Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu hết các nước đang 
phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Kcal tối thiểu 
cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2.100 Kcal/người/ngày. Những người 
có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực, 
thực phẩm. 
Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính 
cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, ta có đường đói nghèo chung. 
Năm 1993, đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệu đồng/năm/người (cao hơn 
đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 55%); năm 1998 là 1,79 triệu đồng/năm/ người (cao 
hơn đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 39%). Dựa trên các ngưỡng nghèo này, tỷ lệ đói 
nghèo chung năm 1993 là 58% và 1998 là 37,4%; còn tỷ lệ đói nghèo lương thực tương ứng là 
25% và 15%.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
30 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 13720 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Định nghĩa về nghèo đói và chuẩn nghèo ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác định ngưỡng nghèo thường được thực hiện bằng cách tìm ra tổng chi phí cho tất cả các 
sản phẩm thiết yếu mà một người lớn trung bình tiêu thụ trong một năm. Phương pháp tiếp cận 
này dựa trên cơ sở rằng cần một mức chi tiêu tối thiểu để đảm bảo duy trì cuộc sống. Đây đã là 
cơ sở ban đầu của ngưỡng nghèo ở Hoa Kỳ, mức chuẩn này đã được nâng lên theo lạm phát. 
Trong các nước đang phát triển, loại chi dùng đắt nhất trong các khoản là trả cho thuê nhà (giá 
thuê căn hộ). Do đó, các nhà kinh tế đã đặc biệt chú ý đến thị trường bất động sản và giá thuê 
nhà vì ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng lên ngưỡng nghèo. Các yếu tố cá nhân thường được 
nghiên cứu như vị trí trong gia đình: người đó có phải là bố mẹ, người già, trẻ con, kết hôn hay 
không, v.v. 
- Các vấn đề trong việc sử dụng ngưỡng nghèo 
Sử dụng ngưỡng nghèo thường có vấn đề vì có một mức thu nhập tiệm cận trên ngưỡng này về 
bản chất không khác mấy so với mức thu nhập tiệm cận dưới: các hiệu ứng tiêu cực của nghèo có 
xu hướng liên tục hơn là rời rạc và mức thu nhập thấp tương tự tác động những người khác nhau 
theo những cách khác nhau. Để vượt qua được điều này, các chỉ số nghèo đói đôi khi được sử 
dụng thay vì ngưỡng nghèo; xem income inequality metrics. 
Một ngưỡng nghèo dựa trên phương pháp tiêu chuẩn đánh giá thu nhập định lượng, hay dựa trên 
số lượng thuần túy. Nếu các chỉ số phát triển con người khác như y tế và giáo dục được sử dụng 
thì các chỉ số này phải được định lượng, chứ không chỉ là một nhiệm vụ (kể cả đạt được) đơn 
giản. 
1.2 Người nghèo là ai? 
Theo báo cáo Đánh giá nghèo theo vùng tại vùng ven biển miền Trung và Tây Nguyên (2003)3 
thì: Nhận thức về nghèo khác nhau giữa các tầng lớp dân cư và các vùng. Người dân địa phương 
có sự so sánh khá chính xác về mức sống của các hộ gia đình trong làng; họ không đánh giá 
3
 Đánh giá nghèo theo vùng tại vùng ven biển miền Trung và Tây Nguyên . 2003. 
7 
nghèo theo những cơ sở chuẩn nghèo của quốc gia. Nghèo ở đây không chỉ đơn thuần là nghèo 
về mặt thu nhập hay dinh dưỡng mà còn tương đối toàn diện hơn theo quan niệm của người dân. 
Những hộ khá giả có quan niệm về nghèo khác với những hộ nghèo. Tuy nhiên, những người 
khá giả và người nghèo vẫn có quan điểm chung về tình trạng nghèo. Thông qua việc đánh giá 
bằng thang đo từ 1-10 các tiêu chí sau, người ta có thể xác định được hộ nghèo. Các tiêu chí có 
ảnh hưởng đến giảm thu nhập, đời sống của từng hộ thuộc diện hộ nghèo: 
 Mất nguồn thu nhập chính do bị mất mùa, thiên tai, dịch bệnh, rủi ro trong 
SXKD... mà không có khả năng phục hồi và thiếu nguồn hỗ trợ từ họ hàng, người thân 
 Lao động chính chết hoặc mất khả năng lao động lâu dài làm ảnh hưởng nghiêm 
trọng tới TN của hộ 
 Bán đất lo cho người bị ốm đau, bệnh nặng kéo dài hàng tháng 
 Có trẻ em trong độ tuổi đi học phải bỏ học vì không có tiền 
 Hộ có người vướng vào ma tuý, cờ bạc, nghiện rượu, trích hút.... bệnh xã hội 
 Mới tách hộ hoặc thêm con nhỏ không có thêm nguồn thu nhập 
 Gặp rủi do, phải bán đồ dùng gia đình, công cụ sản xuất để trang trải các bữa ăn 
hàng ngày 
 Một số rủi ro khác (như mất tài sản...) 
Hộ có khả năng rơi xuống nghèo là hộ có tổng số điểm từ 10 điểm trở lên. 
Đoàn RPGA
4
 đã nhận thấy rằng có sự khác biệt giữa những nhóm người khác nhau trong nhận 
thức về nghèo. Những người nghèo có khái niệm về nghèo rất khác với định nghĩa của CPVN. 
Vì vậy, người nghèo không biết được liệu họ có thuộc nhóm những người nghèo theo như sự 
phân loại của CPVN hay không. Điều này đã gây khó khăn cho họ trong việc đòi hỏi những 
quyền lợi của mình. 
Bảng 1: Nhận thức về đói nghèo của nhóm những người khá giả và nhóm những 
người nghèo 
Nhận thức về đói nghèo của nhóm những 
người khá giả 
Nhận thức về đói nghèo của nhóm những 
người nghèo 
4 Tháng 5 năm 2002, Chính phủ Việt Nam đã hoàn thành Chương trình toàn diện về Tăng trưởng và Giảm 
nghèo (CPRGS) và bắt đầu quá trình triển khai thực hiện CPRGS ở cấp địa phương. RPGA là: Báo cáo nghèo 
và quản trị nhà nước có sự tham gia của người dân. 
8 
Là người nghèo có nghĩa là không có nhà gạch, 
không có vốn để kinh doanh, không có kinh 
nghiệm kinh doanh, không có những tài sản có 
giá trị như tivi hoặc xe đạp, thường xuyên bị 
ốm, già và cô đơn, sở hữu một vài gia súc, có 
mảnh đất nhỏ và cằn cỗi, có nhiều con nhỏ, 
mất những lao động chính, mất mùa hoặc có 
thuyền đánh cá không may mắn, không có đủ 
thức ăn cho quá hai tháng và phải nhặt củi 
để bán. 
Một hộ nghèo có nghĩa là có một ngôi nhà xây 
tạm bợ (không mái ngói, không tường gỗ), 
thường xuyên có người ốm, không có hoặc có 
ít gia súc, không có vốn để kinh doanh, thiếu 
kinh nghiệm kinh doanh, không có các tài sản 
có giá trị (không có xe đạp), có mảnh đất nhỏ 
và cằn cỗi, có quá nhiều con nhỏ, là người già 
và cô đơn, bị mất mùa hoặc có thuyền đánh cá 
không may mắn, không có đủ thức ăn cho quá 
ba tháng và phải kiếm củi hoặc làm thuê để 
sống qua ngày. 
Đoàn RPGA nhận thấy khái niệm về nghèo của người dân địa phương thay đổi rất ít qua thời 
gian. Trong nhiều trường hợp, người nghèo không nhận thức được sự thay đổi của xã hội bên 
ngoài, họ dường như bị lãng quên, không còn hoài bão và đôi khi không có khái niệm về quá khứ 
hay tương tai. Điều đó là một trong những rào cản cho những người nghèo khó thoát nghèo 
được. 
1.3 Các đặc trưng của người nghèo 
Trong nghiên cứu về người nghèo lâu nay trên thế giới cũng như tại Việt Nam, việc xác định đối 
tượng người nghèo thường dựa trên các yếu tố định lượng, dựa vào thu nhập để xác định 
“ngưỡng nghèo khổ”. 
Cách tiếp cận định lượng như vậy sẽ dẫn đến một khó khăn là không thể xác định được chân 
dung chung của người nghèo, không thể so sánh người nghèo tại các khu vực, các xã hội có trình 
độ phát triển khác nhau, có nền văn hoá hay lối sống không giống nhau. 
Vì vậy đã xuất hiện những nghiên cứu định tính nhằm xác định những đặc trưng của người 
nghèo dựa trên toàn bộ lối sống, quan niệm, lối ứng xử thường ngày của họ... Chính từ đây, thuật 
ngữ “nền văn hoá nghèo khổ” (the culture of poverty) đã ra đời thông qua các công trình nghiên 
cứu định tính về người nghèo đô thị tại Mexico và Puerto Rico của nhà xã hội học - nhân học 
người Mỹ Oscar Lewis. Nền văn hoá nghèo khổ là một “mô hình sinh sống” (design of living) 
9 
của người nghèo được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mô tả bức tranh đời sống của người 
nghèo mà theo đó, nhóm người nghèo thường có những đặc trưng sau: 
- Luôn sống trong tâm trạng bị gạt ra bên lề và không thuộc về xã hội. 
- Luôn cảm thấy xa lạ ngay trên chính quê hương mình và thường tin rằng các thiết chế xã hội 
hiện hữu không thoả mãn những mong đợi và nhu cầu của họ. 
- Luôn cảm thấy không được trợ giúp, giúp đỡ đủ; tình trạng thất nghiệp cao, lương thấp. 
- Luôn nghĩ rằng mình ở vị trí thấp kém trong thang bậc xã hội, cảm thấy chẳng có quyền lực 
hay tiếng nói gì trong xã hội và chẳng xứng đáng với xã hội. 
- Không có cái nhìn dài hạn mà luôn chọn thái độ sống vì cái hiện tại, cái trước mắt. 
- Tin tưởng mạnh mẽ vào định mệnh. 
- Về đời sống gia đình, nét nổi bật là tỉ lệ ly hôn cao, trẻ em và phụ nữ bị bỏ rơi, do đó gia đình 
thường trở thành kiểu gia đình “mẫu hệ”. 
- Có xu hướng kết hôn rất sớm, làm cha mẹ ở độ tuổi thanh niên (teen parents); hôn nhân chủ 
yếu là “cặp đôi tự do”, có khi là cùng huyết thống. 
- Nhiều thế hệ sống chung nên qui mô gia đình thường lớn. 
- Cha mẹ thường lạm dụng quyền lực trong quá trình nuôi dạy con cái, rất ít có sự truyền thông 
với con cái, con cái thường bị đánh đập. 
- Trẻ em gần như không biết đến giai đoạn tuổi thơ do phải tham gia lao động rất sớm và thường 
có kinh nghiệm tình dục rất sớm. 
- Thường không quan tâm đến nền giáo dục chính thức, vì vậy con cái họ ít được trang bị những 
kỹ năng để thành công trong xã hội. 
- Có rất ít ý thức về lịch sử, thường chỉ biết đến những vấn đề của mình, hàng xóm của mình, lối 
sống của mình. 
- Không hề có ý thức giai cấp. 
- Quan niệm thành công là nhờ cơ may chứ không do nỗ lực bản thân. 
- Ít có thói quen tiết kiệm. 
- Thường không có thói quen tích luỹ lương thực, thường có thói quen mua thực phẩm với số 
lượng ít và mua nhiều lần trong ngày. 
- Việc thế chấp tài sản cá nhân rất phổ biến, thường thiết kế hệ thống tín dụng tự phát để vay 
mượn khi có nhu cầu. 
10 
- Về các đặc điểm khác có thể liệt kê như nạn nghiện rượu, thường sống ở nơi có mật độ dân số 
cao, thường dùng đến bạo lực để giải quyết các xung đột, bạo hành đối với nữ giới, có tư tưởng 
tập quần, tin vào sự thống trị của nam giới, trong cộng đồng thì các gia đình có gốc gác lâu đời 
thường chiếm ưu thế... 
Oscar Lewis cho rằng những đặc trưng trên gần như đúng với mọi cộng đồng nghèo ở các nước 
đang phát triển, và những đứa trẻ khi lên sáu, bảy tuổi gần như đã nhập tâm những khuôn mẫu đó 
nên có thể nói nền văn hoá nghèo đói có tính liên thế hệ là vì vậy.[
5
] 
1.4 Các yếu tố đo lường nghèo khổ 
Nghèo khổ là một khái niệm phức tạp và được thảo luận không chỉ dưới góc độ thu nhập mà còn 
dưới góc độ an ninh và rủi ro, bản sắc và hội nhập, và văn hóa. Có một số yếu tố cơ bản liên 
quan đến việc đo lường sự nghèo khổ là tài sản, mối quan hệ và mức độ địa lý. 
1.4.1 Tài sản và lợi tức 
Thu nhập là một yếu tố rất quan trọng và những nguồn lực tạo nên thu nhập được gọi là “tài sản” 
mà người nghèo đang sở hữu và sử dụng để thực hiện chiến lược sống của mình. Tài sản có thể 
tăng hay giảm, nhưng chúng thường có tính ổn định hơn là bản thân thu nhập và là một yếu tố 
quyết định quan trọng hơn đến phúc lợi và cơ hội cho sự cơ động xã hội. 
Tài sản có thể chia ra thành các loại khác nhau như: tài sản thiên nhiên, tài sản xã hội, tài sản con 
người, tài sản vật thể và tài chính. 
- Tài sản thiên nhiên bao gồm nguồn tài nguyên có ích cho cuộc sống con người như: rừng, 
nước, đất đai, cá và khoáng sản. Những nguồn tài nguyên này hợp thành môi trường. 
- Tài sản xã hội chỉ mối quan hệ tin cậy, có đi có lại hỗ trợ cho hoạt động tập thể; mối quan hệ 
thành viên trong nhóm chính thức và phi chính thức; và các mạng lưới giúp mọi người làm việc 
cùng nhau và tiếp cận được các thể chế và dịch vụ. Luật chính thức (có tính luật pháp hay tôn 
giáo) và không chính thức (Luật tục và luật mang tính địa phương) cũng là những dạng tài sản xã 
hội. 
- Tài sản con người là một khái niệm chỉ kỹ năng, kiến thức, niềm tin, quan điểm, khả năng làm 
việc và sức khỏe cho phép con người theo đuổi chiến lược sống của mình. 
5 Tintuc.xalo.vn, Nhận diện người nghèo, truy cập ngày 18/12/2011, từ 
765989969/Nhan_dien_nguoi_ngheo.html 
11 
- Tài sản vật thể chỉ những cơ sở vật chất cơ bản và những công cụ sản xuất cần thiết cho việc 
đảm bảo cuộc sống như đường giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống vệ sinh, nhà ở, năng 
lượng và dịch vụ. 
- Tài sản tài chính chỉ những nguồn lực tài chính mà người nghèo có bao gồm những khoản tiền 
(Ví dụ: tiền tiết kiệm, khoản vay) hay những nguồn tiền thường xuyên (Ví dụ lao động làm thuê, 
chuyển khoản, trợ cấp, v.v). 
Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội có thể được xem là sự 
kết hợp giữa hai yếu tố: sở hữu tài sản (ít nhất là tiếp cận với tài sản) và lợi tức thu được từ tài 
sản đó. Nhiều khi tài sản của người nghèo chỉ là sức lao động. Nhưng nếu không có được những 
công việc trả lương tốt, thì một mình tài sản này không đủ để đảm bảo thu nhập cho họ. Những 
tài sản chính khác gồm tay nghề, đất đai, sức lực và môi trường. Một trong những điểm mạnh 
của Việt Nam là đảm bảo trình độ học vấn tương đối cao của người dân, bao gồm một bộ phận 
lớn những người nghèo. Thông qua quá trình cải cách đất đai, cac hộ nông thôn ở đồng bằng đã 
có quyền sử dụng đất. Đã có những nỗ lực đáng kể nhằm cung cấp tài chính quy mô nhỏ cho các 
hộ nghèo. Tuy nhiên thị trường đất và vốn vẫn còn kém phát triển ở Việt Nam, trong khi đó hội 
nhập kinh tế toàn cầu làm ảnh hưởng đến lợi tức thu về từ lao động nói chung và kỹ năng nói 
riêng. Phát triển kinh tế nhanh có thể ảnh hưởng đến môi trường theo hướng đặc biệt bất lợi cho 
người nghèo. Nhìn chung quá trình phát triển đã làm thay đổi căn bản cơ cấu sở hữu tài sản và 
lợi tức thu về từ những tài sản đó, mà điều đó lại có tác động đến nghèo đói và bất bình đẳng. 
1.4.2. Đất đai 
Đất đai là phần tài sản thiết yếu của người dân. Hầu hết mỗi người dân đều sinh sống trong một 
khu đất được tổ tiên để lại. Họ có thể có nhiều hoạt động kinh tế nhằm kiếm sống trên khu đất 
ấy, nhưng người nghèo chủ yếu sử dụng đất đai mình có để làm nông nghiệp. Tuy nhiên, theo 
nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, nhiều hộ gia đình không có đất đai để trồng trọt và nhiều hộ 
gia đình có đất nhưng lại bán đi hoặc đem đi cầm cố để đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế khác 
hoặc bán đi do nghèo túng hoặc do các sự cố đột xuất trong gia đình. 
Đất đai của người nông dân ở nhiều nơi được mở rộng. Họ được cấp thêm đất hoặc họ xin thêm 
đất để làm kinh tế, nhất là trong kinh tế lâm nghiệp. Diện tích đất rừng được giao cho người dân 
trồng các cây lâu năm tăng dần qua các năm và phổ biến ở các tỉnh phía Bắc. Mô hình VAC của 
người nông dân vẫn được ưa chuộng và được áp dụng trên diện rộng toàn quốc. Người nông dân 
12 
không chỉ được cấp đất để trồng trọt mà họ còn chủ động mở rộng đất để chăn nuôi gia súc và 
cá. Chính những hoạt động này đã làm cho thu nhập của người nông dân tăng cao hơn và dẫn 
đến việc số người nghèo ở nông thôn cũng giảm dần qua các năm. Tuy nhiên, một thực tế mà ta 
có thể thấy rõ rằng, nhiều nơi dưới tác động của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, đồng 
ruộng của người dân đã bị san đi và thay vào đó là những khu công nghiệp và những khu đô thị 
ồn ào, ô nhiễm. Vô tình, người nông dân đã bị đẩy vào thế mất đất và không có việc làm. Điều 
đó dẫ đến việc họ phải chuyển lên các thành phố lớn để kiếm sống. Đây là vấn đề nhức nhối của 
toàn xã hội và các cấp chính quyền cần có những chính sách thích hợp hơn cho người nông dân 
sau khi họ bị mất đất ví dụ như các chính sách tạo việc làm cho người dân. 
1.4.3. Tiết kiệm, tín dụng 
Các hộ nghèo ở Việt Nam được tiếp cận với một vài nguồn tin dụng cá nhân cả chính thức và 
không chính thức đó là các chương trình xóa đói giảm nghèo chủ yếu mang tính trợ cấp, những 
nguồn tín dụng khác là Ngân hàng chính sách xã hội cho người nghèo và Ngân hàng nông ngiệp 
và phát triển nông thôn cho nông dân, mô hình tiết kiệm vay vốn với sự hỗ trợ cảu các tổ chức 
phi chính phủ trong nước, các tổ chức quần chúng nhưng số lượng này còn rất hạn chế. Những 
người dân thuộc hộ nghèo lại thường xuyên phải tiếp cận với các nguồn tín dụng phi chính thức. 
Quy mô của các tổ chức tín dụng phi chính phủ chỉ chiếm 5% trong tổng số các nguồn tín dụng ở 
Việt Nam, khu vực tài chính không chính thức tiếp tục đóng vai trò lớn, việc những hộ nghèo 
không có tài sản thế chấp sẽ bị hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn vốn này là chuyện không 
thể tránh, do không được tiếp cận nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất nên họ không có khả 
năng xóa đói, giảm nghèo vì sản xuất và nguồn đầu tư cho sản xuất không được mở rộng 
1.4.4. Kỹ năng tay nghề 
Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, không được đào tạo chuyên sâu, vậy nên họ 
không có kỹ năng tay nghề. Trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay, kỹ năng tay nghề được xem như 
là một trong những điều kiện cần và đủ thiết yếu để người lao động nâng cao thu nhập, đặc biệt 
là người nghèo. Khi không có tay nghề, họ- những người nghèo sẽ chỉ được làm những công 
việc với thu nhập thấp, không có nguồn tích lũy để thoát nghèo, họ rơi vào vòng nghèo đói như 
là một sợi dây quàng cổ. Trình độ tay nghề của người dân quyết định số thu nhập mà họ có được 
hàng tháng. Người lao động có tay nghề thường có thu nhập cao hơn là người lao động không có 
13 
tay nghề. Tuy nhiên, yếu tố về trình độ tay nghề bị quyết định bởi yếu tố giáo dục. Một người lao 
động được đào tạo bài bản khác làm việc luôn có năng suất hơn là người lao động không được 
đào tạo. Nghèo là yếu tố quan trọng trong việc đến trường của người dân. Khoảng cách giữa 
người giàu và người nghèo trong xã hội cũng được thể hiện bằng việc mà họ có được đến trường 
hay không và có được theo học đến trình độ nào. Học tập mang lại nhiều lợi ích trong đó có cả 
lợi ích kinh tế. vì vậy, nhà nước cần có những chính sách phù hợp nhằm mở cửa giáo dục và 
mang giáo dục đến với tất cả người dân trong cả nước. Học tập là cách thoát nghèo dễ nhất. 
1.4.5. Việc làm 
Tỷ lệ thất nghiệp của nước ta không cao so với các nước khác trên thế giới. Nhờ thắng lợi của 
cuộc cải cách năm 1986, cơ cấu kinh tế của Việt Nam thay đổi một cách tích cực. Nông nghiệp 
dần thu hẹp lại, công nghiệp và tiêu thủ công nghiệp ngày càng được mở rộng và phát triển 
mạnh. Các doanh nghiệp quốc doanh và phi quốc doanh mọc lên như nấm sau mưa. Chính điều 
này đã giúp tạo việc làm cho hàng ngàn người dân Việt. Do dân số Việt Nam là dân số trẻ, số 
người trong độ tuổi lao động cao và số người tham gia lao động cũng rất cao. Trên thị trường lao 
động Việt Nam xuất hiện rất nhiều trung tâm môi giới, giới thiệu việc làm. Tuy nhiên những 
trung tâm này dường như hoạt động vẫn chưa thực sự hiệu quả. Người dân nhiều khi được giới 
thiệu những việc làm không phù hợp với sức lực và trình độ của mình. Điều đó dẫn đến việc 
chuyển đổi việc làm của người dân từ nghành kinh tế này sang ngành kinh tế khác và một điều 
đáng lưu tâm hơn nữa là tai nạn lao động. Tuy nhiên khi gặp phải tai nạn lao động người dân hầu 
như không được hưởng các chính sách của nhà nước về các chế độ ưu tiên, đãi ngộ đối với 
những trường hợp này. Vì vậy, vấn đề đặt ra là tạo việc làm phải đi đôi với việc phân bổ việc 
làm, khuyến khích thành lập các doanh nghiệp mới để tạo việc làm cho người dân và có những 
chính sách đãi ngộ với những công việc mang tính rủi ro cao. 
1.4.6. Môi trường 
Môi trường là yếu tố đầu tiên mà người dân tiếp xúc để kiếm sống. Môi trường là nguồn sống 
của con người. Các nhu cầu của con người đều được đáp ứng bởi môi trường sống xung quanh 
mình. Trước đây, trong thời kỳ nguyên thủy, người dân sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm. 
Tức là người dân sống dựa chủ yếu vào môi trường sống. Sau này, khi công nghiệp xuất hiện, 
cũng với đó là những thành tựu rực rỡ của khoa học công nghệ đã ảnh hưởng tiêu cực tới môi 
14 
trường sống của chính con người. Con người đã lợi dụng tự nhiên, khai thác một cách kiệt quệ 
tài nguyên môi trường và tàn phá nó bằng các hoạt động gây ô nhiễm môi trường tầm trọng. 
hàng ngàn hecta rừng – cái được mệnh danh là lá phổi xanh của trái đất đã bị đốt đi làm rẫy, lấy 
gỗ làm nhiên liệu hoặc buôn bán. Hàng ngàn động thực vật quý hiếm đã rơi vào “sách đỏ” cần 
được bảo vệ và đang nằm trên bờ tuyệt chủng. Những ống khói mọc lên, thay thế những cánh 
đồng xanh bất tận. Trái đất đang dần nóng lên. Những vùng Biển xanh đang biến dần thành biển 
dầu lan tràn trên mặt nước cùng với rác thải công nghiệp có mà sinh hoạt cũng có. Hàng năm, có 
hàng triệu người chết vì động đất, song thần, lũ lụt. Hàng loạt những bệnh lạ và những căn bệnh 
ung thư nguy hiểm đã và đang tìm đến con người. Tất cả những điều đó đều là hậu quả mà con 
người gây ra – tàn phá thiên nhiên, môi trường sống của chính con người. Ngày nay, nhận thức 
được những hành động của mình, con người cũng đã có những chương trình phát triển bền vững 
nhằm bảo vệ môi trường cũng là bảo vệ chính sự sống của mình. Cần phải có những chính sách 
thiết thực và cứng rắn để con người biết trân trọng và quý trọng những gì mà môi trường sống 
mang lại cho chính bản thân mình và toàn nhân loại. 
1.4.7. Mối quan hệ 
Thứ hai, có thể nhìn nhận nghèo đói như một "tập hợp các mối quan hệ”. Điều này có nghĩa là 
nghèo đói không chỉ biểu hiện tình trạng sống mà còn là một tập hợp các mối quan hệ giữa người 
nghèo và người không nghèo. Người nghèo cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với những người 
không nghèo để giành quyền kiểm soát các tài sản. Tương tự, nói đến quyền sở hữu là ít nói đến 
sự kiểm soát của con người đối với các nguồn lực mà nói nhiều hơn về mối quan hệ giữa con 
người với nhau trong việc kiểm soát nguồn lực. Nghèo đói cũng vậy, nó biểu hiện mối quan hệ 
giữa người nghèo và người không nghèo đối với tài sản. Những mối quan hệ này không thể 
không gắn với những vấn đề quyền ngắn hạn và dài hạn liên quan trực tiếp đến sự tiếp cận và 
kiểm soát đối với nguồn lực. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực 
cũng như trng việc phân bố và bảo vệ các quyền. Do vậy, chính sách nhà nước có vai trò quan 
trọng trong xóa đói giảm nghèo độc lập với sự đầu tư của nhà nước trong việc cải thiện cơ sở tài 
sản mà người nghèo phụ thuộc vào. Sự phân bố lại các nguồn lực – thông thường có ý nghĩa đối 
với việc cải thiện các lựa chọn sống của người nghèo – có thể là một quá trình mang lại các lợi 
ích trái ngược nhau và cũng có thể mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Quan niệm về nghèo đói 
như một tập hợp các mối quan hệ là đặc biệt quan trọng khi thấy rằng bất cứ một tài sản nào 
15 
cũng do những nhóm người khác nhau quản lý, trong đó một số là người nghèo, một số khác 
không nghèo. Do đó, chỉ tập trung vào người nghèo mà không gắn họ với những nhóm người 
khác sẽ không chỉ bỏ qua những vấn đề công bằng và bình đẳng mà còn là sự thiếu thận trọng về 
chính trị và không có hiệu quả về mặt thực tế. 
1.4.8. Mức độ và địa lý 
"Người nghèo" không phải là một nhóm đống nhất. "Người nghèo" ở bất cứ một địa điểm nào có 
thể được coi như một nhóm nằm dưới một chuẩn mực tối thiểu nào đó, do vậy có thể tập trung 
họ thành một nhóm đối với các chính sách mục tiêu. 
Ở khu vực nông thôn những người nghèo là những người có rất ít tài sản, bị đặt ra ngoài lề và 
thường xuyên phải sống lần hồi qua ngày. Họ có thể không có các nguồn lực ngoài việc bóc lột 
quá sức môi trường xung quanh họ, thậm chí nếu điều này làm giảm giá trị lâu dài của môi 
trường đối với nhu cầu của họ. Đối với những người quá nghèo, cải thiện sự tiếp cận các tài sản 
chính thông qua các chương trình như: tín dụng nhỏ và quỹ tiết kiệm có thể là một giải pháp 
thích hợp. 
Có thể có những mức độ nghèo đói rất khác nhau trong khuôn khổ hộ gia đình. Phụ nữ và trẻ em, 
đặc biệt là trẻ em gái thường là những người thiệt thòi nhất trên phương diện tiếp cận đến các tài 
sản sản xuất. Họ thường bị tác động nhiều nhất bởi sự ô nhiễm không khí và nước và sự tiếp cận 
hạn chế đến giáo dục. Họ cũng thường bị yêu cầu phải thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất 
trong việc quản lý nguồn lực môi trường. Đặc biệt, trẻ em bị tác động nhiều hơn từ những hóa 
chất môi trường nhiều hơn bất kỳ một nhóm xã hội nào khác. Nghèo đói không chỉ là vấn đề 
cạnh tranh giữa các nhóm để có được nguồn lực mà nó còn là vấn đề cạnh tranh bên trong hộ gia 
đình về nguồn lực này.[6] 
2. Chuẩn nghèo ở Việt Nam 
2.1 Phương pháp xác định chuẩn nghèo 
Phương pháp chung để xác định nghèo đói là dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo đảm các nhu cầu 
cơ bản của con người. Có hai cách hiểu về nghèo khổ: Cách hiểu theo tiêu chuẩn thống kê thuần 
6
 Nguyễn Hữu Minh, 2006, Phân tầng xã hội và nghèo khổ. 
16 
túy (thu nhập bình quân, calorie, v.v…) và cách hiểu theo chuẩn xã hội. Tại Việt nam ngưỡng 
nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo, dựa trên các tính toán của các cơ quan chức năng 
như Tổng cục Thống kê hay Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (MOLISA). Chuẩn nghèo của 
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội được xác định một cách tương đối bằng cách làm tròn số 
và áp dụng cho từng khu vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn 
đồng bằng, thành thị). 
Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống kê được xác định dựa trên cách tiếp cận của Ngân hàng Thế 
giới (WB), gồm hai mức: 
 Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thực 
thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một người là 2100 
kcal/ngày đêm; 
 Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định 
bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% cho các 
khoản còn lại. 
Trước hết người ta tính mức chi tiêu cho nhu cầu lương thực thực phẩm, gọi là đường nghèo 
lương thực thực phẩm (thông thường người ta tính rổ hàng hóa với một sô mặt hàng nhất định). 
Theo tiêu chuẩn của Tổng cục Thống kê Việt Nam
7
, dựa vào phương pháp quốc tế, theo đó tiêu 
chuẩn nghèo là số tiền cần thiết để mua 1 lượng thực phẩm tối thiểu cung cấp đủ 2100 Kcal mỗi 
ngày mỗi người (đây cũng là tiêu chuẩn mà hầu hết các nước đang phát triển cũng như các tổ 
chức quốc tế hiện nay sử dụng) và số tiền cần thiết cho những nhu cầu phi lương thực. Những 
người có mức chi tiêu dưới mức chi phí cần thiết để đạt được lượng calo này gọi là nhóm nghèo 
về lương thực thực phẩm. Chi phí lương thực chiếm 70% và phi lương thực 30%. Tổng chi tiêu 
cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm được gọi là đường nghèo hay chuẩn 
nghèo (đó là đường nghèo chung). Để tiện cho việc tính toán, đánh giá, người ta chuyển từ mức 
chi tiêu sang mức thu nhập. Như vậy, đường đói nghèo chung sẽ ở mức cao hơn đường đói 
nghèo về lương thực, thực phẩm. Ví dụ: Năm 1993 đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 
1,16 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm là 55%). Năm 1998 
là 1,79 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm là 39%)
8
. Năm 
7
 Tổng cục Thống kê Việt Nam, Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-2005. Truy cập ngày 02 tháng 12 năm 
2011, từ www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=418&ItemID=4326 
8 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2002. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo. 2002. Hà 
Nội 
17 
1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của Việt nam bằng 107 234 VND/tháng; chuẩn nghèo 
chung bằng 149.156 VND/tháng 
Khi xác định người nghèo phải gắn chặt với tính thu nhập bình quân của hộ gia đình. Tuy vậy, tỉ 
lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỉ lệ người nghèo. Thông thường, trong một quốc gia thì tỉ lệ 
người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỉ lệ hộ nghèo. Vì quy mô hộ gia đình của nhóm nghèo cao 
hơn nhóm không nghèo. 
Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến đổi theo không gian và thời gian. Về không gian nó 
biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng, chẳng hạn, đô thị, nông thôn 
đồng bằng và nông thôn miền núi. Về thời gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế - xã 
hội của từng giai đoạn lịch sử. 
2.2 Sự thay đổi các chuẩn nghèo của Việt Nam từ năm 1990 đến nay 
Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã 
nhiều lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người cho các giai đoạn cụ thể 
khác nhau. Việc điều chỉnh chuẩn nghèo căn cứ chủ yếu vào các yếu tố sau: (1) Mức tăng thu 
nhập thực tế của dân cư, đặc biệt là nhóm nghèo trong thời kỳ điều chỉnh; (2) Tốc độ lạm phát 
cùng kỳ.9 
Vào những năm 1990, chuẩn nghèo ở Việt Nam được xác định theo mức: những hộ gia đình có 
thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 45.000 
đồng/người/tháng (540.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng 
bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 70.000 đồng/người/tháng (840.000 
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân 
đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo10. 
Từ 1993 đến nay Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần điều chỉnh mức chuẩn nghèo. Theo Quyết 
định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27/9/2001, trong đó phê duyệt 
"Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia 
đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 
đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn đồng 
bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/người/tháng 
9 Nguyễn Hữu Minh, Chuyên đề cao học về Phân tầng xã hội và nghèo khổ, Hà Nội, 2006, trang 65 
10 Lê Ngọc Hùng, 2010, Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Truy cập ngày 02 tháng 
12 năm 2011, từ  
18 
(1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập 
bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ 
nghèo. 
Bảng 1: Chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 
Khu vực Hộ nghèo 
Nông thôn miền núi, hải đảo Từ 80.000đ/người/tháng trở xuống 
Nông thôn đồng bằng 100.000đ/người/tháng 
Thành thị 150.000đ/người/tháng 
Nguồn: Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 27/9/2001 
Trong đó, theo số liệu thống kê tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta từ 2004 đến 2008 liên tục giảm (bảng 
2). Nếu vào năm 2004 tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 18,1% thì đến năm 2009 giảm còn 12,3%; trung 
bình mỗi năm giảm gần 1,2%11. 
Chuẩn nghèo 2001-2005 so với giai đoạn trước đó tăng 1,5 lần, còn về phương pháp tiếp cận và 
xác định vẫn dựa trên cơ sở thu nhập của hộ. Trong chuẩn nghèo mới không có tiêu chí hộ đói vì 
tỉ lệ hộ đói không còn đáng kể. Sở dĩ có lựa chọn phương án tăng lên 1,5 lần là vì trong 5 năm 
1996-2000 mức sống dân cư Việt Nam tăng lên khoảng 1,47 lần và GD giai đoạn 1991-2000 
tăng 1,97 lần. Theo chuẩn trên, đầu năm 2001 Việt Nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỉ 
lệ 17,2%. Tuy nhiên, theo nhận xét của một số chuyên gia quốc tế thì chuẩn về hộ nghèo của 
nước ta thấp hơn so với tình hình thực tế, chỉ ngang bằng một số nước trong khu vực, thấp hơn 
Trung Quốc, Thái Lan… Chính phủ lựa chọn chuẩn nghèo thấp trong giai đoạn này là nhằm tập 
trung nguồn lực cho đối tượng nghèo nhất nhằm giải quyết nhu cầu ăn và mặc; còn về y tế, giáo 
dục nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ giúp. Hạn chế của chuẩn nghèo thấp là chưa phản 
ánh đúng thực trạng nghèo ở Việt Nam, nhiều người vượt qua ngưỡng nghèo mà cuộc sống vẫn 
khó khăn; vì vậy theo xu hướng hội nhập khu vực, từ năm 2006 chính phủ đã áp dụng chuẩn 
nghèo mới. Chuẩn nghèo này tính trên cơ sở bảo đảm 2100 kcal mỗi ngày và có tính đến nhu cầu 
phi phương thực, thực phẩm (mặc, y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, đi lại, giao tiếp xã hội). Ước 
tính nhu cầu phi lương thực, thực phẩm chiếm khoảng 40% tổng giá trị chi tiêu. 
Bảng 2: Chuẩn nghèo của Việt Nam từ năm 2004 đến 2008 
Năm Thành thị Nông thôn 
11 Lê Ngọc Hùng, 2010, Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Truy cập ngày 02 tháng 
12 năm 2011, từ  
19 
2004 218 168 
2006 260 200 
2008 370 290 
Nguồn: Niên giám thống kê 2009, Nxb.Thống kê 2010 
Tiếp đó, theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-TTg ký ngày 08 
Tháng 07 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010: 
Bảng 3: Chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 
Khu vực Hộ nghèo 
Nông thôn 200.000đ/người/tháng trở xuống 
Thành thị Từ 260.000đ/người/tháng trở xuống 
Nguồn: Quyết định số 170/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ 
Nhìn vào bảng trên ta có thấy, chuẩn nghèo ở nông thôn đã tăng lên 200.000đ/người/tháng và ở 
thành thị cũng tăng lên từ 260.000đ/người/tháng. Như vậy, nếu so sánh với giai đoạn 2000 – 
2006 thì quy định chuẩn nghèo của giai đoạn 2006 – 2010 đã tăng lên khoảng 
100.000đ/người/tháng. 
Xét theo đề nghị của Bộ trưởng bộ lao động – thương binh và xã hội, Thủ tướng chính phủ đã ra 
quyết định số 09/2011/QĐ – TTg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2011- 2015 như 
sau: 
 Bảng 4: Chuẩn nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 
 Thành thị Nông thôn 
Hộ nghèo 500.000đ/người/tháng 400.000đ/người/tháng 
Cận nghèo 
501 đến 
650.000đ/người/tháng 
401 đến 520.000đ/người/tháng 
Nguồn: Quyết định số 09/2011/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ 
Theo quyết định trên ta có thể thấy, chuẩn nghèo từ nay (năm 2011) đến năm 2015 thể hiện một 
sự biến thiên của các chuẩn nghèo luôn theo xu hướng tăng dần kể từ năm 1990 đến nay. Một 
mặt, chuẩn nghèo đó phản ánh sự tăng lên thu nhập bình quân đầu người, có thể giảm thiểu tỷ lệ 
nghèo đói (theo nghĩa tuyệt đối) ở một mức nào đó. Nhưng mặt khác những lại cho thấy sự giảm 
20 
đi của giá trị tiền tệ ở Việt Nam. Điều này có thể giải thích tại sao Việt Nam theo đánh giá của 
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “vẫn là một nước nghèo”12. 
2.3 Chuẩn nghèo ở 2 thành phố lớn: Hà Nội và TP Hồ Chí Minh 
*Hà Nội 
UBND thành phố Hà Nội vừa thông qua mức chuẩn nghèo mới của thành phố giai đoạn 2011-
2015 theo dự thảo về chuẩn nghèo mới mà Sở Lao động - Thương binh và xã hội thành phố xây 
dựng. 
Theo đó, những hộ có mức thu nhập dưới 750.000 đồng/người/tháng (đối với khu vực thành thị) 
và dưới 550.000 đồng/người/tháng (đối với khu vực nông thôn) là hộ nghèo. Mức cận nghèo đối 
với khu vực thành thị là từ 751.000 đồng - 1.000.000 đồng/người/tháng, ở khu vực nông thôn từ 
551.000 - 750.000 đồng/người/tháng. 
Với tiêu chuẩn này, số hộ nghèo của Hà Nội được xác định là 148.148 hộ, chiếm 9,6% , số hộ ở 
mức cận nghèo là 61.465 hộ, chiếm 3,98%. 
Hiện Hà Nội đang thực hiện mức chuẩn nghèo đối với khu vực thành thị là dưới 500.000 
đồng/tháng, ở nông thôn dưới 330.000 đồng/tháng; cận nghèo ở thành thị từ 500.000 - 650.000 
đồng/tháng, ở nông thôn là 330.000 - 430.000 đồng/tháng (giai đoạn 2009 - 2013). 
Với mức áp dụng chuẩn nghèo của giai đoạn 2009 – 2013 nói trên, đầu năm 2009, toàn thành 
phố có 117.825 hộ nghèo, chiếm 8,43% và 19.543 hộ cận nghèo, chiếm 2,83%. Đến cuối năm 
2009, tỷ lệ hộ nghèo của Hà Nội đã giảm xuống còn 6,09% và cuối năm 2010, số hộ nghèo được 
giảm tiếp 22.500 hộ, còn 4,48%. 
*Thành phố Hồ Chí Minh 
Chuẩn nghèo giai đoạn 3 (2009 - 2025) của TPHCM vừa được UBND TP ban hành tương đương 
với mức chuẩn nghèo do Ngân hàng thế giới xác định (2 USD/người/ngày). 
Theo chuẩn nghèo mới này, hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 12 triệu 
đồng/người/năm trở xuống (tương đương 2 USD/người/ngày), không phân biệt nội thành hay 
ngoại thành. 
Cuối năm 2008, TP cơ bản xóa hết hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2 (thu nhập dưới 6 triệu 
đồng/người/năm). Do đó, đến đầu năm 2009, TP quyết định ban hành chuẩn nghèo giai đoạn 3 
12 Song Linh, 2011, Việt nam vẫn là một nước nghèo. Truy cập ngày 02 tháng 12 năm 2011, từ 
21 
(2009 - 2015) lên thành dưới 12 triệu đồng/người/năm ở các quận nội thành, dưới 10 triệu 
đồng/người/năm ở các huyện ngoại thành. 
Giai đoạn này, TP lại mạnh dạn quyết định nâng mức chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015 lên 
thành 12 triệu đồng/người/năm cho toàn TP. Với mức chuẩn này, TP có khoảng 200 ngàn hộ 
thuộc diện nghèo. 
Như vậy, giữa 2 thành phố lớn trong nước ta cũng có những chuẩn riêng. 
2.4 Địa phương có chuẩn nghèo cao nhất 
Một số địa phương đã căn cứ vào tiêu chuẩn chung của quốc gia để xây dựng chuẩn nghèo của 
mình. Ngoài những quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, thành phố Hồ Chí 
Minh xây dựng chuẩn nghèo riêng dựa trên 2 tiêu chí: Mức thu nhập bình quân đầu người; khả 
năng tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ xã hội. Ngoài ra, căn cứ vào tình hình thực tế của từng thời 
kỳ có sự thay đổi phù hợp. Chẳng hạn , từ năm 1992 đến này thành phố Hồ Chí Minh đã có 5 lần 
điều chỉnh chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo đến năm 2002 là gần gấp đôi chuẩn nghèo quốc gia. 
Trong giai đoạn 2 của Chương trình xóa đói giảm nghèo (2004-2010). Ở Việt Nam, thành phố 
Hồ Chí Minh được xem là tỉnh thành có chuẩn nghèo cao nhất ở Việt Nam và chuẩn nghèo ở 
thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy xu hướng tăng lên cùng với chuẩn nghèo quốc gia. 
Bảng 5: Chuẩn nghèo của thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1993 đến 2010 (đv: 1 người/năm) 
Năm Thành thị Nông thôn 
1993 1.000.000 700.000 
1997 3.000.000 2.500.000 
2000 3.000.000 2.500.000 
2002 3.000.000 2.500.000 
2004 6.000.000 6.000.000 
2010 6.000.000 6.000.000 
2011 12.000.000 10.000.000 
Nguồn: Cơ sở khoa học và thực tiễn xác định chuẩn nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh, 200613 và 
website của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) 
13 Th.s. Lê Văn Thành, Cơ sở khoa học và thực tiễn xác định chuẩn nghèo ở TP Hồ Chí Minh, Viện kinh tế, UBND 
TP Hồ Chí Minh, 2006, Trang 8-9 
22 
Bảng trên cho ta thấy, sự tăng lên nhanh chóng các chuẩn nghèo từ năm 1993 đến năm 2010 ở cả 
thành thị và nông thôn. Đặc biệt là ở nông thôn, chuẩn nghèo đang có xu hướng cân bằng hơn so 
với thành thị với xuất phát điểm ban đầu thấp (700.000đ/người/năm 1993 đạt đến 
6.000.000đ/người/năm 2010). 
2.5 Sự khác biệt chuẩn nghèo giữa các phường, xã của một địa phương 
* Sự khác biệt chuẩn nghèo của các phường xã ở Hà Nội: 
Theo quyết định của việc ban hành chuẩn nghèo, cận nghèo của thành phố Hà Nội giai đoạn 
2011 – 2015 đã quy định mức chuẩn nghèo và cận nghèo như sau: 
Chuẩn nghèo: Ở khu vực thành thị gồm những hộ có thu nhập bình quân từ 
750.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; khu vực nông thôn gồm những hộ có mức thu nhập 
binh quân từ 550.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo. 
Chuẩn cận nghèo: Ở khu vực thành thị gồm những hộ có mức thu nhập bình quân từ 
751.000đ/người/tháng đến 1.000.000đ/người/tháng là hộ cận nghèo; khu vực nông thôn gồm 
những hộ có mức thu nhập bình quân từ 551.000đ/người/tháng đến 750.000đ/người/tháng là hộ 
cận nghèo.
14
Như vậy, sự khác biệt chuẩn nghèo ở các phường xã Hà Nội chính là sự khác biệt ở giữa khu vực 
phường xã là thành thị với phường xã là nông thôn. Mà theo số liệu thống kê về số đơn vị hành 
chính (Sau khi đã mở rộng) (tại thời điểm 01/08/200815) ở bảng dưới đây: 
Bảng 6: S ố đơn vị hành chính (tại thời điểm 01/08/2008) 
Đơn vị hành chính Số lượng 
Thành phố trực thuộc 2 
Quận 9 
Huyện 18 
Phường 143 
Thị trấn 22 
Xã 412 
14 Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội về việc ban hành Chuẩn nghèo, cận 
nghèo Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 - 2015 
15
 Hiện chưa cập nhật được dữ liệu năm 2011 
23 
Nguồn: Trích “Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu của thành phố Hà Nội (sau khi mở rộng)” 
trong Tư liệu kinh tế xã hội 63 tỉnh, thành phố Việt Nam, Tổng cục thống kê, 2009. 
Nhìn vào bảng ta có thể thấy, số lượng thành phố, quận, huyện, phường, thị trấn, xã tương ứng sẽ 
có các chuẩn nghèo theo quy định của nhà nước. 
Tuy chưa thể phản ánh được rõ nét nhưng sự khác biệt trong đánh giá chuẩn nghèo theo số lượng 
phường xã, thị trấn như trên đã nói lên rằng khu vực thành thị và nông thôn có sự khác biệt về 
chuẩn nghèo. 
Kết luận: Như vậy, qua một số khái niệm cơ bản về nghèo đói, những chuẩn nghèo đã được 
phân tích một cách sâu sắc từ cấp quốc gia đến đơn vị hành chính phường xã sẽ giúp ta hiểu rõ 
hơn về các chính sách xóa đói giảm nghèo và phạm vi của nó. 
2.6.Chuẩn nghèo của một số nước trên thế giới 
Thực trạng đói nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng báo động. Theo một 
nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo đang tiếp tục gia tăng trên quy mô toàn cầu, 
và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào 
tình trạng nghèo đói, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên liệu và 
thực phẩm tăng cao. 
Suy thoái kinh tế dự kiến mỗi năm sẽ đe dọa thêm mạng sống của 200.000 đến 400.000 trẻ em 
trong giai đoạn 2010-2015, theo đó 1,4 đến 2,8 triệu trẻ em có thể bị tử vong nếu khủng hoảng 
tiếp diễn. 
Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) được đánh giá trên 3 dấu hiệu cơ bản: tỉ lệ người thiếu ăn, mức 
độ phổ biến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi; tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 
tuổi. Nhìn chung, trong những năm từ 1990 đến 2009, GHI trung bình của thế giới đã giảm gần 
1/5. Nhiều quốc gia đã giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong của 
trẻ em dưới 5 tuổi và tỉ lệ người thiếu ăn vẫn còn khá cao. 
Đói nghèo giết chết hơn 30.000 trẻ dưới 5 tuổi trên khắp thế giới mỗi ngày, báo cáo của Manos 
Unidas - một tổ chức phi chính phủ (NGO) Tây Ban Nha, Manos Unidas (United Hands) cho 
biết điều này có nghĩa là có khoảng 11 triệu trẻ em chết mỗi năm vì nghèo đói, trong đó có 7 
triệu trẻ dưới 5 tuổi; 130 triệu trẻ không được đi học và 82 triệu trẻ bị mất tuổi thơ bởi phải kết 
hôn quá sớm. 
24 
Báo cáo của Manos Unidas cũng cho hay hiện có 15 triệu trẻ em trên thế giới bị mồ côi vì AIDS, 
đa số rơi vào trẻ ở Nam Phi; 246 triệu trẻ phải đi làm khi chưa đủ tuổi lao động, trong đó có 72 
triệu trẻ dưới 10 tuổi. Trong khi đó, theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, có khoảng 100 triệu trẻ 
em trên thế giới không có nhà cửa và đang sống trên các đường phố. Trước thực trạng này, Liên 
Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi các nước cải thiện điều kiện y tế và vệ sinh, giảm tỉ lệ tử vong của trẻ 
em, cải thiện tình trạng đói nghèo và tạo điều kiện cho trẻ em phổ cập giáo dục tiểu học. 
Năm 2000, các nước trên thế giới đã thống nhất đề ra mục tiêu này, theo đó giảm một nửa số 
người nghèo đói vào năm 2015. Tuy nhiên, trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng lương thực, tài 
chính diễn ra liên tiếp đẩy số người nghèo tăng cao như hiện nay, đối với nhiều nước, mục tiêu 
này là bất khả thi. 
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục Thống kê, Ngân hàng 
Thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 
1992-1993 và năm 1997-1998). Đường đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo về lương 
thực, thực phẩm. Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao 
gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm). 
Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá mức độ giàu nghèo. Nước 
Mỹ áp dụng mức chuẩn từ những năm 60 của thế kỷ trước, cụ thể, thu nhập 18.600 đô la/năm là 
ngưỡng nghèo đối với các gia đình có bốn người (gồm bố mẹ và hai con), và thu nhập 9.573 đô 
la/năm là ngưỡng nghèo đối với người độc thân trong độ tuổi lao động. Theo chuẩn này thì năm 
1993 nước Mỹ có 15,1% dân số nghèo khổ, năm 2000 tỷ lệ đó giảm xuống còn 11,3%, nhưng tới 
năm 2003 thì tỷ lệ người nghèo của nước Mỹ tăng lên 12,5% (tức là khoảng 35,9 triệu người dân 
Mỹ sống trong tình trạng nghèo đói). 
Ma-lai-xi-a sử dụng tiêu chuẩn 9.910 ca-lo một ngày tính trên một gia đình có hai người lớn và ba 
trẻ em để làm đường nghèo. Ấn Độ áp dụng ngưỡng nghèo với chuẩn mực tiêu thụ bình quân đầu 
người hàng ngày 2.400 ca-lo đối với vùng nông thôn và 2.100 ca-lo đối với vùng đô thị. Pa-ki-xtan 
lấy đường nghèo là tiêu thụ 2.350 ca-lo bình quân một người lớn qui ước hàng ngày. Phi-lip-pin lại 
lấy ngưỡng nghèo ở mức 2.000 ca-lo. Tương tự, Xri Lan-ca: 2.500 ca-lo; Nê-pan: 2.124 ca-lo; Thái 
Lan: 2.099 ca-lo; Bang-la-đet: 2.122 ca-lo; A-dec-bai-gian: 2.200 ca-lo; một số quốc gia khác lại 
sử dụng ngưỡng nghèo là tiêu thụ một ngày 2.100 ca-lo một người, như Lào, Cam-pu-chia, Trung 
Quốc, In-đô-nê-xi-a,... Ngay trong một quốc gia mà người ta cũng sử dụng các tiêu chuẩn nghèo 
25 
khác nhau, ví dụ ở Xri Lan-ca, các nhà nghiên cứu không phải lúc nào cũng lấy 2.500 ca-lo làm 
ngưỡng nghèo. 
Dưới đây là chuẩn mực nghèo của một số nước: 
 Đơn vị tính 
Chuẩn nghèo 
Quy đổi tiền Việt Nam (đơn vị: 
Đồng) 
Thu nhập Chi tiêu Thu nhập Chi tiêu 
Đông Á 
2.059.405,03 
54 769.5093 
592 981.0632 
Trung Quốc Nhân dân tệ/năm 625,00 
Đông Nam 
Á 
Cam-pu-
chia 
Riên/ngày 1.837,00 
Lào Kip/tháng 20.911,00 
Phi-lip-pin Pê-sô/năm 11.605,00 
Thái Lan Bạt/tháng 882,00 
Việt Nam Nghìn đồng/năm 1.790,00 
Nam Á 
Ấn Độ 
183 073.9489 
131 861.6328 
3 179 
493.8861 
Thành thị Ru-pi Ấn Độ/tháng 454,11 
Nông 
thôn 
Ru-pi Ấn Độ/tháng 327,56 
Nê-pan Ru-pi Nê Pan/năm 4.404,00 
Pa-ki-xtan Ru-pi Pa-ki-
xtan/tháng 
 748,56 
Xri Lan-ca Ru-pi Xri Lan-
ca/tháng 
 791,67 
Trung Á 
26 
(Nguồn: Theo Nguyễn Văn Phẩm, Vụ hợp tác Quốc Tế, Chuẩn nghèo và thước đo nghèo ở một 
số quốc gia) 
Hậu quả của việc sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau ấy giữa các quốc gia làm ngưỡng nghèo đã 
gây ra những khó khăn lớn cho việc so sánh quốc tế. Ngay cả việc so sánh động thái theo thời 
gian về tình trạng nghèo của một quốc gia cũng thiếu chính xác. Ví dụ nước Mỹ dùng mức chuẩn 
của gần nửa thế kỷ trước, khi mà mẫu tiêu dùng của dân cư khác hẳn với ngày nay, để phản ánh 
tình trạng nghèo đói hiện nay là không phù hợp. Nửa thế kỷ trước, người dân Mỹ chi gần một 
phần ba thu nhập cho ăn uống, nhưng ngày nay họ chỉ chi 13,2% thu nhập cho lương thực và chi 
một phần ba thu nhập cho nhà ở. Việc sử dụng tiêu thức tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo và tỷ 
lệ hộ gia đình nghèo cũng không đồng nhất, vì số lượng thành viên trong gia đình rất khác nhau. 
Tỷ lệ hộ nghèo thấp, nhưng nếu đó lại là các hộ đông người, thì khi chuyển sang tỷ lệ dân số 
nghèo chưa chắc đã thấp. 
Để đảm bảo tính so sánh quốc tế của chỉ tiêu tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo, Ngân hàng Thế 
giới đưa ra 2 mức chuẩn là thu nhập dưới 1 đô la Mỹ 1 ngày và thu nhập dưới 2 đô la Mỹ 1 ngày 
được chuyển đổi theo sức mua tương đương (PPP - Purchasing Power Parity) của đô la Mỹ năm 
1993, có nghĩa là tương đương với mức 1,08 USD/ngày/người và mức 2,16 USD/ngày/người của 
năm 2002. 
A-déc-bai-
gian 
Nghìn Ma-nat/năm 120,00 
1 724 359.1186 
570 467.5741 
3 128 
499.9673 
934 150.2648 
16 114 
046.5899 
321 769.1101 
94 999 
936.5723 
Ca-dắc-xtan Ten-ghê/tháng 4.007,00 
Cư-rơ-gư-
xtan 
Sôm/năm 7.005,63 
Thái Bình 
Dương 
Phi-ji Đô la/tuần 83,00 
Mic-rô-nê-
xi-a 
Đô la Mỹ/năm 767,58 
Xa-moa Ta-la/tuần 37,49 
Tôn-ga Pan-ga/năm 8.061,00 
Tu-va-lu Đô la ÚC/tuần 84,24 
27 
TỶ LỆ DÂN SỐ SỐNG DƯỚI MỨC NGHÈO CỦA MỘT SỐ NƯỚC (%) 
Quốc gia Năm 
Theo chuẩn 
nghèo quốc gia 
Theo chuẩn nghèo quốc tế 
1 USD/ngày 2 USD/ngày 
Đông Á 
Trung Quốc 2001 16,6 46,7 
Mông Cổ 1998 35,6 27,0 74,9 
Đông Nam Á 
Cam-pu-chia 1999 35,9 34,1 37,7 
In-đô-nê-xi-a 2002 18,2 7,5 52,4 
Lào 1997 38,6 39,0 81,7 
Ma-lai-xi-a 1999 7,5 0,2 9,3 
Mi-an-ma 1997 22,9 
Phi-lip-pin 2000 34,0 15,5 47,5 
Thái Lan 2002 9,8 1,9 32,5 
Việt Nam 2002 28,9 13,1 58,5 
Nam Á 
Bang-la-đét 2000 49,8 36,0 82,8 
Ấn Độ 1999 26,1 36,0 81,3 
Man-đi-vơ 1998 43,0 0,1 2,9 
Nê-pan 1996 42,0 39,1 80,9 
Pa-ki-xtan 1999 32,6 25,3 77,2 
Xri Lan-ca 1995 25,2 6,6 45,4 
Trung Á 
A-déc-bai-gian 2001 49,6 3,7 33,4 
Ca-dắc-xtan 2002 27,9 0,1 8,5 
Cư-rơ-gư-xtan 2000 52,0 0,9 27,2 
Ta-gi-ki-xtan 2003 56,6 13,9 58,7 
Tuốc-mê-ni-xtan 1998 29,9 12,1 44,0 
U-dơ-bê-ki-xtan 2000 27,5 17,3 71,7 
Thái Bình Dương 
28 
Mic-rô-nê-xi-a 1998 27,9 5,2 19,7 
Pa-pua Niu Ghi-nê 1996 37,5 24,6 54,4 
Xa-moa 2002 20,3 5,5 
Tôn-ga 2001 22,7 4,0 12,6 
(Nguồn: Theo Nguyễn Văn Phẩm, Vụ hợp tác Quốc Tế, Chuẩn nghèo và thước đo nghèo ở một 
số quốc gia) 
Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được xác định theo chuẩn mà hầu hết các nước đang 
phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Kcal tối thiểu 
cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2.100 Kcal/người/ngày. Những người 
có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực, 
thực phẩm. 
Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính 
cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm, ta có đường đói nghèo chung. 
Năm 1993, đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệu đồng/năm/người (cao hơn 
đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 55%); năm 1998 là 1,79 triệu đồng/năm/ người (cao 
hơn đường đói nghèo lương thực thực phẩm là 39%). Dựa trên các ngưỡng nghèo này, tỷ lệ đói 
nghèo chung năm 1993 là 58% và 1998 là 37,4%; còn tỷ lệ đói nghèo lương thực tương ứng là 
25% và 15%. 
Các câu hỏi ôn tập 
Câu 1: Thế nào được gọi là nghèo tương đối, nghèo tuyệt đối? Sự khác biệt giữa hai cách định 
nghĩa này? 
Câu 2: Phân tích sự khác biệt chuẩn nghèo ở Việt Nam qua các thời kỳ từ năm 1990 đến nay? 
Câu 3: Tỉnh nào có chuẩn nghèo cao nhất và thay đổi như thế nào qua các năm? Sự khác biệt 
chuẩn nghèo của các phường xã trong một thành phố? 
29 
Một số tài liệu tham khảo chính 
Lê Ngọc Hùng, 2010, Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Truy cập 
ngày 02 tháng 12 năm 2011, từ 
Lê Văn Thành (chủ nhiệm đề tài) 2006, Cơ sở khoa học và thực tiễn xác định chuẩn nghèo ở 
thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế Hồ Chí Minh 
Nguyễn Hữu Minh, 2006, Phân tầng xã hội và nghèo khổ, Viện Xã Hội Học Việt Nam, Hà Nội 
Song Linh, 2011, Việt nam vẫn là một nước nghèo. Truy cập ngày 02 tháng 12 năm 2011, từ 
Tổng cục thống kê Việt Nam 2009, Tư liệu kinh tế - xã hội 63 tỉnh thành phố Việt Nam, Nxb. 
Thống kê, tr.175 
Tổng cục Thống kê Việt Nam, Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển 1986-2005. Truy cập ngày 
02 tháng 12 năm 2011, từ www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=418&ItemID=4326 
Từ điển Xã hội học Oxford 2010 (Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa dịch), 
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 370 – 373 
Quyết định số 01/2011/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội về việc ban hành 
Chuẩn nghèo, cận nghèo Thành phố Hà Nội giai đoạn 2011 – 2015 
Quyết định số 170/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp 
dụng cho giai đoạn 2006-2010 
Quyết định số 09/2011/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp 
dụng cho giai đoạn 2011-2015 
Vi.wikipedia.org 2010, Định nghĩa về Ngưỡng nghèo. Truy cập ngày 02 tháng 12 năm 2011, từ 
Tintuc.xalo.vn, Nhận diện người nghèo, truy cập ngày 18/12/2011, từ 
765989969/Nhan_dien_nguoi_ngheo.html 
Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Nghèo, báo cáo chung của các nhà tài trợ tai HN Tư vấn các 
nhà tài trợ cho VN, Hà Nội, 2-3/12/2003. 
Nguyễn Thị Hà: Bài giảng Chính sách xóa đói giảm nghèo 
Ts. Đinh Phi Hổ, Ts. Lê Ngọc Uyển, Ths. Lê Thị Thanh Tùng. 
Kinh tế phát triển: Lý thuyết và thực tiễn, NXB Thống Kê, TP. Hồ Chí Minh, 2009. 
Tạp chí Quản lý nhà nước 2007, số 135 tr 33 – 36. 
30 
nal%20Report-v.pdf 
gioi.htm 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhom_1_va_2_dinh_nghia_1134.pdf