Định hướng bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên đất Việt Nam

MỞ ĐẦU Để phục vụ cho công tác quy hoạch sử dụng Đất đai toàn quốc, các vùng kinh tế và tự nhiên. Chúng tôi xin giới thiệu tập tài liệu "Định hướng bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên đất Việt Nam". Tài liệu này được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý và chỉ đạo trong lĩnh vực Đất đai. Nhằm giúp cho việc quy hoạch sử dụng đất có cơ sở khoa học vững chắc phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Tập tài liệu bao gồm 5 phần: Phần I: Tài nguyên đất Việt Nam Phần II: Ảnh hưởng tác động của con người trong việc khai thác sử dụng tài nguyên đất Việt Nam. Hai phần trên lấy trong kết quả nghiên cứu khoa học của giáo sư tiến sỹ: Trần An Phong và các: - PGS Tiến sỹ: Vũ Năng Dũng - PGS Tiến sỹ: Tôn Thất Chiểu - PGS Tiến sỹ: Chu Văn Thỉnh - PGS Tiến sỹ: Nguyễn Khang Phần III: Hiện trạng sử dụng đất năm 2000 và tình hình biến động Đất đai trong các năm qua (1980-2000). Được soạn thảo của Viện Điều tra quy hoạch đất đai trên cơ sở tài liệu thống kê Đất đai 20 năm qua và số liệu kết quả điều tra đất năm 2000 và kết quả kiểm kê đất chưa sử dụng năm 2000 của Tổng cục Địa chính. Phần IV: Đánh giá đất Phần V: Định hướng và chủ trương lớn quy định chiến lược bảo vệ khai thác sử dụng tài nguyên đất hợp lý theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền ở Việt Nam. Hai phần này được tổng hợp trong tập kết nghiên cứu của các tác giả: GS.TS Trần An Khang và các cộng tác viên. Tập tài liệu này nhằm giới thiệu cho các cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các nhà hoạch định chiến lược sử dụng đất thấy rõ sự quan hệ hữu cơ giữa tính chất Đất đai theo thổ nhưỡng với việc sử dụng đất theo mặt không gian quan hệ giữa kinh tế - xã hội với quy hoạch sử dụng đất . Do điều kiện thời gian và tổng hợp chưa cập nhật nên số liệu phân tích chưa được đồng bộ. Chúng tôi mong muốn được sự đóng góp của các cơ quan. MỤC LỤC TÀI NGUYÊN ĐẤT VIỆT NAM LỚP PHỦ THỔ NHƯỠNG Nhóm đất bồi tụ Nhóm đất phát triển tại chỗ NHỮNG QUÁ TRÌNH THỔ NHƯỠNG ĐẶC TRƯNG VÀ CHỦ ĐẠO CHI PHỐI ĐỘ PHÌ NHIÊU CỦA ĐẤT TRONG ĐIỀU KIỆN NHIỆT ĐỚI ẨM VIỆT NAM Qúa trình xói mòn bề mặt và rửa trôi theo phẫu diện Những quá trình đặc trưng về sự thay đổi hóa tính đất Quá trình hình thành phức hệ hữu cơ đặc trưng cho điều kiện nhiệt đới ảm Việt Nam Quá trình hình thành đất hoàn chỉnh và sự nảy sinh các yếu tố hạn chế đứng hàng đầu MỐI LIÊN QUAN SỰ HÌNH THÀNH VÀ KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT ĐẾN CÁC TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN KHÁC Ở VIỆT NAM Liên quan đá mẹ và mẫu chất đến việc hình thành đất Mối liên quan hữu cơ giữa tài nguyên đất và nước Mối liên quan giữa tài nguyên đất và tài nguyên rừng Phân vùng địa lý thổ nhưỡng kinh tế và sinh thái nông nghiệp làm cơ sở cho việc bảo vệ và khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên đất Phân vùng địa lý thổ nhưỡng Việt Nam Phân vùng kinh tế nông nghiệp Việt Nam Phân vùng sinh thái nông nghiệp Việt Nam Định hướng phát triển trên cơ sở phân vùng địa lý thổ nhưỡng. Phân vùng kinh tế và phân vùng sinh thái nông nghiệp ẢNH HƯỞNG TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI TRONG VIỆC KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT VIỆT NAM NHỮNG PHƯƠNG THỨC SỬ DỤNG ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỘ PHÌ NHIÊU CỦA ĐẤT Ở VIỆT NAM PHƯƠNG THỨC SỬ DỤNG ĐẤT DỐC PHƯƠNG THỨC CANH TÁC LÚA NƯỚC TÁC ĐỘNG LÊN ĐẤT RỪNG ĐẤT TRỐNG ĐỒI NÚI TRỌC HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT NĂM 2000 VÀ TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI TRONG CÁC NĂM QUA (1980-200) HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG ĐẤT CẢ NƯỚC NĂM 2000 KẾT QUẢ TỔNG HỢP SỐ LIỆU ĐIỀU TRA, KỂM KÊ ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG NĂM 2000 (TÍNH ĐẾN 31/3/2001) THEO QUYẾT ĐỊNH SỐ 90/QD NGÀY 27/01/2000 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ) NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI TRONG 10 NĂM QUA (1980-2000) ĐÁNH GIÁ ĐẤT ĐAI NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG LỚN QUY ĐỊNH CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ, KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT HỢP LÝ THEO QUAN ĐIỂM SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN LÂU BỀN Ở VIỆT NAM.

doc167 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10229 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên đất Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấu và giảm trữ lượng tài nguyên ở nhiều nơi. Diễn biến lũ vùng đồng bằng sông Cửu Long là một thực tế về môi trường rộng lớn và lâu dài, đặc điểm sử dụng đất đai và nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác ở đây cũng đang phụ thuộc và thích ứng ở mức độ nhất định với diễn biến này. Xét từ góc độ khai thác sử dụng đất đai phải tiến hành lập quy hoạch sử dụng đất đai của các cấp để tạo cơ sở sử dụng hợp lý các diện tích đất bố trí khu dân cư, làm đường giao thông và các công trình thủy lợi. - Quá trình tích tụ đất đai nông nghiệp diễn ra khá mạnh so với nhiều vùng khác do đó số hộ có diện tích lớn vượt hạn điền khá phổ biến. Đây là diễn biến làm nền tảng cho nền nông nghiệp hàng hóa. Hiệu quả sử dụng đất cao. Tuy nhiên cũng sẽ phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Để giải quyết công ăn việc làm cho người ít ruộng hoặc không có ruộng cần thận trọng trên cơ sở kết hợp nhiều mặt cả về kinh tế, xã hội, chính trị và lịch sử để tránh làm phân tán đất đai và đề phòng gây mầm mống tái tăng tỷ lệ nghèo trong nông nghiệp. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa của cả nước cả hiện tại và tương lai lâu dài. Vì vậy vấn đề mang tính chiến lược cơ bản đối với vùng là phải có một hệ thống chính sách năng động thích hợp bảo hộ người trồng lúa theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp để có năng suất lao động cao, tạo ra thu nhập của người lao động không bị thấp thua nhiều vùng khác. PHẦN IV ĐÁNH GIÁ ĐẤT ĐAI Từ năm 1970, các nhà nghiên cứu thấy rằng cần có một nỗ lực quốc tế để đạt được sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa việc đánh giá đất đai. Do đó, có hai ủy ban nghiên cứu được thành lập ở Hà Lan và FAO (Rome, ý). Kết quả là một dự thảo đầu tiên ra đời (FAO, 1972), sau đó được Brinkman và Smith soạn lại và in ấn năm 1973. Năm 1975 tại Hội nghị tại Rome, những ý kiến đóng góp cho bản dự thảo năm 1973 đã được các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của Fao (K.J.Beek, F.Bennema, P.J. Mabiler, G.A.Robertson, A.Jsmith…) biên soạn lại để hình thành nội dung phương pháp đầu tiên của FAO về đánh giá đất đai (A Framework for Land Evanluation) công bố năm 1976, sau đó được chỉnh lý, bổ sung và hoàn chỉnh vào đầu năm 1998. Ở Việt Nam, “Đánh giá đất đai” phục vụ cho quy hoạch sử dụng đất và phát triển nông nghiệp bền vững (Land Evaluation For Land Use Planning and Sutsainable of Agriculture Development) trong 2 năm 1994 – 1995; 1. Đơn vị đất đai (Land Unit) Đất đai (Lan) theo định nghĩa của FAO là bao gồm tất cả những yếu tố của môi trường tự nhiên. Những yếu tố này ảnh hưởng đến tiềm năng sử dụng đất. Như vậy, đất đai không chỉ có lớp phủ thồ nhưỡng mà còn bao gồm cả những yếu tố có liên quan về địa chất, địa mạo, khí hậu, thủy văn, lớp phủ thực vật v.v…. Đơn vị đất đai được sử dụng là cơ sở cho đánh giá đất là thể tổng hợp của nhiều loại bản đồ được chồng ghép lên nhau như bản đồ đất (hoặc nhóm đất), bản đồ các đường đẳng trị mưa, tổng tích ôn, bản đồ ngập lụt thủy lợi và hiện trạng sử dụng đất. Kết quả xây dựng đơn vị bản đồ đất đai (Land Mapping Unit “LMU”) là có sự đồng nhất tương đối của các yếu tố tự nhiên và có sự phân biệt của một hoặc nhiều yếu tố tự nhiên so với các vùng lân cận. Các đơn vị đất đai được thể hiện trên bản đồ (LMU) là những vùng với những đặc tính và chất lượng đủ để tạo nên sự khác biệt với các đơn vị đất đai khác. Nhằm đảm bảo sự thích hợp của chúng với các loại sử dụng đất khác nhau, các đơn vị đất đai có thể được mô tả theo các đặc tính và chất lượng của chúng (xem sơ đồ đơn vị đất đai của toàn quốc và từng vùng). - Đặc tính đất đai là tính chất tương đối đơn giản có thể đo đếm được như mưa bình quân hàng năm, thành phân cơ giới khác biệt của đất…. - Còn chất lượng đất đai là tính chất phức hợp thông thường phản ánh mối quan hệ nội tại của rất nhiều đặc tính đất (như diện tích bị xói mòn hay bị ngập úng, khả năng giữ lại các chất dinh dưỡng….) 2. Các đơn vị đất đai trên các vùng sinh thái và toàn quốc Tùy thuộc vào từng vùng sinh thái nông nghiệp có các đặc điểm địa hình khí hậu thổ nhưỡng… phức tạp khác nhau mà mỗi vùng có số đơn vị đất đai cũng rất khác nhau, có thể phân thành 2 khối. - Khối có đặc điểm tự nhiên phức tạp: . Vùng Tây Bắc có 177 đơn vị đất đai . Vùng Duyên Hải Nam Trung bộ có 137 đơn vị đất đai .Vùng Việt Bắc – Hoàng liên sơn có 136 đơn vị đất đai . Vùng Đông Bắc có 133 đơn vị đất đai - Khối có đặc điểm tự nhiên ít phức tạp đơn vị đất đai . Vùng Duyên Hải Bắc trung bộ có 93 đơn vị đất đai . Vùng Tây Nguyên 72 đơn vị đất đai . Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 87 đơn vị đất đai . Vùng Đông Nam bộ 54 đơn vị đất đai . Vùng Đồng bằng sông Hồng 39 đơn vị đất đai Tổng . Sơ đồ: Miền Bắc Tỷ lệ 1/500.000 Vùng tỷ lệ 1/250.000 1. Tây Bắc 2. Đông Bắc 3. Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn 4. DH Bắc Trung bộ 5. ĐB Sông Hồng 6. DH Nam Trung bộ 7. Tây Nguyên 8. Đông Nam bộ 9. ĐB Sông Cửu Long Hợp Miền Bắc Tỷ lệ 1/500.000 Toàn quốc Tỷ lệ 1/500.000 Tổng Hợp Về nguyên tắc tổng hợp như đã trình bày ở sơ đồ trên. Dựa theo phương pháp tổ hợp các yếu tố đồng nhất từ các bản đồ tỷ lệ 1/250.000 ở mỗi vùng lên tỷ lệ bản đồ 1/50.000 toàn quốc cho thấy: - Sự đồng nhất các yếu tố tự nhiên như về lượng mưa, chế độ thủy văn, độ dốc, độ dày tầng đất mịn, loại hình thổ nhưỡng ở mỗi vùng nên khi tổ hợp lên cấp miền và toàn quốc, số các đơn vị đất đai trùng khớp giữa các vùng sẽ được loại bỏ cho nên tổng hợp ở miền Bắc chỉ còn 196 đơn vị đất đai ở 2 miền khi tổng hợp lên toàn quốc chỉ còn 373 đơn vị đất - Khi tổng hợp các đơn vị đất đai theo 13 nhóm đất chính toàn quốc. Sự đồng nhất một yếu tố thổ nhưỡng trong 9 vùng sinh thái càng thể hiện rõ hơn. Đơn cử như nhóm đất đỏ phát triển trên đá bazan ở Tây Nguyên, đất đỏ bazan ở Đông Nam bộ, đất đỏ bazan ở Vùng Duyên hải Bắc Trung bộ, đất đỏ bazan vùng Duyên hải Nam Trung bộ 2. Quy mô diện tích đơn vị đất đai trên các nhóm đất chính Việt Nam Quy mô khoanh đất được phân thành 8 nhóm, từ diện tích khoanh < 1000 ha có 27 đơn vị đất trong đó nhóm đất phù sa có 6 đơn vị, nhóm đất xám có 5 đơn vị, nhóm đất đỏ trên đá macma bazo và trung tính có 5 đơn vị đất - Ở khoanh từ 1.001 – 10.000 ha có tổng số 118 đơn vị đất chiếm nhiều nhất là nhóm đất đỏ trên đá mácma bazo trung tính là 27 đơn vị, thứ nhì là nhóm đất mùn đỏ trên núi có 10 đơn vị, thứ 3 là nhóm đất đỏ vàng khác có 16 đơn vị. Còn lại phân bố rải rác trong các nhóm khác - Ở khoanh đất từ 10.000 – 50.000 ha có tổng số 107 đơn vị đất. Nhóm đất chiếm nhiều nhất là nhóm đất đỏ vàng khác có 17 đơn vị đất - Ở khoanh đất từ 100000-200.000 ha có tổng số 40 đơn vị đất, tập trung nhiều ở nhóm đất đó là nhóm đất đỏ trên đá macma bazo, trung tính có 11 đơn vị đất, nhóm đất đỏ vàng khác có 9 đơn vị đất - Ở khoanh đất từ 200.000-400.000 ha có tổng số 24 đơn vị đất, tập trung nhiều ở nhóm đất đỏ vàng khác có 11 đơn vị đất, còn lại phân bố rải rác ở các nhóm đất khác - Ở khoanh đất từ 400.000-600.000 ha có tổng số 7 đơn vị đất, tập trung phân tập trung bố tập trung ở các nhóm đất đỏ trên macma bazo, trung tính, nhóm đất đỏ vàng khác - Ở khoanh đất trên 600.000 ha có tổng số là 12 đơn vị đất đai, tập trung nhiều nhất là nhóm đất đỏ vàng khác có 10 đơn vị đất đai 3. Đánh giá các loại hình sử dụng đất đai bền vững Năm 1991 ở Nairobi tổ chức hội thảo về “khung đánh giá việc quản trị đất đai bền vứng” (Framewok fof Evaluating Sustainable Land Management – FESLM) đã nêu ra 5 nguyên tắc chính là nền tảng cho việc sử dụng đất bền vững: - Duy trì nâng cao sản lượng (khả năng sản xuất – Productivity) - Giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất (an toàn – Security) - Bảo vệ tiềm năng tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa chất lượng đất đai (bảo vệ - Protection). - Có thể tồn tại về mặt kinh tế (khả năng thực hiện – Viability) - Có thể chấp nhận được về mặt xã hội (khả năng chấp nhận – Acceptability). Từ những nguyên tắc chung ở trên, ở Việt Nam một loại sử dụng đất được xem là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu: - Bền vững về mặt kinh tế, cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận - Bền vững về “sinh thái”, loại sử dụng bảo vệ được đất đai, ngăn chặn sự thoái hóa đất, bảo vệ được môi trường tự nhiên - Bền vững về mặt xã hội, thu hút được lao động đảm bảo đời sống xã hội được phát triển Các loại hiện trạng sử dụng đất hiện tại được xem xét và đánh giá theo 3 yêu cầu trên. Từ đó xác định được loại sử dụng nào bền vững và mức độ bền vững ở khía cạnh nào? Điều này là một căn cứ giúp cho việc định hướng phát triển nông nghiệp bền vững trên từng vùng sinh thái và toàn quốc. 4. Mức độ bền vững về kinh tế, sinh thái và xã hội Bao gồm các loại sử dụng: (1) Loại sử dụng trồng lúa 2-3 vụ: Có 51 đơn vị đất đai chiếm diện tích 2.575.170 ha, miền Bắc 1.171.904 ha, miền Nam 1.403.266 ha. Trong đó nhóm đất phù sa chiếm ưu thế. Việt nam có lịch sử dụng trồng lúa nước từ ngàn năm trước, “nền văn minh lúa nước sông Hồng” đã tích lũy nhiều kinh nghiệm qua nhiều thế hệ của các dân tộc ta. Đất được khai thác sử dụng lâu đời, hình thành tầng để cây giữ nước và các chất màu mỡ trong đất. Vùng lúa tập trung đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, nông dân đã đầu tư thâm canh thuần thục, năm suất lúa ngày càng tăng, từ chỗ 2,5 tấn/ ha (1975) bình quân trên 5 tấn / ha (1998). (2) Loại sử dụng lúa – màu: Có 59 đơn vị đất, chiếm diện tích 409.622 ha, miền Bắc có 321.751 ha, miền Nam có 87.871 ha, có loại hình 2 màu – 1 lúa hiện có ở vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn và Duyên hải Bắc Trung bộ nhưng tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng, phổ biến luân canh theo công thức: Lạc – thuốc lào – vụ xuân; hoặc Lúa mùa – Cây màu (cây lương thực và rau thực phẩm vụ đông). Nhưng đạt hiệu quả cao nhất là công thức luân canh Thuốc lào –Lúa mùa – Hành tây có tổng thu nhập 136 triệu, thu nhập thuần 82.3 triệu, hiệu quả đồng vốn 1,53 lần. Loại hình Lạc xuân – Lúa mùa – Ngô đồng tổng thu nhập 12,5 triệu, thu nhập thuần 3,1 triệu, hiệu quả đồng vốn 0,3 lần. Ngoài hiệu quả kinh tế như đã trình bày trên còn tận dụng được nguồn lao động ở nông thôn và trả lại cho đất một sinh khôi, thân, lá, rễ, của các loại cây họ đậu. (3) Loại hình sử dụng trồng cây lâu năm (cây công nghiệp dài ngày) Hiện nay có 62 đơn vị đất đai, chiếm 1.247.300 ha, miền Bắc có 212.934 ha, miền Nam 847.014 ha. Các loại cây công nghiệp dài ngày được trồng như cao su, cà phê, chè… Trong đó nhóm đất phát triển trên macma bazo trung tính chiếm ưu thế. (4) Loại hình sử dụng đất trồng cây ăn quả Có 30 đơn vị đất chiếm 187.249 ha, miền Nam 169.360 ha. Kết quả phân tích hiệu quả kinh tế ở một số loại hình sử dụng đất sau: Cam Quýt: Tập trung ở Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long đều cho giá trị sản lượng cao, từ 58,9 triệu đồng đền 64 triệu đồng. Thu nhập thuần từ 33,9 triệu đồng đến 56,7 triệu đồng, hiệu quả đồng vốn từ 1,4 lần đến 7,6 lần. (5) Đất rừng Có 166 đơn vị đất đai, chiếm 9.538.275 ha, miền Bắc có 3.821.626 ha, miền Nam có 5.716.646 ha, diện tích loại hiện trạng đất rừng so với những năm trước đã giảm sút quá nhiều. Theo số liệu thống kê diện tích rừng 1943 chiếm 48% tổng số diện tích tự nhiên, sau 45 năm (1990) chỉ còn 28% diện tích tự nhiên. Hiện nay diện tích rừng còn 9 triệu ha bao gồm các loại rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, rừng trồng. Tất cả cần được duy trì và bảo vệ những nguồn gen quý hiến của các loại cây rừng và muông thú vùng nhiệt đới ẩm. Bảo vệ được rừng là bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ được môi trường. Những năm gần đây nhiều trận lũ lụt và cái giá phải trả cho việc đốt phá rừng bừa bãi (bảng 21). Bảng 21: Diễn biến độ phì nhiêu của đất rừng Chỉ tiêu phân tích Số liệu điều tra 12/1994 Rừng giá trị 40 năm Rừng tạp 40 năm Rừng tạp 10 năm I. Thổ nhưỡng 1. Tên đất Bazan Bazan Bazan 2. Độ dày > 1m > 1m > 1m 3.Đặc điểm vật lý - Thành phần cơ giới - Độ xốp Chai cứng Xốp Xốp 4. Tính chất nông hóa - pHkcl 4,87 4,75 4,75 - Hữu cơ% 3,15 4,02 5,79 - N % 0,19 0,21 0,23 - P205 tổng số (%) 0,16 0,14 0,26 - K20 0,05 0,05 0,05 - P205 dt (mg/100g đất) 3,75 2,00 3,75 - K20 dt (mg/100g đất) 21,25 13,25 7,25 - Ca2+(meq/100 g đất) 3,2 3,6 2,4 - Mg2+ (meq/100 g đất) 4,4 2,8 3,2 II. Địa hình - Cao trình Độ dốc Đánh giá hệ thống sử dụng không bền vững về kinh tế Bao gồm loại sử dụng trồng lúa một vụ (lúa chiêm, lúa mùa) - Lúa chiêm có 31 đơn vị đất đai chiếm diện tích 332.393 ha - Lúa mùa có 114 đơn vị đất đai, chiếm sử dụng 1.132.635 ha Loại sử dụng này chưa tận dụng được đất đai, hệ số sử dụng đất thấp, giá trị sản lượng cây trồng hạn chế, thu nhập thuần thấp, hiệu quả đồng vốn <1 lần. Loại sử dụng này thường trên chân đất hơi cao, đất khó được tưới, đất thường có tầng kết von hoặc ở địa hình quá trũng, đất bí và bị gley mạnh, về mặt kinh tế những loại hình này thường rất bấp bênh, độ phì ngày càng bị giảm sút (bảng 22). 6. Loại sử dụng không bền vững về môi trường Loại cây trồng cạn ngắn ngày. Toàn quốc có 134 đơn vị đất đai chiếm diện tích 1.503.803 ha, miền bắc 663.470 ha, miền Nam 840.333 ha. Tập trung ở một số nhóm đất chính: đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ trên đá và trung tính và nhóm đất đỏ vàng khác. Loại sử dụng chủ yếu là nhờ nước trời. Do địa hình cao, dốc, thoát nước, không có khả năng tưới. Đất trở nên khô hơn, dễ bị rửa trôi, xói mòn hơn. Tầng đất trung bình, hàm lượng sét tầng mặt thấp hơn các tầng sâu: Môi trường đất bị phá hủy nghiêm trọng: - Hàm lượng chất hữu cơ (tầng mặt) chỉ còn xấp xỉ 1% Độ nồng bazơ (tầng mặt) <60% - pHkcl từ 4-4,5 Kết quả trên chỉ rõ do canh tác cây trồng cạn, sau khi thu hoạch đất bị phơi trong điều kiện không được che phủ tạo điều kiện mưa, gió rửa trôi xói mòn dễ dàng. Với loại hình này cần nghiên cứu chuyển vụ, thay đổi cơ cấu cây trồng hợp lý mới mong chống chọi được với điều kiện nhiệt đới ẩm, có mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Về hiệu quả kinh tế nhìn chung giá trị sản lượng thấp, thu nhập thuần không cao và hiệu quả đồng vốn thấp. Chỉ riêng loại hình lúa rẫy – ngô có giá trị sản lượng thấp, thu nhập thuần cao và hiệu quả đồng vốn cao tăng 8,4 lần. Nhưng thực chất do đầu tư thấp, canh tác kiểu bóc lột, do vậy chỉ trong thời gian ngắn đất sẽ trở nên thoái hóa mạnh. Bảng 22: Diễn biến độ phì đất sau một số năm Trồng các loại cây khác nhau (điểm Krong Buk) Chỉ tiêu phân tích Số liệu điều tra năm Số liệu điều tra năm Cà phê 25 tuổi Cà phê 8 tuổi Lúa rẫy 6 năm Đậu – lúa (14 năm liền) I. Thổ nhưỡng 1. Tên đất Bazan Bazan Bazan Bazan 2. Độ dày > 1m > 1m > 1m > 1m 3.Đặc điểm vật lý - Thành phần cơ giới Tơi xốp Tơi xốp Chặt, chai cứng Chai cứng - Độ xốp 4. Tính chất nông hóa - pHkcl 4,75 5,15 5,10 4,75 - Hữu cơ % 3,75 2,75 2,66 2,87 - N % 0,19 0,18 0,14 0,12 - P205 tổng số (%) 0,16 0,16 0,16 0,17 - K20 0,03 0,03 0,03 0,06 - P205 dt (mg/100g đất) 3,50 3,00 1,25 1,00 - K20 dt (mg/100g đất) 32,50 19,25 2,50 5,25 - Ca2+(meq/100 g đất) 1,60 3,20 1,80 1,60 - Mg2+ (meq/100 g đất) 1,60 2,40 1,00 0,40 II. Địa hình Dốc 3 - 50 Dốc 3 - 80 - Cao trình Độ dốc Bằng phẳng 7. Phân hạng thích nghi đất đai Sau công đoạn xác định các đơn vị đất đai, lựa chọn và xác định các yêu cầu của các loại hình sử dụng đất đai là công đoạn phân hạng mức độ thích nghi của tất cả các đơn vị đất đai ở từng loại sử dụng đất đai đã chọn. Phân hàng là công việc đối chiếu so sánh giữa các yêu cầu của loại hình sử dụng đất đai với các tính chất, đặc điểm của đơn vị đất đai để xác định mức độ thích nghi hoặc ngược lại là mức độ hạn chế. 8. Về cấu trúc phân hạng Như phần tổng quan đã nêu, cấu trúc phân hạng tùy thuộc tỷ lệ bản đồ, tức là mức độ chi tiết trong điều tra, đánh giá ở mức bản đồ tỷ lệ lớn có thể phân hạng tới đơn vị đất thích hợp (Units). Với bản đồ tỷ lệ trung bình, có thể phân hạng phụ (Subclass), với bản đồ tỷ lệ nhỏ thông thường phân tới hạng (Class). - Theo hướng dẫn của FAO, bậc thích nghi của đất đai được phân thành ba hạng: + S1: Rất thích nghi (Hightly siutable): đất đai không thể hiện những hạn chế hoặc chỉ thể hiện những hạn chế ở mức độ nhẹ rất dễ khắc phục, sản xuất trên đất này sẽ dễ dàng, cho năng suất và hiệu quả cao + S2: Thích nghi trung bình (Moderately suitable): đất đai có thể thể hiện các hạn chế nhưng ở mức độ trung bình, có thể khắc phục được bằng các biện pháp kỹ thuật hoặc tăng mức đầu tư, sản xuất trên đất này cho năng suất và sản lượng khá cao. Nếu cải tạo tốt, một số diện tích đất hạng S2 có thể nâng lên hạng S1 + S3: Ít thích nghi (Marginally suitable): Là các vùng đất có nhiều hạn chế hoặc một số hạn chế nghiêm trọng khó khắc phục (ví dụ: Độ dốc cao, tầng đất mỏng hoặc đá lộ đầu nhiều….). Nhưng những hạn chế đó không làm ta phải từ bỏ loại sử dụng đã định, sản xuất tuy khó khăn, chi phí nhiều nhưng vẫn đảm bảo có lãi. Đây là hạng đất khó khăn, chi phí nhiều nhưng vẫn đảm bảo có lãi. Đâu là hạng đất để khai thác, sử dụng sau cùng; nếu cần thì chuyển đổi loại sử dụng. - Bậc không thích nghi được hình thành 2 hạng: + Bậc không thích nghi hiện tại (Curently not suitable): đất không thích nghi với loại sử dụng đất dự kiến trong điều kiện hiện tại vì có giới hạn rất nghiêm trọng. Nhưng giới hạn đó có thể chuyển đổi được bằng cải tạo lớn trong tương lai để trở thành thích nghi: Ví dụ: hiện tại đất không thích nghi với trồng hai vụ lúa nước vì không có tưới, nhưng khi xây dựng được hệ thống thủy lợi, cung cấp đủ nước tưới thì đất trở thành thích nghi, thậm chí rất thích nghi + N2: Không thích nghi vĩnh viễn (permanently not suitable) đất và không thích nghi với loại sử dụng dự kiến cả trong điều kiện hiện tại và tương lai vì có giới hạn rất nghiêm ngặt không thể khắc phục được nếu sản xuất sẽ không có hiệu quả hoặc gây hại tới môi trường sinh thái. Ví dụ độ dốc quá cao, gây xói mòn nghiêm trọng. - Ngoài ra còn: + Sc: Thích nghi có điều kiện (conditionally suitable): chỉ áp dụng với quy mô hẹp bằng các yếu cầu cải tạo nhỏ + Nr: Không liên quan (notrelebvant): loại trừ các vùng đất đai không thuộc mục tiêu đánh giá. Ví dụ: loại trừ đất có rừng, đất thổ cư, chuyên dùng, núi đá…. Trong đánh giá đất nông nghiệp 9. Về phương pháp xác định hạng Cho đến nay có nhiều cách xác định hạng, theo tổng kết và hướng dẫn của FAO (Bulletin N0 52) có 4 cách phân hạng phổ biến có thể vận dụng là: - Phân hạng chủ quan: Phương pháp này được thực hiện bởi các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết rất rõ về đất đai và cây trồng ở một vùng nào đó. Thuận lợi là nhanh sát thực tế nhưng hạn chế là khó thuyết phục và ít người làm được. - Phân hạng theo điều kiện giới hạn: Hạng thích nghi được xác định với đơn vị đất đai có bất kỳ yếu tố nào có giới hạn cao nhất (mức độ thích nghi thấp nhất). Thuận lợi là đơn giản, có logic và thận trọng tuân theo quy luật tối thiểu trong sinh học. Hạn chế: sẽ nảy sinh tính máy móc, không giải thích được mối tác động qua lại của các yếu tố. Vì vậy, phải xác định và điều chỉnh chuẩn xác các chỉ tiêu ở công đoạn trên. Phương pháp số học, phương pháp tham số hoặc phương pháp mô hình toán học. Là phương pháp thực hiện bằng các cách tính cộng, tính nhân, tính theo phần trăm hoặc cho điểm với các hệ số và thang bậc quy định. Ví dụ: đất tốt nhất được tính 100 điểm hoặc 100%, đất xấu hơn được xếp theo bậc giảm dần: 80, 60, 40, 20… điểm hoặc %. Phương pháp này dễ hiểu, dễ phân biệt và dễ dàng thực hiện bởi sự hỗ trợ của máy tính, nhưng vẫn mang tính chủ quan khi sắp xếp thang bậc và không áp dụng được từ địa phương này sang địa phương khác. Bởi vì đôi khi đất tốt nhất của vùng này cũng chỉ như hạng 2 của vùng khác. - Phương pháp làm mẫu. 10. Đối tượng và phân hạng đất đai Đối tượng đánh giá phân hạng: toàn bộ đất đai đang sử dụng vào nông nghiệp và diện tích có khả năng khai thác trên đất trống đồi núi trọc để phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nông kết hợp. Phần diện tích có khả năng mở rộng này đã được tính theo hệ số sử dụng để quy đổi ra diện tích canh tác (diện tích cây đứng). Nguồn số liệu tính theo: thống kê diện tích đất đai vào năm 1993 của Tổng cục Quản lý ruộng đất và kết quả điều tra, đánh giá các giải pháp cải tạo, sử dụng đất trống đồi núi trọc ở nước ta năm 1995 của Viện quy hoạch và Thiết kết nông nghiệp, loại trừ đất có rừng, đất chuyên dùng, thổ cư, sông suối, hồ đầm và núi đá. Đối tượng để phân hạng mức độ thích nghi cho các loại sử dụng đất đai chính thuộc phần nông nghiệp. (1) Đất trồng lúa Đây là loại sử dụng đất trồng lúa có tưới hoặc nhờ mưa Ngoài ra có thể tăng thêm một vụ: cây trồng cạn (ở địa hình cao) hoặc nuôi cá (ở địa hình thấp). Các loại sử dụng đất chi tiết thuộc sử dụng đất trồng lúa gồm có: - 3 vụ lúa mùa: lúa đông xuân – lúa hè thu – lúa thu đông (lúa mùa) - 2 vụ lúa: Lúa đông xuân – lúa mùa Lúa đông xuân – lúa hè thu Lúa hè thu – lúa mùa - 2 vụ lúa + 1 vụ cây trồng cạn Lúa đông xuân – lúa mùa sớm – màu vụ đông Lúa đông xuân – màu xuân hè – lúa mùa Lúa hè thu – lúa thu đông – màu đông xuân - 2 vụ lúa + 1 vụ cá: lúa đông xuân – lúa hè thu – cá – 1 vụ lúa + 1 vụ cá Lúa chiêm xuân – cá vụ xuân Lúa mùa – cá Lúa mùa – tôm Lúa mùa – khoai lang (ngô đông – lạc (thuộc lá) xuân Lúa hè thu – màu đông xuân (2) Mùa và cây công nghiệp ngắn ngày Bao gồm các loại: hoa màu lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, rau, dưa, đậu đỗ thực phẩm…. loại sử dụng đất đai này được áp dụng chủ yếu ở các vùng không có tưới, kể cả đất vùng bằng và đất đồi núi.Thuộc các vùng có tưới đều là các vùng tập trung chuyên canh, đầu tư, thâm canh cao. Cây lâu năm Bao gồm tổng hợp tất cả các loại: cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, cây dược liệu như cao su, chè, cà phê, tiêu, dâu tằm, điều, dừa, nhãn, vải, quế, hồi… Đồng cỏ Nông, lâm kết hợp Chuyên nuôi trồng thủy sản Nguyên tắc xác định hạng: theo điều kiện giới hạn Hạng đất được phân theo 4 mức độ thích nghi - S1: Rất thích nghi - S2: Thích nghi - S3: Ít thích nghi - N: Không thích nghi Bảng 23: Đề xuất sử dụng đất nông nghiệp đến 2010 TT Loại sử dụng đất đai Diện tích Tỷ lệ % Mức độ thích nghi S1 S2 S3 1 Đất ruộng lúa, lúa màu 4.341,2 42,91 1.887,8 1.827,0 625,4 Trong đó 1 4.231,4 1.876,6 1.798,2 537,6 2 127,8 11,2 22,8 87,8 2. Màu và cây CNNN 1.911,5 719,02 408,0 1.051,3 452,2 Trong đó 1 1.549,5 369,6 807,6 372,3 2 362,0 138,3 143,7 80,0 3 Cây CN lâu năm và cây AQ 3.051,31 30,36 1.031,9 1.309,5 889,3 Trong đó 1 1.665,89 833,7 525,3 306,8 2 231,84 120,6 100,9 10,24 4 Đồng cỏ 296,48 2,94 156,1 117,9 22,44 Trong đó 1 64,84 35,5 17,0 12,2 2 231,84 120,6 100,9 10,24 5 Nuôi trồng thủy sản 448,25 4,46 Trong đó 1 336,36 2 111,89 6 Tổng diện tích đất NN 2010 10.048,65 100,00 3.214,13 4.305,8 2.259,05 32,6% 42,84% 22,49% Trong đó 1 8.416,63 83,75 3.113,52 3.148,1 2.155,03 100% 36,62% 37,40% 26,45% 2 1.632,02 16,25 468,30 1.057,4 106,7 100% 28,66% 64,76% 6,96% Ghi chú: 7.505 ngàn ha đất đồi núi chưa sử dụng, trong đó đề xuất này đã đưa vào đất nông nghiệp hơn 1 triệu ha, còn lại hơn 6 triệu ha có khả năng đưa vào sản xuất nông, lâm kết hợp 10% (600 ngàn ha). 1: Hiện trạng sử dụng đất đai (số liệu Tổng Cục địa chính 1998) 2: Diện tích đề xuất sử dụng đất cho nông nghiệp từ nay đến 2010 - S1: Rất thích nghi - S2: Thích nghi trung bình - S3: Ít thích nghi (cần được đầu tư cải tạo) 5.3. Những việc cần phải làm từ nay đến 2010 (Qua kết quả đánh giá đất phục vụ cho quy hoạch sử dụng đất và phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta). 1. Bảo vệ tốt 4 triệu ha rừng phòng hộ hiện có, tổ chức gây trồng rừng có hiệu quả 5 triệu ha. 2. Phát triển cây công nghiệp cây ăn quả, trên cơ sở phát huy lợi thế các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất, nước và lao động. Tiềm năng đất đai phát triển cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả từ nay đến năm 2010 có tới 3.051 ngàn ha. Đến năm 1998 đã có 1.665,8 ngàn ha, trong đó diện tích cây công nghiệp có giá trị hàng hóa xuất khẩu như cà phê, cao su, chè. Hồ tiêu, điều gần 1 triệu ha; 438,4 ngàn ha cây ăn quả các loại. Trong lúc đó chúng ta còn có 586 ngàn ha vườn tạp và đất có khả năng mở rộng diện tích trồng cây ăn quả và cây công nghiệp dài ngày 800 ngàn ha từ nay đến 2010. 3. Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia - Sử dụng tài nguyên đất hợp lý với 4.341 ngàn ha. Hiện nay (1998) đã có 4.213 ngàn ha đất ruộng lúa, lúa màu, trong đó vẫn còn 625 ngàn ha đất (S3) đất ít thích nghi cần được đầu tư cải tạo về “phèn, mặn và thiếu nước ngọt mùa khô”. - Diện tích cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả (3.051 ngàn ha) trong đó có 889,3 ngàn ha (S3) ít thích hợp, nguyên nhân chính là thiếu nước tưới trong mùa khô. Muốn đảm bảo được các mục tiêu phát triển một nền nông nghiệp bền vững: - Tạo một điều kiện thuận lợi về đất đai (giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất) để người nông dân dễ dàng chuyển sang trồng cây có thị trường, có khả năng cạnh tranh cao và có giá trị hàng hóa nhất là quan tâm đầu tư cho nông dân chuyển trên 500 ngàn ha vườn tạp sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế, chọn tạo và phổ biến nhanh cho nông dân các giống cây trồng có năng suất và chất lượng cao phù hợp với điều kiện ở từng vùng sinh thái. - Chú trọng đầu tư phát triển thủy lợi phục vụ tưới tiêu cho các loại cây công nghiệp rau quả; đường giao thông và các kết cấu hạ tầng phục vụ việc hình thành các vùng sản xuất tập trung gắn với chế biến công nghiệp - Tăng cường cung cấp tín dụng thông tin khoa học – kỹ thuật và thị trường cho nông dân và các doanh nghiệp - Các cây trồng hàng hóa xuất khẩu múi nhọn ở từng vùng sinh thái bao gồm: Vùng Tây bắc, Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn và vùng Đông Bắc: chè, cà phê, cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới (cam quýt, nhãn vải, bưởi, mận, đào, hồng chuối). Đồng bằng sông Hồng: rau, hoa và cây cảnh Bắc Khu 4, cây ăn quả có múi, hồ tiêu, cà phê, chè và cây lạc Duyên Hải Nam trung bộ: Điều, ca cao, hồ tiêu, cây ăn quả đặc sản (thanh long, xoài…) Tây nguyên: cà phê, cao su, hồ tiêu, rau, hoa và chè Đông Nam bộ: cao su, cà phê, điều và cây ăn quả nhiệt đới (sầu riêng), rau, hoa và cây cảnh Đồng bằng sông Cửu Long: lúa gạo, cây ăn quả nhiệt đới (cam, quýt, nhãn, xoài, sầu riêng, măng cụt, chôm chôm..) PHẦN V NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ ĐỊNH HƯỚNG VÀ CHỦ TRƯƠNG LỚN QUY ĐỊNH CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ, KHAI THÁC SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN ĐẤT HỢP LÝ THEO QUAN ĐIỂM SINH THÁI VÀ PHÁT TRIỂN LÂU BỀN Ở VIỆT NAM Những quan điểm quan trọng cần đặc biệt quan tâm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới này là: “Quan điểm đầu tư chiều sâu vào đất là quan điểm mang tính chất trung tâm của chiến lược sử dụng đất hợp lý. Đầu tư chiều sâu vào tài nguyên rừng đồng thời thực hiện phương thức canh tác nông lâm kết hợp và những quan điểm về kinh tế - xã hội cần được giải quyết đảm bảo cho sự thành công của mọi chiến lược sử dụng đất và phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam. Ở nước ta, những phương thức sử dụng đất không hợp lý, cùng với các quá trình thổ nhưỡng đặc trưng do tác động con người và các yếu tố vũ trụ đã làm cho đất Việt Nam đang trong quá trình thoái hóa, với các loại hình (các kiểu) sau đây: - Thoái hóa do xói mòn và rửa trôi - Thoái hóa do nhiễm phèn và nhiễm mặn - Thoái hóa do bón phân không hợp lý, không cân đối - Thoái hóa do sự phát triển đô thị, do phế thải công nghiệp, do xây dựng không có quy hoạch - Thoái hóa do gió tạo thành những đụn cát, cồn cát làm cho đất mất khả năng trồng trọt Bởi vậy, muốn tạo lập một nền nông nghiệp bền vững theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền phải nhận thức và tổ chức thực hiện có kết quả rõ ràng việc sử dụng đất hợp lý, bảo vệ và bồi dưỡng đất xem đó là một bộ phận quan trọng hợp thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. 1. Giới hạn nội dung khái niệm “sinh thái” khi đề cập tới định hướng chiến lược bảo vệ khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên đất Việt Nam. Để tiếp cận “sinh thái học” có nhiều lý luận kinh điển khác nhau, đặc biệt lý luận về các hệ, tương ứng với cấu trúc và cơ chế của các nhân tố hợp thành bằng hàng loạt sơ đồ mô hình hóa…. Các vấn đề này đang được tranh luận, đợi chờ và phải được phán xét về mặt thực tiễn. Chúng ta tôn trọng tất cả các định nghĩa, giới thuyết, khái niệm ấy và mong đợi sự tiếp cận sinh thái ngày càng được hoàn chỉnh đúng với tầm vóc của nó. Trong phạm vi đề tài này, chúng ta cần có phương pháp luận thích hợp khi tiếp cận khái niệm “sinh thái và phát triển lâu bền”. Theo chúng tôi, khái niệm “sinh thái” được dùng trong phạm vi đề tài phải được sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất chiếm lược sử dụng đất hợp lý là các quan điểm lớn, các chủ trương lớn và các biện pháp thực hiện có hiệu lực thực sự. Bằng trực quan của mình khi xem xét hiện trạng môi trường ở nước ta cũng như những thông tin đáng tin cậy của nhiều nước trên thế giới, chúng ta đã dễ dàng thống nhất về “cuộc khủng hoàng môi trường”, “cuộc khủng hoảng sinh thái” đang đe dọa chúng ta với một hậu quả tàn khốc cho nhiều thế hệ kể cả ngày nay lẫn mai sau, vô luận đối với nhóm nước đã phát triển hay đang phát triển. Mặt khác, với những kinh nghiệm thâm canh độc đáo của tổ tiên ta trong trồng trọt mà hệ quả là ở nhiều nơi đất trồng càng ngày càng trở nên thuần thục song song với việc tạo lập khá thành công một môi trường sống văn minh có khả năng cải thiện sức khỏe và nâng cao tuổi thọ của con người mặc dầu đất đai đã qua một quá trình khai thác hàng nghìn năm cũng như việc áp dụng những thành tựu diệu kỳ của nền khoa học và công nghệ hiện đại, loài người vẫn có niềm tin với đầy đủ cơ sở về khả năng ngăn chặn sử hủy hoại tiếp tục đối với môi trường và dần dần khôi phục lại sự trong lành vốn có của môi trường đúng với tính thống nhất của tự nhiên. Môi trường một mặt là nhân tố không gian để tiến hành quá trình sản xuất, mặt khác là nguồn cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho phát triển sản xuất, Đất trồng là một nhân tố quan trọng hợp thành môi trường, đồng thời trong nhiều trường hợp lại là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển hay hủy diệt các nhân tố khác của môi trường. Thuộc tính cơ bản và quan trọng của đất trồng là khả năng cung cấp một năng suất cây trồng hoặc vật nuôi để thỏa mãn các nhu cầu của con người và gia súc. Đo chính là độ phì nhiêu của đất. Khái niệm “độ phì nhiêu” cùng với quá trình phát triển của nhận thức được phân tích ngày càng đầy đủ hơn phong phú hơn, chuẩn xác hơn. Đó là một hệ thống động có mối quan hệ hữu cơ với các nhân tố vũ trụ (nhân tố phí sinh học) và các nhân tố sinh học chứa đựng bên trong và cả bên ngoài môi trường đất. Trong điều kiện một độ phì nhiêu tự nhiên có tính đến quá trình thổ nhưỡng sinh học, với tác động phù hợp quy luật của con người và đất thông qua việc bón phân và các phương pháp làm đất với cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định, với loại hình kinh tế thích hợp vùng với phương thức và trình độ quản lý tốt nhất, đất trồng có thể sản xuất một số lượng nông sản lớn với chất lượng cao về dinh dưỡng, chứa không đáng kể các độc tố và độ phì nhiêu ấy luôn luôn được ổn định lâu bền. Độ phì nhiêu thực tế. 2. Đầu tư theo chiều sâu vào đất Với những nội dung đã trình bày ở trên, có thể nói chiến lược phát triển nông nghiệp không thể tách rời chiến lược đất đai và môi trường và “sử dụng đất hợp lý, bảo vệ, bồi dưỡng đất và bảo về môi trường” thực sự phải là bộ phận hợp thành của chiến lược nông nghiệp của nước ta. Nói cách khác chiến lược ấy phải là một mặt dựa vào sinh thái, mặt khác bảo vệ và hồi phục các hệ sinh thái có nguy cơ mai một, nhằm mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp phát triển lâu bền và phải được thể hiện bằng những quan điểm, nội dung và chủ trương lớn dưới đây: 2.1. Đầu tư theo chiều sâu vào đất là quan điểm mang tính chất trung tâm của chiến lược sử dụng hợp lý tài nguyên đất ở Việt Nam Thật vậy, đầu tư theo chiều sâu là con đường duy nhất đúng để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Những điển hình tốt về giải quyết lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu thực sự đem lại lợi nhuận cho người sản xuất thời gian qua đều là những cơ sở sản xuất có chủ trương đúng và đặc biệt là thực hiện có hiệu lực quan điểm chỉ đạo này. Điều cần phải nhấn mạnh là về nhận thức, quan điểm này rất dễ thống nhất như vì nhiều nguyên nhân khác nhau lại chậm được thể hiện trong hoạt động thực tiễn. Có thể thấy ngay rằng, trong quá trình sản xuất nông nghiệp, gần như tất cả các nông sản thu được, kể cả trong chăn nuôi đều phải thông qua đất. Chính vì vậy cần phải xác định mối quan hệ giữa đất với đầu tư theo chiều sâu, xem đó là điều kiện kiên quyết để thực hiện đầu tư theo chiều sâu đạt hiệu quả cao nhất về nhiều mặt. (1) Đầu tư theo chiều sâu vào đất trồng trọt phải đạt ba mục tiêu chủ yếu sau đây: - Nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng nông sản về mặt hàm lượng chất dinh dưỡng đặc trưng về hàm lượng các độc tố, lấy giá trị của sản lượng tính bằng tiền làm thước đo chứ không câu nệ về số lượng nông sản. - Nâng cao chất lượng ổn định lâu dài độ phì nhiêu thực tế của đất để tiếp tục thu được những năng suất cao hơn cùng một lúc với sự gia tăng về chất lượng. Tận dụng mối quan hệ tương hỗ giữa đất với các yếu tố vũ trụ và các yếu tố sinh học để phát huy cao độ ưu thế của độ phì nhiêu thực tế ngay cả đối với những đất có độ phì nhiêu tự nhiên còn thấp. - Nâng cao hiệu quả kinh tế của việc đầu tư trước mắt cũng như lâu dài. Nói cách khác, đầu tư theo chiều sâu vào đất phải đem lại lợi nhuận càng ngày càng cao cho người sản xuất. Các mục tiêu nói trên phù hợp với kinh tế thị trường, phù hợp với một nền sản xuất hàng hóa, không hề đối lập giá trị với giá trị sử dụng và có tác dụng to lớn về mặt xã hội trong việc khắc phục tâm lý muốn rời bỏ nông thôn để ra thành thị kiếm sống do thu nhập từ sản xuất nông nghiệp quá thấp so với các ngành nghề khác. Ba mục tiêu nói trên hợp thành một chỉnh thể có tác động qua lại khá rõ ràng. Đáng tiếc, hai mục tiêu sau, trong thời gian qua chúng ta còn xem nhẹ. Nếu đầu tư theo chiều sâu vào đất là quan điểm trung tâm của chiến lược đất là đúng, nếu ba mục tiêu của đầu tư theo chiều sâu vừa nói ở trên là chuẩn xác thì nội dụng và chủ trương thể hiện quan điểm nói trên phải là: (2) Xem xét lại cơ cấu sử dụng đất trong cả nước và trên từng vùng lãnh thổ theo hai nguyên tắc: Một là: dựa vào hiện trạng sinh thái, lấy độ phì nhiêu thực tế làm trung tâm có tính đến những tác động tích cực của con người tới việc tạo lập những khía cạnh ưu việt mới của sinh thái nhờ những tiến bộ kỹ thuật do quá trình nghiên cứu nghiêm túc mang lại cùng với loại hình kinh tế phù hợp với các khía cạnh ưu việt đó (nhờ kinh tế vường, một số cây trồng đã phát triển tốt, cho lợi nhuận cao mặc dầu về lý thuyết không thể vượt qua vĩ tuyến đã được xác định). Hai là, bất kỳ ở đâu và bất cứ lúc nào, « đầu tư theo chiều sâu » phải được quán triệt trong các chủ trương, biện pháp đối với tất cả các đối tượng cây trồng và vùng đất. Trên cơ sở quy vùng, quy hoạch cây trồng và vật nuôi dựa trên hai nguyên tắc nói trên, cần thỏa mãn tới mức tối đa quyền sử dụng đất cho người lao động (thời gian có thể dài hơn so với các quy định hiện hành) khuyến khích và có chế độ ưu đãi đối với các địa bàn đầu tư theo chiều sâu đã đạt 3 mục tiêu vừa nói ở trên. Tất cả mọi cơ sở sản xuất, mọi ngành sản xuất, mọi địa phương đều phải thực hiện đầu tư theo chiều sâu và đất và phải được cân đối rất cụ thể về tiền vốn và vật tư kỹ thuật theo ba mục tiêu nói trên dựa vào những kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã thu được. Cần xây dựng biện pháp và chính sách tương ứng để kiểm tra các mục tiêu này. Xem đầu tư theo chiều sâu và đất vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu trong sản xuất nông nghiệp cần ổn định diện tích canh tác và diện tích gieo trồng. Hạn hữu trong những trường hợp do quá khó khăn về giao thông vận tải ở những vùng xa, vùng sâu trong việc thỏa mãn yêu cầu về một nông sản nào đó, có thể mở rộng diện tích song song với những biện pháp đầu tư theo chiều sau ngay từ đầu trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc và cân nhắc thận trọng. Tất nhiên, có thể tiếp tục tăng diện tích gieo trồng bằng tăng vụ và trồng xen và phải áp dụng ngay biện pháp đầu tư theo chiều sâu vào đó. Đã đến lúc đối với tất cả các cây trồng, đặc biệt đối với lúa khi đã đảm bảo an toàn lương thực thì nên lấy giá trị tính bằng làm thước đo năng suất. Giảm dần và chấm dứt vào khoản đầu thế kỷ này việc sản xuất lương thực trên đất dốc. Sử dụng đất dốc chủ yếu cho cây công nghiệp dài ngày. Chọn loại hình kinh tế phù hợp với từng loại cây công nghiệp trên dốc. Kiên định các cây công nghiệp dài ngày mang tính chiến lược là cao su, cà phê, chè, điều và cây dừa. (3) Đầu tư theo chiều sâu nhằm mục tiêu nâng cao năng suất chất lượng nông sản hạn chế tiến tới loại trừ độc tố chứa trong nông sản và đất, đảm bảo an toàn sức khỏe con người. Như trên đã nói, một mục tiêu quan trọng của đầu tư theo chiều sâu là nâng cao hiệu quả kinh tế. Sau một chu kỳ sản xuất, lợi nhuận thu được càng cao, người nông dân càng gắn bó với mảnh đất của mình và trở thành tự nguyện đối với đầu tư theo chiều sâu. Một trong những con đường đạt tới lợi nhuận cao là nâng cao chất lượng nông sản. Nội dung của việc nâng cao chất lượng bao gồm màu sắc, tỷ lệ % các chất dinh dưỡng đặc trưng đối với từng loại nông sản, sức bền cơ học khi bảo quản và chuyên trở, nồng độ thấp của các hợp chất đạm vô cơ, nồng độ không đáng kể của các tàn dư hóa học như thuốc trừ sâu bền, trừ cỏ và không chứa các kim loại nặng Như chúng ta đã biết nông sản của ta sản xuất được hiện nay chưa đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Đối với một số nước có yêu cầu cao thì chất lượng nông sản của ta lại càng quá thấp Để đạt được yêu cầu này, phương hướng và biện pháp phải là tập trung vào việc điều hòa dinh dưỡng, làm sao cho các sản phẩm quang hợp trung gian mau chóng chuyển hóa và vận chuyển về các bộ phận hình thành năng suất, tích lũy được nhiều dinh dưỡng, thay đổi được các quá trình sinh hóa theo hướng có lợi cho bảo quản, chuyên chở và chế biến… Để có lợi nhuận cao thường người ta sử dụng hai hướng: hạ thấp đầu vào để giảm giá thành hoặc tăng đầu vào để đạt yêu cầu về giá trị từ đó nâng cao thặng dư. Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu về nâng cao chất lượng nông sản thì hướng thứ hai mới là hướng chuẩn xác. Lấy một vài thí dụ giản đơn: muốn tăng chất lượng thuốc lá phải đầu tư nhiều kali, sunphat, muốn quả chuối to, dài và ngọt phải có phân ka li sun phát, muốn cam ngọt phải bón hoặc phun phân chứa kẽm… Yêu cầu nâng cao chất lượng đã trở thành vấn đề mang tính quốc tế và thời đại khi môi trường đang bị ô nhiễm, khi cân bằng sinh thái đang bị đe dọa phá vỡ, khi phân hóa học và thuốc hóa học… sử dụng quá nhiều đã làm tích lũy trong nông sản càng ngày càng nhiều độc tố, gây nên các bệnh hiểm nghèo, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người và hậu quả tất yếu là giảm đáng kể tuổi thọ. Trong vấn đề đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng phải kể tới việc nâng cao chất lượng và chất của các phân hữu cơ hoặc hữu cơ – vô cơ không phải chỉ đơn thuần để cung cấp dinh dưỡng mà chủ yếu là tạo nên một giá thể để điều hòa dinh dưỡng, tạo nên nguồn năng lượng thúc đẩy quá trình quang hợp và tích lũy nhanh nhất và tốt nhất. Sau nhiều năm nghiên cứu nhưng tổng kết khoa học về mặt này không phải là ít song trước đây chưa được vận dụng vì ở giai đoạn ấy chúng ta chỉ quan tâm tới năng suất. Ngày nay, nếu ta không chú ý tới phẩm chất thì sớm muộn cũng không thể nào thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh hơn và hậu quả tất yếu sẽ xẩy ra là hiện tượng khủng hoảng thừa cục bộ. (4) Đầu tư theo chiều sâu phù hợp với một nền sản xuất hàng hóa trên cơ sở xác định nhóm sản phẩm chiến lược và mục tiêu sử dụng sản phẩm ấy. Thật ra, nội dung của mục này cũng đồng nhất với vấn để chất lượng nông sản nhưng chất lượng được nêu lên thành một vấn đề độc lập vì yêu cầu cấp thiết mang tính thời đại cần phải lưu ý đúng mức. Để có hàng hóa, để hoạt động xã hội phù hợp với cơ chế thị trường có thể áp dụng cùng một lúc hai phương thức đầu tư: tăng đầu tư vào và giảm đầu vào. Giảm đầu vào không phải là quảng canh mà chính là tạo lập một độ phì nhiêu thực tế thích hợp, một sự cân đối dinh dưỡng tối thiểu. Thí dụ sinh động là lượng P2O5 bón cho lúa trên vùng đất phèn đồng bằng sông Cửu Long chỉ cần tới mức 30 kg/ha đã cho bội thu tới 15-20 tạ thóc, hoặc giảm lượng đạm bón cho đậu đỗ trong điều kiện đạm được giải phóng nhờ các yếu tố tự nhiên tác động vào vụ trước… Việc gieo trồng các giống lúa đặc sản cũng thể hiện việc hạ thấp đầu vào nhưng vẫn đảm bảo đầu ra lớn. Ta biết giống lúa đặc sản hút đi từ đất một số lượng dinh dưỡng chỉ bằng ½ đến 1/3 giống lúa lai nhưng giá trị tính bằng tiền trên một đơn vị diện tích lại cao hơn và từ đó lợi nhuận nhiều hơn. Hơn thế, giống lúa đặc sản qua sự thích nghi hàng nghìn năm lại phù hợp với những loại đất có yếu tố hạn chế mà giống mới năng suất cao không thể phát triển tốt. Trong việc phân tích để phát huy độ phì nhiêu của đất, trong việc vận dụng quan điểm sử dụng đất hợp lý, trong khi thực hiện chiến lược đầu tư theo chiều sâu chung cho cả nước cũng như từng địa bàn, trước mắt cũng như lâu dài cần phải xác định đúng nhóm nông sản chiến lược và mục tiêu sử dụng nhóm nông sản đó. Thất vậy, “nhóm sản phẩm và mục tiêu của nhóm đó” sẽ quy định biện pháp thâm canh, chỉ tiêu năng suất và sản lượng, phẩm chất nông sản, quy mô diện tích, phương thức chế biến, mức độ đầu tư vốn và kỹ thuật, những nội dung nghiên cứu khoa học và tất cả những hoạt động khác phục vụ cho nhóm sản phẩm đó, từ khẩu sản xuất đến lưu thông phân phối. Có những cây trồng chúng ta đã nói là “quan trọng”, là có “nhiều triển vọng” nhưng trong thực tiễn lại phát triển diện tích, nguyên nhân có nhiều, song nguyên nhân chính là mục tiêu của sản phẩm đó chưa được xác định rõ ràng Từ quan điểm sử dụng hợp lý và nâng cao độ phì nhiêu của đất, và từ nhiệm vụ và mục tiêu của chiến lược nông nghiệp ta thấy yêu cầu cấp thiết phải được sắp xếp trong cơ cấu sản xuất những nông sản lương thực – thực phẩm, nông sản nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu. Cơ cấu ấy phải cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu: giải quyết vấn đề lương thực, có nguyên liệu cho công nghiệp, có thêm ngoại tệ để cân đối trong đầu tư theo chiều sâu (vào cây lương thực và thâm canh chính nó) đồng thời có khả năng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua sản phẩm trung gian) tham gia vào việc bồi dưỡng đất, nâng cao độ phì nhiêu của đất. 2.2. Đầu tư theo chiều sâu vào tài nguyên rừng nhằm nâng cao độ phì nhiêu của đất Như trên đã trình bày, rõ ràng là hiện tượng thoái hóa đất ở vùng đất dốc trung du miền núi trầm trọng hơn nhiều so với miền đồng bằng. Bởi vậy, trước mắt cần phải tập trung vào việc nâng cao, hồi phục và bảo vệ độ phì nhiêu thực tế ở trung du miền núi. Báo cáo này không đề cập toàn diện tới chiến lược phát triển rừng chỉ xuất phát từ mối quan hệ giữa rừng với độ phì nhiêu thực tế của đất trồng trọt, mà nêu lên yêu cầu phải đầu tư theo chiều sâu vào tài nguyên rừng. Căn cứ vào cơ cấu sử dụng đất của nước ta, đất lâm nghiệp chiến gần 12 triệu ha (36,43% toàn bộ đất tự nhiên và bằng 54,50% đất đã sử dụng của cả nước). Khoảng 40 năm về trước, lớp thảm rừng chiếm 48% nay chỉ còn 23% thậm chí ở nhiều tỉnh miền núi chỉ còn 5 – 10%. Hơn 50% diện tích vùng đồi núi là đất trống, đồi núi trọc (7,5 triệu ha trên 10,6 triệu ha đất chưa sử dụng). Những vùng đầu nguồn quan trọng nhất như Tây Bắc – đầu nguồn của hồ thủy điện sông Đà, lại là nơi trống trọc nhất, chỉ còn dưới 10%. Năm 1985, diện tích rừng trên đầu người tính bằng ha ở nước ta là thấp nhất chỉ có 0,14 trong lúc bình quân trên thế giới là 0,70; Ở Bắc Mỹ là 1,90; ở Châu Âu là 4,20; ở liên xô cũ là 2,70; ngay ở Châu A cũng đạt 0,20. Chắc chắn tới nay, chỉ số ấy ở Việt Nam còn thấp hơn nữa. Lợi ích của rừng đối với sản xuất nông nghiệp đã quá rõ ràng. Bởi vậy để tạo lập một nền nông nghiệp theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, phải đầu tư theo chiều sâu vào công tác khoanh nuôi hồi phục rừng và trồng rừng mới. Vấn đề đặt ra là nên ưu tiên tập trung vào vùng đất đã kiệt quệ, đã xói mòn trơ sỏi đá hay thoái hóa ở mức độ thấp hơn? Câu trả lời không đơn giản. Phải phân tích kỹ về nhiều mặt mới có thể đi đến quyết định có hiệu lực. Theo chúng tôi quyết định chuẩn xác phải dựa vào mấy cơ sở sau đây: Quy mô diện tích không quá nhỏ Không gặp nhiều khó khăn vì địa hình chia cắt và độ dốc lớn Tương đối thuận lợi về giao thông vận tải Có mật độ dân cư không quá thấp Đầu tư vào cây rừng, như cây nông nghiệp có xây dựng cơ sở hạ tầng cho lâm nghiệp Áp dụng giải pháp nông, lâm kết hợp ngay từ đầu với phương thức vườn- rừng gia đình bằng cách giao ngay quyền sử dụng đất lâu dài và ổn định - Trên cơ sở xem xét độ phì nhiêu của đất mà xác định các chuẩn mực sinh thái cơ bản để bố trí đúng cây rừng và cây nông nghiệp. Đây là vấn đề rất quan trọng không thể xem nhẹ. Mấy chục năm qua, không ít những thiếu sót thể hiện ở chỗ bố trí không đúng các loại cơ cấu và bố trí các bước triển khai cũng sai. - Áp dụng cùng một lúc các giải pháp kỹ thuật và các giải pháp xã hội với hàng loạt các chính sách mang tính quyết định. 6.2.3. Những yếu tố xã hội cần phải giải quyết đảm bảo cho sự thành công của chiến lược đất. Để đảm bảo sự thành công của mọi chiến lược, không thể không giải quyết những vấn đề xã hội. Đơn cử trong vấn đề ngăn chặn tệ nạn phá rừng, tệ nạn đốt nương làm rẫy, chúng ta đã có không ít Nghị quyết. Chỉ thị, chủ trương nhưng…. Rừng cứ tiếp tục bị tàn phá với tốc độ đáng lo ngại. Nói tới “vấn đề xã hội” trong tình hình hiện nay là nói tới những vấn đề cấp thiết nhất, xem như điểm xuất phát mà sự lãng quên sẽ dẫn tới thất bại của cả một chiến lược cho dù chiến lược ấy có mang tính khoa học tới đâu đi nữa. Trước hết, chúng ta thấy đại bộ phận nông dân, những người tác động trực tiếp tới đất trồng, những người quyết định việc nâng cao hay hạ thấp độ phì nhiêu thực tế đang có mức sống quá thấp. Do đó việc xóa đói, giảm nghèo cho nông dân đặc biệt là nông dân ở trung du miền núi phải được khẩn trương thực hiện bằng các chính sách trợ cấp vốn, cho vay không lãi xuất rất thấp, hướng dẫn thật cụ thể cho họ một đối tượng lao động, một vài biện pháp kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh tế rõ ràng để họ có thể rời bỏ những hoạt động phá hoại đất, phá hoại môi trường. Về mặt vĩ mô, nếu không có giải pháp cung cấp chất đốt, cung cấp nguyên liệu để sản xuất tiện nghi trong gia đình thay gỗ (giường, tủ, bàn, ghế) thì cũng không thể ngăn chặn nạn phá rừng. Chỉ có thể tạo lập cho từng thành viên xã hội ý thức, tự giác trên cơ sở áp dụng luật pháp một cách nghiêm ngặt không có ngoại lệ. Bởi thế, cùng với sự ra đời nhiều bộ luật liên quan tới tài nguyên, tới môi trường, tới đất, tới phân bón… càng cụ thể, càng chi tiết càng tốt, phải đặc biệt điều hành về mặt Nhà nước nhằm đạt được hiệu lực thực sự của các Bộ Luật đó. Một trong những giải pháp nhằm đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, đưa nông thôn tiến kịp thành thị là nâng cao dân trí. Có nhiều biện pháp kỹ thuật cực kỳ đơn giản để nâng cao năng suất, để bảo vệ thiên nhiên… nhưng nhiều nông dân kể cả ở đồng bằng chưa hề biết đến, Rõ ràng là công tác khuyến nông với nội dung quan trọng hàng đầu là chuyển giao tiến bộ kỹ thuật phải được thực hiện có hiệu lực bằng nhiều phương pháp thích hợp. Tuy còn ở mức độ khác nhau nhưng nhìn chung vấn đề an toàn lương thực ở miền đồng bằng có thể nói cơ bản đã được giải quyết. Vì vậy cần phải tập trung vào các chính sách liên quan tới an toàn lương thực ở vùng trung du miền núi trên cơ sở thâm canh đất lúa đã có, cung cấp lương thực kịp thời từ miền xuôi ở những nơi chưa cân đối được bằng sự chuyển hóa giá trị các nông sản của các cây trồng có giá trị cao hơn lương thực trồng trên đất dốc mà nông dân trung du miền núi đã sản xuất được. Giao thông vận tải và thông tin là phương tiện quyết định cho việc thực hiện mục tiêu của nhóm sản phẩm chiến lược làm cho sản phẩm nhanh chóng trở thành hàng hóa phải được giải quyết ngay ở những vùng có quy mô và sản lượng lớn. Vật tư nông nghiệp phục vụ cho việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật phải được cung cấp kịp thời, đúng số lượng và chủng loại Thương mại vật tư nông nghiệp không chỉ dừng lại ở lợi nhuận mà còn có chức năng đóng góp vào lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Cũng cần phải có chính sách thích đáng nhằm khuyến khích những người làm công tác bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường…. để họ an tâm công tác, đem hết nhiệt tình hoàn thành trách nhiệm. Trên đây là những quan điểm thiết yếu nhất hiện nay của những vấn đề xã hội cần phải giải quyết kịp thời nhằm đảm bảo cho sự thành công của chiến lược sử dụng hợp lý tài nguyên đất ở nước ta. KẾT LUẬN Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã mang lại những bước tiến to lớn trong sản xuất nông nghiệp không những chúng ta mà các nước trên thế giới đều phải thừa nhận. Để tạo lập một nền nông nghiệp phát triển lâu bền theo xu thế chung của thời đại, chiến lược bảo vệ môi trường nhằm duy trì một hệ thống sinh thái tối ưu với các biện pháp cụ thể cho từng đối tượng trong đó bảo vệ đất và bón phân hợp lý, làm cơ sở cho một nền nông nghiệp sinh thái và phát triển lâu bền phải được chú ý đúng mức. Thật vậy cho dù chúng ta có những giống mới năng suất cao đến đầu đi nữa, cho dù cơ cấu cây trồng tiến bộ được xác định nhiều đến đâu đi nữa thì sự chuyển hóa năng lượng để trở thành năng suất cũng phải bắt nguồn từ đất, phải được môi trường đất thử thách và phán xét. Tiềm năng đất đai của nước ta cũng như tất cả các nước khác trên thế giới không phải là vô tận, trong lúc dù cho khoa học vũ trụ có những bước tiến nhảy vọt đến đâu đi nữa, khó có người đối được ý kiến khẳng định rằng: trái đất là một thiên thể duy nhất có khả năng sản xuất lương thực, thực phẩm nhiều nhất với giá thành thấp nhất. Chính vì vậy, phải có sự quan tâm đặc biệt tới đất, tới việc bảo vệ, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý và nâng cao độ phì nhiêu thực tế của đất. Phải luôn luôn đối xử với đất như một trong những đối tượng quan trọng bậc nhất của môi trường và như thế, một lần nữa lại nổi lên cơ sở khoa học của khái niệm chuẩn xác về “độ phì nhiêu thực tế” mà nhà khoa học thiên tài Các Mác đã phát biểu gần hai thế kỷ trước đây và ngày càng được khẳng định như một chân lý vĩnh hằng không ai có quyền và có thể phủ nhận được.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbao cao.doc
  • doc~$ao cao.doc
  • tmp~WRL2365.tmp
  • docBia.doc
  • docMuc luc.doc
Luận văn liên quan