MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 3
I. Khái quát về ngân hàng thương mại 3
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại 3
2. Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan 3
3. Các chức năng của NHTM 4
4. Các loại hình Ngân hàng thương mại 6
5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam 7
6. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
II. Lý luận cơ bản chức năng huy động vốn của ngân hàng 11
III. Một số hình thức huy động vốn 14
1. Tiền gửi có thể phát séc 14
2. Tiền gửi phi giao dịch 15
3. Trái phiếu ngân hàng 16
IV. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vố ở ngân hàng thương mại 17
1. Tính ổn định của nguồn vốn 18
2. Chi phí huy động vốn 19
3. Lãi suất huy động 19
4. Các hiệu quả huy động vốn 20
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM 22
I. Thực trạng huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 22
1. Về các hình thức huy động 22
2. Về khối lượng huy động vốn 23
3. Về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn 27
II. Đánh giá tình hình huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 28
1. Một số kết quả đạt được 28
2. Một số hạn chế 29
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN 31
I. Một số giải pháp trong công việc huy động vốn của ngân hàng thương mại 31
II. Một số kiến nghị đối với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại 31
KẾT LUẬN
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2253 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhỏ.
Với xu hướng phát triển hiện nay, rất ít Ngân hàng chỉ có bán lẻ hoặc bán buôn. Các Ngân hàng nhỏ thường là Ngân hàng bán lẻ. Các Ngân hàng lớn kết hợp cả hai.
b. Các loại hình Ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức.
- Đó là Ngân hàng sở hữu Công ty và Ngân hàng không sở hữu Công ty. Ngân hàng sở hữu Công ty là Ngân hàng nắm giữ phần lớn vốn của Công ty, cho phép Ngân hàng được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản của Công ty.
- Ngân hàng đơn nhất và Ngân hàng có chi nhánh: Ngân hàng đơn nhất được hiểu là Ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch vụ Ngân hàng chỉ do một hội sở Ngân hàng cung cấp.
Ngân hàng có chi nhánh thường là Ngân hàng có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ Ngân hàng thông qua nhiều đơn vị Ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước thông qua các quy định về mức vốn sở hữu, về chuyên môn của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ Ngân hàng trong vùng.
5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam
a. Ngân hàng trong cơ chế kế hoạch hóa.
Tổ chức tín dụng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Nha tín dụng, được thành lập 1951. Là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong cơ chế kế hoạch tập trung và trong điều kiện chiến tranh, Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện các kế hoạch tiền tệ tín dụng được giao. Lãi suất, tỷ giá, tỷ lệ cho vay... phải hướng vào phục vụ các doanh nghiệp Nhà nước, các HTX và phục vụ quốc phòng để hoàn thành các kế hoạch 5 năm, phát triển kinh tế miền Bắc đồng thời chi viện cho tiền tuyến. Ngân hàng Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, kiến thiết đất nước sau năm 1975.
Sau năm 1975, nền kinh tế nước ta phải đối đầu với thử thách lớn: viện trợ bị giảm sút, đất nước đã chịu sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, chuyển đổi sang một cơ chế kinh tế mới khi chiến tranh kết thúc... Ngân hàng Nhà nước phải in tiền để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp. Lượng tiền cung ứng gia tăng trong điều kiện sản lượng không tăng kịp đã đẩy lạm phát lên cao trong những năm 80. Lạm phát gia tăng làm xói mòn tiết kiệm, khuyến khích tích trữ và đầu cơ dẫn đến gia tăng mạnh nhu cầu vay vốn từ Ngân hàng. Lãi suất thực âm, tỷ giá bị bóp méo, tiền lương không đủ trang trải các chi phí tối thiểu... nên Ngân hàng càng phải in nhiều tiền. Ngân hàng đã không bảo đảm được vốn, không tính toán được hiệu quả kinh tế, bị kéo vào vòng xoáy của siêu lạm phát.
b. Hệ thống Ngân hàng trong chuyển đổi cơ chế kinh tế.
Mô hình tổ chức đã được thay đổi căn bản tách chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng đối với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng các loại hình Ngân hàng, từng bước xóa bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của Nhà nước.
Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng (pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và Công ty tài chính) ra đời là bước ngoặt quan trọng trong hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng là hệ thống Ngân hàng hai cấp bao gồm Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, HTX tín dụng, Công ty tài chính... pháp lệnh đã khẳng định tính đa hình thức sở hữu, đa loại hình, đa thành phần và kinh doanh đa năng của hệ thống Ngân hàng thương mại. Pháp lệnh đã mở đường cho quá trình phát triển các loại hình Ngân hàng tại Việt Nam, bao gồm Ngân hàng quốc doanh Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Hiện nay, Quốc hội đã thông qua Luật về Ngân hàng Nhà nước và Luật về các tổ chức tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý mới cho sự phát triển của các Ngân hàng.
6.Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại.
6.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một Ngân hàng thương mại. Vốn được Ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Ngân hàng thường sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau:
* Vốn tự có của Ngân hàng: đây là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các Ngân hàng thương mại. Trong thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng thương mại mang lại, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
* Nghiệp vụ tiền gửi: đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân hàng thương mại có thể huy động được. Ngoài ra các Ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
* Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng Trung Ương dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác: thông qua nghiệp vụ Ngân hàng thương mại có thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay ủy thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
6.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian "đi vay để cho vay". Do vậy mối quan tâm hàng đầu của Ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân hàng cần phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình.
* Một là, Ngân hàng tiến hành cho vay.
Cho vay là một hoạt động quan trọng bậc nhất của Ngân hàng thương mại. theo thống kê, khoảng 60 - 70% thu nhập của Ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất bại của một Ngân hàng tuy thuộc chủ yếu vào thực hiện, kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của Ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
* Hai là tiến hành đầu tư.
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện hàng loạt những nhu cầu khác nhau. Với tư cách là chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phỉa luôn nắm baét được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ đẻ cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, Ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có hai hình thức chủ yếu mà các Ngân hàng thương mại có thể tiến hành là:
- Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các doanh nghiệp, các Công ty khác.
- Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố ấy là tính an toàn. Nghề Ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình Ngân hàng không thể bỏ qua sự "an toàn". Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, Ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán về thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung Ương đề ra.
6.3. Nghiệp vụ khác.
Là trung gian tài chính Ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó là Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức như séc, thẻ thanh toán ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào các tài khoản có liên quan đến đối tượng đó.
Cụ thể:
a. Dịch vụ thanh toán bộ: Trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài khoản giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc thu hộ, chi hộ khách hàng của mình bằng các hình thức trên.
b. Dịch vụ môi giới: mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm đại lý phát hành chứng khoán cho Công ty.
c. Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ ủy thác, bảo quản hộ các chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra Ngân hàng còn thực hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho Ngân hàng tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho Ngân hàng nhưng mục đích chính là thu hút khách hàng qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn co hiệu quả.
II. LÝ LUẬN CƠ BẢN CHỨC NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
Ngân hàng là con đẻ, là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá. Khi ra đời Ngân hàng lại thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Do đó, đối với hình thái kinh tế nào, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng là không thể thiếu được nó giử vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế.
Do vậy muốn phát triển nền kinh tế thị trường thì đIều đầu tiên là phát triển hoạt động ngân hàng.
Nếu coi cơ chế thị trường là cơ thể sống thì ngân hàng là huyết mạch của cơ thể sống đó.
Lật lại lịch sử phát triển, chúng ta có thể thấy, sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng gắn với tư bản hoá tiền tệ, mà tiền thân của nó là tư bản cho vay nặng lải đã từng tồn tại trong thời kì phân rả của chế độ nguyên thuỷ. Sự phát triển mạnh của quan hệ hàng hóa-tiền tệ đã đòi hỏi khách quan sự ra đời của các tổ chức và họat động Ngân hàng . Lúc này tư bản tiền tệ nhàn rổi đã bắt đầu xuất hiện phục vụ tư bản công nghiệp với lải suất thấp.
Như vậy, tư bản công nghiệp đã trả một phần lợi thu được cho người cho vay do việc sử dụng vốn vay vào sản xuất dưới hình thức lợi tức. Cơ chế phân chia lợi tức và lợi nhuận lúc đàu kinh doanh là ngẩu nhiên, nhưng khi tư bản hoạt động và tư bản sở hửu được phân định rỏ ràng thì cơ chế phân chia được đIều chỉnh, một nhóm tư bản nhận lợi tức và bên kia nhận lợi nhuận. Sự phát triển trong quan hệ hàng-tiền trong công nghiệp tạo điều kiện cho phát triển Ngân hàng, tư bản trong thương nghiệp. Tư bản trong thương nghiệp là tiền thân của tư bản có khả năng đem lại lải xuất. Tuy buôn bán tiền tệ là chức năng chủ yếu, các chức năng khác của ngân hàng được bổ sung dầnvới sự phát triển của quan hệ hàng-tiền và của nền kinh tế hàng hoá.
Theo Mác, các bộ phận cấu thành tư bản Ngân hàng bao gồm: vàng, giấy bạc và các chứng khoán. Đến lược mình ngân hàng lại phân thành vốn tự có và vốn đi vay. Chính vì lí do đó mà có thể kết luận rằng tiền gửi là yếu tố cấu thành nghiệp vụ tín dụng-ngân hàng. Các thành phần của nền tảng trên bao gồm:
- Vốn nhàn rổi
- Các loại quỉ được huy động
- Thanh toán trung gian cho khách hàng trên tài khoản
- Vốn tự có của ngân hàng
Hoạt động huy động vốn từ tiền của công chúng là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động Ngân hàng, là tiêu thức để đánh giá và phân biệt Ngân hàngvới các tổ chức tài chính khác. Do đặc trưng này mà chức năng cơ bản của Ngân hàng là đi vay và cho vay. Vì thế vốn huy động chiếm tỷ lệ cao trong tổng số vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy vốn tự có của Ngân hàng sẻ ít hơn rất nhiều so với vốn huy động nhưng nó rất quan trọng.
Ngân hàng ra đời thúc đẩy nền kinh tế phát triển, với chức năng huy động vốn, Ngân hàng thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối vốn, tiền tệ xã hội, tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhất là trong nền cơ chế thị trường mọi hàng hoá đều được biểu thị bằng giá cả thông qua tiền tệ. Vốn huy động và vốn cho vay của Ngân hàng cũng là một loại hàng hoá. Nó cũng được biểu hiện bằng tiền và giá cả trong quá trình sử dụng vốn. Giá cả đó chính là lải suát tiền vay mà Ngân hàng phải trả cho người cho vay và đòi lại ở người vay vốn từ Ngân hàng. Chúng ta biết rằng, việc phân chia lợi nhuận thành lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận công nghiệp và lải xuất là quá trình phân phối lại lợi nhuận xã hội đối với người trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khái niệm " tiền đẻ ra tiền " được xem như là một qui luật. Chính vì vậy, nhờ qui luật này mà nó tác động vào những người có vốn nhàn rổi muốn có khoản thu tiền lớn hơn (thu nhập từ tiền nhàn rổi của mình) sẻ đem đàu tư trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc gửi tiền tiết kiệm vào Ngân hàng, để sau một khoảng thời gian nhất định thu dược một số lợi tức nào đó. Đây là cơ sở và nguồn gốc để các Ngân hàng thực hiện được các chức năng cơ bản của mình, đó là huy động vốn nhàn rổi từ các lớp dân cư và các tổ chức trong nền kinh tế. Qua đó Ngân hàng đã thực hiện được vai trò rất quan trọng của mình với tư cách là một trung gian tài chính, góp phần vào quá trình chu chuyển vốn nằm rải rác trong dân cư để trở thành khoản vốn lớn mà nhu cầu đầu tư trong nền kinh tế đòi hỏi.
Tính tất yếu của Ngân hàng trong vai trò trung gian tài chính được thể hiện theo chu kì khép kín:
Huy động vốn- Trung gian tài chính-Sử dụng vốn.
Trong đó Ngân hàng đóng vai trò chủ yếu trong mối quan hệ ràng buộc giữa người vay tiền, người gửi tiền và Ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng còn có ý nghĩa quyết định việc kích thích tăng trưởng nguồn vốn huy động vào Ngân hàng thông qua giải quyết tốt mối quan hệ và quyền lợi của cả ba bên
Người gửi tiền
Người vay tiền
Ngân hàng
III. MỘT SỐ HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN
1.Tiền gửi có thể phát séc
Đây là những tài khoản ở một ngân hàng, người sở hữu chúng có quyền được phát séc cho những người thuộc bên thứ 3. Các khoản tiền gửi có thể phát séc gồm tất cả các tài khoản sau : tài khoản séc không có lãi (tiền gửi không kỳ hạn), các tài khoản NOW có lãi (NOW-negotiable order of withdrawal-lệnh thu hồi có thể mua bán ), các tài khoản super-NOW, và các tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ (MMDA). Tiền gửi có thể phát séc là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng.
Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu cầu; tức là , nếu người gửi tới ngân hàng gửi vừa đòi thanh toán bằng cách viết ra một giấy rút tiền, ngân hàng đó sẽ thanh toán cho khách hàng đó ngay lập tức. Tương tự, nếu một người nhận được một tấm séc phát theo một tài khoản ở một ngân hàng, khi ngân hàng đó nhận được tấm séc này, ngân hàng đó phải chuyển ngay lập tức số tiền ấy vào tài khoản của người đó.
Tiền gửi có thể phát séc là một tài sản có đối với người gửi nó, bởi vì nó là một phần của cải của người gửi nó. Ngược lại, bởi vì người gửi tiền này là có thể rút vốn khỏi tài khoản của ông ta, vốn đó ngân hàng có nghiã vụ thanh toán, do đó các tiền gửi có thể phát séc là một tài sản nợ của ngân hàng.Tiền gửi này thường là nguồn vốn ngân hàng có phí tổn thấp nhất bởi vì những người bỏ tiền sẵn lòng bỏ qua số tiền lãi để có được một tài sản lỏng có thể dùng để mua hàng. Những chi phí của ngân hàng cho việc duy trì tiền gửi có thể phát séc bao gồm tiền thanh toán lãi và những chi phí trong việc phục vụ những tài khoản này . [Xử lý và lưu giữ những séc đã thanh toán, soạn và gửi các thông báo tình hình hàng tháng, cung cấp những thủ quỹ có năng lực hoàn thành công việc (người hoặc máy), duy trì một toà nhà gây dược ấn tượng, và quảng cáo / marketing tới những khách hàng hấp dẫn để họ gửi vốn vào một ngân hàng nhất định nào đó.]
2.Tiền gửi phi giao dịch
Tiền gửi phi giao dịch là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Chúng có đặc tính chung là được hưởng tiền lãi và người sở hữu chúng không được quyền phát séc. Mức lãi suất của chúng thường cao hơn tài khoản séc bởi vì những người gửi tiền đó không được hưởng nhiều những dịch vụ như đối với các tài khoản séc. Tiền gửi phi giao dịch gồm hai loại chính: tài khoản tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hay còn gọi là giấy chứng nhận tiền gửi (certificate of deposits-CD).
2.1.Tài khoản tiết kiệm
Với tài khoản tiết kiệm, vốn có thể được thêm vào hay rút ra bất kỳ lúc nào, những giao dịch và tiền thanh toán lãi được ghi trong một cuốn sổ nhỏ (sổ tiết kiệm do người sở hữu tài khoản giữ) hoặc trong thông báo tình hình hàng tháng. Về mặt kỹ thuật dạng tiền gửi này không được rút ra khi yêu cầu (Ngân hàng có thể đợi đến 30 ngày để thanh toán ); tuy nhiên do sự cạnh tranh các món gửi, các ngân hàng cho phép những người gửi rút tiền khỏi tiền gửi tiết kiệm của họ ngay.
2.2.Tiền gửi kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi vào hoặc rút ra khỏi Ngân hàng theo định kỳ nhất định.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn rất quan trọng, đặc biệt nó đảm bảo cho Ngân hàng ổn định, giúp cho Ngân hàng hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn.
Tiền gửi kỳ hạn có thời gian đến ngày mãn hạn cố định trước trong khoảng một vài tháng đến hơn 5 năm, và có những khoản phạt đáng kể cho trường hợp rút tiền trước hạn (bị mất tiền lãi của một vài tháng). Tiền gửi tiết kiệm loại nhỏ là loại kém lỏng hơn so với tiền gửi tiết kiệm có sổ tiết kiệm: chúng có lãi suất cao hơn và là nguồn vốn có chi phí lớn hơn đối với các ngân hàng có hình thức gửi này .
Tiền gửi kỳ hạn loại lớn (CD) chủ yếu do các công ty hoặc các ngân hàng khác mua. CD loại lớn là loại có thể mang bán, do đó giống như một trái khoán, chúng có thể được bán lại ở thị trường cấp hai trước khi mãn hạn. Vì lí do này, loại CD có thể bán được này các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ và các tổ chức tài chính khác nắm giữ như là tài sản thay thế cho các tín phiếu kho bạc và những trái khoán ngắn hạn khác .
3.Trái phiếu ngân hàng
Trái phiếu ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ của các tổ chức tín dụng, phát hành để huy động vốn trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua (hoặc người sở hữu sau một thời gian nhất định. Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua trái phiếu .
Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu trái phiếu có thể dùng trái phiếu thế chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận và được thừa kế theo luật thừa kế .
Trái phiếu ngân hàng có thể phát hành dưới hai hình thức: trái phiếu có ghi tên hoặc trái phiếu không ghi tên.
Thời hạn của trái phiếu ngân hàng từ 01 năm trở lên. Thời hạn cụ thể do các tổ chức tín dụng quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn huy động từ trái phiếu.
Nguồn vốn huy động huy động từ trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn dài hạn của các tổ chức tín dụng, chủ yếu để đầu tư theo các dự án. Các tổ chức tín dụng không phải thực hiện dự trữ bắt buộc trên số vốn huy động từ trái phiếu ngân hàng. Các tổ chức tín dụng vừa có thể trực tiếp phát hành, vừa có thể tổ chức thực hiện các dịch vụ cất trữ, mở tài khoản, thanh toán môi giới mua bán và mua bán trái phiếu.
Lãi suất của trái phiếu do các tổ chức tín dụng ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường, sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn dài hạn, người vay có thể chấp nhận được, tổ chức tín dụng đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
Phương thức trả lãi :
+Để đáp ứng các yêu cầu khác của người mua, tổ chức tín dụng có thể lựa chọn 1 trong 3 phương thức sau :
1.Trả lãi trước : tức bán trái phiếu thấp hơn mệnh giá, khi đến hạn người mua sẽ lĩnh số tiền theo mệnh giá và được hưởng lãi số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua.
2.Trả lãi sau : Trái phiếu được bán theo mệnh giá, khi đến hạn người mua sẽ lĩnh số tiền theo mệnh giá và được hưởng lãi là số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua.
3.Trả lãi từng kỳ sáu tháng hoặc một năm căn cứ vào mức lãi ghi trên các phiếu lĩnh lãi kèm theo trái phiếu.
Các tổ chức tín dụng có thể trả lãi theo lãi suất có điều chỉnh định kỳ, căn vào một mức lãi suất làm cơ sở đã được Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định .
IV. MỘT VÀI CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Hiệu quả là cái đích mà mỗi chủ thể, thành phần kinh tế khi tham gai hoạt động kinh doanh đều phải hướng tới vì hiệu quả chính là nhân tố cấu thành lợi nhuận cuối cùng. Ngân hàng muốn thu được lợi nhuận cao, tạo được vị thế, uy tín trên thị trường thì hoạt động của Ngân hàng phải có hiệu quả. Một tring những hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả đó là công tác huy động vốn của Ngân hàng. Như phần trước đã đề cập, huy động vốn và hoạt động cơ bản của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng thực hiện các hoạt động khác, mặt khác vốn được huy động từ nhiều nguồn khác nhau và Ngân hàng sử dụng số huy động này với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi, đồng thời phải đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Cho nên hiệu quả của công tác huy động vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu trong hoạt động của Ngân hàng thương mại. Chính tầm quan trọng của công tác huy động vốn nên có rất nhiều các chỉ tiêu đã được các Ngân hàng đưa vào sử dụng để đánh giá về tính hiệu quả. Sau đây là một vài chỉ tiêu mà theo tôi các Ngân hàng không thể bỏ qua trong quá trình đánh giá.
1. Tính ổn định của nguồn vốn.
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của Ngân hàng hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh, cơ cấu vốn của Ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với Ngân hàng, do mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điêm yếu riêng trong việc khai thác và huy động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu đầu ra, cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần kế hoạch của Ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn lớn thì cái mà Ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho Ngân hàng khi đưa ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu Ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
2. Chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn là chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. chi phí huy động vốn bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí có liên quan khác.
Một Ngân hàng không thê coi là thành công trong việc huy động vốn nếu để có được một khối lượng vốn lớn nó phải bỏ ra chi phí huy động vốn quá lớn. Bởi cũng giống như các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lợi nhuận của Ngân hàng cũng được tính bằng công thức: doanh thu - chi phí. Đối với Ngân hàng lãi suất trả cho các khoản tiền vay huy động tỷ lệ cao nhất.
3. Lãi suất huy động.
Như chúng ta đã biết Ngân hàng là trung gian tài chính, đóng vai trò là cầu nối, dung hòa lợi ích giữa người gửi tiền và người cho vay, mà vẫn đảm bảo được lợi nhuận cho Ngân hàng. Không phải ngẫu nhiên nguồn vốn chảy vào bể chứa Ngân hàng, do Ngân hàng nhận thức vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế là lãi suất.Người gửi tiền muốn một lãi suất cao để đồng tiền của mìnhthu về được nhiều lãi, trong khi đó người vay tiền lại muốn có một lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận. Lãi suất huy động càng cao thì càng kích thích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, tuy nhiên nếu lãi suất đầu vào đã cao thì sẽ tác động không tốt đến lãi suất đầu ra và tất yếu lợi nhuận của Ngân hàng cũng không tránh khỏi bị biến động. Do vậy, trong huy động vốn, mỗi Ngân hàng cũng không tránh sử dụng nhiều biện pháp khác nhau sao cho tìm kiếm được những nguồn vốn có chi phí huy động thấp nhất (đưa ra một tỷ lệ lãi suát hợp lý để huy động được và sử dụng để huy động được và sử dụng để cho vay với lãi suất cao nhất mà vẫn được thị trường chấp nhận) chi phí huy động được đánh giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Các Ngân hàng cần có một chính sách lãi suất trong đó cần chú trọng tính đa dạng hóa lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động (căn cứ vào từng loại tiền, kỳ hạn, đối tượng tiền gửi). Một Ngân hàng có chính sách lãi suất đúng đắn nếu Ngân hàng tối thiểu hóa được chi phí trong huy động vốn mà vẫn hoàn thành được kế hoạch về nguồn vốn của Ngân hàng.
Không chỉ có chi phí lãi suất, trong hoạt động huy động vốn của Ngân hàng còn phải một số chi phí nghiệp vụ khác, tiền lương, chi phí in ấn giấy tưò nghiệp vụ... Tuy chi phí này chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho Ngân hàng.
4. Các hiệu quả huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức Ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào Ngân hàng càng nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hình thức huy động vốn chính là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của công tác huy động ở các Ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ Ngân hàng sử dụng. Tùy theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi Ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Vì thực tế, số lượng các công cụ huy động càng nhiều thì Ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của Ngân hàng. Một Ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc công tác huy động vốn của Ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với Ngân hàng. Cụ thể đối với các Ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng có trình độ cao thì Ngân hàng nên đa dạng hóa các loại công cụ huy động vốn.
Sẽ là không đủ nếu các Ngân hàng chỉ đa dạng về số lượng các công cụ mà không đa dạng về kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng. Chẳng hạn nếu khách hàng có nhu cầu gửi tiền với kỳ hạn mà Ngân hàng lại không có kỳ hạn đó thì dù có sử dụng nhiều công cụ huy động đến đâu Ngân hàng vẫn không thu hút được nguồn vốn đó. Do vậy, để công tác huy động vốn của Ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, Ngân hàng cần phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những Ngân hàng có quan hẹe quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay nếu có chiến lược sử dụng vốn dể cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động vốn trung và dài hạn..
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Ngân hàng là trung gian tài chính. Vốn của Ngân hàng trong đó vốn huy động là đầu vào chiếm tỷ trọng cao nhất và có vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngân hàng không thể được coi là có hiệu quả trong công tác huy động vốn nếu nguồn vốn huy động được lại thiếu hoặc thừa so với nhu cầu hoạt động của Ngân hàng. Mặt khác tình trạng không cân đối vốn trong hoạt động của bản thân Ngân hàng cũng như giữa các chi nhánh trong hệ thống, giữa các Ngân hàng lại thường xuyên xảy ra. Do vậy, công tác huy động vốn của Ngân hàng sẽ có hiệu quả nếu Ngân hàng có khả năng linh hoạt trong việc điều chuyển vốn giải quyết tình trạng thừa thiếu vốn tạm thời này, hay có khả năng đưa ra các quyết định, sự lựa chọn đúng đắn có lợi nhất, đảm bảo sự chủ động trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY.
NHTM hoạt động chủ yếu không phải bằng nguồn vốn tự có mà chủ yếu bằng nguồn vốn huy động, vì vậy hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của mọi NHTM.
1. Về các hình thức huy động.
Nguồn vốn huy động là số vốn chủ yếu trong tổng nguồn vốn của các NHTM, các NHTM Việt Nam đã xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức: Nhận tiền gửi, tiền gửi tiết kiệm, ngoài ra còn có các hình thức huy động khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi có kì hạn.
- Tiền gửi không kì hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Ở nhiều nước thì phần lớn các giao dịch thanh toán được thực hiện bằng séc còn Việt Nam thì tài khoản được thực hiện thường gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán gồm tài khoản thanh toán dùng cho doanh nghiệp và tài khoản thanh toán cho cá nhân. Hiện nay các NHTM trả lãi thanh toán cho loại tiền gửi này (Khoảng 0,1%/tháng)
- Tiền gửi không có kì hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời hạn nhất định ở Việt Nam trong nhưng năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi có 2 loại tiền gửi có kỳ hạn đã được áp dụng:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn theo tài khoản:
+ Tiền gửi: Có kỳ hạn dưới hình thức phát hành trái phiếu Ngân hàng trong đó Ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn thường nhằm mục đích đã định và được huy động theo 2 phương thức.
+ Phát hành theo mệnh giá: người mua trả tiền mua kì phiếu mệnh giá đã được ghi trên kỳ phiếu khi đến hạn Ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu.
+ Phát hành dưới hình thức chiết khấu.
- Tiền gửi tiết kiệm: Nước ta đã có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi, rút nhiều lần vào bất cứ lúc nào.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian nhất định, nếu khách hàng rút trước thì phải có điều kiện là hưởng lãi suất thấp.
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài số tiền lãi khách hàng còn được Ngân hàng cho vay nhằm mục đích bổ sung vốn cho xây dựng nhà ở.
+ Tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm được gọi chung là tiền gửi phi giao dịch.
Khi nguồn vốn huy động và nguồn vốn tự có không đủ cho nhu cầu sử dụng vốn của mình thì các NHTM còn được phép huy động phát hành kì phiếu, trái phiếu và các chứng chỉ tiền gửi có kì hạn để bổ sung nguồn vốn huy động của mình.
2. Về khối lượng huy động vốn :
Bằng các hình thức huy động vốn của mình, các NHTM nước ta đã huy động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động kinh doanh của mình. Số lượng vốn huy động ngày một tăng lên chiếm 60% tổng nguồn vốn. Đây là một số trong số kết quả huy động vốn là của các NHTM.
Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội đến hết quí I/2001 tổng nguồn vốn huy động của các NHTM là 58.000 tỷ đồng trong đó nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 24.000tỷ đồng (đổi ra VNĐ) chiếm tỷ trọng 41,3% tổng nguồn vốn huy động và tăng 3,3% so với cuối năm 1990; Qua đó ta thấy việc huy đông vốn bằng ngoại tệ cũng chiếm phần lớn trong tổng số vốn huy động được.
Ngân hàng công thương việt nam(NHCT VN) với thế mạnh về mạng lưới khắp các tĩnh, thành phố trong vả nước, có quan hệ truyền thống lâu năm với các doanh nghiệp ở mọi ngành, mọi thành phần kinh tế và tầng lớp dân cư, nên NHCT VN luôn duy trì dược tốc độ tăng trưởng vốn huy động ổn định
Nguồn vốn huy động được năm 2000 là 46.768 tỷ so với đầu năm là 10.811tỷ, tốc độ tăng 30%, trong đó vốn huy động VNĐ tăng 24%, ngoại tệ tăng 53% nên kết quả đã vượt chỉ tiêu đề ra là 3%.
Năm 2002 nguồn tiền gửi đạt xấp xỉ 55 tỷ đồng, tăng 20% so với cuối năm 2001, trong đó tiền gửi VNĐ tăng 25%, tiền gửi ngoại tệ tăng 7% .Nguyên nhân cơ bản là lãi suất tiền gửi VNĐ và lãi suất USD có xu hướng trái chiều nhau vì nền kinh tế răng trưởng tương đối ổn định làm cho cầu tín dụng VNĐ tăng lên, nhu cầu vốn tăng dẫn đến các NHTM buộc phải nâng lãi suất huy động VNĐ.
Ngược lại lãi suất của đông USD bị cắt giảm xuống ở mức thấp nhấp trong 40 năm qua, (1,25%/ năm), làm cho lãi suất USD trong nước cũng bị giảm theo trong khi tỷ giá VNĐ/USD chỉ biến động rất ít ( tăng 2,1% cho cả năm).Để đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu tín dụng cũng như ổn định thanh toán, ngoài các hình thức huy động tiền gửi thông thường, cuối năm 2002 lần đầu tiên NHCT VN phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm để thu hút lượng vốn hơn 2000 tỷ đồng.
Hình thức huy động tiện gửi tiết kiệm dự thưởng cũng bắt đầu áp dụng từ năm 2002 đã lôi cuốn được sự quan tâm của đông đảo tầng lớp nhân dân có tiền nhàn rỗi muốn gửi tiền vào ngân hàng. Hiện nay nguồn tiền gửi dân cư chiếm 40% tổng nguồn vốn huy dộng và là nguồn huy động ổn định nhất trong cư cấu tài sản nợ.
Tổng nguồn vốn của ngân hàng ngoại thương Việt Nam (NHNT VN) đền ngày 31/12/2003 đạt 97320 tỷ quy đồng VN. Tăng 19,42% so với năm 2002 vượt kế hoạch 8% và chiếm 20,3 % vốn huy động của toàn ngành NH.
Cơ cấu nguồn vốn có sự chuyển dịch theo hướng tích cực và phù hợp với định hướng chiến lược của NHNT. Đó là tăng tỉ lệ vốn huy động bằng VNĐ đặc biệt là tỉ lệ huy động vốn từ nền kinh tế.
Nguồn vốn huy động bằng VNĐ có tốc độ tăng trưởng mạnh (67%) đạt 30802 tỷ VNĐ, chiếm 43% tổng nguồn vốn so với 33% năm 2002, ngược lại nguồn vốn ngoại tệ chỉ tăng 8% so năm 2002 đạt 41,007 tỷ VNĐ.
Sự tăng trưởng chậm vốn ngoại tệ chủ yếu là do 3 nguyên nhân sau:
- Nguồn vốn ngoại tệ huy động từ dân cư giảm do lãi suất ngoại tíêp tục duy trì ở mức thấp
- Nhập siêu của nền kinh tế còn cao.
- Cạnh tranh lãi suất huy động vốn gay gắt giữa các NHTM.
Vốn huy động có kỳ hạn đạt 36,807 VNĐ chiếm tỷ trọng 51% trong nguồn vốn huy động ,tăng 20% so với năm 2002.
Tuy nhiên vốn trung và dài hạn ( trên 12 tháng) chỉ là 3,496 tỷ quy đồng VN, chiếm 9.5% nguồn vốn huy động có kỳ hạn và 5% tổng nguốn vốn huy động được . Vấn đề thiếu vốn trung và dài hạn đang là thách thức đối với NHNT VN nói riêng và các NHTM khác nói chung trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng mạnh và nhu cầu đầu tư trung và dài hạn ngày càng gia tăng
Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam (Địa bàn Hà Nội) trong 3 năm gần đây (2000-2002) cũng đạt đươc một số kết quả nhất định về công tác huy động vốn.
Đến 31/12/2000, nguồn vốn huy động đạt 1623 tỷ đồng, tăng 188% (1059 tỷ đồng) so với năm 1999. Trong đó:
- Tiền gửi không kỳ hạn: 372 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 23% tổng nguồn vốn.
- Tiền gửi có kỳ hạn : 1251 tỷ đồng chiếm 77% tổng nguồn vốn
Đến ngày 31/12/2001, tổng nguồn huy động đạt 2.207 tỷ đồng, tăng 584 tỷ so với cuối năm 2000, tốc độ tăng trưởng 36% năm và đạt 129% kế hoạch cả năm 2001. Trong đó :
- Tiền gửi không kỳ hạn 1.018 tỷ đồng, chiếm 46% trong tổng nguồn vốn huy động, tăng 646 tỷ đồng (tăng 173,6 %) so với đầu năm.
- Tiền gửi có kỳ hạn 1.189 tỷ đồng, chiếm 54% tổng nguồn vốn, giảm 62 tỷ so với năm 2000, giảm 4,9% so với năm trước.
Đến ngày 31/12/2002, Tổng nguồn vốn huy động đạt 3240 tỷ đồng ; tăng 1025 tỷ đồng (tăng 46%) so với 31/12/2001 ; đạt 108,6% chỉ tiêu kế hoạch được giao. Trong đó:
- Tiền gửi không kỳ hạn 1179 tỷ đồng, chiếm 36% trong tổng nguồn vốn huy động; tăng 161 tỷ đồng (tăng 15,8%) so với 31/12/2001
- Tiền gửi có kỳ hạn 2061 tỷ đồng, chiếm 64% trong tổng nguồn vốn; tăng 872 tỷ đồng (tăng 73%) so với 31/12/2001.
Nhìn chung, tốc độ và quy mô tăng trưởng nguồn vốn 3 năm qua đạt khá tốt. Cơ cấu nguồn vốn huy động hợp lý, giảm lãi suất đầu vào, có lợi trong kinh doanh.
Từ đầu năm đến ngày 1/11/1999 thì các Ngân hàng thương mại đã tham gia vào 39 phiên đấu thầu trái phiếu của Ngân hàng Nhà nước. Các NHTM là những người được trúng thầu phần lơn về việc đầu tư nguồn vốn vào trái phiếu và từ 19/5 đến 15/7/1999 thì việc mua bán trái phiếu của Ngân hàng thương mại đạt 2. 530 tỷ đồng.
Nhưng từ ngày 15/5/1999 kho bạc Nhà nước dùng việc bán lẻ trái phiếu ra xã hội, từ ngày 15/7 thì dừng việc phát hành công trái nên dân cư chỉ còn cách gửi tiền vốn vào Ngân hàng nên nguồn vốn từ tiền gửi của người dân lại tăng lên.
Như vậy nó đã tạo điều kiện cho NHTM trong việc huy động vốn của mình, giúp cho các NHTM thực hiện huy động vốn để đầu tư với khối lượng lớn.
3. Về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn.
Ta có một số chỉ tiêu về huy động vốn của một số ngân hàng thông qua các bảng số liệu sau:
BẢNG 1: TỶ TRỌNG VỐN HUY ĐỘNG TRONG TỔNG NGUỒN VỐN
( Phần trăm trên tổng nguồn vốn)
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
T.B
NHNg
66.75
60.6
71
58.94
62.04
51.1
50.4
54.17
NHCT
79.8
79.2
76.8
79.8
70.93
77.1
81.3
67.4
NHĐT
24.94
36.5
40.3
46.1
54.76
59.7
65
47.44
NHNT
73.44
79.9
76.6
67.99
71.5
73.6
75.5
65.75
BẢNG 2: TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG
(Phần trăm so với năm trước)
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
T.B
NHNg
13.66
33.9
17.95
19.35
9.33
33.69
21.31
NHCT
6.97
25.57
28.43
20.57
16.19
25.71
20.57
NHĐT
66.67
48.87
53.35
48.57
19.08
47
47.26
NHNT
13.56
10.21
21.52
39.83
32.9
31.35
24.89
BẢNG 3: NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG QUA KÌ PHIẾU, TRÁI PHIẾU.
(Phần trăm trên tổng nguồn vốn)
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
2000
T.B
NHNg
28.43
24.8
28.6
26.1
28.7
23.7
26.72
NHCT
12.8
6.7
5.8
4.9
0.42
0.02
5.11
NHĐT
5.65
7.9
11.09
10.71
15.7
26.3
12.89
NHNT
0
1.65
0.94
0.85
0.746
5
1.53
BẢNG 4: NGUỒN VỐN VAY TỪ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
NHNg
1.04
6.1
2.83
13
2.21
8.7
2.8
8.5
3.31
8.1
NHCT
0.51
2.8
0.4
2
0.78
3
0.86
2.7
3.15
6.9
NHĐT
4.9
26.8
4.7
25.8
5.88
23.9
6.05
18.1
6.91
16.6
NHNT
-
-
-
-
-
-
0.1
0.3
1.9
4.1
BẢNG 5: VỐN CHỦ SỞ HỮU TRONG TỔNG NGUỒN VỐN
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
NHNg
0.59
3.3
0.55
2.5
0.21
0.8
3.02
8.4
3.11
7.6
NHCT
0.96
5
0.96
4.6
1.07
4
1.66
4.9
1.74
3.8
NHĐT
0.72
4.5
0.84
4.6
1.24
5.1
1.78
5.3
1.94
4.6
NHNT
1.23
5.7
0.96
4.3
1.22
4.7
1.62
4.6
2.18
4.6
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM HIÊN NAY.
1. Một số kết quả đạt được.
Nhờ xác định đúng đắn mục tiêu hoạt động, hầu hết các NHTM Việt Nam đã biết phát huy những lợi thế vốn có, khắc phục những hạn chế của mình với sự phấn đấu hết sức mình của toàn thể cán bộ công nhân viên chức đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong lĩnh vực huy động vốn. Trong các năm vừa qua, Nhìn chung các NHTM đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động liên tục tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Nhờ đó mà một số NHTM không những đáp ứng được nhu cầu nguồn vốn kinh doanh mà còn có nguồn vốn để hỗ trợ các chi nhánh của mìmh gặp khó khăn trong công tác huy động vốn.
- Các NHTM Việt nam không những đạt được doanh số nguồn vốn huy động cao và ngày càng tăng trưởng mà còn có sự thay đổi tích cực về cơ cấu nguồn vốn. Tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn ngày càng tăng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện mở rộng cho vay trung và dài hạn phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế.
Trong các năm vừa qua các NHTM Việt nam đã thực hiện được nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn mà ta có thể thấy như:
+Tổ chức tốt các đợt phát hành kỳ phiếu huy động vốn nội tệ, ngoại tệ (USD) trung, dài hạn, huy động vốn bằng đồng EUR.
+Cải tạo mở rộng thêm sàn giao dịch với khách hàng tại quầy giao dịch trung tâm, nâng cấp trang thiết bị hiện đại, Mở thêm phòng giao dịch để tăng cường huy động và cho vay vốn.
+Trang bị đủ máy vi tính cho các phòng nghiệp vụ, phòng giao dịch. Từng bước ứng dụng các chương trình phần mềm để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đã thực hiện chương trình thanh toán điện tử nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, góp phần thu hút khách hàng đến giao dịch.
-Trong việc điều hành hoạt động huy động vốn các NHTM đã theo dõi và nắm bắt được diễn biến trên thị trường để có sự điều chỉnh kịp thời lãi suất huy động đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh.
-Với những cố gắng tích cực trong hoạt động kinh doanh của mình trong những năm qua, các NHTM nói chung đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường, dần tạo được mối quan hệ gắn bó thân thiết với nhiều khách hàng lón có uy tín qua đó mở rộng được thị phần kinh doanh của mình.
2. Một số hạn chế.
Mặc dù trong những năm qua các NHTM đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên hoạt động huy động vốn vẫn tồn tại một số hạn chế đó là:
Chi phí về tài chính lớn :Trong những thời kỳ thiếu vốn VND trong thanh toán của toàn hệ thống, các NHTM đã phải sử dụng nhiều biện pháp để đảm bảo dự trữ bắt buộc và có vốn cho thanh toán và chi phí về tài chính là tương đối lớn làm giảm lợi nhuận.
Chưa thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng: Trong những năm qua Nguồn vốn tăng trưởng nhanh nhưng tập trung vào một số khách hàng lớn nên hoạt động kinh doanh của một số NHTM dễ bị ảnh hưởng bởi các quyết định và tình hình kinh doanh của các đối tượng này. Nguồn huy động trong dân cư tăng chậm hiệu quả công tác khách hàng còn hạn chế, chưa thu hút được khách hàng xuất khẩu để có ngoại tệ , chưa có khách hàng sản xuất vật chất có nhu cầu vay vốn ổn định với rủi ro thấp, hạn chế việc cung ứng ngoại tệ để thanh toán . Việc chỉ đạo xử lý thu hồi nợ quá hạn các NHTM đã tập trung nhiều công sức nhưng kết quả thu được còn thấp làm nguồn vốn bị đọng cao. Tài sản bảo đảm tiền vay có nhiều tranh chấp, không đầy đủ yếu tố pháp lý nên rất khó khăn trong việc xử lý tài sản để thu nợ làm cho nguồn vốn bị chôn vào các tài sản này.
Chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào có xu hướng bị thu hẹp dần : Về chi phí huy động vốn, chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào của các NHTM trong thời gian qua có xu hướng thu hẹp dần. Điều này cần phải chú ý bởi sự thu hẹp chênh lệch lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM nói chung.
Biên chế lao động còn thiếu, ,màng lưới còn quá ít :Khối lượng công việc của các NHTM Việt Nam tăng lên nhiều, biên chế lao động được bổ sung nhưng chưa cân xứng, nhiều phòng chuyên môn hiện nay còn thiếu cán bộ làm việc, mặt bằng chật hẹp làm hạn chế chất lượng giao dịch phục vụ khách hàng, đặc biệt là công tác huy động tiết kiệm.
Còn nhiều vướng mắc bộc lộ khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng : Các dịch vụ ngân hàng hiện đại như ATM, ebanking, mới phát triển và đi vào hoạt động tuy nhiên khi khách hàng sử dụng các dịch vụ này còn gặp phải nhiều sự cố do máy móc, kỹ thuật và cách sử dụng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN
I. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÔNG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
Đối với nước ta “vốn” là một trong những khó khăn lớn nhất của quá trình chuyển đổi cơ chế hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Bảo đảm thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội cần đẩy mạnh khai thác mọi nguồn vốn trong nước theo tinh thần tự lực tự cường kết hợp với hỗ trợ bên ngoài. Nhằm thực hiện được mục tiêu huy động được nguồn vốn trong nước hiện nay còn tiềm tàng rất lớn thì các Ngân hàng thương mại cần có những giải pháp sau:
- Tạo được chữ tín đối với khách hàng Ngân hàng phải đảm bảo an toàn của số vốn mà khách hàng đã gử. đảm bảo thuận tiện lấy ra dễ dàng phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ, có năng lực, có phong cách, giao dịch tiếp thị tốt để sau này “vui lòng khách đến” của các Ngân hàng thương mại.
Phải có chính sách khách hàng, chủ yếu là chính sách điều chỉnh lãi suất thích hợp. Đồng thời cũng có chính sách mềm mỏng, hấp dẫn cần ưu đãi với khách hàng có số dư lớn, gửi thường xuyên, đẩy mạnh kinh doanh việc mua bán ngoại tệ, tiền mặt, đại lí séc du lịch.
- Mở rộng tín dụng làm tiên đề cho việc thu hút vốn nhân tài của tư nhân và các doanh nghiệp.
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng.
- Thực hiện bảo hiểm trách nhiệm về tiền gửi là tài sản của người gửi tiền, là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng.
- Có các dịch vụ khuyến mại, đa dạng hoá loại hình huy động vốn.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Đối với việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại thì vấn đề huy động vốn bằng vàng cũng là điều rất cần quan tâm! Các tổ chức có thể huy động vốn bằng vàng theo nhiều cách khác nhau trong đó có 2 cách, theo kiểu phân loại tiền gửi không kì hạn và có kì hạn.
- Huy động vốn bằng vàng không kỳ hạn là cách huy động với mục đích tích luỹ tài sản, không nghĩ đến tìm kiếm lợi nhuận trong tài sản tích luỹ đó, các Ngân hàng sẽ mở tài khoản giữ vàng không kỳ hạn nghĩa là người nào có yêu cầu mua vàng để cất giữ thì đến Ngân hàng mở tài khoản gửi số tiền mà mình dành dụm được để mua vàng vào tài khoản. Nó giống cách thức huy động tiền gửi không kỳ hạn và các Ngân hàng cần phải mở các dịch vụ thanh toán bằng vàng để phục vụ và thu hút khách hàng tạo sự an toàn trong thanh toán.
Thứ hai là: khách hàng cũng có thể gửi vào tài khoản của mình bằng vàng thật là nhờ Ngân hàng giữ hộ.
Thứ ba là: tài khoản gửi vàng này là không kỳ hạn nên Ngân hàng Nhà nước phải quản lí như tiền gửi không kì hạn về dự trữ pháp định, lãi suất tiền gửi, tiền quỹ.
- Huy động vốn bằng vàng có kì hạn: Khách hàng cho phép Ngân hàng được sử dụng vốn bằng vàng của mình theo kỳ hạn thoả thuận khách hàng sẽ rút ra khỏi Ngân hàng.
Đến kỳ hạn trả khách hàng có thể rút ra theo ba cách đó là: lấy bằng tiền mặt lấy bằng vàng và chuyển tài khoản tiền gửi bằng vàng không kì hạn.
Lãi suất tiền gửi sẽ được gửi định tương đương với lãi suất thực dương cần thiết để kuyến khích người gửi vàng và khi đó nếu có lạm phát lãi suất tiền gửi vàng sẽ nhỏ hơn lãi suất tiền gửi bình thường.
Các Ngân hàng thương mại phải có những biện pháp phòng chống rủi ro có thể xảy ra cho Ngân hàng huy động tiền gửi kỳ hạn bằng vàng khi giá vàng tăng lên mà vẫn phải trả như giá đang hiện hành cả gốc và lãi để đề phòng các rủi ro thì các Ngân hàng thương mại có thể áp dụng các thủ thuật mua bán kì hạn hoặc mua bán quyền chọn. Trong đó mua bán kỳ hạn là khi Ngân hàng nhận một khoản tiền gửi bằng vàng để sử dụng để đề phòng giá vàng tăng thì Ngân hàng phải mua vào một lượng vàng có trọng lượng tương đương nhưng mua kì hạn. Còn mua quyền chọn là Ngân hàng huy động tiềngửi có kỳ hạn có thể mua một quyền chọn mua một lượng vàng tương ứng.
Qua đó ta thấy Ngân hàng Nhà nước nên đưa ra quy định yêu cầu Công ty kinh doanh vàng mở trung tâm giao dịch các nghiệp vụ kỳ hạn và quyền chọn trong lĩnh vực này.
Hiện nay thị trường mở đã đi vào hoạt động cho nên Ngân hàng thương mại nhanh chóng hoàn thiện các điều kiện của mình để gia nhập thị trường này để tăng khả năng xử lí vốn khả dụng đồng thời tăng nguồn thu.
- Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động vì vậy các Ngân hàng thương mại nên kiến nghị với Nhà nước sao cho các Ngân hàng thương mại có thể tham gia sau, khai thác triệt để thị trường này, bởi vì về tương lai thị trường này là một kênh để cho Ngân hàng thương mại khai thác rất có hiệu quả.
Hiện nay thị trường liên Ngân hàng Việt Nam chưa được sử dụng triệt để các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng vẫn chưa thực sự liên hệ được với nhau qua kênh này. Về lâu dài các Ngân hàng thương mại nên quan tâm hơn về thị trường này vì góp phần to lớn vào việc xử lí vốn khả dụng trong cả hai trường hợp thừa và thiếu vốn.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trên đà đổi mới đặc biệt là đổi mới kinh tế. Sau một thời gian thích nghi với cơ chế thị trường sự phát triển đi lên đưa đất nước đang đòi hỏi bức thiết về vốn. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế bảo đảm thực hiện mục tiêu của chiến lược kinh tế xã hội đến năm 2004 và cả sau này. Xuất phát từ mục đích trên, yếu tố quyết định hoạt động của Ngân hàng là xây dựng chiến lược huy động nguồn vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.
Bài viết này được tập trung nghiên cứu về một số vấn đề huy động của Ngân hàng thương mại. Từ lí luận bản chất của nguồn vốn là thực trạng huy động vốn của các Ngân hàng thương mại từ đó có một số biện pháp trong công tác huy động vốn của các Ngân hàng thương mại.
Đây là một việc hoàn toàn mới mẻ với khả năng của bản thân em nên bài viết còn gặp nhiều hạn chế về nhận thức và suy nghĩ không tránh khỏi những sai sót mong được sự chỉ bảo và quan tâm của thầy trong bài viết này.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 3
I. Khái quát về ngân hàng thương mại 3
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại 3
2. Ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan 3
3. Các chức năng của NHTM 4
4. Các loại hình Ngân hàng thương mại 6
5. Vai trò cơ bản về hệ thống Ngân hàng Việt Nam 7
6. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
II. Lý luận cơ bản chức năng huy động vốn của ngân hàng 11
III. Một số hình thức huy động vốn 14
1. Tiền gửi có thể phát séc 14
2. Tiền gửi phi giao dịch 15
3. Trái phiếu ngân hàng 16
IV. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của công tác huy động vố ở ngân hàng thương mại 17
1. Tính ổn định của nguồn vốn 18
2. Chi phí huy động vốn 19
3. Lãi suất huy động 19
4. Các hiệu quả huy động vốn 20
5. Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng 21
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VIỆT NAM 22
I. Thực trạng huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 22
1. Về các hình thức huy động 22
2. Về khối lượng huy động vốn 23
3. Về các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn 27
II. Đánh giá tình hình huy động vốn của NHTM Việt Nam hiện nay 28
1. Một số kết quả đạt được 28
2. Một số hạn chế 29
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN 31
I. Một số giải pháp trong công việc huy động vốn của ngân hàng thương mại 31
II. Một số kiến nghị đối với việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại 31
KẾT LUẬN 34
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyên đề Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của NHTM Việt Nam.doc