Đinh nghĩa tâm lý người - Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
I.Bản chất hiện tượng tâm lý:
+ Quan niệm khoa học về bản chất hiện tượng tâm lý người: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não bộ não,là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người .Tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
II.Tâm lý người mang bản chất xã hội và có tính lịch sử:
5 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 55241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đinh nghĩa tâm lý người - Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài:Em hãy trình bày đinh nghĩa tâm lý người.Chứng minh tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử.
Bài làm:
I.Bản chất hiện tượng tâm lý:
Có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất hiện tượng tâm lý người
+ Quan niệm duy tâm cho rằng tâm lý của con người là do thượng đế, do trời sinh ra và nhập váo thể xác con người. Tâm lý con người không phụ thuộc vào thế giới khách quan cũng như điều kiện thực tại của đời sống. Cũng có những nhà duy tâm cho rằng tâm lý con người là một trạng thaí tinh thần sẵn có trong con người, nó không gắn gì vào thế giới bên ngoài và cũng không phụ thuộc gì vào cơ thể.
+ Quan niệm duy vật tầm thường: Cho rằng tâm lý tâm hồn cũng như mọi sự vật hiện tượng đều được cấu tạo từ vật chất, do vật chất trực tiếp sinh ra, tâm hồn giống như gan tiết ra mật, họ đem đồng nhất cái vật lý, cái sinh lý với cái tâm lý, phủ nhận vai trò của chủ thể, tính tích cực năng động của tâm lý, ý thức, phủ nhận bản chất xã hội của tâm lý và tính tích cực của tâm lý con người.
+ Quan niệm khoa học về bản chất hiện tượng tâm lý người: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não bộ não,là kinh nghiệm xã hội lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người .Tâm lý người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người
Tâm lý người không phải do Chúa, thượng đế hay một đấng tạo hóa nào sinh ra, hay hay do não tiết ra như gan tiết ra mật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
Phản ánh là thuộc tính chung của tất cả các sự vật hiệntượng trong thế giới, đó là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này với hệ thống khác và kết quả là đều để lại dấu viết ở cả 2hệ thống. Phản ánh diễn ra dưới nhiều cấp độ,từ đơn giản đến phứctạp. có nhiều loại phản ánh: phản ánh cơ, phản ánh vật lý, phản ánh sinh vật, phản ánh hóa học, phản ánh xã hội và phản ánh tâm lý.
Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt. Bởi vì, đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào não người, hệ thần kinh ở người-tổ chức đặc biệt, tiến hóa hơn so với các loài động vật khác. Phản ánh tâm lý tạo ra những “hình ảnh tâm lý”, bản “sao chụp” về thế giới. Hình ảnh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo, thể hiện tính chủ thể và đậm màu sắc cá nhân.
Tóm lại, tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người. Con người phản ánh thế giớibằng hình ảnh tâm lý thông qua lăng kính chủ quan. Vì thế, khi nghiên cứu tâm lý người cần phải đặt trong bối cảnh của hiện thực khách quan nơi con người sinh sống và hoạt động. Tâm lý người mang tính chủ thể nên trong dạy học và giáo dục cũng như giao tiếp, ứng xử cần phải tôn trọng cái đặc trưng riêng của người khác.
- Hiện thực khách quan: là những cái tồn tại xung quanh chúng ta, có cái nhìn thấy được, có cái không nhìn thấy được .
Hiện thực khách quan phản ánh vào não người nảy sinh ra hiện tượng tâm lý.
Nhưng sự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh khác ở chỗ đây là sự phản ánh đặc biệt – Phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của mỗi người:
+ Hình ảnh tâm lý mang tính chất sinh động, sáng tạo.
+ Hình ảnh tâm lý mang tính chất chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân, hay nói cách khác hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan, hình ảnh tâm lý mang tính chất chủ thể .
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:
Cùng nhận sự tác động của thế giới, về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những chủ thể khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức độ khác nhau. Cùng một hiện thực khách quan, tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
Nguyên nhân sự khác nhau:
Do mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác quan, hệ thần kinh , và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục cũng không như nhau và đặc biệt là mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao lưu khác nhau trong hoạt động, vì vậy tâm lý người này khác người kia.
Rút ra một số kết luận
- Tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới khách quan, vì thế khi ngiên cứu cũng như khi hình thành cải tạo tâm lý phải nghiên cứu hoàn cảnh con người đó sống và hoạt động.
- Tâm lý người mang tính chất chủ thể, nên trong giáo dục, quản lý con người phải chú ý đến nguyên tắc sát đối tượng.
- Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạt động và giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý người.
II.Tâm lý người mang bản chất xã hội và có tính lịch sử:
Con người là tổng hòa các qua hệ xã hội, con người sống trong những môi trường xã hội nhất định, lĩnh hội nềnvăn hóa xã hội ấy vì thế tâm lý của con người mang bản chất xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, những ảnh hưởng của nền văn hóa xã hội, yếu tố chính trị, giao tiếp, hoạt động… sẽ có những tác động khác nhau đến sự phát triển của con người. Vì thế, tâm lý con người cũng thể hiện tính lịch sử.
1.Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lý người thể hiện như sau:
* Bản chất xã hội :
Tâm lý người có nguồn gốc là thế giới khách quan, trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định. Ngay cả phần tự nhiên của thế giới cũng được xã hội hóa .Phần xã hội của thế giới quyết định tâm lý người thể hiện qua các quan hệ kinh tế xã hội, quan hệ đạo đức, pháp quyền, các mối quan hệ con người – con người… Các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lý người(bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội)
Trên thực tế nếu con người thoát ly khỏi các quan hệ xã hội,quan hệ người –người thì tâm lý sẽ mất hẳn tính người.
Những đứa con nuôi của thú rừng
Những đứa trẻ này có số phận giống hệt như cậu bé Tarzan, chúng được gọi với cái tên như người sói, người gấu, người lợn…
Năm 1988 ở cả nước Đức bàng hoàng trước sự xuất hiện của một cậu bé người chó. Nguyên do của vấn đề này đó là do một cặp vợ chồng quá mải mê công việc tới mức không thể chăm sóc con cái thay vào đó chú chó lâu năm của gia đình đã hàng ngày làm thay nghĩa vụ làm cha mẹ của cặp vợ chồng này và ngày qua ngày chăm sóc cậu bé người chó khiến cậu bé càng lớn càng có các hoạt động giống... chó.Một trường hợp tương tự như vậy, vừa mới được phát hiện trong năm nay (2009), cô bé có tên Natasha sinh sống trong một căn hộ bẩn thỉu ở thành phố Chica, thuộc vùng Siberia. Trong suốt 5 năm, cô bé được chó, mèo nuôi dưỡng và chưa từng được ra bên ngoài do vậy không thể nói tiếng người mà chỉ có thể sủa giống hệt chó.Người thú có cuộc sống kéo dài nhất là cậu bé người khỉ John Sebunya, cậu đã được lũ khỉ đầu chó nuôi từ năm lên 4 tuổi. Năm 1991, cậu được phát hiện tại Uganda khi đang đánh đu trên những cành cây. Sau đó một tổ chức cứu trợ trẻ em mồ côi đã nhận nuôi John. Cậu được dạy chữ, học nói và hòa đồng dần với cộng đồng dân cư bản địa. Ngày 13/10/1999, trong chương trình Bằng chứng sống (Living Proof) mang tên Cậu bé sống cùng bầy khỉ (The Boy who Live with Monkeys) của đài truyền hình BBC, John đã kể lại quãng thời gian sống trong rừng sâu: "Tôi chỉ có thể nhớ lại được vài sự kiện khi tôi sống giữa lũ khỉ đầu chó. Thức ăn của tôi chủ yếu là dế, trứng đà điểu, quả lê gai, ngô xanh và mật ong rừng. Tôi đi bằng cả bốn chân tay và ngủ trong bụi rậm hoàn toàn trần trụi. Một ngày nọ tôi đang đi tìm thức ăn cùng với đồng bọn thì bị hai cảnh sát bắt". Hiện, John đang có một cuộc sống vui vẻ trongTrung tâm cứu trợ nhân đạo tại Kampala, Uganda.
Trường hợp người thú được ghi nhận kỹ lưỡng nhất thuộc về 2 trẻ em người sói ở Ấn Độ sống vào những năm 1920. Một mục sư tên là Singh đã phát hiện ra 2 em trong một lần đến một làng hẻo lánh giảng đạo. Chính ông đã viết một cuốn sách dày tường thuật lại chi tiết trường hợp này với nhiều bức ảnh minh họa từ khi được phát hiện cho đến khi hai nhân vật qua đời. Đó là 2 bé gái, đứa lớn độ tám tuổi và đứa nhỏ chừng một tuổi rưỡi. Chúng được mục sư Singh đưa về nuôi ở một cô nhi viện. Mặc dầu được nuôi nấng và chăm sóc rất nhiệt tình nhưng chúng vẫn không bỏ được tính sói. Chúng gần như ngủ suốt ngày và đi tìm thức ăn lúc chạng vạng tối. Chúng làm tất cả mọi người kinh ngạc vì chạy bằng cả bốn chân tay, thỉnh thoảng lại hú lên như sói và luôn lẩn tránh ánh sáng mặt trời. Đôi mắt chúng nhìn trong bóng đêm có vẻ tinh nhạy hơn mắt người thường. Chúng cũng khiến mọi người khiếp sợ bởi cách tợp nước bằng lưỡi và ý thích ăn thịt sống, kể cả thịt đã thối rữa hơn là rau và thức ăn làm từ ngũ cốc. Chúng tránh làm bạn với người nhưng lại thích chơi với lũ chó trong cô nhi viện. Sau một thời gian, đứa lớn chết vì bệnh lỵ, còn đứa nhỏ thì 10 năm sau đó cũng qua đời. Trong suốt 10 năm chăm sóc nuôi dạy, đứa trẻ đã tập được nhiều tính người như tự mặc được quần áo, ăn uống và tập đọc. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nó vẫn có ý muốn chạy trốn vào rừng.
Vì vậy khi sinh ra là con người nhưng không sống trong xã hội loài người, trong các mối quan hệ người – người thì sẽ không có tâm lý người bình thường.
Tâm lý người là sản phẩm hoạt động giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội.Tâm lý của con người là sản phẩm của con người với tư cách là chủ thể xã hội,vì thế tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người
Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả lĩnh hội tiếp thu vốn kimh nghiệm xã hội loài người, nền văn hoá xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo.Hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định.
* Tính chất lịch sử:
Tâm lý con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi người chịu sự ức chế bởi lịch sử cá nhân và cộng đồng.
Văn hóa dân tộc Việt Nam nảy sinh từ một môi trường sống cụ thể: xứ nóng, nhiều sông nước, nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh lớn. Điều kiện tự nhiên (nhiệt, ẩm, gió mùa, sông nước, nông nghiệp trồng lúa nước...) đã tác động không nhỏ đến đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc, đến tính cách, tâm lý con người Việt Nam.Tuy nhiên, điều kiện xã hội và lịch sử lại là những yếu tố chi phối rất lớn đến văn hóa và tâm lý dân tộc. Cho nên cùng là cư dân vùng trồng lúa nước, vẫn có những điểm khác biệt về văn hóa giữa Việt Nam với Thái Lan, Lào, Indonesia, Ấn Độ... Cùng cội nguồn văn hóa Đông Nam Á, nhưng do sự thống trị lâu dài của nhà Hán, cùng với việc áp đặt văn hóa Hán, nền văn hóa Việt Nam đã biến đổi theo hướng mang thêm các đặc điểm văn hóa Đông Á.Dân tộc Việt Nam hình thành sớm và luôn luôn phải thực hiện các cuộc chiến tranh giữ nước, từ đó tạo nên một đặc trưng văn hóa nổi bật: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc.
Từ những luận điểm trên cần chú ý nghiên cứu môi trường xã hội, các quan hệ xã hội để hình thành và phát triển tâm lý, cần tổ chức có hiệu quả hoạt động đa dạng ở từng giai đoạn lứa tuổi khác nhau giúp cho con người lĩnh hội nền văn hoá xã hội để hình thành và phát triển tâm lý con người.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tam ly.doc
- Hi7879u qu7843 l m7909c tiu m con ng4327901i ph7843i t.doc