Định hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, BẢNG, BIỂU ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 . 3 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI .3 1.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 3 1.1.1 TTCK: Khái niệm, đặc điểm, các thành phần tham gia TTCK, nguyên tắc hoạt động của TTCK, cơ cấu, chức năng và vai trò của TTCK, xu thế phát triển trên TTCK thế giới .3 1.1.2 Lý thuyết về đầu tư: .8 - 1.1.3 Các hình thức thu hút vốn ĐTNN trên TTCK .10 1.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NĐTNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM . 11 1.2.1. Những tác động tích cực: .12 1.2.2. Những tác động tiêu cực: .13 1.3. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NĐTNN VÀO TTCK TRONG NƯỚC: 15 1.3.1. Ban đầu cho phép NĐTNN sở hữu một tỷ lệ cổ phần thích hợp trong các công ty niêm yết sau đó nâng dần lên 16 1.3.2. Phát hành một loại cổ phiếu riêng cho NĐTNN giao dịch 18 1.3.3. Cho phép đầu tư 100% vốn vào tất cả các công ty trong mọi lĩnh vực, nhưng hạn chế đối với một số ngành nghề đặc biệt quan trọng .19 1.3.4. Xây dựng một “danh sách theo ngành nghề các công ty không có đầu tư nước ngoài” . .20 1.3.5. Ban hành một tỷ lệ mua chứng khoán ban đầu của các NĐTNN cho đợt phát hành IPO . 20 CHƯƠNG 2 . 22 TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THÔNG QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN QUA (7/2000-8/2006) . 22 2.1. TỔNG QUAN TTCK VIỆT NAM: 22 2.1.1. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán 22 2.1.2. Hoạt động của các công ty chứng khoán .25 2.2. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM . 26 2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động của NĐTNN trên TTCK Việt Nam 26 2.2.2. Các giai đoạn thu hút vốn ĐTNN trên TTCK Việt Nam .27 2.2.3. Sự tham gia của các tổ chức đầu tư nước ngoài vào TTCK 41 2.2.4. Phân tích những tác động của giao dịch của NĐTNN đến TTCK Việt Nam . 44 Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 2 2.3. NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ NĐTNN THAM GIA VÀO TTCK VIỆT NAM 45 2.3.1. Quy mô của TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, chất lượng hàng hóa chưa cao 45 2.3.2. TTCK Việt Nam chưa hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm 46 2.3.3. Hệ thống thông tin trên TTCK chưa được quan tâm đầy đủ .46 2.3.4. Hệ thống các văn bản pháp luật còn bất cập và chưa chặt chẽ, năng lực hoạch định chính sách còn yếu . 47 2.3.5. Các thủ tục dành riêng cho các NĐTNN còn rườm rà và không mang tính khuyến khích .48 2.4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ KHẢO SÁT SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NĐTNN VỀ TTCK VIỆT NAM . 50 2.4.1. Quy mô và cơ cấu đầu tư chứng khoán của các NĐTNN: 51 2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định giao dịch của NĐTNN 52 2.4.3. Tiêu chí đầu tư của các NĐTNN .54 2.4.4. Các trở ngại chính đối với việc đầu tư của NĐTNN vào TTCK Việt Nam 54 2.4.5. Thủ tục hành chính đối với NĐTNN .56 2.4.6. Về thông tin trên TTCK .56 2.4.7. Về dịch vụ của các công ty chứng khoán 57 CHƯƠNG 3 . 58 ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI .58 3.1. Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: 58 3.1.1. Mục tiêu: 58 3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK .58 3.1.3. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: .59 3.2. Các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK .60 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán 60 3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần và niêm yết trên TTCK .63 3.2.4. Khuyến khích doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán 65 3.2.5. Thực hiện việc giới thiệu, quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam với các NĐTNN 68 3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với NĐTNN .70 3.2.7. Đa dạng hóa thông tin và tạo chiều sâu về thông tin TTCK 70 3.2.8. Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động các công ty chứng khoán 71 3.2.9. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo về chứng khoán: 73 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

pdf75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2511 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình dung xem trước đây, ở giới hạn 30%, NĐTNN mua rồi “găm” đấy đã phần nào giảm đi tính thanh khoản của thị trường, vậy thì nay với giới hạn mới (49%) và cũng chiến lược mua và nắm giữ, thị trường chắc chắn sẽ kém thanh khoản hơn, vì lượng cổ phiếu lưu thông ít hơn.” Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 50 Còn ông Don Lam, Giám đốc Công ty Quản lý quỹ VinaCapital nói: “Việc mở room là động thái tích cực để thu hút thêm vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK. Động thái này cũng cho thấy nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc đưa TTCK hội nhập vào TTCK tài chính quốc tế. Việc mở room có thể có tác động đến hoạt động của TTCK trong thời gian sắp tới, nhưng về dài hạn thì chưa hẳn. Phần lớn NĐTNN tham gia mua bán chứng khoán hiện nay là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Họ dựa vào năng lực quản trị, hiệu quả hoạt động, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp để quyết định đầu tư chứ không phải cứ mở room là họ mua ngay” Như vậy những động thái của pháp luật cho sự phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian qua tuy đã hết sức tích cực nhưng vẫn chưa thuyết phục tốt được những NĐTNN. Những nghi ngại của nhà đầu tư dựa trên những lý luận chặt chẽ và tầm nhìn xa trông rộng của mình. Họ tỏ ra băn khoăn trước thị trường vốn còn nhỏ bé, chính sách và các quy định pháp lý đến TTCK còn thiếu và chưa rõ ràng, nhất quán. TTCK phải phát triển ở mức độ nhất định với mức độ an toàn cho các luồng vốn đầu tư, ổn định về mặt pháp luật thì mói có thể thu hút được nhiều vốn ĐTNN. 2.4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ KHẢO SÁT SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NĐTNN VỀ TTCK VIỆT NAM Để tìm hiểu mức độ tham gia của các NĐTNN trên TTCK Việt Nam; đồng thời, để tìm hiểu sự đánh giá về việc TTCK Việt Nam về các NĐTNN – một chủ thể quan trọng của TTCK, người viết đề tài này đã thực hiện một cuộc khảo sát ý kiến đánh giá quan điểm của hơn 100 nhà đầu tư nước ngoài cá nhân đã hoặc đang có ý định đầu tư chứng khoán niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM. Hầu hết trong số họ hiện đang là khách hàng giao dịch tại các CTCK, vốn đã có kiến thức và sự hiểu biết nhất định về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Cuộc khảo sát này được thực hiện bằng cách đề nghị các nhà đầu tư trả lời Bản câu hỏi trắc nghiệm (Phụ lục 2 đính kèm). Sau đó, bằng phương pháp tổng hợp thống kê kết quả để đưa ra được đánh giá và quan điểm của các NĐTNN trên TTCK Việt Nam. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 51 Trước tiên, để tìm hiểu những khía cạnh khác của quan điểm nhà đầu tư, chúng ta sẽ bắt đầu từ việc phân tích mục tiêu và quy mô đầu tư cổ phiếu của nhà đầu tư. 2.4.1. Quy mô và cơ cấu đầu tư chứng khoán của các NĐTNN: 2.4.1.1. Về quy mô đầu tư chứng khoán: Kết quả khảo sát về quy mô đầu tư của các NĐTNN lại cho kết quả như sau: Đa số các nhà đầu tư vào cổ phiếu với tổng mức đầu tư từ 20.000 đến dưới 50.000 USD; cụ thể: tổng mức đầu tư từ 10.000 USD trở xuống chiếm 2,5%, tổng mức đầu tư từ 10.000 đến dưới 20.000 USD chiếm 6,4%, tổng mức đầu tư từ 20.000 đến dưới 50.000 chiếm 47%, từ 50.000 USD đến dưới 100.000 USD chiếm tỉ lệ 16,8%, tổng mức đầu tư trên 100.000 USD chiếm 27,3%. Điều này đã cho thấy lượng vốn thực sự hiện đang được đầu tư vào cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài còn khá thấp trong khi tiềm năng của các nhà đầu tư này là rất lớn, chứng tỏ hiện nay TTCK Việt Nam vẫn chưa khai thác được hiệu quả nguồn vốn đáng kể này. Để tìm ra nguyên nhân, chúng ta sẽ nghiên cứu, phân tích các vấn đề ảnh hưởng đến việc đầu tư của NĐTNN vào TTCK Việt Nam như: giá trị vốn hóa, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, chỉ số PE, ngành nghề kinh doanh,… Tuy nhiên khi được hỏi về dự định đầu tư vào TTCK Việt Nam trong tương lai gần, 100% nhà đầu tư đều trả lời sẽ tiếp tục đầu tư. Điều này chứng tỏ TTCK Việt Nam đang có một sức hút nhất định đối với các NĐTNN. 2.4.1.2. Về cơ cấu đầu tư chứng khoán 90% NĐTNN được hỏi đầu tư 100% số vốn đầu tư của mình vào cổ phiếu. Chỉ có 10% NĐTNN có đầu tư vào chứng chỉ quỹ đầu tư với tỷ lệ vốn đầu tư trung bình là 30%. Không có nhà đầu tư nào đầu tư vào trái phiếu. 2.4.1.3. Về cơ cấu đầu tư cổ phiếu Tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết trung bình của các nhà đầu tư được hỏi là 50% và đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết là 50%. Về dự định đầu tư trong tương lai, tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết là 30% và tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu chưa niêm yết là 70%. Như vậy có thể thấy các NĐTNN đang đánh giá khả năng sinh lợi của Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 52 các cổ phiếu chưa niêm yết cao hơn các cổ phiếu niêm yết, do giá cổ phiếu đang rất cao, chỉ số P/E trung bình thị trường niêm yết đã trên 25 lần, cao hơn nhiều so với các thị trường khu vực. Trong khi đó các cổ phiếu chưa niêm yết có mức giá thấp hơn, nhiều công ty chưa niêm yết là những doanh nghiệp có tên tuổi, quy mô lớn và hiệu quả kinh doanh cao. 2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định giao dịch của NĐTNN Khi được yêu cầu đánh giá mức quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào 1 loại cổ phiếu, các NĐTNN đã đưa những đánh giá sau: Bảng 14: Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của NĐTNN: Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư Thứ tự độ quan trọng Vốn điều lệ 1 Lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) 2 Ngành nghề kinh doanh 3 Tỷ lệ nắm giữ của cổ đông Nhà nước và cổ đông bên ngoài 4 Cổ tức/Giá 5 Giá trị vốn hóa 6 Chất lượng của hệ thống quản lý 7 Thương hiệu 8 P/E 9 Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận 10 Như vậy, yếu tố quy mô (vốn điều lệ) là chính là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc mua cổ phiếu của NĐTNN. Tiếp theo chính là tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận được xem là yếu tố ít ảnh hưởng nhất. Người viết đề tài cũng đã tiến hành việc phân tích số liệu giao dịch của NĐTNN trong mối tương quan với các yếu tố định lượng của TTCK. Các yếu tố này được chia làm 3 nhóm: nhóm các chỉ tiêu về quy mô thị trường – bao gồm giá trị vốn hóa thị trường và tổng số lượng cổ phiếu niêm yết (cũng tương tự như tổng vốn Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 53 điều lệ công ty niêm yết), nhóm các chỉ tiêu về chất lượng của chứng khoán – bao gồm ROE trung bình thị trường, P/E trung bình thị trường, P/B trung bình thị trường, tỷ lệ cổ tức/giá trung bình thị trường; và số lượng cổ phiếu tối đa mà NĐTNN được sở hữu theo quy định. Việc phân tích được tiến hành trên số liệu của 1.334 phiên giao dịch từ ngày 28/7/2000 đến 18/7/2006. Kết quả phân tích cho kết quả như sau: Bảng 15: Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị giao dịch mua của NĐTNN Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị giao dịch mua của NĐTNN Hệ số tương quan Tác động Tổng số lượng cổ phiếu niêm yết 0,445299 Cùng chiều Giá trị vốn hóa thị trường 0,456741 Cùng chiều P/E trung bình 0,202355 Cùng chiều P/B trung bình 0,254432 Cùng chiều ROE trung bình 0,381004 Cùng chiều Mức sở hữu cổ phiếu tối đa của NĐTNN theo quy định 0,458888 Cùng chiều (Số liệu tính toán cụ thể được nêu tại Phụ lục 1) Tất cả các yếu tố trên đều đem lại những ảnh hưởng cùng chiều đối với giá trị giao dịch mua của NĐTNN. Trong đó, ảnh hưởng nhiều nhất đến giá trị giao dịch của NĐTNN là chính là mức sở hữu tối đa cổ phiếu của NĐTNN, ảnh hưởng lớn thứ hai là giá trị vốn hóa thị trường và ảnh hưởng thấp nhất là chỉ số P/E trung bình thị trường. Có thể thấy kết quả này khá tương đồng với kết quả điều tra quan điểm của NĐTNN đã đề cập ở trên, đó là ngoài mức sở hữu cổ phiếu tối đa theo quy định thì Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 54 nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đối với quyết định mua cổ phiếu của NĐTNN là quy mô thị trường. 2.4.3. Tiêu chí đầu tư của các NĐTNN Kết quả điều tra về tiêu chí đầu tư của các NĐTNN khi đầu tư vào các cổ phiếu trên TTCK Việt Nam cho thấy đa số các nhà đầu tư đưa ra các tiêu chí sau: Bảng 16: Tiêu chí đầu tư của các NĐTNN Tiêu chí Kết quả Ngành nghề kinh doanh 5 ngành nghề được NĐTNN xem là hấp dẫn nhất bao gồm: hàng tiêu dùng; dược phẩm; nhựa ; xây dựng; cung cấp điện, nước, gas; Vốn điều lệ Tối thiểu 10 triệu USD Lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu (ROE) Tối thiểu 20% P/E Không lớn hơn 15 Tỷ lệ sở hữu của cổ đông Nhà nước Dưới 10% Về tiêu chuẩn ROE tối thiếu 20%, hầu hết các công ty đang niêm yết trên thị trường hiện nay đều đảm bảo. Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cũng chiếm tỷ lệ cao trong các công ty niêm yết. Tính đến 10/10/2006, trong tổng số 49 công ty niêm yết thì chỉ có 5 công ty có vốn điều lệ trên 10 triệu USD, còn P/E trung bình thị trường là 25, cao hơn nhiều so với mức kỳ vọng của các NĐTNN. 2.4.4. Các trở ngại chính đối với việc đầu tư của NĐTNN vào TTCK Việt Nam Khi được hỏi về những trở ngại chính đối với việc đầu tư, đa số các NĐTNN đều cho rằng rào cản ngôn ngữ, sự hạn chế về mặt thông tin và thủ tục hành chính phức tạp đã tác động rất nhiều đến việc đầu tư của họ. Các yếu tố như quy mô thị trường nhỏ bé, NĐTNN bị khống chế tỷ lệ sở hữu và sự thiếu chặt chẽ, nhất quán Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 55 của hệ thống văn bản pháp lý được các NĐTNN đánh giá là tác động nhiều đến việc đầu tư của họ. Bảng 17: Các trở ngại chính đối với việc đầu tư vào TTCK Việt Nam của các NĐTNN Mức độ tác động 1 2 3 4 5 Trở ngại Không tác động Tác động ít Tác động vừa Tác động nhiều Tác động rất nhiều Quy mô thị trường nhỏ với ít công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu niêm yết còn nhỏ bé. Hầu hết các công ty niêm yết có vốn điều lệ nhỏ X Nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị khống chế tỷ lệ nắm giữ đối với cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. X Hệ thống các văn bản pháp lý về thị trường chứng khoán chưa chặt chẽ, nhất quán; các quy định thường xuyên thay đổi. X Thông tin trên thị trường chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng. X Thị trường chứng khoán chưa có các dịch vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại cho việc giao dịch từ xa của các nhà đầu tư X Thủ tục hành chính đối với nhà đầu tư nước ngoài phức tạp, chi phí đầu tư cao. X Nhà đầu tư nước ngoài ít có cơ hội tiếp cận một cách thường xuyên và đầy đủ với các thông tin về thị trường do trở ngại về ngôn ngữ X Dịch vụ của các công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký và trung tâm giao dịch chứng khoán chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài X Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 56 2.4.5. Thủ tục hành chính đối với NĐTNN Các NĐTNN đánh giá như sau về thời gian thực hiện các thủ tục hành chính để NĐTNN có thể tham gia đầu tư: - Thủ tục xin cấp mã số kinh doanh chứng khoán: quá chậm - Thủ tục mở tài khoản góp vốn tại ngân hàng: chậm - Thủ tục mở tài khoản tại công ty chứng khoán: bình thường - Thủ tục mở tài khoản lưu ký tại ngân hàng lưu ký: bình thường Các NĐTNN cũng đề xuất khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các thủ tục hành chính như sau: - Thủ tục xin cấp mã số kinh doanh chứng khoán: 5 ngày làm việc. Hiện nay đây là giai đoạn kéo dài nhất do NĐTNN phải thực hiện nhiều thủ tục công chứng ở nước sở tại và Việt Nam. Thời gian hoàn tất các thủ tục này có thể kéo dài đến 20 ngày. - Thủ tục mở tài khoản góp vốn tại ngân hàng: 5 ngày làm việc - Thủ tục mở tài khoản tại công ty chứng khoán: 5 ngày làm việc - Thủ tục mở tài khoản lưu ký tại ngân hàng lưu ký: 5 ngày làm việc Về chi phí đầu tư, bao gồm các khoản phí xin cấp mã số giao dịch chứng khoán, phí lưu ký, phí giao dịch tại ngân hàng, phí môi giới, hầu hết các nhà ĐTNN đều cho rằng các khoản chi phí này ở mức hợp lý. 2.4.6. Về thông tin trên TTCK Các NĐTNN cho biết thứ tự độ quan trọng của các thông tin cần được cung cấp bằng tiếng Anh như sau: Bảng 18: Thông tin NĐTNN cần được cung cấp Thông tin cần được cung cấp bằng tiếng Anh Thứ tự độ quan trọng Thông tin về đại hội cổ đông các công ty niêm yết 1 Bản tin thị trường hàng ngày 2 Thông tin giao dịch trực tuyến 3 Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 57 Bản cáo bạch công ty niêm yết 4 Thông tin về các công ty niêm yết được cập nhật và đã qua phân tích 5 2.4.7. Về dịch vụ của các công ty chứng khoán Hầu hết NĐTNN thể hiện sự hài lòng đối với dịch vụ của các công ty chứng khoán trên các phương diện: khả năng xử lý lệnh mua bán, khả năng tư vấn đầu tư, khả năng tiếng Anh, khả năng cung cấp giá trực tuyến. Còn khả năng cung cấp các thông tin cập nhật bằng tiếng Anh của các công ty chứng khoán được đánh giá ở mức độ bình thường. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 58 CHƯƠNG 3 ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI 3.1. Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: Ngày 05/08/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 như sau: 3.1.1. Mục tiêu: Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. 3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK 3.1.2.1. Phát triển TTCK phù hợp với các điều kiện thực tế và định hướng phát triển KT-XH của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với thị trường tài chính khu vực và thế giới. 3.1.2.2. Xây dựng TTCK thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả, góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. 3.1.2.3. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để TTCK hoạt động và phát triển; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia TTCK. 3.1.2.4. Bảo đảm tính thống nhất của thị trường tài chính trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển TTCK với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 59 3.1.3. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: 3.1.3.1. Mở rộng quy mô của TTCK tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến năm 2005 đạt mức 2 – 3% GDP và đến năm 2010 đạt mức 10 – 15% GDP. - Tập trung phát triển trái phiếu, trước hết là trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. - Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên TTCK tập trung nhằm tăng quy mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công ty niêm yết. 3.1.3.2. Xây dựng và phát triển các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hóa. - Xây dựng Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở Giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hóa hoàn toàn. - Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). - Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký và thanh toán cho hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng khoán chưa niêm yết. 3.1.3.3. Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK VN - Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: công ty chứng khoán đa nghiệp vụ và công ty chứng khoán chuyên doanh, nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hóa hoạt động nghiệp vụ. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 60 - Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước. - Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hóa các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư. Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. - Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. 3.1.3.4. Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân - Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư... tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của nhà tạo lập thị trường. - Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. 3.2. Các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán Để quản lý tốt nguồn vốn đầu tư nước ngoài qua TTCK thì điều cần thiết đầu tiên là phải có nền tảng và khuôn khổ pháp lý vững chắc. Khung pháp lý hoàn chỉnh và chặt chẽ sẽ hoàn thiện mô hình hoạt động của TTCK, là một cơ sở quan trọng để hình thành một TTCK phát triển lành mạnh. Luật Chứng khoán được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cao và thống nhất đối với các hoạt động của TTCK. Để Luật Chứng khoán có tính thực thi cao, sớm được áp dụng vào Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 61 thực tế hoạt động của TTCK sau khi Nghị định 144/2003 không còn hiệu lực, đồng thời tạo lập một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động về chứng khoán và TTCK, Bộ Tài chính cần sớm ban hành các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán. Luật Chứng khoán được ban hành có nhiều nội dung đổi mới quan trọng, tuy nhiên, một số quy định mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa quy định chi tiết và chưa có các quy định mang tính định lượng. Các quy định cần cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn bao gồm: - Về hình thức chào bán chứng khoán ra công chúng; điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp thành lập mới thụôc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao; chào bán chứng khoán ra nước ngoài. - Điều kiện, hồ sơ, thủ tục niêm yết chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và việc niêm yết chứng khoán tại Sở Giao dịch Chứng khoán nước ngoài. - Về mức vốn thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ; việc thành lập công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam - Thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán. - Về thẩm quyền và mức độ xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK. Do TTCK liên quan liên quan đến nhiều lĩnh vực thuộc đời sống kinh tế - xã hội như vấn đề sở hữu, quan hệ vay mượn, quan hệ kinh tế của các chủ thể nên cần tiến hành nghiên cứu, ban hành, bổ sung, sửa đổi lại Luật Dân sự, Luật Thương mại, các Luật thuế, Luật Chống rửa tiền, Luật Ngân hàng, Pháp lệnh Kế toán - Thống kê…và các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư để tạo tính đồng bộ cho thị truờng, bảo vệ cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi tham gia vào TTCK. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 62 3.2.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp và khuyến khích cổ phần hóa kết hợp với niêm yết Mục đích của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường và quan trọng hơn cả là tạo ra hàng hóa cho TTCK. Một thị trường chỉ có thể hình thành và phát triển khi có hàng hóa và nhu cầu mua bán hàng hóa đó. TTCK chỉ có thể hoạt động khi có các loại chứng khoán lưu hành và nhu cầu mua bán chúng. Do đó có thể coi quá trình cổ phần hóa như là quá trình sản xuất ra các hàng hóa chứng khoán này. Điều quan trọng là gắn tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK. Đến nay, tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chậm do quy trình ra quyết định trong quá trình cổ phần hóa còn dài và phức tạp, nhất là giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp. Mặc dù các văn bản pháp luật về cổ phần hóa như Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC đều có những quy định cụ thể về thời gian thực hiện các giai đoạn của quy trình cổ phần hóa như thời gian xác định doanh nghiệp không quá 6 tháng kể từ thời điểm có quyết định cổ phần hóa, thời gian hoàn tất bán cổ phần không quá 4 tháng kể từ thời điểm được phê duyệt giá phương án cổ phần hóa, nhưng trên thực tế, giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp lại kéo dài rất lâu, có khi hơn 1 năm.. Vì vậy, Chính phủ cần có những biện pháp, những quy định mang tính cưỡng chế các bộ, ngành, tổng công ty, các địa phương và các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hóa phải đảm bảo tiến độ cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cần có các chế tài nghiêm khắc đối với các đối tượng này, nhất là các đơn vị chủ quản. Cần ưu tiên cổ phần hóa trước các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn và vị thế dẫn đầu thị trường trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, điện lực,... nhằm tạo ra nguồn hàng chất lượng cao cho TTCK. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn diễn ra khá chậm do các cơ quan hữu quan tỏ ra khá thận trọng ngay từ giai đoạn lựa chọn tổ chức định giá và tư vấn cổ phần hóa. Tuy nhiên, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng và đánh giá hợp lý những Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 63 lợi ích đối với nền kinh tế, đối với TTCK và đối với chính doanh nghiệp nếu những doanh nghiệp này có thể sớm hoàn tất cổ phần hóa và tham gia ngay vào TTCK. Trước những đòi hỏi cấp bách phải tăng nguồn cung cho TTCK, ngày 04/08/2005, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký quyết định số 2592/QĐ-BTC Về việc ban hành quy trình kết hợp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán. Quy trình này hướng dẫn khá tỉ mỉ, cụ thể các bước thực hiện từ khâu ra quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đến giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa, bán cổ phần cho đến khi hoàn tất cổ phần hóa. Trên thực tế, đến hết tháng 10/2006, nghĩa là sau hơn một năm kể từ ngày có hiệu lực, vẫn chưa có doanh nghiệp nào thực hiện cổ phần hóa kết hợp niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu theo quy trình này. Rõ ràng, ngoài việc xây dựng một cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nhà nước ngay sau khi cổ phần hóa có thể tham gia vào TTCK, việc thay đổi cách nhìn nhận của các doanh nghiệp nhà nước đối với TTCK không phải là điều dễ dàng. Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cũng cần xem xét nguyên nhân tại sao các văn bản pháp luật vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống, phải chăng vì các doanh nghiệp vẫn chưa biết đến những quy định này? Kể từ ngày 01/01/2007, Nghị định 144/2003 sẽ bị bãi bỏ, do đó quyết định 2592 cũng sẽ không còn hiệu lực. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán, cần đưa vào những quy định về kết hợp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước kết hợp với niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. 3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần và niêm yết trên TTCK Từ đầu năm 2004, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) đã được triển khai thí điểm theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính phủ. Tính đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chuyển đổi cho 12 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Sau khi chuyển đổi, các doanh ngiệp Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 64 FDI đều có sự phát triển ổn định. Đặc biệt, đã có 4 doanh nghiệp được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, gồm có: Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya (TYA), Công ty Cổ phần Gạch men Chang Yih (CYC), Công ty Cổ phần Full Power (FPC), Công ty Cổ phần Thực phẩm Quốc tế Interfoods (IFS) và 1 doanh nghiệp được đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là Công ty Cổ phần Công nghiệp Tung Kuang. Hầu hết các doanh nghiệp FDI chuyển đối đều có quy mô khá, tình hình kinh doanh tốt và nhiều tiềm năng tăng trưởng. Sự tham gia của các doanh nghiệp này vào TTCK đã góp phần làm tăng tính sôi động của thị trường và tạo niềm tin cho công chúng đầu tư, đặc biệt là các NĐTNN về quyết tâm mở cửa của nhà nước Việt Nam. Chính vì vậy, việc tiếp tục triển khai chuyển đổi cho các doanh nghiệp FDI là hết sức cần thiết trong thời gian tới để thu hút sự tham gia của các NĐTNN. Sau khi Luật Đầu tư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, Nghị định 38/2003/NĐ-CP đã không còn hiệu lực thi hành. Cho đến nay, văn bản mới hướng dẫn việc chuyển đổi doanh nghiệp FDI thành công ty cổ phần vẫn chưa được ban hành, trong khi hàng hóa trên TTCK vẫn còn khá ít ỏi. Đây là một vấn đề khá bức xúc đối với nhiều doanh nghiệp FDI có nhu cầu chuyển đổi, niêm yết và huy động vốn trên TTCK cũng như đối với các nhà đầu tư trên thị trường. Để giải quyết được vấn đề này, trước hết các cơ quan chức năng cần đánh giá lại kết quả chuyển đổi của 12 doanh nghiệp FDI trong 2 năm vừa qua để có sự điều chỉnh phù hợp trong các quy định. Văn bản mới cần quy định cụ thể thời gian xét duyệt hồ sơ đăng ký chuyển đổi và thời gian cấp giấy phép đầu tư điều chỉnh, tránh trường hợp các cơ quan thẩm định hồ sơ kéo dài thời gian xét duyệt. Kết quả thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI vừa qua cho thấy, thời gian thực hiện chuyển đổi, phát hành và niêm yết của các doanh nghiệp này kéo dài rất lâu, chủ yếu do những kéo dài trong việc xét duyệt phương án chuyển đổi, báo cáo kết quả chuyển đổi và xét duyệt hồ sơ niêm yết. Chẳng hạn, Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya bắt đầu xây dựng phương án chuyển đổi từ cuối năm 2003, nộp phương án vào tháng 4 năm 2004 nhưng đến tháng 10 năm 2004, phương án chuyển đổi của Công ty mới được Bộ Kế Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 65 hoạch và Đầu tư chấp thuận. Sau đó, Công ty tiến hành chào bán cổ phiếu và đến tháng 10 năm 2005, Công ty mới được cấp Giấy phép đầu tư điều chỉnh. Mặt khác, việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp FDI chuyển đổi cũng nên quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán nhằm đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất cao của hệ thống văn bản pháp luật. Để khuyến khích các doanh nghiệp FDI phát hành cổ phiếu và sau đó là niêm yết, cần cho phép các công ty thực hiện bảo lãnh phát hành đối với cổ phiếu do doanh nghiệp FDI phát hành lần đầu. 3.2.4. Khuyến khích doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán Mức độ phát triển TTCK được phản ánh bởi quy mô của các nhà đầu tư, lượng hàng hoá và tính thanh khoản của các chứng khoán trên thị trường. Quy mô vốn của các nhà đầu tư càng lớn, số lượng các nhà đầu tư có tên tuổi càng nhiều, càng chứng tỏ thị trường có nhiều triển vọng. Hàng hoá trên thị trường đa dạng cho thấy TTCK hoạt động hiệu quả và ngày càng có nhiều công ty cần vốn và muốn huy động vốn qua kênh chứng khoán. Lượng vốn luân chuyển lớn chứng tỏ khả năng thanh khoản của thị trường cao. Chính những điểm này là cơ sở tạo ra lòng tin của các nhà ĐTNN về khả năng sinh lợi của thị trường và đi đến quyết định đầu tư. Phát triển nguồn cung cho TTCK bao gồm: tăng số lượng các công ty niêm yết, tăng quy mô vốn của các công ty niêm yết, nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường. Các giải pháp cụ thể để phát triển nguồn cung trên TTCK bao gồm: - Cải cách thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký niêm yết: ƒ Rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính: Hiện nay, một doanh nghiệp có nhu cầu niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh sẽ cần khoảng hơn 4 tháng để thực hiện khá nhiều công đoạn: thuê tổ chức tư vấn, tổ chức đại hội đồng cổ đông để thông qua chủ trương niêm yết, lập hồ sơ đăng ký niêm yết, nộp và giải trình hồ sơ với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, nhận giấy phép niêm yết, thông báo ra công chúng, làm thủ tục đăng ký giao dịch và đăng ký lưu ký, và cuối cùng là chính thức giao dịch. Trong thời gian hơn 4 tháng này thì có đến hơn 2 Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 66 tháng thực hiện thủ tục hành chính với cơ quan quản lý nhà nước, trong đó, giai đoạn kéo dài nhất chính là giai đoạn chờ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ (45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ). Để có thể phát triển quy mô thị trường theo đúng lộ trình vạch ra tại Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần rút ngắn thời gian phê duyệt hồ sơ. Để làm được điều này, Uỷ ban cần có chiến lược phát triển nhân sự theo hướng tăng số lượng cán bộ thẩm định và tuyển dụng cán bộ có kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ cao cũng như có kế hoạch đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ. Mặt khác, việc nghiên cứu để rút ngắn tối đa thời gian thực hiện quy trình đăng ký giao dịch, đăng ký lưu ký tại các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán cũng rất cần thiết. ƒ Hạn chế tối đa những giấy tờ trùng lắp hoặc không cần thiết: Một trong những nguyên nhân làm kéo dài quá trình xét duyệt hồ sơ đăng ký niêm yết là việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thường xuyên yêu cầu doanh nghiệp phải nộp thêm những giấy tờ ngoài quy định tại Nghị định 144/2003 và Thông tư 59/2004 hướng dẫn về việc niêm yết. Điều này không những làm chậm trễ tiến độ niêm yết của doanh nghiệp mà còn có thể ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước về TTCK. - Các điều kiện niêm yết cần linh hoạt hơn: Theo quy định tại Nghị định 144/2003 và các văn bản hướng dẫn, khi xin phép niêm yết, doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính 2 năm liên tục trước năm xin phép và báo cáo này phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận; đồng thời ý kiến kiểm toán phải thể hiện chấp nhận toàn bộ, nếu chấp nhận có ngoại trừ thì các khoản mục ngoại trừ không vượt quá 10% vốn chủ sở hữu. Đây thực sự là những quy định bó buộc, cản trở việc niêm yết của các doanh nghiệp lớn, có hoạt động kinh doanh hiệu quả. Nên chăng, quy định về tổ chức kiểm toán được chấp thuận chỉ áp dụng cho năm Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 67 tài chính liền kề năm doanh nghiệp xin đăng ký niêm yết. Bên cạnh đó, cần quy định rõ ràng các khoản mục ngoại trừ nào vẫn được chấp nhận để tránh gây tranh cãi. - Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty niêm yết: Để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết, các biện pháp ưu đãi về thuế nên được xem xét giữ lại hoặc chuyển sang ưu đãi bằng một hình thức khác. Ngày 08/09/2006, Bộ Tài chính đã có công văn số 10997/BTC-CST, theo đó, kể từ ngày 01/01/2007, toàn bộ chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty niêm yết sẽ bị bãi bỏ. Bộ Tài chính cũng đã tuyên bố sẽ từng bước bãi bỏ chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Như vậy đối với khá nhiều doanh nghiệp chưa thể niêm yết trong năm 2006, đây thực sự là một cản trở vì đối với họ lợi ích trước mắt đến từ việc niêm yết là được giảm thuế đã không còn nữa. Trong khi đó những lợi ích khác như khả năng huy động vốn với giá rẻ thì không phải doanh nghiệp nào cũng tận dụng được và việc huy động vốn có thành công hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan của thị trường. Mặt khác, sau khi niêm yết, các doanh nghiệp phải chịu rất nhiều áp lực do phải tuân thủ chặt chẽ các quy định hiện hành trên TTCK, việc công khai, minh bạch tài chính sẽ gây bất lợi trong cạnh tranh khi đối thủ biết rõ thông tin của doanh nghiệp… - Đối với các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa kết hợp niêm yết, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần có sự hỗ trợ tối đa, bao gồm: ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, giảm thiểu thời gian xét duyệt hồ sơ, quy định linh hoạt hơn về các điều kiện niêm yết, đặc biệt là các điều kiện liên quan đến kiểm toán. - Nghiên cứu để từng bước triển khai thị trường giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, quyền chọn,.... để đa dạng hóa các loại chứng khoán trên thị trường và giúp nhà đầu tư có những công cụ phòng ngừa rủi ro khi đầu tư. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 68 - Khuyến khích các công ty niêm yết phát hành cổ phiếu huy động thêm vốn thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục cấp phép. Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần có những quy định riêng đối với việc phát hành thêm cổ phiếu của công ty niêm yết theo hướng nới lỏng hơn so với các công ty chưa niêm yết trên tất cả các khía cạnh từ điều kiện phát hành, các loại hồ sơ cần nộp cho đến thời gian phê duyệt hồ sơ. Lý do là, hồ sơ của các công ty này đều đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thẩm định khi phê duyệt niêm yết, thông tin của các công ty này đều được các cơ quan quản lý thường xuyên cập nhật do các quy định về công bố thông tin định kỳ, bất thường và theo yêu cầu. Vì vậy, nếu các quy định về việc phát hành của các công ty niêm yết và các công ty chưa niêm yết là như nhau thì sẽ bất hợp lý. Một thực tế đang diễn ra hiện nay là, khi xin phép phát hành cổ phiếu, các công ty niêm yết cũng phải thực hiện tất cả các thủ tục như các công ty chưa niêm yết. Đây là một điều bất hợp lý, làm kéo dài thời gian phát hành và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và tình hình chung của thị trường. - Nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường bằng việc thu hút được các công ty lớn, hoạt động hiệu quả và có uy tín lên niêm yết. Muốn thực hiện được điều này, bên cạnh chính sách tiếp thị hiệu quả, Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành thống nhất chủ trương niêm yết các doanh nghiệp lớn ngay từ giai đoạn cổ phần hóa để có được những bước đi thích hợp, kịp thời. 3.2.5. Thực hiện việc giới thiệu, quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam với các NĐTNN - Tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị hoặc xúc tiến đầu tư bằng hình thức tổ chức sự kiện ở Việt Nam và nước ngoài để giới thiệu cơ hội đầu tư vào Việt Nam, thành phần tham dự sẽ là các cơ quan quản lý TTCK ở các nước và các tổ chức đầu tư nước ngoài tiềm năng. Để các sự kiện này thực sự phát huy hiệu quả, các cơ quan hữu quan cần phối hợp với các công ty chuyên tổ chức sự kiện có uy tín trong nước và nước ngoài. Kinh nghiệm thành công của Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 69 những hội thảo trước đây do một số công ty quản lý quỹ tổ chức đã cho thấy cần nhân rộng mô hình này để thu hút sự chú ý của các NĐTNN đối với TTCK Việt Nam. - Quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam trên các phương tiện truyền thông nước ngoài, đặc biệt là các cơ quan báo chí chuyên về tài chính và đầu tư. Bên cạnh đó, thông qua các diễn đàn đầu tư, các tổ chức xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư tham gia vào TTCK Việt Nam. - Tận dụng kênh thông tin sẵn có và rất hữu hiệu là các NĐTNN đang đầu tư trực tiếp hay gián tiếp vào Việt Nam – những người đã có những hiểu biết sâu sắc về Việt Nam và đã gặt hái nhiều thành công trên thị trường Việt Nam - để giới thiệu Việt Nam với các NĐTNN tiềm năng. Đặc biệt, hiện nay trên TTCK Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức tài chính lớn hàng đầu thế giới, có uy tín và tiếng nói trong giới đầu tư tài chính quốc tế. Thiết nghĩ, các cơ quan hữu quan từ Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán cho đến các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nên phối hợp với các tổ chức này để thực hiện việc tiếp thị cho TTCK Việt Nam. - Các cơ quan quản lý TTCK Việt Nam cần mở rộng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan quản lý TTCK ở các nước phát triển cũng như các thị trường mới nổi, một mặt để học tập kinh nghiệm và tìm kiếm những hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính, pháp lý, mặt khác để góp phần giúp TTCK Việt Nam được biết đến trên quy mô toàn cầu. - Nâng cấp về mặt kỹ thuật và cải tiến nội dung các trang web của các tổ chức hoạt động trên TTCK, kể cả trang web của các công ty niêm yết. Nội dung các trang web cần được cập nhật liên tục với ít nhất 2 ngôn ngữ Anh, Việt. Thông tin đưa lên trang web cần đầy đủ và có hệ thống để nhà đầu tư có thể tra cứu một cách dễ dàng. - Ủy ban Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán cần phối hợp với các công ty chứng khoán để gửi tài liệu giới thiệu tổng quan về TTCK cũng Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 70 như các báo cáo và thông tin định kỳ về diễn biến giao dịch thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thị trường OTC cho các tổ chức đầu tư nước ngoài tiềm năng. 3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với NĐTNN - Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với các NĐTNN, loại bỏ những giấy tờ rườm rà, không cần thiết trong quá trình thực hiện thủ tục xin mã số kinh doanh chứng khoán, thủ tục mở tài khoản góp vốn tại ngân hàng của NĐTNN. Các cơ quan chức năng cần có sự cố gắng tối đa để các NĐTNN luôn cảm thấy mình được đối xử công bằng với các nhà đầu tư trong nước. - Chính phủ cần sớm công bố danh sách các ngành nghề hạn chế người nước ngoài đầu tư, nâng tỷ lệ của nhà đầu tư nước ngoài vào trong các công ty cổ phần không nằm trong danh sách hạn chế đầu tư. - Bộ tài chính nên quy định mức phí tối đa của các công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký nước ngoài về các loại phí thu của NĐTNN như phí lưu ký, phí thanh toán, phí môi giới, phí nhận cổ tức, phí xin mã số kinh doanh chứng khoán theo hướng ưu đãi hơn để thu hút sự tham gia của nhiều NĐTNN, nhất là các nhà đầu tư cá nhân. 3.2.7. Đa dạng hóa thông tin và tạo chiều sâu về thông tin TTCK Hoạt động thông tin là một trong những công cụ quan trọng giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh, hiệu quả và kịp thời, góp phần đưa TTCK tiến đến hội nhập với khu vực và thế giới. Để cải tiến hệ thống thông tin trên TTCK, cần thực hiện các giải pháp sau: - Các thông tin và ấn phẩm chính thức trên thị trường như Bản tin TTCK, thông tin trên website của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, bản cáo bạch và báo cáo tài chính của các công ty niêm yết, các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK cần được thể hiện bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh nhằm tạo điều kiện cho các NĐTNN được tiếp cận kịp thời và đầy đủ thông tin của thị trường. Nếu có thể, các ấn phẩm nói trên nên được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Hoa, Nhật, Pháp,... để phục Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 71 vụ cho các nhà đầu tư đa quốc tịch như hiện nay. Để làm được điều này, các cơ quan quản lý cần thành lập một bộ phận chuyên trách NĐTNN để xây dựng các ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài cũng như tiếp nhận những phản hồi của NĐTNN để có những điều chỉnh phù hợp về chính sách. - Ngoài các thông tin dạng “thô” nói trên, các nhà đầu tư trên thị trường, trong đó có các NĐTNN thực sự rất cần những thông tin đã được phân tích và thể hiện ý kiến tư vấn của các nhà môi giới. Trách nhiệm của các công ty chứng khoán là cung cấp các báo cáo phân tích tổng quan nền kinh tế, tổng quan thị trường chứng khoán, phân tích một số ngành quan trọng trong nền kinh tế và phân tích các loại chứng khoán trên thị trường. Hiện nay, vấn đề này vẫn chưa được đầu tư đúng mức do nhiều công ty chứng khoán gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm. - Nâng cấp trình độ công nghệ của TTCK: đầu tư các thiết bị hiện đại để đổi mới hoàn toàn hệ thống giao dịch của TTGDCK, các công ty chứng khoán theo hướng giao dịch tự động trên internet, không qua sàn; đầu tư nâng cấp các trang web liên quan đến TTCK để tăng dung lượng và tốc độ truy cập. 3.2.8. Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động các công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một chủ thể đóng vai trò rất quan trọng trên TTCK. Các công ty chứng khoán không những là cầu nối giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp mà trình độ phát triển của công ty chứng khoán còn thể hiện trình độ phát triển của TTCK, tạo ấn tượng đầu tiên của nhà đầu tư đối với TTCK. Ở các nước có TTCK phát triển, công ty chứng khoán là nhà môi giới và tư vấn đầu tư chuyên nghiệp với đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ cao. Trong khi đó, hiện nay trên TTCK Việt Nam đang tồn tại một thực trạng là hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán không có chiều sâu do chỉ dừng lại ở việc nhận và xử lý lệnh mua bán cho khách hàng. Nguyên nhân chính là do đa số nhà đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ, không có trình độ chuyên sâu về tài chính và chứng khoán. Sự tập trung vào hoạt động môi giới cho nhà đầu tư cá nhân đã dẫn đến tình trạng thiếu Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 72 các công ty chứng khoán được đầu tư chiều sâu cho hoạt động môi giới và tư vấn đầu tư, làm cho chất lượng dịch vụ cung cấp cho các nhà đầu tư, đặc biệt là NĐTNN bị ảnh hưởng. Vì vậy, TTCK rất cần những công ty chứng khoán có chiến lược phát triển khách hàng là tổ chức (trong đó có tổ chức nước ngoài), có sự đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng hoạt động môi giới, có khả năng cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng. Trong tương lai, cùng với sự bùng nổ của làn sóng đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, khuynh hướng kinh doanh này của các công ty chứng khoán có nhiều hứa hẹn sẽ thành công. Vì vậy các công ty chứng khoán nên xem xét vấn đề này. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các công ty chứng khoán chỉ được phép cung cấp dịch vụ môi giới đối với các chứng khoán niêm yết. Trong trường hợp các chứng khoán chưa niêm yết, các công ty chứng khoán chỉ được phép bảo quản hoặc lưu trữ cổ phiếu. Trong khi đó, thị trường cổ phiếu chưa niêm yết lại có quy mô lớn gấp nhiều lần thị trường niêm yết, các nhà đầu tư, trong đó các NĐTNN, cũng rất mong muốn có địa điểm giao dịch chính thức cũng như có tổ chức môi giới được cấp phép để giảm thiểu rủi ro khi mua bán trên thị trường này. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán, trước hết, các cơ quan quản lý nên xem xét việc cho phép các công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ môi giới cho các chứng khoán chưa niêm yết, thành lập sàn giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết tại các công ty chứng khoán. Đối với một công ty chứng khoán, để có được nhiều khách hàng là các tổ chức đầu tư nước ngoài, yếu tố quan trọng đầu tiên chính là sự phát triển của hoạt động bảo lãnh phát hành tại công ty chứng khoán đó. Vì khi đẩy mạnh họat động này, công ty chứng khoán sẽ có nguồn cổ phiếu phát hành rất dồi dào để chào bán cho các nhà đầu tư là khách hàng của mình. Mặt khác, các tổ chức tài chính nước ngoài thường có nhu cầu mua cổ phiếu với số lượng lớn và với một mức giá xác định hơn là phải tham gia đấu giá. Hoạt động bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán sẽ đáp ứng được nhu cầu này, do cổ phiếu do công ty chứng khoán bảo lãnh thường được chào bán riêng lẻ cho một số ít nhà đầu tư. Đến thời điểm hiện tại, hoạt Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 73 động bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán vẫn chưa thực sự phát triển, các đợt bảo lãnh phát hành lớn chỉ do một vài công ty chứng khoán lớn đảm nhận, những công ty chứng khoán còn lại hầu như chưa thực hiện được hợp đồng nào. Một trong những nguyên nhân chính là công ty chứng khoán không được phép bảo lãnh đối với việc phát hành lần đầu ra công chúng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Để khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát hành, các văn bản pháp luật về cổ phần hóa cần kết nối với Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn, cụ thể là công ty chứng khoán được phép bảo lãnh cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. 3.2.9. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo về chứng khoán: Đến thời điểm hiện tại, đơn vị duy nhất có chức năng đào tạo các chứng chỉ về chứng khoán và TTCK là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Đào tạo Chứng khoán, trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Do những hạn chế về số lượng giảng viên nên con số học viên của mỗi khóa đào tạo của đơn vị này chỉ dừng lại ở mức vài trăm người. Trong khi đó, nhu cầu được đào tạo những kiến thức cơ bản và chuyên sâu về TTCK lại rất lớn, trước hết là nhu cầu của các nhà đầu tư đang tham gia thị trường (hơn 50.000 người) và rất nhiều nhà đầu tư tiềm năng đang quan tâm đến TTCK. Quan trọng hơn cả là nhu cầu đào tạo cho đội ngũ cán bộ lên tới hàng ngàn người của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các cơ quan quản lý nhà nước để đáp ứng được mục tiêu phát triển của thị trường. Để đáp ứng được yêu cầu này, cần phát triển Trung tâm NCKH & ĐTCK thành một Viện nghiên cứu về TTCK có quy mô lớn, ngoài việc đầu tư cho đội ngũ giảng viên chính thức, cơ quan này cần có biện pháp thu hút hơn nữa sự cộng tác của các chuyên gia đang công tác trên các lĩnh vực khác nhau của TTCK. Công tác đào tạo cán bộ ở nước ngoài cũng cần được coi trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của TTCK Việt Nam. Vì vậy, trước tiên cần phải tăng chỉ tiêu cho ngành học Tài chính - Chứng khoán ở các chương trình du học bằng ngân sách nhà nước. Sau đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn cán bộ ở Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 74 nước ngoài và triển khai đào tạo dài hạn từ 2 năm trở lên cho cán bộ ngành chứng khoán thông qua việc hợp tác với các tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo chuyên ngành chứng khoán ở cấp độ đại học và sau đại học. Để tăng cường hiệu quả đào tạo, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ có thể cử các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm của mình để hỗ trợ việc giảng dạy ở trường đại học. Chương trình học cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, trong quá trình học sinh viên có thể thực tập tại các công ty chứng khoán hay Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Các cơ quan quản lý cũng cần chú trọng hơn nữa việc tuyên truyền về TTCK. Mặc dù thời gian gần đây, công tác tuyên truyền về TTCK được thực hiện khá tốt thông qua việc cập nhật các tin tức thị trường và thực hiện các chương trình chuyên đề trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên, để việc tuyên truyền thực sự phát huy hiệu quả, trước tiên cần phổ biến những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho các tầng lớp nhân dân. Báo viết, đài phát thanh, đài truyền hình sẽ là những kênh thông tin hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, các cơ quan hữu quan nên tổ chức các buổi giới thiệu về TTCK ở các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan chính trị xã hội, các địa phương ở cấp quận, huyện,... Các công ty chứng khoán cũng nên cung cấp cho các nhà đầu tư tài liệu giới thiệu về TTCK với nội dung dễ hiểu, súc tích và đầy đủ. Ngoài ra, các công ty chứng khoán cũng có thể tổ chức các lớp học cơ bản về TTCK cho các nhà đầu tư mới, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết chung của dân chúng về TTCK. Giải pháp tiếp theo là các cơ quan quản lý nhà nước cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về TTCK cũng như vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. TTCK Việt Nam tuy sinh sau đẻ muộn nhưng có được lợi thế là những người đi sau, được tiếp nhận công nghệ quản lý và vận hành của những nước đi trước. Để vận dụng thành công những kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 75 ta cần phải nghiêm túc nghiên cứu tiến trình, những bước đi của họ, từ đó tổng kết và rút ra bài học cho chúng ta, đồng thời áp dụng linh hoạt vào tình hình thực tiễn của đất nước. Cuối cùng, cần tăng cường hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nuớc trong khu vực và thế giới để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm, dần dần áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào thị trường Việt Nam, từng bước đưa TTCK hòa vào tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán Tóm lại, để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Chính phủ và các ban ngành, các doanh nghiệp tạo ra một cơ chế và động lực thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển đúng với đường lối mà Đảng và Nhà nước đề ra nhiệm vụ cho ngành chứng khoán. Đó là huy động nguồn vốn để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐịnh hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới.pdf
Luận văn liên quan