi có lượng mưa dao động từ 250 – 750mm ở vùng ôn đới và tới 1200mm ở vùng nhiệt đới, cỏ sinh trưởng liên tục trong mùa sinh dưỡng, ngừng sinh trưởng trong mùa khô… Ở Việt Nam, theo Trịnh Văn Thịnh (1974), cũng có những đề nghị khác nhau: Danh từ “đồng cỏ” để chỉ những diện tích đồng cỏ (vĩnh viễn hay tạm thời) còn những đất đai sử dụng để chăn thả súc vật (có người đề nghị là chăn dắt) chủ yếu dựa vào cỏ tự nhiên thì gọi là bãi chăn [36] ... Theo Hoàng Chung (2006): Đồng cỏ là các sinh địa quần lạc, thảm thực vật của nó được đặc trưng bởi các quần xã cỏ
với độ khép tán lớn hay nhỏ và chủ yếu là cỏ trung sinh nhiều năm, đôi khi là cỏ ẩm sinh, có sự ngừng sinh trưởng vào mùa đông, thường mùa hè không biểu thị sự giảm sút rõ rệt, đất đa dạng về độ ẩm, độ phì và hàm lượng muối [11].
Việt Nam là nước “nhiệt đới gió mùa ẩm” [21], thảm thực vật về cơ bản thuộc “rừng mưa nhiệt đới” [45], không có đồng cỏ rộng như các nước vùng ôn đới, hay Châu Phi nhiệt đới [20]. Đồng cỏ Việt Nam phân bố rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là trên các đồi núi và các cao nguyên của trung du và miền núi (chiếm tới 10 triệu ha). Những khu vực có đồng cỏ tự nhiên với diện tích rộng lớn không có nhiều lắm, đại diện là các đồng cỏ thuộc Mộc Châu và Mai Sơn (tỉnh Sơn La), Lai Châu, đồng cỏ Ngân Sơn (tỉnh Bắc Kạn) và một số đồng cỏ thuộc vùng Tây Nguyên. Các đồng cỏ khác thường có diện tích nhỏ từ vài chục đến vài trăm ha. Các thảm cỏ tự nhiên thường xuất hiện trên đất xấu, cây quán mộc nhiều, những khu vực này dùng từ “bãi chăn” có lẽ chính xác hơn [24]. Theo Hoàng Chung (2004) thì đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam là loại hình thứ sinh, do khai phá rừng mà thành [10], tuỳ theo mức độ bị tác động hàng ngày của con người và gia súc mà nó biểu hiện ra ở các trạng thái khác nhau…
Đối với gia súc nhai lại thì thức ăn xanh đóng một vai trò hết sức quan trọng vì trong khẩu phần ăn hàng ngày của chúng có thể chiếm từ 60-100% [22]. Đáp ứng nhu cầu thức ăn cho gia súc, một trong những vấn đề cơ bản phải giải quyết khi muốn phát triển chăn nuôi là phát triển đồng cỏ, biện pháp hợp lý và kinh tế nhất mà nhiều nước, kể cả các nước tiên tiến đang áp dụng [14]. Trên thực tế hiện nay nguồn thức ăn xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt do đồng cỏ chăn thả dần bị thu hẹp lại nhường chỗ cho cây trồng khác. Bên cạnh đó do chăn thả một cách bừa bãi không có kỹ thuật đã làm cho một số bãi chăn trở thành đất trống, đồi trọc, không còn khả năng khai thác dẫn đến thiếu thức ăn cho đàn gia súc, đặc biệt là về mùa đông [34]. Để phục vụ cho sự phát triển chăn nuôi, nhiều địa phương ngoài việc biết khai thác các loài cây, cỏ trong các loại hình tự nhiên khác nhau thì nhiều cây trồng cũng được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần cây thức ăn gia súc ở vùng nhiệt đới như: Lê Sinh Tặng,
Nguyễn Chính (1959), Nguyễn Quang Ngọ, Lê Sinh Tặng (1964), Lê Sinh Tặng (1969), Trịnh Văn Thịnh và các tác giả (1974), Điền Văn Hưng (1975), Nguyễn Đăng Khôi (1978, 1979, 1981), Võ Huy Giảng (1983), Dương Thành Liên (1981), Bùi Xuân An, Ngô Văn Mậu (1981), bước đầu đã nêu lên được tập đoàn cây thức ăn gia súc. Một số tác giả có đề cập đến vấn đề cải tạo đồng cỏ tự nhiên, sử dụng hợp lý hơn hay tạo đồng cỏ trồng, nhập nội một số loài mới, phân tích thành phần dinh dưỡng của một số loài cỏ ở nước ta như : Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Hoàng Kim Nhuệ (1979), Võ Văn Trị (1983), … [10].
Hà Hiệu là xã miền núi của huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn. Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của xã năm 2007 là phát triển đàn gia súc lên 2.299 con (trâu: 864 con, bò:
1435 con) [4]. Với diện tích không lớn (4006,66 ha), đất nông nghiệp ít và đã ở mức độ khai thác cao, đất rừng cũng đang bị thoái hoá. Để có thể nâng cao đời sống và đảm bảo an toàn về môi trường sinh thái cần có sự chuyển đổi phương hướng sản xuất, đặc biệt là với chăn nuôi đại gia súc. Với mục đích xác lập đàn gia súc ổn định lâu dài cho chiến lược phát triển kinh tế miền núi và các phương án sử dụng hợp lý loại hình đồng cỏ và cây cỏ tự nhiên, cỏ và cây trồng khác ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn, chúng tôi đã xây dựng đề tài “Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn”. Đề tài nhằm đánh giá thực trạng các loài cây cỏ được dùng làm thức ăn gia súc ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn và mức độ sử dụng hiện tại của người dân địa phương với các loài này. Từ đó có thể rút ra kết luận khoa học nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản, cần thiết cho việc sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên tại địa phương, đem lại hiệu quả kinh tế cao mà không gây ảnh hưởng gì đến môi trường sống.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam.
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn cho gia súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại [1].
Cỏ là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh dưỡng, như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4 :1 [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Ví dụ: Giá thành cho 1kg cỏ Mộc Châu và cỏ lông Para trong 3 năm sử dụng là: 0.037 và 0.035 đồng [14].
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ cao trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng hyđratcacbon và đặc biệt là các chất dinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi thu hoạch. Các cây họ Đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn gia súc nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng Protein và khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ xung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp được
16g prôtêin tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị thức ăn [36].
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [46]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh qua mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi khi thu hoạch
ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân tố sau để xét và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đảm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng; …
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, … Chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ở Inđonêxia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự nhiên,
21% là rơm, 16% là cây lá khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu) [27].
- Ở Thái Lan, với 70% dân liên quan đến sản xuất nông nghiệp, sản phẩm
trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa chưa đủ cung cấp theo nhu cầu tiêu dùng. Theo FAO, Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người nông dân bằng giải pháp: giảm trồng lúa, sắn, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp hạt giống cỏ để trồng.
- Ở Trung Quốc, cây thức ăn gia súc được chú ý phát triển ở khu vực phía Nam. Trong quá trình nghiên cứu đã xác định được các giống cỏ Stylo, Brachiaria, Pennisetum, … sử dụng có hiệu quả cho gia súc. Hằng năm còn sản xuất 20,5 tấn hạt cỏ cung cấp cho trong và ngoài nước [31].
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum atratum, … đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F. Lating, F. Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, … cũng đã chú trọng đầu tư phát triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2-3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
* Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia súc trên thế giới:
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề năng suất, chất lượng cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum khoảng từ 15-20,
18-25, 9-15 và 6-10 tấn/ha (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp vào
45 ngày cắt.
Tên khoa học
Tên Việt Nam
Năng suất (tấn/ha)
Prôtêin (%)
Brachiaria mutica
Cỏ lông Para
9 - 15
6 – 10
Digitaria decumbens
Pangola
15 – 20
7 – 11
Paspalum atratum
Cỏ đắng
18 – 25
6 – 7
Paspalum plicatulum
6 – 10
5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [39].
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum plicatulum là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha. Do vậy, hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan) cỏ
Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50 x 50cm và được bón phân hỗn hợp (15-15-15) trước khi trồng ở mức 300 kg/ha tương đương 18 tấn phân bón /1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày [40]. Sản lượng này được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000
8,9
11/9/2000
7,1
11/10/2000
6,9
11/11/2000
6,8
11/12/2000
4,6
11/01/2001
2,6
11/02/2001
4,1
11/03/2001
4,3
11/04/2001
5,8
11/05/2001
3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [40].
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 1978) [42], giống Brachiaria decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không bón đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola (Digitaria decumbens), Para (Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969) [41].
Tại Purertorico, Vieente - Chandler Silva và Figarella (1959) [49] thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha với mức bón 440 kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton và Micosker, (1975) [47] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã sản xuất được 60.000 kg VCK/ha với điều kiện cung cấp 300 kg đạm/ha. Tại Samford, Queensland năng suất hàng năm của giống Paspalum rinatatum là 15.000 kg VCK/ha (Davies, 1970) [43].
Đối với giống cỏ Setaria sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và
Wilson (1970) [48] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ 23.500-
28.000 kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin, Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi. Một số giống cỏ nhập nội đã được đánh giá, kết quả tốt và ứng dụng vào sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hòa thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như: Lê Hòa Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã cho kết quả như trình bày ở bảng 1.1 [6].
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ ha/ năm)
Tt
Tên giống
Long Mỹ
Sơn Thành
Ba Vì
Thụy Phương
Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
1
Panicum maximum Hamil
56.91
9.73
92.9
17.6
86.3
16.5
90.5
17.3
2
Panicum maximum Liconi
40.57
8.11
-
-
99.96
18.9
97.5
17.5
3
Panicum maximum Trichoglumen
40.89
8.21
62.4
12.6
44
10.1
68.2
15.7
4
Panicum maximum Makueni
59.96
11.92
77.1
15.1
60.8
12.4
108
19.4
5
Pennisetum King grass
119
19.02
-
-
170.1
22.3
207
23.6
6
Pennisetum purpureum
99.73
16.95
176
22.9
169.5
20.4
198
21.8
7
Setaria splendida
28.13
5.56
-
-
75.1
14.1
80.4
12.6
8
Brachiaria mutica
28.42
7.61
68.9
12.7
42.6
10.2
86.6
15.9
9
Brachiaria decumbens
44.16
8.77
72.6
13.7
56.7
11.2
73.8
11.8
Nguồn: Lê Hòa Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV, 1992.
Phan Thị Phần và CTV (1998) [25]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh (2001) [30] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả:
+ Khu vực miền Nam, địa điểm nghiên cứu tại vùng đất xám Bình Dương với
20 tấn phân chuồng, 80 kg P2O5, 80 kg K2O và 500 kg vôi/ha/năm. Lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg N/ha / năm, năng suất chất xanh cỏ Panicum maximum TD
58 đạt 64,59 – 83,33 tấn /ha/ năm. Tỷ lệ lá cao 51,48 – 60,44%, năng suất hạt 287 –
323 kg/ha/năm. Khoảng cách lứa cắt thích hợp là 40 ngày/ lứa.
+ Khu vực miền Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, đất chua nghèo lân và kali cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ngày). Năng suất chất xanh đạt 90 – 100 tấn/ ha/ năm. Cỏ Ghinê có khả năng cho thu hạt, năng suất đạt 450 kg/ha, tỷ lệ sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sữa 77% và ngựa 85%.
Tỷ lệ tiêu hóa của dê đối với cỏ Panicum maximum TD 58 cao, khả năng sử
dụng của gia súc đều tốt từ 86 – 100%.
Tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/ ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 có tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [26].
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và p hân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có những đồng cỏ được hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay đầm lầy … làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [11].
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có ý kiến khác nhau. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [10].
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt
đới khác nhau, các nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ và cây bụi
trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ. Con người khi chặt phá và đốt rừng làm nương rẫy đã làm đất bị cháy và khô đi, những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay có lẫn một số loài cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo nguyên vùng ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các vành đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ sử dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và các dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và cây đoản mệnh, hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh - rừng thứ sinh
- đồng cỏ - savan cỏ hoặc savan bụi - thảm cây bụi hạn sinh [10].
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật:
Nghiên cứu về khu hệ thực vật là một trong những nghiên cứu được tiến hành từ lâu trên thế giới. Người ta có thể nghiên cứu khu hệ thực vật ở từng vùng hay trên từng thảm thực vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo nguyên, ở Liên Xô (cũ), có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ, thảo nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915), Graxits (1927), Sennhicop (1938), Creepva (1978), … [9]. Nói chung, theo các tác giả thì ở mỗi một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc trưng, cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng sống, đó là chỉ tiêu
quan trọng của các công trình nghiên cứu về thực vật.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan hoặc một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm 1950 trở về đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong đồng cỏ như:
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ, savan, thảo nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài thuộc 54 họ và 44 chi [9]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam” năm 2004 là 79 họ, 402 loài [10].
Đặc biệt là Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp “Đồng cỏ Bắc Việt Nam”, tác giả đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ của vùng này với sự phân chia 5 vùng đồng cỏ bắc Việt Nam [33].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang Anh (1969), khi nghiên cứu thành phần loài đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã gọi đây là đồng cỏ [32].
Khi nghiên cứu về loại hình sa van, các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964), đã nghiên cứu thành phần loài của thảm thực vật ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi loại hình này là Savan cỏ [23].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái, sinh vật học của savan Quang Ninh và các mô hình sử dụng, đã phát hiện được
60 họ với 131 loài thực vật khác nhau [18].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loài, dạng sống của savan bụi ở vùng đồi Trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123 loài thuộc
47 họ khác nhau [7] …
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Dạng sống là sự biểu hiện về thích nghi với môi trường sống của thực vật nên đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm.
Theo Ewarming (1884, 1908, 1909) khi nghiên cứu và phân chia dạng sống
của thực vật thuộc thảo vùng ôn đới đã sử dụng những đặc điểm sinh vật học như:
đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo dài đời sống, sự phát triển ...
Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử dụng vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn để phân chia [10].
I.K.Patrotxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực vật thường xanh, thực vật rụng lá vào điều kiện bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Đối với cây thuộc thảo có các bảng phân loại dạng sống đã được làm do Cannon (1911), Markle (1917),… Ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915), Kadakêvich (1922), Laprenko (1935) ... Đặc biệt, trong phân loại dạng sống thực vật của T.Isatrenko (1954), I.V.Brixôva (1960, 1961), … đã sử dụng những đặc điểm cấu trúc cả phần dưới đất của thực vật. Dôdulin (1959), Xêbêbriacôp (1954,
1955, 1962, 1964) cũng đã đưa ra một số hệ thống dạng sống tương tự. Nhưng hệ
thống dạng sống hoàn mỹ hơn cả cho hoà thảo có lẽ là của Golubep (1957, 1962,
1968) [10].
Những công trình nghiên cứu về dạng sống thực vật thuộc thảo ở Việt Nam cũng như ở Đông Dương hầu như chưa có. Doãn Ngọc Chất (1969) đã nghiên cứu dạng sống của một số loài thuộc họ hoà thảo. Hoàng Chung (2004) dựa trên những nguyên tắc phân loại của Golubep (1962, 1968), thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại nó được trình bày ở bảng 1.4 (trang 13) [10].
1.2.4. Những nghiên cứu về nă ng suất
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt đầu từ thế kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục...
Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó của các kiểu thực bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt (1950), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958), Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkô (1965), Xemen-Nova-Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev (1975), Uchekhin ( 1977 ) … Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác giả: Kalininna (1954); Xemennôva- Chian-Sanskia (1966) ...
Bảng1.4: Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
(không tính các loài cây trồng).
Stt
Kiểu dạng sống
% loài trong tổng số loài chung của
vùng Đông Bắc
% loài trong tổng số loài chung của vùng Tây Bắc
1
Cây gỗ
8.8
6.2
2
Cây bụi
9.3
9.3
3
Cây bụi thân bò
2.3
3.1
4
Cây bụi nhỏ
10.6
9.3
5
Cây bụi nhỏ thân bò
0.9
2
6
Cây nửa bụi
4.6
4.2
7
Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái
4.2
4.2
8
Cây có chồi mọc từ rễ
0.9
1
9
Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn
0.9
0
10
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm
14.4
14.7
11
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò
2.3
4.2
12
Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm
15.7
12.4
13
Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm
4.2
7.3
14
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài
4.2
5.2
15
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò
5.1
7.3
16
Cây thảo một năm có rễ cái
6.5
5.2
17
Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò
0.4
0
18
Cây thảo một năm có hệ rễ chùm
4.2
2
Tổng số:
- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm.
51.9
56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm.
11
7.2
- Cây có hệ rễ cái.
49.1
44.5
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954); Krưm (1960); Xemennop (1966); Kharitonốp (1967); Gawood (1968); IgonachenKo, Kirillova và Ponhiatopskaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop (1967).... có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ vật chất hữu cơ, cũng như sự chuyển đổi sản phẩm là năng lượng trong các thực vật quần hay hệ sinh thái. Nhật Bản có các công trình nghiên cứu về năng suất sinh học của các thảm cỏ của các tác giả như: Iwaki (1979); Ogawa và cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự (1964,
1966). Ở Thái Lan, Ấn Độ đã có một số nghiên cứu về năng suất của các quần xã cỏ
trong rừng thường xanh vùng ôn đới.
Ở Việt Nam, đến 1955 hầu như không có công trình nào nghiên cứu về năng suất đồng cỏ. Từ 1960 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về năng suất đã được tiến hành trong các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ trồng (chăn thả hay đồng cỏ cắt). Dương Hữu Thời (1981); Nguyễn Hữu Hiến (1985), … chỉ nghiên cứu một số cây có giá trị kinh tế cao trên đồng cỏ tự nhiên và chủ yếu tính sản lượng cỏ trong một số vùng nhằm phục vụ cho kế hoạch phát triển chăn nuôi đại gia súc của một số vùng đó. Hoàng Chung (2004) đã tiến hành nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ của vùng Việt Bắc và vùng Tây Bắc trên hai đai (Nhiệt đới và á nhiệt đới). Trong công trình nghiên cứu của ông đã đề cập đến những chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất, phần dưới mặt đất và đi đến kết luận về sự biến đổi năng suất trên đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam: “Trong các điều kiện thảm thực vật (savan – đồng cỏ) của Bắc Việt Nam, năng suất sinh vật học giảm dần dần theo trình tự sau: Đồng cỏ á thảo nguyên – Đồng cỏ - Savan” [10].
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam:
Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có trong giống cỏ đó. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây trồng, điều kiện khí hậu, kỹ thuật canh tác, giai đoạn sinh trưởng. Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu, đánh giá một giống cây thức ăn, trên cơ sở đó giúp các nhà chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc một
cách hợp lý, để chúng sinh trưởng và phát triển tốt.
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt, theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hoà thảo, trong đồng cỏ tồn tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài này cũng được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi theo thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc điểm sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với chiều cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động của con người vào thảm cỏ.
Ở một số loài giá trị chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả thời kì sinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum conjugatum và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỉ lệ phần thân tăng và phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở nên cứng và sắc như cỏ Tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ yếu ở phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ của một số quần xã có nhiều cây họ Cói, những loài này lá cứng và sắc như Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [10].
- Thành phần hoá học của thực vật:
Giá trị dinh dưỡng của các loài cây cỏ quan hệ mật thiết với thành phần hoá học của nó và với hàm lượng của các chất chứa trong chúng, đó là những chất rất cần thiết cho sự hoạt động bình thường của động vật, cũng như sự vắng mặt của các chất có hại đến sức khoẻ của động vật.
Thành phần hoá học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ tiêu đó là: vật chất khô (VCK), Protein, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về thành phần hoá học của một số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam. Kết quả được thể hiện ở bảng
1.5 (trang 16) [10].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô, Protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ tiêu Protein
được chú ý nhiều hơn cả.
Bảng 1.5: Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của một số loài cỏ chính
Tt
Tên khoa học
Tên Việt
Nam
%
nước
% Đạm TS
% Prôtêin
% đạm amin
%
lipit
% chất xơ
ĐVTA
1
Ischaemum indicum
Cỏ lông
76.7
1.954
7.86
1.379
1
8.8
0.19
2
Arundinella nepalensis
Cỏ xương
77.4
1.976
9.94
1.744
0.3
7.9
0.18
3
Cymbopogon caesius
Cỏ sả
70.4
2.306
9.61
1.686
1.9
9.3
0.25
4
Imperata cylindrica
Cỏ Tranh
74
1.945
9.747
1.71
1.1
8.8
0.25
5
Setaria viridis
Cỏ sâu róm
67.5
2.1
1.6
10.3
0.27
6
Chrysopogon aciculatus
Cỏ may
64.4
3.1
0.6
8.3
0.3
7
Digitaria longiflora
Cỏ chỉ
73.6
3.4
0.5
7.4
0.21
8
Digitaria decumbens
Pangôla
2.295
8.88
1.558
9
Paspalum urvillei
Mộc châu
2.6
10.48
1.839
0.1
10
Fimbristylis annua
Họ cói
0.979
4.288
0.747
Trong thực tế khi chăn thả bình thường giá trị thức ăn cao nhất trong thời gian đầu khi cỏ mọc nhanh ra nhiều lá mới, giá trị thức ăn giảm khi cỏ bắt đầu đâm bông và tiếp tục giảm khi cỏ càng già. Khi chăn thả liên tục theo những khoảng thời gian liên tiếp gần nhau, giá trị dinh dưỡng của cỏ có thể ở mức tương đối cao nhưng như vậy năng suất bị giảm nhiều.
1.2.6. Những nghiên cứu về động thái đồng cỏ
Nghiên cứu về động thái của quần xã tự nhiên đã được tiến hành từ lâu, nhiều nhà sinh thái học Đông Âu như Raunkier, Warning và Braun-Blanquet có chiều hướng coi đồng cỏ là một quần hợp tĩnh; theo Davies (1948) những “nhà sinh thái tĩnh” này đã coi các nhân tố khí hậu và thổ nhưỡng là cơ bản nhất, trên thực tế do ảnh hưởng của nhiều nhân tố sinh thái nên đồng cỏ luôn ở trạng thái thay đổi [14]. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu các tác giả chỉ đề cập đến từng phần riêng biệt. Phần trên mặt đất có các tác giả như: Kalininna (1954), Xemennova-Chian-Sanskia (1960), Xemennova- Chian Sanskia và Nhiconskaia (1960). Phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranopskaia (1954), Krưm (1960), Xemenop (1966), Kharitonop (1967),
Garwood (1968), Igonachenko, Kirillova và Ponhiatopskaia (1968), … [9].
Theo Larin I.V (1965) khi nghiên cứu động thái thảm thực vật đồng cỏ ở miền tây Cazacstan đã đưa ra 2 nhóm yếu tố làm thảm thực vật thay đổi là: động thái ngoài (do tác động bên ngoài gây nên mà chủ yếu là khí hậu và con người) và động thái trong (do tác động bên trong gây nên chủ yếu là giữa cây cỏ với nhau) [24].
Vưxosski G.N (1908, 1909, 1915) và Pachoski I.K (1917, 1921) khi nghiên cứu ảnh hưởng của sự chăn thả đến thảm thực vật đã đi đến kết luận: chăn thả gia súc là một trong những yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật trên diện tích lớn. Những thí nghiệm của Romaxep P.I (1934) và Lyupcaya A.F (1935) trên đồng cỏ ở Nga cho thấy chăn thả có ảnh hưởng trực tiếp đến đất, qua đất đến thảm thực vật [24].
Nghiên cứu về ảnh hưởng của việc cắt cỏ đến thành phần loài thực vật, Dmitriep (1948) cho thấy nếu nhiều năm cắt cỏ vào đúng thời gian ra hoa của cỏ sẽ làm thay đổi lớn thành phần loài thực vật trong đồng cỏ [24].
Dựa vào thời gian, khi nghiên cứu tác giả Lavrenco F.M (1938, 1940) đề nghị chia những biến đổi của thực vật đồng cỏ thành những thay đổi hàng năm và những thay đổi lâu năm. Đối với đồng cỏ chăn thả, những thay đổi ngắn hạn là quan trọng nhất [24]. Còn Sennhicop A.P (1941) đã phân chia động thái mùa của thảm thực vật thành 7 giai đoạn phát triển, nối liền với các thời kỳ ra hoa kết quả của một số cây nhất định.
Theo Hoàng Chung (1974), Uchekhin (1977) đã nghiên cứu biến động mùa của các quần xã và phân chia ra các kiểu thực vật theo phân bố không gian và thời gian. Tính chất quan trọng của các quần xã thực vật có quan hệ mật thiết với cấu trúc không gian và thời gian là năng suất. Đồng thời với nó là vấn đề tích luỹ và biến động của các thành phần trong sinh khối của thực vật thuộc thảo, đặc biệt là trong thảo nguyên đồng cỏ nó có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu không chỉ thảm thực vật mà trong quá trình mùn hoá, quá trình tích luỹ và phân huỷ các hợp chất hữu cơ [9].
Ngoài ra, đất đồng cỏ là một yếu tố quan trọng làm thay đổi thảm thực vật trong đồng cỏ. Ở đồng cỏ trên đất đầm lầy hay đất than bùn, khi đốt cỏ vào cuối mùa xuân, mùa hè và mùa thu thấy thảm cỏ cháy đến tận phần chất khoáng, do đó
đất càng bốc hơi mạnh và càng bị mặn [24].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về động thái đồng cỏ còn rất ít. Hoàng Chung (1980) đã nghiên cứu biến động mùa của quần xã cỏ vùng Bắc Việt Nam. Công trình nghiên cứu của ông được bắt đầu từ năm 1975 đã đề cập đến đầy đủ các chỉ tiêu về khí hậu, thổ nhưỡng, phần trên mặt đất và phần dưới mặt đất và đưa ra những kết luận, những qui luật của động thái đồng cỏ vùng Bắc Việt Nam [9].
1.2.7. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Trong thực tế hiện nay đồng cỏ luôn luôn bị thay đổi do tác động thường xuyên của con người, vì đồng cỏ đã và đang là đối tượng hoạt động kinh tế nông nghiệp của loài người. Làm sáng tỏ nguồn gốc của đồng cỏ và những quy luật biến đổi của nó do tác động của loài người, là điều kiện cần thiết làm cơ sở cho những biện pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau. Ở Liên Bang Nga đã tích luỹ khá nhiều tư liệu của đới thảo nguyên và bán sa mạc: G.I.Vusoxki (1915) đã xác định 4 giai đoạn thoái hoá của thực bì thảo nguyên dưới tác động của chăn thả. Patrôtxki (1917) nghiên cứu đới nam của thảo nguyên Stipa longifolia, ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác nhau. Nó bao gồm cả giai đoạn chăn thả hay không chăn thả được.
G.I.Popov (1931) khi nghiên cứu thảm thực vật trong đới phụ thảo nguyên Stipa, thuộc thảo nguyên nam Varonhet cho thấy các giai đoạn thoái hoá của thảm thực vật do chăn thả.
V.V. Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía Bắc) của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do chăn thả ở đây như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì stipa sẽ mất đi và thành phần hệ thực vật trở nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng cá thể không nhiều, thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên là Bromus. Sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát triển mạnh ở tầng trên là cây Bromus riparius, tầng thấp là Festuca đồng thời trong vùng đó biểu hiện hai tầng
rất rõ ràng; Bromus - Poa; cuối cùng chỉ còn lại Festuca, những sự chèn ép sau này của thảm Cỏ qua hàng loạt những trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật trên thảo nguyên” [10]. Cũng trong thời kỳ này, Gordiagin, Taliep, Keller đã nói rất nhiều về khả năng hình thành của thảm thực vật thảo nguyên đồng cỏ trên đất rừng bị chặt hạ hay đất trống.
B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái hoá của thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn đầu là sự chặt hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.
A.V.Abramtruk; P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái hoá của các quần xã cỏ do tác động của con người ông đã đề ra bảng thang bậc riêng gồm có
3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ thoái hoá do con người tạo ra (1 - ít; 2 - trung bình; 3 - nhiều).
Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dước tác động của yếu tố do con người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho nền kinh tế và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn đề này cho đến nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P; Taiton N.M và pleming G (1968); Dương Hữu Thời (1981); Hoàng Chung (1981, 1983)......
Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh. Đặc biệt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố chủ yếu ở vùng núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 - 400), nên vấn đề thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện nay của các nhà nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam.
Những nghiên cứu về sự thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam hiện nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề cập trong cuốn “Đồng cỏ Bắc Việt Nam” khi phân tích thành phần loài và các điều kiện sinh thái của đồng cỏ đã đề cập đến 2 nguyên nhân của sự thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam là do cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu.
Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng cỏ ở
vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả không có kế
hoạch trên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của thảm cỏ và đã đưa ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam như sau: “Những thay đổi đầu tiên của lớp phủ thực vật đã dẫn đến sự hình thành các quần xã cỏ ở đây, những thảm cỏ này dưới sự tác động thường xuyên nhưng không thật nặng nề của con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn tới hình thành loại hình đồng cỏ khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả nặng nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi phức tạp của thành phần loài ở từng quần xã, đó là sự thay đổi các loài đang mọc bằng những loài từ ngoài đi vào, loài bản địa bị thay thế bởi loài phổ biến rộng rãi, đồng thời đơn giản hoá cấu trúc quần xã, giảm bớt khoảng không phân bố của lớp phủ thực vật, giảm năng suất của nó.” Trên cơ sở đó đã chia qúa trình thoái hoá đồng cỏ do sử dụng thành 5 giai đoạn: Bắt đầu từ trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn hình thành savan cây bụi [10].
1.2.8. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Bắc Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ ngày càng được mở rộng có thể chiếm tới 1/3 diện tích lãnh thổ. Hiện nay, đồng cỏ được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn qủa, cây công nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn là mới mẻ, tài liệu còn qúa ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải rác ở
một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô, mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100-150 con, diện tích đồng cỏ là 50 - 80 ha.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý như: luân
phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc Việt Nam. Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này đã chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống (3 loại theo độ dốc).
Loại 1: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 0 - 70.
Loại 2: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 7 - 25 0.
Loại 3: đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25 - 300 trở lên.
Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp lý đồng cỏ ở
từng nhóm.
Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập đến 2 vấn đề lớn: cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua những nghiên cứu trên ông đề xuất một số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
Để phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong 2 hệ thống nuôi dưỡng: a) dựa vào thức ăn tinh (trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn tinh), và b) dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thỏa mãn bằng thức ăn thô) thì hệ thống b được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có khả năng phát triển đồng cỏ. ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi nhốt. ở úc, sản phẩm chăn thả tới 50% sản phẩm xuất khẩu, tỉ lệ này còn cao hơn: 90% ở Tân Tây lan [14]. Theo Davies (1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần một phần hai gia súc chăn thả, tạo ra một phần ba lượng thịt và một phần sáu sản lượng sữa trên thế giới [13] ...
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây âu mà đặc biệt là ở Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước kia ở Pháp (1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay tỷ số ấy đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [17].
Ở Anh các diên tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3 triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích này đã lên tới 51,9 triệu ha [14]. Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng, nhiều loài cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v … đã được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Lai tạo những giống cỏ mới có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao như Coastcross (Cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy, ... đây là thành tựu khoa học đáng kể để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.doc