CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ INTERNET VÀTHƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ. 
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
MỤC LỤC
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT & THUẬT NGỮ . .1
LỜI MỞ ĐẦU . . 2
CHƯƠNG 1 . . 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ INTERNET VÀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 4
1.1 Tổng quan về Internet . 4
1.1.1 Khái niệm Internet . 4
1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của Internet . 4
1.1.3 Ứng dụng của Internet . . 5
1.2 Tổng quan về thương mại điện tử . . 5
1.2.1 Khái niệm về thương mại điện tử . . 5
1.2.1 Đặc trưng của thương mại điện tử . 7
1.2.2 Lợi ích của thương mại điện tử . . 8
1.2.3 Hạn chế của thương mại điện tử . . 10
1.2.4 Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới . . 11
CHƯƠNG 2 . 13
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA . . 13
2.1 Hạ tầng Internet và CNTT: . . 13
2.1.1 Hạ tầng Internet: . . 13
2.1.2 Công nghệ thông tin . . 15
2.2 Pháp lý: . . 16
2.3 Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp . 19
2.3.1 Tổng quan tình hình ứng dụng CNTT và thương mại điện tử . 19
2.3.2 Tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp . . 20
2.3.3 Nguồn nhân lực cho CNTT và thương mại điện tử trong doanh
nghiệp . 24
2.3.4 Các công ty thiết lập trang web thương mại điện tử . . 26
2.4 Một số dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử: . . 33
2.4.1 Trang web cung cấp dịch vụ trung gian mua bán . . 33
2.4.2 Dịch vụ thanh toán điện tử . . 34
2.5 Những thách thức chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển thương mại
điện tử tại Việt Nam đến năm 2010 . . 37
CHƯƠNG 3 . 39
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 . . 39
3.1 Xu hướng phát triển thương mại điện tử tới 2010 . 39
3.2 Định hướng phát triển thương mại điện tử đến năm 2010 . . 39
3.4 Giải pháp phát triển TMĐT ở Việt Nam đến năm 2010 . . 45
3.4.1 Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về TMĐT . . 45
3.4.2 Phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử . 47
3.4.3 Hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử giữa các doanh
nghiệp lớn . 49
3.4.4 Đẩy nhanh việc tạo lập môi trường pháp lý . . 49
3.4.5 Các cơ quan chính phủ phải nhanh chóng cung cấp các dịch vụ
hỗ trợ TMĐT và chủ động, tích cực tham gia thương mại điện tử . 51
3.4.6. Đầu tư cho thương mại điện tử . . 53
3.4.7 Về hạ tầng kỹ thuật và viễn thông . . 53
3.4.8 Giải pháp cho doanh nghiệp . . 54
3.4.9 Thanh toán điện tử . . 55
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG - BIỂU
Bảng 1: Số người sử dụng Internet trên 10.000 dân . . 14
Bảng 2: Các nước dẫn đầu về vi phạm bản quyền năm 2003 . 18
Bảng 3: Nhóm đối tượng điều tra chung phân theo ngành nghề kinh
doanh . 19
Bảng 4: Nhóm đối tượng có trang web phân theo ngành nghề kinh doanh
 . 20
Bảng 5: Cơ cấu đầu tư CNTT trong các doanh nghiệp . . 23
Bảng 6: Tỷ lệ trang web phân theo nhóm sản phẩm/dịch vụ . . 26
Bảng 7: Tỷ lệ trang web có các tính năng thương mại điện tử . . 28
Bảng 8: Các hình thức quảng bá trang web của doanh nghiệp . . 29
Bảng 9: Tỷ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động hàng năm 30
Bảng 10: Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng
thương mại điện tử trong doanh nghiệp . 31
Biểu 1: Hình thức truy cập trang web của các DN nói chung . . 21
Biểu 2: Hình thức truy cập Internet của các DN có trang web . . 22
Biểu 3: Tỷ trọng chi phí CNTT trong tổng chi phí hoạt động hàng năm 23
Biểu 4: Các hình thức đào tạo CNTT trong doanh nghiệp . . 25
Biểu 5: Tỷ lệ trang web phân theo năm thành lập . . 27
Biểu 6: Tỷ lệ trang web tên miền Việt Nam và quốc tế trong từng thời kỳ
 . 28
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 61 trang
61 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3472 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng web 
khác, tuy nhiên vẫn còn khoảng gần 20% doanh nghiệp chưa áp dụng 
biện pháp nào để quảng bá trang web 
Bảng 8: Các hình thức quảng bá trang web của doanh nghiệp
Phương tiện 
đại chúng
Liên kết 
trang web
Quà tặng
Không quảng 
cáo
50,43% 53,04% 21,34% 16,52%
 Hiệu quả đầu tư thương mại điện tử )
- Kết quả khảo sát nhóm doanh nghiệp có trang web, là những doanh 
nghiệp đã bắt đầu triển khai ứng dụng thương mại điện tử ở các mức độ 
khác nhau, cho thấy tỷ trọng đầu tư CNTT có sự phân tán khá lớn, với 
38,1% đơn vị được hỏi cho biết hàng năm dành dưới 5% tổng chi phí 
hoạt động cho ứng dụng CNTT, 39,3% chi từ 5 đến 15%, và 22,6% chi 
trên 15% cho lĩnh vực này. 
- Do ứng dụng CNTT đòi hỏi một số hạ tầng kỹ thuật nhất định với chi 
phí tối thiểu được cố định không kể quy mô doanh nghiệp, đầu tư CNTT 
sẽ chiếm một tỷ trọng lớn hơn trong tổng chi phí hoạt động của các doanh 
29 
 Bảng 9: Tỷ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động hàng năm
Quy mô doanh nghiệp
Tỷ trọng 
chi CNTT
Từ 30 nv 
trở xuống
30–50 
nv
50-100 
nv
100-300 
nv
Trên 
300 nv
Tính 
chung
Dưới 5% 30,36% 33,33% 50,00% 37,50% 45,24% 38,10%
Từ 5% - 
15%
42,86% 33,33% 25,00% 46,88% 38,10% 39,29%
Trên 15% 26,79% 33,33% 25,00% 15,63% 16,67% 22,62%
- Mặc dù tỷ trọng đầu tư cho CNTT và thương mại điện tử như vậy là 
tương đối cao, nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư này mang lại vẫn được 
doanh nghiệp đánh giá khá dè dặt. 58,87% các doanh nghiệp cho rằng 
ứng dụng thương mại điện tử đóng góp dưới 5% vào tổng doanh thu của 
đơn vị, và chỉ có 13,71% đánh giá phần đóng góp này đạt trên 15%. Các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ, với quy mô vốn hạn chế, phải chịu sức ép chi 
phí lớn hơn khi triển khai ứng dụng CNTT nhưng lại thu được hiệu quả 
thấp hơn từ những ứng dụng này. Nhóm doanh nghiệp nhỏ (có 30 nhân 
viên trở xuống) tỏ ra bi quan hơn cả: có đến 63,83% đơn vị được hỏi cho 
biết ứng dụng CNTT - thương mại điện tử chỉ đóng góp dưới 5% vào 
việc tạo doanh thu, so với 52,38% số doanh nghiệp với quy mô từ 100-
300 nhân viên. 
30 
Bảng 10: Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng 
thương mại điện tử trong doanh nghiệp
% doanh thu từ ứng dụng thương mại điện tử
% doanh thu 
do ứng dụng 
TMĐT đem lại
Từ 30 
nv trở 
xuống
30–50 
nv
50-100 
nv
100-
300 nv
Trên 
300 nv
Tính 
chung
Dưới 5% 63,83% 53,85% 58,82% 52,38% 57,69% 58,87%
Từ 5% - 15% 21,28% 15,38% 29,41% 42,86% 30,77% 27,42%
Trên 15% 14,89% 30,77% 11,76% 4,76% 11,54% 13,71%
- Từ kết quả khảo sát trên, có thể thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ đang 
là đối tượng cần được hỗ trợ để triển khai ứng dụng thương mại điện tử 
một cách hiệu quả nhất. Nhà nước cần có chính sách hợp lý, tạo điều kiện 
cho các doanh nghiệp này vừa tiếp thu được những kỹ thuật tiên tiến của 
thế giới, vừa không chịu sức ép quá lớn về chi phí đồng thời thu được 
hiệu quả kinh tế thật sự đối với hoạt động đầu tư cho thương mại điện tử 
của doanh nghiệp. 
- Thời gian hoàn vốn (hiểu theo nghĩa là thời gian để đầu tư bắt đầu 
đem lại hiệu quả kinh tế) cũng là một yếu tố các doanh nghiệp phải cân 
nhắc khi triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong đơn vị. Kết quả 
điều tra cho thấy nhận định của doanh nghiệp về mức độ thu hối vốn của 
đầu tư thương mại điện tử có độ phân tán khá rộng. Trung bình, thời gian 
thu hồi vốn được các doanh nghiệp điều tra ước tính ở mức từ 2-5 năm, là 
thời gian khá dài xét bối cảnh đầu tư thương mại điện tử chiếm tỉ trọng 
đáng kể trong tổng đầu tư của doanh nghiệp như phân tích ở trên. Đặc 
biệt có đến 16,76% doanh nghiệp được hỏi dự tính phải mất trên 5 năm 
để đầu tư thương mại điện tử bắt đầu đem lại hiệu quả kinh tế thực sự. 
31 
 Các hình thức tổ chức trang web )
Trang web doanh nghiệp 
- Đây là loại hình trang web đang phát triển mạnh nhất hiện nay, và 
chiếm phần lớn (hơn 90%) trong tổng số trang web doanh nghiệp được 
khảo sát. Tuy nhiên, đa phần các trang web hiện nay mới dừng ở mức 
cung cấp những thông tin giới thiệu cơ bản nhất, chưa thể được coi là 
những trang web thương mại điện tử cho phép có sự tương tác giữa 
doanh nghiệp với khách hàng để tiến hành một số khâu của quy trình giao 
dịch. 
- Tùy theo cấu trúc và tính năng của trang web, có thể tạm phân các 
trang web theo ba cấp độ sau: 
o Trang web giới thiệu công ty và lĩnh vực kinh doanh 
o Catalogue sản phẩm 
o Cho phép đặt hàng trực tuyến 
Siêu thị trực tuyến (bán hàng tổng hợp) 
- Siêu thị trực tuyến được tách riêng ra khỏi nhóm trang web công ty 
do đây là một hình thái phát triển khá chuyên biệt của mô hình kinh 
doanh thương mại điện tử B2C. Trên thế giới, các trang web bán hàng 
tổng hợp hiện là xu thế vượt trội, chiếm từ 60% đến 70% doanh số bán lẻ 
qua Internet ở những nước có nền thương mại điện tử phát triển. Còn ở 
Việt Nam, các siêu thị trực tuyến hiện cũng đang là mô hình ứng dụng 
B2C năng động và thu hút nhiều sự quan tâm nhất của dư luận cũng như 
người tiêu dùng. 
Những hàng hóa phổ biến trên mạng hiện nay 
- Sản phẩm có độ tiêu chuẩn hóa cao, sản phẩm số hoá, sản phẩm 
thông tin (Sách, báo, đĩa phim, đĩa nhạc,...), thiếp, hoa, quà tặng, hàng thủ 
công mỹ nghệ, … 
32 
2.4 Một số dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử: 
2.4.1 Trang web cung cấp dịch vụ trung gian mua bán 
Những trang web cung cấp dịch vụ trung gian mua bán được xây dựng 
nhằm tạo ra một không gian chung kết nối nhiều người mua và nhiều 
người bán, tạm hình dung như những sàn giao dịch thương mại trên mạng 
Internet. Đơn vị quản lý trang web không trực tiếp tham gia vào các giao 
dịch và cũng không chịu trách nhiệm về việc phân phối sản phẩm quảng 
bá trên trang web. Họ chỉ chịu trách nhiệm duy trì môi trường kỹ thuật 
cho người mua và người bán, đồng thời điều phối các hoạt động diễn ra 
trong môi trường đó. Tham gia vào các sàn thương mại điện tử này sẽ có 
nhiều nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ khác nhau, nắm quyền chủ 
động tương đối cao với những thông tin sản phẩm của mình đưa trên sàn, 
và có thể tự do tương tác với khách hàng là doanh nghiệp hoặc cá nhân 
cùng tham gia sàn giao dịch. 
- Khảo sát một số sàn thương mại điện tử hiện nay cho thấy: 
∗ Tình hình phát triển: Các sàn thương mại điện tử trong năm 2004 
có sự khởi sắc rõ rệt so với năm 2003 cả về số lượng, trình độ tổ chức, 
công nghệ và hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn. 
∗ Đơn vị chủ trì: Trong khi tất cả trang web thương mại điện tử 
C2C đều do doanh nghiệp tư nhân hoặc cá nhân thành lập, thì phần lớn 
các sàn thương mại điện tử B2B và B2C (12 trong số 17 trang web hiện 
đang hoạt động và xác minh được nguồn gốc) là do các tổ chức phi lợi 
nhuận hoặc doanh nghiệp nhà nước đứng ra chủ trì. 
∗ Hình thức tổ chức: Đa phần trang web mới chỉ dừng ở mức một 
sàn thông tin về cơ hội giao thương hoặc một trung tâm thương mại trưng 
bày và giới thiệu sản phẩm. Các trang web này chưa thực sự cung cấp 
được cho doanh nghiệp những tiện ích của một sàn giao dịch thương mại 
điện tử theo đúng nghĩa: tư vấn, kết nối người mua và người bán (đối với 
phương thức thức B2B), hay cho phép các đối tác tiến hành trọn gói các 
33 
∗ Tính chuyên môn hoá: Trừ hai “chợ công nghệ” vista.gov.vn và 
techmart.hochiminhcity.gov.vn, các sàn thương mại điện tử B2B hiện nay 
chưa đi theo hướng chuyên môn hoá: tập trung kết nối các doanh nghiệp 
trong cùng một lĩnh vực sản xuất hoặc trong những ngành hàng có quan 
hệ mật thiết với nhau, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của dây 
chuyền cung ứng và tính kinh tế của cả một ngành sản xuất. 
∗ Hiệu quả kinh tế: Dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử chưa 
đem lại nguồn thu cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Do đây là một 
lĩnh vực đầu tư mạo hiểm với thời gian hoàn vốn có thể khá dài, phần lớn 
doanh nghiệp triển khai dịch vụ sàn giao dịch điện tử phải dựa trên nguồn 
thu từ những hoạt động kinh doanh khác để tạo kinh phí và duy trì hoạt 
động của sàn giao dịch. 
∗ Một số khó khăn: Tổng hợp ý kiến từ các đơn vị được phỏng vấn, 
khó khăn được nhắc đến nhiều nhất là vấn đền nguồn nhân lực, tiếp đến 
là nhận thức và kỹ năng của doanh nghiệp, thứ ba mới đến môi trường 
pháp lý. Các đơn vị đều nhận xét hạ tầng CNTT và viễn thông của Việt 
Nam hiện nay, tuy chưa đạt mức tiên tiến, nhưng cũng đủ để tiến hành 
thương mại điện tử. 
2.4.2 Dịch vụ thanh toán điện tử 
Thanh toán điện tử là một trong những điều kiện cốt lõi để phát triển 
thương mại điện tử, với vai trò là một khâu không thể tách rời của quy 
trình giao dịch và trong nhiều trường hợp còn là biện pháp xác thực việc 
ký kết hợp đồng giữa người bán và người mua trong một giao dịch 
thương mại điện tử trên môi trường Internet. 
Thực tế cho thấy những nước có nền thương mại điện tử phát triển là 
những nước đã xây dựng được một hạ tầng thanh toán điện tử khá hoàn 
thiện. 
34 
Điều kiện cần để phát triển hệ thống thanh toán điện tử: 
∗ Hệ thống thanh toán ngân hàng hiện đại, trong đó phần lớn các giao 
dịch được tiến hành thông qua phương tiện điện tử. 
∗ Hạ tầng kỹ thuật của xã hội đạt trình độ tiên tiến, phần lớn các doanh 
nghiệp được nối mạng và kết nối với hệ thống ngân hàng. 
∗ Cơ sở pháp lý của thanh toán điện tửđược thiết lập đồng bộ, giá trị 
pháp lý của thanh toán điện tử được thừa nhận và có những quy định tài 
chính kế toán tương ứng. 
∗ Hạ tầng an toàn bảo mật trong thanh toán điện tửđược đảm bảo. 
∗ Thói quen mua bán của người tiêu dùng và tập quán kinh doanh 
trong xã hội đạt trình độ tiên tiến. 
Trong 5 điều kiện này, Việt Nam mới phần nào đáp ứng được điều 
kiện đầu tiên với việc bước đầu thiết lập một nền tảng công nghệ hiện đại 
cho hệ thống thanh toán liên ngân hàng và các giao dịch nghiệp vụ trong 
nội bộ những ngân hàng thương mại lớn. 
Qua hơn 2 năm vận hành chính thức, đến nay hệ thống thanh toán điện 
tử liên ngân hàng đã có 55 thành viên (trong đó có 6 đơn vị thuộc Ngân 
hàng Nhà nước và 49 ngân hàng thương mại) với hơn 200 chi nhánh trên 
5 địa bàn tham gia thanh toán. Số món và doanh số thanh toán qua hệ 
thống ngày càng tăng, bình quân 12.000 – 15.000 món/ngày với doanh số 
trên 8.000 tỷđồng/ngày. Tính đến 31/12/2004 đã có 4.900.000 món thanh 
toán với 2.800.000 tỷ đồng được thanh toán qua hệ thống thanh toán điện 
tử liên ngân hàng. 
Cho đến nay ở Việt Nam mới chỉ có một số khá ít các phương tiện 
thanh toán điện tử được triển khai cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. 
Việc thanh toán trực tuyến cũng chỉ đang ở giai đoạn thử nghiệm, với 
quy trình thanh toán còn mang tính bán thủ công vì chứng từ thanh toán 
vẫn phải có chữ ký tay và lưu dưới dạng giấy ở cả đầu ngân hàng cũng 
như người sử dụng. 
35 
là tDưới đây ình hình phát triển của các phương thức thanh toán điện 
tử tại Việt Nam 
Trao đổi dữ liệu tài chính điện tử (thanh toán B2B): 
Đây là phương thức thanh toán giữa các doanh nghiệp có quan hệ đối 
tác thường xuyên, có kết nối hệ thống trên cơ sở chuẩn trao đổi dữ liệu 
điện tử (EDI), cho phép hai bên theo dõi giá trị các giao dịch được thực 
hiện và tiến hành quyết toán định kỳ theo hình thức bù trừ tài khoản đối 
ứng. Phương thức thanh toán này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một trình 
độ ứng dụng CNTT ở mức cao và một mô hình tổ chức kinh doanh tương 
đối hoàn thiện. Việt Nam hiện vẫn chưa hội đủ điều kiện để phát triển 
hình thức thanh toán này. 
Thanh toán ngoại tuyến (thanh toán bằng thẻ tại các điểm bán 
hàng /dịch vụ) (Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước) 
Đây là phương thức thanh toán điện tử B2C sơ đẳng nhất, đặt tiền đề 
quan trọng cho việc phát triển hệ thống thanh toán trực tuyến hỗ trợ 
thương mại điện tử. Một khi cơ sở hạ tầng và hệ thống kết nối giữa ngân 
hàng với các điểm bán hàng/dịch vụ đã đủ trình độ đáp ứng những yêu 
cầu của việc thanh toán bằng thẻ, thì chỉ cần hoàn thiện thêm một bước 
khung khổ pháp lý và hạ tầng an toàn bảo mật cho thanh toán trực tuyến 
là có thể tích hợp hệ thống thanh toán điện tử này với môi trường giao 
dịch thương mại điện tử trên Internet. 
Hiện nay ở Việt Nam, thói quen dùng thẻ mới bắt đầu được hình thành 
trong một tầng lớp cư dân tại những thành phố lớn. Các ngân hàng cũng 
đã đưa vào lưu hành một số loại thẻ thông dụng trên thế giới, nhưng chức 
năng thanh toán của những thẻ này vẫn còn tương đối hạn chế. 
Thanh toán trực tuyến (Thanh toán trên môi trường Internet) 
Gồm có các hình thức: Giao dịch ngân hàng trực tuyến, Thanh toán mua 
hàng trên Internet bằng tài khoản đặt tại ngân hàng hoặc thẻ do ngân hàng 
phát hành, Hệ thống lập và thanh toán hóa đơn điện tử (EBPP / electronic 
bill payment and presentment). 
36 
2.5 Những thách thức chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển thương 
mại điện tử tại Việt Nam đến năm 2010 
- Mặc dù cơ hội cho sự phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam 
trong năm năm tới là to lớn nhưng các thách thức cũng rất nặng nề. Tại 
thời điểm xuất phát của giai đoạn này Việt Nam phải đương đầu với một 
số thử thách chủ yếu sau. 
 Nguồn nhân lực cho thương mại điện tử còn thiếu 
• Phần lớn doanh nghiệp mới nghe nói tới thương mại điện tử nhưng 
chưa biết tới lợi ích, các điều kiện tham gia thương mại điện tử 
• Tuyệt đại đa số dân chúng chưa biết tới khái niệm thương mại điện tử 
• Các cơ quan nhà nước mọi ngành, mọi cấp chưa biết tới khái niệm 
thương mại điện tử 
• Mới có rất ít lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ quản lý có kiến thức 
ban đầu về thương mại điện tử 
• Một số trường đại học bắt đầu quan tâm tới đào tạo về thương mại 
điện tử nhưng đội ngũ giảng viên hầu như chưa hình thành 
• Số công chức nhà nước biết tới thương mại điện tử rất ít, được đào 
tạo manh mún từ năm 2000 nhờ sự hỗ trợ của một số dự án song phương 
và đa phương. 
• Chưa hình thành nguồn nhân lực đáp ứng việc ứng dụng, chuyển 
giao và phát triển công nghệ về thương mại điện tử, kỹ năng kinh doanh 
thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp trong thương mại điện tử 
 Môi trường pháp lý và chính sách chưa hình thành 
) Khung pháp lý: 
• Giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: đang xây dựng Luật giao 
dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi) , Bộ Luật dân sự (sửa đổi). 
• Nghị định Chữ ký số và chứng thực điện tử 
• Cần nhiều văn bản pháp quy khác, nhưng tới 2005 vẫn chưa có kế 
hoạch cụ thể để xây dựng và ban hành. 
37 
) Chiến lược, chính sách 
• Một số tư tưởng chỉ đạo lớn về thương mại điện tử vẫn quá mơ hồ 
• Chưa có chiến lược phát triển thương mại điện tử dài hạn 
• Chưa có chính sách, giải pháp cụ thể nào được ban hành 
) Vấn đề thực thi các qui định pháp luật 
• Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử và một số 
luật khác: có thể mất vài năm mới ban hành đủ 
• Thực thi luật kém 
 Hạ tầng CNTT – Viễn thông còn yếu 
• Hạ tầng mạng viễn thông, đặc biệt là Internet 
• Máy tính các loại, các phần mềm ứng dụng 
• Các phần mềm ứng dụng 
• An ninh, an toàn mạng 
 Các thách thức khác 
) Bộ máy quản lý còn non yếu 
• Mới chính thức giao Bộ Thương mại thống nhất quản lý nhà nước về 
thương mại điện tử vào đầu năm 2004, nguồn lực còn hạn chế. 
• Chưa có các tổ chức hỗ trợ thương mại điện tử thuộc nhà nước hoặc 
phi lợi nhuận. 
• Chưa có cơ quan thống kê về thương mại điện tử 
) Bối cảnh kinh tế - xã hội chưa thuận lợi 
• Chính phủ điện tử còn non yếu, chưa cung cấp các dịch vụ công thiết 
yếu cho thương mại điện tử: hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép xuất 
nhập khẩu điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, v.v... 
• Tâm lý, tập quán mua bán: mua bán trực tiếp, 
• Văn hóa doanh nhân, chữ tín của doanh nghiệp, khai man giá trị mua 
bán, mua bán hóa đơn, v.v...
38 
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT 
TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM ĐẾN 
NĂM 2010 
3.1 Xu hướng phát triển thương mại điện tử tới 2010 
Các nước đang phát triển sẽ là thị trường tiềm năng cho thương mại 
điện tử do tỷ lệ kết nối Interrnet tăng nhanh, kinh tế tăng trưởng khá ổn 
định và nhận thức ngày càng rõ các cơ hội do thương mại điện tử mang 
lại. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương sẽ vươn lên dẫn đầu về mức độ 
ứng dụng thương mại điện tử. Phương thức kinh doanh B2B tiếp tục 
chiếm ưu thế so với B2C trong các giao dịch thương mại điện tử toàn 
cầu. Trong phương thức B2C, loại hình bán lẻ tổng hợp (siêu thị thương 
mại điện tử) dù chiếm tỉ lệ không cao trong tổng số cửa hàng bán lẻ trực 
tuyến nhưng lại nắm giữ phần lớn giá trị giao dịch B2C trên thị trường 
ảo. Việc kết hợp cửa hàng bán lẻ trực tuyến với các kênh phân phối 
truyền thống vẫn là phương thức kinh doanh được nhiều doanh nghiệp 
lựa chọn 
3.2 Định hướng phát triển thương mại điện tử đến năm 2010 
- Việt Nam đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế cao trong giai đoạn 2006 
– 2010 và coi phát triển thương mại mạnh mẽ, đặc biệt là xuất khẩu, là 
một yếu tố quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế. Hội nhập 
kinh tế quốc tế trở nên sâu sắc và toàn diện với việc gia nhập WTO và 
cuối năm 2005 hoặc trong năm 2006 cũng sẽ góp phần tạo ra môi trường 
thuận lợi cho sự phát triển của thương mại điện tử. Quốc Hội và Chính 
phủ cũng quyết tâm xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho thương 
mại điện tử. Giai đoạn 2001 – 2005 thương mại điện tử đã bắt đầu hình 
thành ở Việt Nam, giai đoạn 5 năm tiếp theo sẽ chứng kiến sự phát triển 
mạnh mẽ của thương mại điện tử. 
39 
- Có thể dự đoán các doanh nghiệp có quan hệ đối tác mạnh với nước 
ngoài sẽ là lực lượng đi tiên phong ứng dụng thương mại điện tử ở Việt 
Nam, đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn cần sự hỗ trợ của Nhà 
nước để có thể tiếp thu những ứng dụng tiên tiến của thương mại điện tử 
một cách hiệu quả. Loại hình giao dịch thương mại B2B sẽ dần dần 
chiếm ưu thế. 
 Quan điểm phát triển 
- Phát triển thương mại điện tử sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy 
thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh 
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. 
Thương mại điện tử tạo ra cơ hội mới giúp các doanh nghiệp mở rộng 
thị trường, giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian, nâng cao chất 
lượng dịch vụ sau bán hàng, v.v... qua đó nâng cao sức cạnh tranh của 
mình. Trong giai đoạn 2006 – 2010, Việt Nam sẽ hội nhập sâu sắc và 
toàn diện vào nền kinh tế thương mại quốc tế. Việt Nam có thể gia nhập 
WTO vào cuối năm 2005 hoặc trong năm 2006, hoàn thành việc cắt giảm 
thuế quan theo AFTA trong ASEAN, thực hiện đầy đủ các cam kết với 
Hoa Kỳ theo Hiệp định Thương mại song phương, tham gia ký kết và 
triển khai Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Trung quốc (ACFTA) 
cũng như nhiều cam kết quốc tế khác liên quan tới thương mại. Đồng thời 
với việc tiếp tục mở cửa thị trường trong nước theo lộ trình của các cam 
kết quốc tế, hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội rất lớn 
để thâm nhập thị trường toàn cầu. Phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử 
sẽ giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội mới. 
- Doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt ứng dụng và phát triển thương 
mại điện tử: Doanh nghiệp là người bán, người mua, người phát triển 
phát triển công nghệ lớn nhất. Chính mỗi doanh nghiệp sẽ tự quyết định 
có tham gia thương mại điện tử hay không, tham gia như thế nào, vào 
thời điểm nào, sẽ đầu tư nhân lực và nguồn lực ra sao, v.v... Nói cách 
40 
- Nhà nước có vai trò tạo ra môi trường thuận lợi, cung cấp nhiều dịch 
vụ công hỗ trợ cho thương mại điện tử và tích cực ứng dụng thương mại 
điện tử 
Mặc dù doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quyết định 
trong ứng dụng và phát triển thương mại điện tử nhưng Nhà nước đóng 
vai trò quan trọng. Nhà nước có nhiệm vụ tạo ra môi trường thuận lợi cho 
ứng dụng và phát triển thương mại điện tử, xây dựng khung khổ pháp lý, 
thiết lập sự cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ tạo ra cơ chế giải quyết tranh 
chấp, bí mật riêng tư, bảo vệ người tiêu dùng, v.v... Đồng thời, Nhà nước 
cũng là khách hàng rất lớn của các doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng đáng kể 
trong các giao dịch thương mại. 
Nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ cho thương 
mại điện tử như hải quan điện tử, thuế điện tử, đăng ký đầu tư điện tử, 
cấp phép nhập khẩu điện tử, v.v... Nếu nhà nước không hoàn thành tốt 
nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công này thì thương mại điện tử cũng rất 
khó phát triển một cách toàn diện và mạnh mạnh mẽ. 
- Nhà nước và doanh nghiệp cần chủ động, tích cực trong hợp tác 
quốc tế để tạo ra môi trường thuận lợi, thu hút công nghệ tiên tiến cho sự 
phát triển thương mại điện tử 
Thương mại điện tử mang tính toàn cầu. Ngay từ năm 1998, Hội nghị 
bộ trưởng lần thứ hai của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã nhấn 
mạnh thương mại điện tử trên phạm vi toàn cầu đang tăng trưởng nhanh 
chóng và tạo ra nhiều cơ hội mới cho thương mại. Các thành viên cũng 
cam kết tiếp tục duy trì thực tế không đánh thuế hải quan đối với các giao 
dịch điện tử qua biên giới. Năm 2001 WTO tiếp tục khẳng định thương 
mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt ra những 
thách thức mới cho thương mại của mọi thành viên, dù là thành viên phát 
triển hay đang phát triển, đồng thời WTO thừa nhận tầm quan trọng của 
41 
Các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế và khu vực khác như APEC, 
ASEM, ASEAN đều coi thương mại điện tử có ý nghĩa quan trọng trong 
phát triển kinh tế thương mại và cố gắng tạo ra môi trường quốc tế thuận 
lợi cho thương mại điện tử. Các tổ chức chuyên môn, đặc biệt là các tổ 
chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc như UNCTAD, UNCITRAL, 
v.v...có nhiều hoạt động để tạo ra môi trường thuận lợi trên phạm vi toàn 
cầu cho các hoạt động thương mại điện tử. 
Ngoài việc tham gia các hoạt động quốc tế đa phương và nhiều bên, 
chúng ta cũng cần đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương với các 
nước và khu vực có khoa học công nghệ tiên tiến và có quan hệ kinh tế 
thương mại chặt chẽ như Hoa Kỳ, EU, Nhật bản, Hàn quốc, v.v... 
- Phát triển thương mại điện tử gắn chặt với ứng dụng và phát triển 
CNTT 
Sự phát triển của thương mại điện tử gắn chặt với sự phát triển của 
CNTT và chính phủ điện tử. Trong những năm qua CNTT ở nước ta đã 
phát triển khá nhanh. Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông đặt 
thương mại điện tử như một trong những trụ cột chính của phát triển 
CNTT trong những năm tới. Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại 
điện tử cần phù hợp với Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông 
cũng như Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam tới 
2010. 
 Mục tiêu phát triển 
- Phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch 
doanh nghiệp tới doanh nghiệp (B2B) và ứng dụng thương mại điện tử ở 
mức cao. 
42 
Thực tiễn phát triển thương mại điện tử trên thế giới cho thấy loại hình 
B2B ra đời trước khi xuất hiện loại hình B2C. Nhờ áp dụng thương mại 
điện tử nên các doanh nghiệp này đã nâng cao hiệu quả kinh doanh và 
năng lực cạnh tranh của của mình. Internet ra đời đã tạo ra một cuộc cách 
mạng về thương mại điện tử. Tuy nhiên loại hình giao dịch B2B vẫn tiếp 
tục chiếm ưu thế và có tác động chủ yếu tới nâng cao năng lực cạnh tranh 
của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế. 
Thống kê về thương mại điện tử cho thấy tại những nước có hạ tầng 
CNTT tiên tiến, tỷ lệ hộ gia đình có máy vi tính cao, kết nối Internet qua 
băng thông rộng, loại hình giao dịch B2B vẫn cao gấp nhiều lần so với 
B2C. 
Phấn đấu tới năm 2010 phần lớn các doanh nghiệp lớn nắm vững kỹ 
năng kinh doanh trên mạng và tiến hành các giao dịch B2B. 
- Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ biết tới lợi ích của thương mại 
điện tử và có ứng dụng nhất định 
Tại Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác trên thế giới, doanh 
nghiệp vừa và nhỏ rất năng động và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. 
Tuy nhiên, các doanh nghiệp này bị hạn chế về nguồn lực nên ứng dụng 
thương mại điện tử là cơ hội để họ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở 
rộng thị trường, tiết kiệm chi phí giao dịch và chăm sóc khách hàng, v.v... 
Thực tế ở Việt Nam tới 2005 cho thấy chính các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ là lực lượng tiên phong trong việc ứng dụng thương mại điện tử. 
Phấn đấu tới năm 2010 hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ biết tới 
lợi ích của thương mại điện tử và có những ứng dụng nhất định vào từng 
khâu hay của toàn bộ các khâu của giao dịch thương mại. 
- Một bộ phận đáng kể hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua sắm 
trên mạng: Việt Nam là một nước đang phát triển có thu nhập thấp. Tuy 
nhiên, Việt Nam đã đề ra mục tiêu GDP năm 2010 sẽ tăng gấp đôi so với 
năm 2001. Những thành tựu phát triển kinh tế trong giai đoạn năm năm 
2001 – 2005 cho thấy việc đạt được mục tiêu này có thể là hiện thực. Thu 
43 
Đồng thời, tỷ lệ thanh niên được đào tạo tốt, tiếp thu nhanh cái mới và 
hấp thụ ảnh hưởng của văn hoá thương mại các nước tiên tiến, v.v... ngày 
càng tăng nhanh sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy các hộ gia đình và các 
cá nhân, đặc biệt ở vùng đô thị, mua sắm hàng hoá qua mạng Internet. 
Các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ thiết yếu như nước máy, điện, 
điện thoại, ngân hàng, v.v... đang phát triển mạnh các hình thức thanh 
toán tự động. Nhiều siêu thị bán lẻ và các nhà cung cấp dịch vụ khác đã 
và sẽ tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ hình thức bán hàng hoá và dịch vụ qua 
mạng. Các doanh nghiệp này sẽ tạo ra động lực và thói quen cho các hộ 
gia đình và cá nhân ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm hàng 
hoá và dịch vụ của họ. 
Chính vì vậy, song song với việc ưu tiên hỗ trợ loại hình B2B, cố gắng 
để tới năm 2010 một bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá 
nhân có thói quen mua hàng hoá và dịch vụ trên mạng. 
- Tất cả các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên các trang 
tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và 30% mua sắm chính phủ được 
tiến hành trên mạng. 
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu và triển khai các biện pháp mạnh mẽ thực 
hiện cải cách hành chính nhằm nâng cao hiệu quả, đơn giản thủ tục, minh 
bạch hoá, hiện đại hoá nền hành chính của đất nước. Song song với 
Chương trình cải cách hành chính, Việt Nam cũng xây dựng Kế hoạch 
tổng thể phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010. Đây chính là các tiền 
đề quan trọng để các cơ quan chính phủ cung cấp các dịch vụ công gắn 
chặt với thương mại điện tử như thuế điện tử, hải quan điện tử, cấp giấy 
phép nhập khẩu điện tử, chứng nhận xuất xứ hàng hoá qua mạng, v.v... 
Đồng thời quá trình cải cách hành chính và xây dựng chính phủ điện tử 
44 
3.4 Giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam đến năm 
2010 
3.4.1 Đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về thương 
mại điện tử: 
Thực tiễn cho thấy có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã ứng dụng tốt 
CNTT nhưng chưa biết đến lợi ích mà thương mại điện tử mang lại, một 
số biết về thương mại điện tử thì chỉ làm theo phong trào. Vì vậy trong 
giai đoạn 2006 - 2010 cần tập trung phổ biến, tuyên truyền về lợi ích và 
kỹ năng thương mại điện tử như sau: 
) Phổ biến, tuyên truyền cho các nhà quản lý doanh nghiệp: 
• Các Tổng công ty lớn của nhà nước: loại hình doanh nghiệp này có 
quy mô lớn nhưng chưa quan tâm đầy đủ tới công tác đào tạo cán bộ về 
thương mại điện tử. Cần hỗ trợ cho các nhà lãnh đạo các Tổng công ty 
lớn của nhà nước biết tới lợi ích của thương mại điện tử, từ đó họ sẽ xây 
dựng kế hoạch triển khai thương mại điện tử tại chính đơn vị của mình. 
• Các doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần: loại hình doanh 
nghiệp này nói chung có quy mô vừa và nhỏ, khá năng động trong kinh 
kinh doanh và dễ tiếp thu công nghệ mới. Nếu giới chủ các loại hình 
doanh nghiệp này hiểu rõ lợi ích của thương mại điện tử họ sẽ nhanh 
chóng và mạnh dạn tổ chức triển khai trong doanh nghiệp của họ. 
• Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: thường có công nghệ 
tiên tiến, kỹ năng quản lý cao và nhanh nhạy trong ứng dụng CNTT và 
thương mại điện tử. Hoạt động tuyên truyền đối với đối tượng này chủ 
yếu cung cấp thông tin cập nhật về môi trường pháp lý, về thực thi quyền 
45 
) Phổ biến, tuyên truyền cho các cán bộ lãnh đạo kinh tế 
Các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định đóng vai trò quan 
trọng trong việc xây dựng chính sách và thực thi pháp luật liên quan tới 
thương mại điện tử nhưng ít có cơ hội tìm hiểu về lĩnh vực này. Cần phổ 
biến, tuyên truyền về các lợi ích cũng như các rủi ro khi ứng dụng thương 
mại điện tử cho các cán bộ lãnh đạo kinh tế tại các bộ ngành ở Trung 
ương cũng như các nhà lãnh đạo kinh tế ở các tỉnh, đặc biệt là cán bộ của 
các sở thương mại, tài chính, đầu tư, tư pháp. 
) Phổ biến, tuyên truyền cho người tiêu dùng, đặc biệt là 
giới trẻ ở các đô thị 
Không chỉ do khó khăn về các vấn đề công nghệ, đặc biệt là mức độ 
truy cập Internet còn thấp, mà tập quán và tâm lý mua sắm của người tiêu 
dùng Việt Nam cũng là một yếu tố cản trở cho việc mua sắm qua mạng. 
Nước ta chưa phải là một nước công nghiệp hoá, phần lớn người tiêu 
dùng chưa có tác phong công nghiệp, chưa tuân theo những quy định chặt 
chẽ về thời gian, tuân thủ pháp luật, biết đòi hỏi lợi ích hợp pháp của 
người tiêu dùng, v.v... 
Song song với hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng 
thương mại điện tử bán hàng trực tiếp tới người tiêu dùng, chúng ta cần 
phổ biến, tuyên truyền về lợi ích của thương mại điện tử cho đông đảo 
người tiêu dùng, trước hết là người tiêu dùng tại các đô thị và ưu tiên phổ 
biến về lợi ích mua trên mạng các dịch vụ và các sản phẩm được “số 
hoá”. Trong số người tiêu dùng thì giới trẻ rất năng động, thích tìm hiểu 
cái mới và ngày càng chủ động về kinh tế. Vì vậy, phát triển thương mại 
điện tử cho loại hình B2C trước hết tập trung vào giới trẻ ở đô thị. 
Chú trọng sử dụng các phương tiện phổ biến, tuyên truyền có sức 
truyền tải cao như truyền hình, báo viết, báo điện tử. Phương pháp phổ 
46 
3.4.2 Phát triển nguồn nhân lực cho thương mại điện tử 
Việc đẩy mạnh hoạt động phổ biến, tuyên truyền về thương mại điện 
tử có tác động to lớn để xã hội quan tâm tới các lợi ích của thương mại 
điện tử. Tuy nhiên hoạt động này mang tính bề rộng và phong trào, cần 
phải có các hoạt động nhằm phát triển nguồn nhân lực cho thương mại 
điện tử một cách đồng bộ và cân đối mang tính bề sâu, diễn ra liên tục. 
Dựa trên nguồn nhân lực có tri thức về nhiều khía cạnh liên quan tới kinh 
tế, thương mại, CNTT và TT, pháp lý, sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu 
dùng, an ninh, v.v... mới có thể đưa thương mại điện tử thật sự đi vào 
cuộc sống. 
Phát triển nguồn nhân lực là việc làm của toàn xã hội, nhà nước chỉ hỗ 
trợ mạnh trong giai đoạn đầu, sau đó chính các doanh nghiệp là lực lượng 
chủ yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là tự chịu chi phí 
cho việc này. 
) Đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy 
nghề 
Tới năm 2005 một số trường đại học chuyên ngành kinh tế thương 
mại đã giảng dạy về thương mại điện tử. Điều này phản ánh sự năng 
động, nắm bắt thực tiễn và gắn hoạt động đào tạo với hoạt động sản xuất 
kinh doanh trong công tác đào tạo đại học của chúng ta. Trong giai đoạn 
2006 tới 2010 cần mở rộng hoạt động đào tạo chính quy về thương mại 
điện tử tại nhiều trường đại học khắp cả nước không những trong chuyên 
ngành kinh tế thương mại mà cả các chuyên ngành khác như CNTT, pháp 
lý, an ninh. 
Ngoài đào tạo về thương mại điện tử ở cấp đại học, cần quan tâm đào 
tạo ở cấp cao đẳng và học nghề. Các trường dạy nghề thuộc các chuyên 
ngành thương mại, du lịch, quản trị kinh doanh, v.v... sẽ đào tạo ra đội 
47 
) Đào tạo cho cán bộ quản lý nhà nước 
Thương mại điện tử chỉ có thể phát triển mạnh và góp phần quan trọng 
vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia khi nhà 
nước tạo ra được môi trường thuận lợi. Vì vậy, việc đào tạo cán bộ tại các 
cơ quan nhà nước liên quan là rất cấp bách và phải đi trước một bước. 
Tuy nhiên, việc đào tạo phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng cơ 
quan để gắn chặt hoạt động đào tạo với thực tiễn. 
Có thể tổ chức đào tạo theo các chuyên đề. Chuyên đề liên quan tới 
khía cạnh kinh tế của thương mại điện tử cho các bộ ngành Thương mại, 
Tài chính, Công nghiệp, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thuỷ sản, 
Ngân hàng Trung ương. Chuyên đề liên quan tới an ninh, an toàn, sở hữu 
trí tuệ trong thương mại điện tử cho các bộ ngành Công an, Tư pháp,Văn 
hoá Thông tin, Khoa học và Công nghệ, Bưu chính và Viễn thông. 
Chuyên đề về các tranh chấp trong thương mại điện tử cho Bộ Tư pháp, 
Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Toà án Nhân dân tối cao. Các chuyên đề 
về bảo vệ người tiêu dùng, thống kê, cạnh tranh lành mạnh v.v... liên 
quan tới thương mại điện tử cũng cần được tổ chức cho các cơ quan 
tương ứng. 
Song song với đào tạo cho các cán bộ quản lý nhà nước cấp trung 
ương cũng phải đào tạo cho các cán bộ cấp địa phương theo các chuyên 
đề trên. 
) Vận động và hỗ trợ một số doanh nghiệp tham gia hoạt 
động đào tạo về thương mại điện tử: 
Khuyến khích các công ty CNTT, đặc biệt là các công ty đa quốc gia 
và các công ty trong nước có hoạt động kinh doanh gắn chặt với sự mở 
rộng của thương mại điện tử cung cấp dịch vụ đào tạo về thương mại điện 
tử. 
48 
 3.4.3 Hỗ trợ đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử giữa các 
doanh nghiệp lớn 
Thực tiễn trên thế giới cho thấy giao dịch giữa các doanh nghiệp lớn 
chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Khi các 
doanh nghiệp lớn ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử sẽ góp phần rất 
nhanh và mạnh tới hiệu quả chung của mỗi doanh nghiệp cũng như của 
toàn bộ nền kinh tế. Tại hầu hết các nước phát triển loại hình B2B giữa 
các doanh nghiệp lớn đã hình thành cách đây vài thập kỷ và tiếp tục phát 
triển nhanh. Trong khi đó ở Việt Nam các doanh nghiệp lớn hầu như 
chưa ứng dụng thương mại điện tử trong các hoạt động thương mại. 
3.4.4 Đẩy nhanh việc tạo lập môi trường pháp lý 
Thương mại điện tử tạo ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp. Vì 
vậy, tới cuối năm 2005 mặc dù giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu 
trong các giao dịch thương mại chưa được pháp luật thừa nhận nhưng 
nhiều doanh nghiệp trong nước đã tích cực, chủ động ứng dụng thương 
mại điện tử. Tuy nhiên, thương mại điện tử chỉ có thể phát triển mạnh mẽ 
khi các giao dịch thương mại thông qua phương tiện điện tử được pháp 
luật đảm bảo. 
Thương mại điện tử liên quan tới nhiều lĩnh vực nhưng do nguồn lực 
có hạn nên chúng ta cần xây dựng kế hoạch soạn thảo và ban hành các 
văn bản quy phạm pháp luật với trình tự hợp lý. Trước hết cần ban hành 
các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu 
trong các hoạt động thương mại, tiếp đó là các văn bản điều chỉnh các 
vấn đề đảm bảo cho thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý, cuối cùng là các 
văn bản điều chỉnh các hành vi khác liên quan tới thương mại điện tử. 
Khi soạn thảo các văn bản pháp quy cần phải tổ chức cho đông đảo 
công dân, cộng đồng các doanh nghiệp và các nhóm lợi ích tham gia góp 
ý với các hình thức phù hợp. Đồng thời cần tham khảo kinh nghiệm ban 
hành các văn bản luật tương ứng của các nước khác. 
49 
) Các văn bản pháp quy thừa nhận giá trị pháp lý của thông 
điệp dữ liệu 
Có thể khẳng định khi giao dịch điện tử liên quan tới thương mại chưa 
được pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý thì thương mại điện tử chưa 
thể phát triển mạnh. 
Mặc dù Luật Giao dịch điện tử có vai trò cao nhất trong việc tạo lập 
môi trường pháp lý cho thương mại điện tử nhưng cần phải sửa đổi, bổ 
sung nhiều luật khác trong hệ thống pháp luật hiện nay. Hai luật quan 
trọng khác là Bộ Luật Dân sự và Luật Thương mại cũng phải được ban 
hành và sớm đi vào cuộc sống. Trong năm 2006 cần ban hành các luật tạo 
nền tảng cho thương mại điện tử là Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương 
mại (sửa đổi) và Bộ Luật dân sự (sửa đổi) 
) Các văn bản pháp quy điều chỉnh các vấn đề đảm bảo cho 
thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý 
Trong năm 2007 cần ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh nhiều 
khía cạnh liên quan tới thương mại điện tử như chữ ký số và chứng thực 
điện tử (CA), hợp đồng điện tử, an toàn và bảo mật, giải quyết tranh 
chấp, v.v... 
) Các văn bản pháp quy khác 
Trong các năm 2008 – 2010 cần ban hành đầy đủ các văn bản quy 
phạm pháp luật điều chỉnh mọi khía cạnh liên quan tới thương mại điện 
tử như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tội phạm trên 
mạng, các vấn đề về thuế nội địa và thuế hải quan, v.v... 
) Thay đổi một số chính sách 
Cũng cần nhanh chóng sửa đổi một số văn bản pháp quy đã ban hành 
nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Cần phải nhìn nhận việc quản lý các 
hoạt động liên quan tới Internet có liên quan tới hầu như mọi mặt kinh tế 
- xã hội, trong đó có thương mại điện tử. Các cơ quan ban hành chính 
sách cần có sự tiếp thu thường xuyên, liên tục phản hồi từ các đối tượng 
50 
Trong số các chính sách đã ban hành thì chính sách về quản lý cung 
cấp thông tin điện tử, thiết lập trang tin điện tử, quản lý tên miền Internet 
và an ninh mạng đòi hỏi sự nghiên cứu sửa đổi càng sớm càng tốt. 
3.4.5 Các cơ quan chính phủ phải nhanh chóng cung cấp các 
dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử và chủ động, tích cực tham gia 
thương mại điện tử 
) Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến 
Nhiều dịch vụ công là những mắt xích không thể tách rời trong chu 
trình giao dịch thương mại, nếu các dịch vụ công này không được tin học 
hoá và đáp ứng các đòi hỏi tự động hoá giao dịch trên mạng thì thương 
mại điện tử cũng rất khó phát triển. 
Xét trên khía cạnh công nghệ và giải pháp thì tới cuối năm 2004 việc 
triển khai một số dịch vụ công trực tuyến như khai báo hải quan điện tử 
và khai báo thuế giá trị gia tăng điện tử là khả thi. Tuy nhiên, vì một số lý 
do như cơ sở pháp lý, nguồn nhân lực, tổ chức mà các dịch vụ này chưa 
được triển khai. 
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công 
hỗ trợ cho thương mại điện tử. Những dịch vụ cần ưu tiên cung cấp trên 
mạng càng sớm càng tốt như sau: 
• Thuế điện tử: thuế nội địa, thuế xuất nhập khẩu (Bộ Tài chính) 
• Hải quan điện tử (Bộ Tài chính) 
• Các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử (Bộ Thương mại) 
• Các thủ tục liên quan tới đầu tư, đăng ký kinh doanh điện tử (Bộ 
KHĐT) 
• Các loại giấy phép chuyên ngành liên quan đến hoạt động thương 
mại (hiện do rất nhiều Bộ cấp: Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển Nông thôn, Bộ Xây dựng, v.v...) 
• Giải quyết tranh chấp trên mạng 
51 
) Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ 
Mua sắm chính phủ chiếm tỷ lệ đáng kể trong thương mại nên nếu các 
cơ quan nhà nước đẩy mạnh việc mua hàng hoá và dịch vụ trên mạng sẽ 
kích thích các doanh nghiệp phải ứng dụng thương mại điện tử để tăng cơ 
hội bán sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của mình. 
Nhiều nước đã ban hành các quy định chặt chẽ về nghĩa vụ của các cơ 
quan nhà nước phải ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm công 
nhằm đạt hiệu quả cao nhất từ tiền thuế của nhân dân. Chẳng hạn, Chỉ thị 
của Tổng thống Hoa Kỳ về thương mại điện tử ngày 17/12/1999 đã nhấn 
mạnh người đứng đầu các cơ quan chính phủ phải thúc đẩy sử dụng 
thương mại điện tử để việc mua sắm của liên bang được nhanh hơn, rẻ 
hơn, tiết kiệm cho người nộp thuế. 
Trong giai đoạn 2006 – 2010 cần sửa đổi các quy định về đấu thầu 
trong mua sắm chính phủ theo hướng bắt buộc các chủ đầu tư phải công 
bố mời thầu trên trang tin điện tử chính thức của tổ chức mời thầu và các 
trang tin điện tử của các cơ quan khác, chẳng hạn của Bộ KHĐT, Thương 
mại, Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan trung ương và của Sở 
KHĐT, Thương mại, Tài chính đối với mua sắm của các cơ quan thuộc 
chính quyền địa phương. 
) Hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ 
Không thể phát triển thương mại điện tử mà không nghiên cứu và ứng 
dụng nhiều công nghệ then chốt. Trước hết nhà nước cần nghiên cứu xây 
dựng và phổ biến các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). EDI và XML 
là các công cụ quan trọng đặc biệt cho việc triển khai giao dịch thương 
mại điện tử quy mô lớn. Trong khi các công cụ này đã phổ biến trên thế 
giới thì thực tế cho thấy tới cuối năm 2004 hầu như chưa có doanh nghiệp 
hay tổ chức nào ở Việt Nam ứng dụng vào hoạt động của mình. 
Cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và phát triển các công 
nghệ về bảo đảm an toàn thông tin, đặc biệt là công nghệ hạ tầng khoá 
công khai (PKI) và thanh toán điện tử. 
52 
Phần mềm nguồn mở và miễn phí (FOSS) cũng mở ra cơ hội tiềm tàng 
cho việc phát triển phần mềm phục vụ cho thương mại điện tử. Nhà nước 
cần đẩy mạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp CNTT và các tổ chức ứng 
dụng phần mềm nguồn mở thông qua việc triển khai có hiệu quả Dự án 
tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai 
đoạn 2004 – 2008” đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt năm 2004. 
3.4.6. Đầu tư cho thương mại điện tử 
Cho tới cuối năm 2004 các doanh nghiệp mới đầu tư rất ít cho thương 
mại điện tử với hoạt động đầu tư chủ yếu là kết nối Internet, xây dựng và 
duy trì trang web với mục đích quảng bá sản phẩm và dịch vụ, hỗ trợ 
khách hàng, v.v… Kết quả điều tra cho thấy phần lớn doanh nghiệp tỏ ra 
hài lòng với việc đầu tư này. 
Tuy nhiên, một số doanh nghiệp muốn cung cấp giải pháp hoặc kinh 
doanh các chợ “ảo” coi đầu tư của họ là đầu tư mạo hiểm. Nhiều doanh 
nghiệp cho rằng họ phải mất nhiều năm mới có cơ hội hoàn vốn đầu tư. 
Một mặt, nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ đầu tư vào giải pháp, 
công nghệ cho thương mại điện tử. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần 
đánh giá toàn diện hơn về hiệu quả đầu tư cho thương mại điện tử, chú 
trọng đầu tư cho giải pháp kinh doanh trên mạng và đào tạo nguồn nhân 
lực hơn là đầu tư cho thiết bị CNTT. 
3.4.7 Về hạ tầng kỹ thuật và viễn thông 
- Trong giai đoạn 2001 – 2005 hạ tầng CNTT và truyền thông ở nước 
ta đã thay đổi nhanh chóng theo hướng hiện đại hoá và cước phí sử dụng 
ngày càng thấp. Đây là yếu tố quan trọng để thương mại điện tử hình 
thành và bắt đầu phát huy hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên có thể nhận thấy 
ngoài hạ tầng Internet ra thì hầu hết các hạ tầng kỹ thuật khác cần thiết 
cho thương mại điện tử vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Trong 
giai đoạn 2006 – 2010 chúng ta cần chủ động phát triển hạ tầng CNTT và 
truyền thông theo Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông tới 2010. 
53 
- Ngoài ra cần nâng cao tốc độ đường truyền, đặc biệt là mở rộng dung 
lượng đường truyền ở các cổng kết nối Internet với quốc tế; 
- Tiếp tục giảm giá cước truy cập Internet cho phù hợp với mức thu 
nhập của người dân Việt Nam. 
- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông nói 
chung và kinh doanh Internet nói riêng. 
3.4.8 Giải pháp cho doanh nghiệp 
Cho tới cuối năm 2004 một số doanh nghiệp đã ứng dụng có hiệu quả 
CNTT vào toàn bộ quá trình sản xuất của mình. Nếu đứng trên góc độ nội 
bộ doanh nghiệp thì có thể coi các doanh nghiệp này đã tin học hoá hoạt 
động kinh doanh ở mức cao và đã triển khai thành công kinh doanh điện 
tử. Tuy nhiên nếu hiểu theo nghĩa rộng là kinh doanh điện tử bao hàm cả 
thương mại điện tử thì có thể thấy các doanh nghiệp đó chưa tận dụng cơ 
hội đầu tư lớn và kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong nội bộ doanh 
nghiệp để mở rộng thị trường và giảm chi phí đầu vào nhờ triển khai 
thương mại điện tử. 
Nhận thức của nhiều doanh nghiệp về thương mại điện tử chưa đầy đủ 
là một nguyên nhân quan trọng khiến cho họ đã thành công trong tin học 
hoá nội bộ doanh nghiệp của mình nhưng hầu như chưa chú ý đầu tư thoả 
đáng cho thương mại điện tử, nhất là hình thức thương mại điện tử quy 
mô lớn giữa các doanh nghiệp (B2B). 
Vì vậy cần thay đổi nhận thức của lãnh đạo doanh nghiệp và nhân viên 
của doanh nghiệp về tầm quan trọng của Internet và thương mại điện tử. 
Khi đó doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư vào thương mại điện tử. 
Doanh nghiệp cần phải có thái độ khác trước về đầu tư cho thương mại 
điện tử như là một phưong pháp hiệu quả để xúc tiến thương mại. 
Các doanh nghiệp dự định tham gia thương mại điện tử cần thiết phải 
bố trí kinh phí hợp lý cho việc đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các 
trường đại học, các trung tâm đào tạo cần có các chương trình đào tạo 
54 
Xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử gắn liền với chiến 
lược kinh doanh của doanh nghiệp. 
Nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng CNTT, đào tạo nhân viên để thực 
hiện thương mại điện tử. 
Có kế hoạch xây dựng trang web thương mại điện tử chuyên nghiệp và 
xây dựng chiến lược quảng bá, giới thiệu trang web của mình. 
3.4.9 Thanh toán điện tử 
Thanh toán điện tử là một khâu quan trọng trong hoạt động thương 
mại điện tử. Trong giai đoạn phát triển ban đầu của thương mại điện tử 
tại Việt Nam (2001 – 2005) hầu như chưa tồn tại dịch vụ thanh toán điện 
tử. 
Trong khi đó thanh toán qua các thiết bị di động đang ngày càng trở 
nên phổ biến trên thế giới, hoà nhịp với một trào lưu phát triển mới của 
thương mại điện tử là thương mại di động (m-commerce). Những sản 
phẩm phù hợp với phương thức kinh doanh thương mại di động là phần 
mềm trò chơi, nhạc, và các dịch vụ tin nhắn – những sản phẩm số hoá có 
thể được tải về và tiêu thụ trực tiếp trên nền thiết bị di động của khách 
hàng mà không tốn chi phí vận chuyển. Do đặc thù này, cộng với giá 
thành sản phẩm thấp và khối lượng tiêu thụ lớn, nhà cung cấp không thể 
chọn phương thức thu tiền mặt, trừ thẻ tín dụng, hay chuyển khoản để thu 
hồi tiền bán sản phẩm/dịch vụ. Phương thức thanh toán hợp lý hơn cả là 
trừ trực tiếp vào phí điện thoại của khách hàng. Để thực hiện điều đó, nhà 
cung cấp dịch vụ phải kết nối chặt với hệ thống dịch vụ viễn thông sở tại. 
Nếu nhìn vào thị trường viễn thông di động tại Việt Nam, chúng ta 
cũng thấy sự phát triển khá rõ ràng, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông 
di động mới ra đời đã làm hạ giá thành sử dụng, nâng cao dịch vụ. Dự 
kiến đến hết năm 2005 các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động 
(ĐTDĐ) tại thị trường Việt Nam sẽ đạt khoảng 7 triệu khách hàng. Đây 
55 
quả là một cơ sở tốt cho m-commerce, cũng như là một khối lượng khách 
hàng lớn đầy tiềm năng của các ngân hàng. 
Doanh nghiệp đi tiên phong cung cấp loại hình dịch vụ này ở Việt 
Nam là Công ty Phần mềm và truyền thông VASC, với các dịch vụ giá trị 
gia tăng trên nền điện thoại di động. Khách hàng có thể dùng mobile gọi 
đến các số tổng đài dịch vụ của VASC để nhận thông tin khuyến mãi, hỏi 
tỷ số trận đấu, hoặc gửi nhạc, nhắn tin cho bạn bè. Phí dịch vụ sẽ được tự 
động trừ trực tiếp vào tài khoản điện thoại mỗi khi người dùng gọi đến 
những số tổng đài trên. Để thu hồi các khoản phí này, công ty VASC đã 
thiết lập kết nối hệ thống với Vinaphone, MobiFone, Viettel, S-Phone và 
các nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động khác, đồng thời xây dựng 
một cơ chế theo dõi và đối chiếu thu chi cho phép hai bên phân bổ thu 
nhập từ mô hình kinh doanh liên kết này. 
Mô hình dịch vụ của VASC có thể phát triển như sau: 
- A đăng ký dịch vụ tại C, mở một 
tài khoản tại C 
- C sẽ cấp cho A một mật khẩu để 
sử dụng dịch vụ 
- Khi cần mua hàng, A sẽ vào 
trang web của C, hoặc bất kỳ 
phương tiện nào khác (tờ bướm, 
quảng cáo, v.v...) để xem hàng. Sau khi chọn được món hàng cần mua, A 
sẽ gửi một tin nhắn có chứa mã số của món hàng đó đến C 
- C sẽ từ chối hoặc xác nhận lại việc mua món hàng với A, đồng thời 
trừ tiền vào tài khoản của A, đồng thời cấp cho A một dãy số n. 
- C chuyển đơn hàng đến B 
- B tiến hành giao hàng cho A 
- Khi nhận hàng, A sẽ ghi dãy số n và ký vào giấy giao hàng của B 
- B sử dụng dãy số n để xác nhận với C đã giao hàng cho A 
- Giao dịch kết thúc. 
56 
Lưu ý: Có thể xem như đây là giai đoạn mở đầu của thương mại điện tử 
di động. Trong giai đoạn này, hình thức thanh toán di động chỉ áp dụng 
cho những trường hợp sau: 
- Mua hàng giá trị thấp, thường là nhỏ hơn 300.000 (tài khoản điện 
thoại) 
- Đặt cọc để mua hàng có giá trị cao hơn, phần còn lại sẽ thanh toán 
khi giao hàng. 
- Đặt mua vé, giữ chỗ, tìm đường, v.v... 
Lợi ích của thanh toán di động: 
- An toàn: Tất cả các giao dịch hoàn toàn được bảo mật. 
- Nhanh chóng: chỉ cần đăng nhập và một vài thao tác nhấp chuột là đã 
thanh toán xong một hoá đơn cho nhà cung cấp. Người dùng không phải 
đến siêu thị, các điểm thu phí hoặc ngân hàng, không cần mất thời gian 
để viết ủy nhiệm chi....Chỉ mất vài giây, lệnh thanh toán đã được chuyển 
đến ngân hàng. 
- Dễ dàng và thuận tiện: Chỉ cần đăng ký một lần và và người dùng 
chỉ cần đăng nhập khi cần thực hiện thanh toán. Người dùng có thể ra 
lệnh thanh toán ở bất cứ đâu, có thể truy cập Internet và có thể ra lệnh 
thanh toán trên máy di động của mình. 
57 
KẾT LUẬN 
Từ một hai năm nay, khái niệm Thương mại điện tử được thỉnh thoảng 
nhắc đến trên báo, đài, các cuộc họp của Chính phủ, Thành phố... Người 
dân cũng vì thế mà “loáng thoáng” nghe qua về Thương mại điện tử, tuy 
nhiên, phần lớn người dân và doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự 
hiểu rõ về Thương mại điện tử và đặc biệt là lợi ích Thương mại điện tử 
có thể mang lại cho doanh nghiệp, cho người dân, cho nền kinh tế và cho 
xã hội Việt Nam 
Phát triển thương mại điện tử góp phần thúc đẩy thương mại và nâng 
cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập 
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. 
TMĐT tại Việt Nam vẫn còn thiếu nhiều yếu tố để có thể phát triển 
nhanh, trong đó quan trọng nhất là sự chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật lẫn pháp 
lý cũng như hỗ trợ, định hướng từ phía các cơ quan chức năng. 
Như vậy, nhà nước sẽ đóng vai trò tạo lập môi trường pháp lý và cơ 
chế chính sách thuận lợi nhằm thu hút công nghệ tiên tiến và khuyến 
khích doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử; cung cấp các dịch vụ 
công hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử. Phát triển thương mại điện tử 
cần được gắn kết chặt chẽ với việc ứng dụng và phát triển công nghệ 
thông tin và truyền thông. 
Để thực hiện được kế hoạch trên, cần có các chính sách và giải pháp 
chủ yếu như: đào tạo và tuyên truyền, phổ cập về thương mại điện tử; 
hoàn thiện hệ thống pháp luật; phát triển các công nghệ hỗ trợ thương 
mại điện tử trên cơ sở khuyến khích chuyển giao công nghệ từ nước 
ngoài... 
58 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 43817.pdf 43817.pdf