Bộ Tài chính có nhiệm vụ xây dựng các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), về cơ bản dựa trên IFRS. Mặc dù một số VAS đã ban hành về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được một số phương diện phức tạp của IFRS, như việc đánh giá các công cụ phát sinh theo giá trị hợp lý theo quy định của Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) 39, kế toán việc mua bán doanh nghiệp theo IFRS 3 hay ghi nhận lỗ do giảm giá trị tài sản theo IAS3.Một số VAS được ban hành trong thời gian gần đây và VAS tiếp tục được ban hành đã đáp ứng được những vấn đề chuyên môn có tính phức tạp hơn.
Hiện này, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng VAS trong việc lập BCTC theo luật định và áp dụng IFRS trong công tác báo cáo cho tập đoàn. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều áp dụng VAS và một số cũng lập BCTC theo IFRS. Mặc dù nước ta chưa có chuẩn mực kế toán tương ứng với IFRS 6 nhưng trong xu thế Việt Nam ngày càng mở cửa, hội nhập và việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập BCTC cho tập đoàn theo IFRS. Hơn nữa, ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tìm cách gia tăng xuất khẩu và thiết lập hoạt động ở nước ngoài, do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu phải lập BCTC theo IFRS.
Hơn nữa mỗi nước phải dựa trên đặc điểm về tài nguyên khoáng sản, mức độ điều tra địa chất, về hiện trạng hoạt động của thị trường nguyên liệu khoáng và các điều kiện kinh tế xã hội của nước mình để hình thành chương trình thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản thích hợp có tính khả thi. Các bước triển khai của quá trình thăm dò và đánh giá gắn liền với một kế hoạch chi tiết về đào tạo cán bộ, từ người thực hiện chương trình đến người hoạch định chính sách, người sử dụng những sản phẩm khoa học của chương trình. Chương trình đánh giá được thực hiện từng bước, có tính liên tục sao cho có thể cập nhật số liệu mới, thích ứng với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật của nền kinh tế thị trường. Như vậy Việt Nam cần phải có chuẩn mực kế toán “thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản” thích hợp dựa trên IFRS 6. Chương trình thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản đang được thực hiện và hiện nay đã hoàn thành bước tổng hợp tài liệu hiện có. Sự khởi đầu đổi mới này sẽ là cơ sở cho các bước tiếp theo với các mục tiêu được định sẵn sẽ làm cho việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản của nước ta cóvai trò đích thựctrong việc phát triển nền kinh tế - xã hội của Việt Nam
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2711 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án IFRS6 thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trình đánh giá tài nguyên khoáng sản còn cần áp dụng rộng rãi hệ thống phương pháp đánh giá cơ sở hạ tầng, nguồn lao động, vốn đầu tư cho khai thác và chế biến khoáng sản gắn với phát triển kinh tế xã hội theo vùng lãnh thổ, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng kinh tế trọng điểm miền núi, và các vùng sâu vùng xa.
2. Phân loại:
2.1. Phân loại tài sản
IFRS 6 yêu cầu các doanh nghiệp phải phân loại một cách riêng rẽ mỗi loại E&E tài sản như chi phí vô hình và chi phí hữu hình dựa vào tính chất của tài sản.
Nhiều E & E tài sản có thể nhận biết được rõ ràng là chi phí hữu hình(ví dụ:xe cộ,dàn khoan) và chi phí vô hình (ví dụ:giấy phép thăm dò). Cũng sẽ có một phần E&E tài sản dôi ra mà phần tài sản này không dễ để phân loại và thành phần quan trọng của E&E tài sản dôi ra này gồm có chi phí phải chịu trong quá trình thăm dò giếng dầu và mỏ.
Dựa vào tính chất của tài sản để phân loại thành chi phí hữu hình hay chi phí vô hình, nó rất hữu ích cho việc hình thành chi phí cho từng khoản mục là tài sản hữu hình mà bản thân nó sẽ được sử dụng hoặc sự hiểu biết về vị trí của chi phí vô hình, về cơ bản chỉ để xây dựng tài sản hữu hình.Ví dụ, giếng dầu sẽ được sử dụng để hút ra dự trữ có thể là tài sản hữu hình.Tuy nhiên, việc thăm dò giếng dầu có thể là kết quả của sự am hiểu. Những chi phí liên quan đến việc xây dựng để thăm dò giếng hoặc hoạt động địa chất và hoạt động địa lý được phân loại như E&E tài sản vô hình.
Việc phân loại E&E tài sản thành vô hình hoặc hữu hình dựa trên nền tảng là việc lựa chọn chính sách kế toán,đo lường tài sản sau khi ghi nhận và mục đích trình bày.
Sự phân chia thành E&E tài sản thành vô hình và hữu hình được áp dụng một cách nhất quán:
2.1.1. Tài sản vô hình
Tài sản vô hình được định nghĩa trong IFRSs có thể xem như là những tài sản phi tiền tệ không gồm chất hữu hình.Không có yêu cầu tài sản được tổ chức cho mục đích chi tiết.
Ví dụ về E&E tài sản có thể được phân loại thành chi phí vô hình phù hợp với định nghĩa này gồm:
Quyền khoan
Quyền được thăm dò
Chi phí cho việc quản lí các nghiên cứu đo vẽ,địa chất,hóa học,địa lý.
Chi phí thăm dò các dàn khoan
Chi phí đào hầm
Chi phí lấy mẫu
Những chi phí liên quan đến đánh giá tính khả thi và khả năng sinh lời kinh tế của tài nguyên khoáng sản.
2.1.2. Tài sản hữu hình
IFRSs không có định nghĩa “hữu hình”. Tuy nhiên hầu hết tài sản hữu hình có thể được định nghĩa là những khoản mục bất động sản, nhà máy, phân xưởng và máy móc thiết bị. Theo định nghĩa này thì những khoản mục được tổ chức để dùng cho sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ,để cho thuê hoặc để phục vụ cho mục đích quản lí; và tài sản này được sử dụng từ một chu kì kinh doanh trở lên.
Dựa vào định nghĩa này ví dụ của E&E tài sản có thể được định nghĩa là tài sản hữu hình bao gồm(không có giới hạn rõ ràng):
Máy móc thiết bị được sử dụng để thăm dò,như xe cộ và dàn khoan
Hệ thống ống dẫn và máy bơm
Bể chứa dầu
Trên thực tế hiện nay các doanh nghiệp xem E&E tài sản như là tài sản vô hình trong khi những doanh nghiệp khác lại xem chúng như là tài sản hữu hình.Ví dụ ở Bắc Phi,phần lớn các doanh nghiệp phân loại E&E tài sản như tài sản hữu hình. Tuy nhiên, tài sản sử dụng còn lại là tài sản hữu hình.
Trong một phạm vi nào đó một tài sản hữu hình được tiêu thụ sẽ phát sinh các tài sản vô hình, phản ánh số tiền tiêu thụ do một phần chi phí ma tài sản vô hình đã tạo ra.
Ví dụ một dàn khoan được sử dụng chỉ để thăm dò thì máy móc thiết bị là chi phí hữu hình và sẽ được phân loại thao cách thông thường. Chi phí khấu hao được ghi nhận theo dàn khoan sẽ được trình bày trên lượng tiêu thụ của tài sản hữu hình trong quá trình phát sinh thêm E&E tài sản vô hình.Việc khấu hao nên được xem xét để vốn hóa như là một phần chi phí của mỏ và giếng dầu.Tương tự,các tàu chở dầu được dùng để dự trữ khí lỏng-kết quả từ việc thăm dò giếng dầu được phân loại như tài sả hữu hình,chi phí khấu hao của những tàu chở dầu này hoặc các hợp đồng cho thuê có thể là một phần chi phí E&E tài sản vô hình.
Về phía những người sử dụng IFRSs hiện hành và những người thông qua đầu tiên,họ muốn phân biệt E & E tài sản thành các khoản mục hữu hình và vô hình có thể thay đổi tùy tình hình thực tế của doanh nghiệp. Các ngành công nghiệp hiện hành việc phân loại E&E tài sản khác nhau và không nhất thiết phản ánh việc quản lí những chi phí và quy trình sản xuất của doanh nghiệp. Thêm vào đó rất khó để khái quát việc phân loại thực tế dựa vào quy mô và bản chất của doanh nghiệp và không khó để tìm thấy E&E tài sản trong phạm vi tài sản vô hình hoặc một phần riêng rẽ cấu thành tài sản hữu hình. Ví dụ một doamh nghiệp dầu khí áp dụng những biện pháp nỗ lực thành công có thể vốn hóa chi phí E&E như tài sản vô hình khi nợ và sau khi chuyển các chi phí sang tài sản hữu hình thì đưa ra quyết định mở rộng phạm vi khai thác. IFRS 6 yêu cầu các doanh nghiệp phải tách rời tài sản E&E hữu hình và vô hình và mở rộng chính sách phân loại lại những tài sản này khi tính khả thi và khả năng sinh lời kinh tế có thể được giải thích.
Thăm dò và đánh giá tài sản sẽ không được phân loại như vậy nữa khi tính khả thi cao và khả năng độc lập thương mại của tài nguyên khoáng sản có thể được giải thích. Thăm dò và đánh giá tài sản sẽ được ước lượng thông qua sự yếu kém của chuẩn mực và sự thiếu sót trong ghi nhận trước khi phân loại lại thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.
2.2. Phân loại lại tài sản E&E:
Theo IFRS 6, khi ngừng các hoạt động thăm dò và đánh giá trong một khu vực, doanh nghiệp phải (a) dừng việc cung cấp các chi phí vốn ở khu vực đó; (b) kiểm tra việc ghi nhận E & E cho tài sản tổn thất, và (c) dừng việc phân loại tài sản E&E không mang lại tổn thất (hữu hình và vô hình) khi thăm dò và đánh giá.
Tài sản E & E có thể được phân loại lại hoặc là phát triển từ tài sản hữu hình hoặc vô hình. Việc phân loại lại tài sản E & E để phát triển tài sản là một sự lựa chọn chính sách kế toán phải được áp dụng thống nhất.
2.2.1. Nhận dạng E& E tài sản:
Nhìn chung nhận dạng tài sản hữu hình E & E chẳng hạn như một giàn khoan thăm dò sẽ tiếp tục được sử dụng bởi một tổ chức thực hiện E & E hoạt động cho các dự án khác, phân loại lại các tài sản này sẽ không được thích hợp. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng các doanh nghiệp cần phải đánh giá lại sự phù hợp của thời gian khấu hao và phân bổ các tài sản này để CGUs hoặc các nhóm của các đơn vị tại thời điểm tài sản được phân bổ cho các dự án thăm dò và đánh giá khác.
Nhận dạng tài sản hữu hình phải ngừng sự phân loại lại khi tài sản E&E nói chung được phân loại như việc phát triển tài sản hữu hình theo quy định của IAS 16, ví dụ, một chiếc xe sử dụng cho sản xuất. Trong khi nhận dạng, E& Etài sản vô hình sẽ tiếp tục được phân loại như tài sản vô hình, ví dụ một giấy phép thăm dò.
2.2.2. Không thể nhận dạng tài sản E&E:
Nói chung, khitính khả thi của hoạt động thương mại và kỹ thuật có thể được chứng minh, một trữ lượng khoáng sản cụ thể sẽ được xác định để phát triển. Trong thực tế, trữ lượng khoáng sản rất đa dạng được phân loại như tài sản hiện hữu (ví dụ, hữu hình) hoặc tài sản vô hình.
trong trường hợp không có hướng dẫn, một doanh nghiệp nên chọn một chính sách kế toán để phân loại trữ lượng khoáng sản hoặc là hữu hình hoặc tài sản vô hình và áp dụng chính sách nhất quán. Theo chúng tôi là khoáng sản dự trữ được phân loại là tài sản hữu hình phát triển.
Sơ đồ sau đây minh họa việc phân loại lại tài sản nhất định được sử dụng trong các ngành công nghiệp khai khoáng khi xác định tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại trên giả định rằng giàn khoan thăm dò tiếp tục được sử dụng trong hoạt động thăm dò và đánh giá.
Loại tài sản E+E Phân loại lại Phát triển
IFS6 ghi nhận vàđo lường IFS 6
nguên tắc áp dụng không được
Phân loại theo tính chất, áp dụng
áp dụng ISA 16 và ISA 38
mô hình thích hợp
Xe Hữu hình Hữu hình
Giàn khoan
thăm dò Hữu hình Không AD
Nền tảng sản xuất Không áp dụng Hữu hình
Giấy phép
thăm dò Vô hình Vô hình
Không nhận
dạng Hữu hình
E+E tài sản hoặc vô hình Hữu hình
Or vô hình
Dự trữ, giếng Không áp dụng
II. XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ:
E&E chi phí được định nghĩa trong IFRS6: một khoản mục xác định mà chi phí thỏa mãn các định nghĩa đó. Chi phí E&E hiếm khi bao gồm chi phí thăm dò lại,và không bao gồm chi phí phát sinh.
Trong mỗi loại chi phí E & E, mỗi khoản mục thông qua một chính sách chi phí trực tiếp hoặc chi phí vốn hóa có chức năng một E&E tài sản. Nhà quản lí phải dựa vào phán đoán của mình để bày tỏ luận điểm và áp dụng chính sách thích hợp với các thông tin phù hợp và đáng tin cậy.
Chính sách chi phí hoặc vốn nên phản ánh quy mô của các loại chi phí E&E liên quan đến những nguồn tài nguyên khoáng sản nhất định.
Để thừa nhận tính linh hoạt của IFRS 6 nên xem xét yêu cầu của IFRSs liên quan đến việc lựa chọn chính sách kế toán đối với chi phí E&E. Trong thực tế, để phát triển một chính sách quản lí không cần xem xét đến IFRSs khác (về sự tương đồng) và không cần đề cập đến định nghĩa có trong IASB Framework (nói riêng về tài sản và chi phí).
IFRS 6 chứa các yêu cầu xác định gắn liền với những thay đổi của chính sách KT đối với chi phí E&E
Chi phí E&E:
Chi phí E&E không được ghi nhận là E&E tài sản mà được xem là chi phí phải chịu
Các loại chi phí E&E không có họ gần với nhau thỏa mãn là tài nguyên khoáng sản nhất định để hỗ trợ vốn được xem là chi phí phải chịu.Ví dụ, chi phí thu thập dữ liệu về động đất nói chung không có họ gần với nhau, thỏa mãn là một tài nguyên khoáng sản xác định, được vốn hóa như là E&E tài sản.
1. Ghi nhận và đo lường ban đầu:
Trong một chừng mực nào đó,một đơn vị quy định vốn hóa chi phí E&E như một E&E tài sản, tài sản đó được đo lường theo chi phí ban đầu.
1.1. Ghi nhận giá gốc:
Để phù hợp với các chính sách kế toán, một doanh nghiệp có thể ghi nhận giấy phép thăm dò như là E&E tài sản. Theo chúng tôi chi phí cho giấy phép đó bao gồm chi phí mua trực tiếp. Theo sự hướng dẫn về chi phí trực tiếp được trình bày trong IAS 38. Ví dụ như chi phí có thể bao gồm thuế không hoàn lại và chi phí hợp lí phải chịu khi tiến hành làm các giấy phép.
1.2. Các chi phí hành chính và chi phí chung khác:
IFRS6 yêu cầu một đơn vị lựa chọn một chính sách kế toán về các chi phí hành chính và chi phí chung khác hoặc vốn hóa chúng trong quá trình đo lường và ghi nhận ban đầu của E&E tài sản.Theo quan điểm của chúng tôi,lựa chọn chính sách kế toán nên phù hợp với phương thức tiếp cận trong IFRSs như những chi phí phải chịu liên quan đến hàng tồn kho (IAS 2 hàng tồn kho),tài sản vô hình (IAS 38),hoặc bất động sản,nhà máy,phân xưởng, máy móc thiết bị.
Nếu một đơn vị lựa chọn chính sách kế toán về các chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác nhất quán với sự nghiên cứu bất động sản, nhà máy, phân xưởng và máy móc thiết bị,thì chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác sẽ không đủ điều kiện ghi nhận ban đầu như E&E tài sản; thay vào đó chúng được xem như chi phí phải chịu.
Một chính sách dựa vào sự nghiên cứu hàng tồn kho hoặc chi phí vô hình sẽ đòi hỏi một số vốn cho các chi phí hành chính và chi phí sản xuất chung khác mà khoản chi phí này trực tiếp ảnh hưởng đến tài sản.
IFRSs có thể áp dụng với hàng tồn kho bao gồm sự tư vấn thêm về phân bổ chi phí chung và năng lực sản xuất mà nói chung sẽ không có liên quan đến E&E tài sản khi việc sản xuất không được tiến hành.
Nếu một đơn vị lựa chọn chi phí vốn trực tiếp,thì tôi cho các chi phí hành chính và chi phí chung khác có thể đủ điều kiện như là E&E tài sản bao gồm:
Chi phí về tổng tiền lương phải trả cho nhân viên làm việc trực tiếp trên mỗi dự án, bao gồm chi phí về tiền trợ cấp cho mỗi nhân viên.
Chi phí quản lí phải trả nếu một mình họ thực hiện một dự án xác định.
Kí kết các khoản tiền thưởng phải trả cho nhà thầu liên quan quan đến dự án.
Những khoản chi phí hợp pháp hoặc chi phí chuyên môn khác liên quan đến dự án, ví dụ như: những chi phí cụ thể để đạt được giấy phép và giấy chứng nhận
Danh sách trên đây không thể hiện hết mọi khía cạnh. Trong một chừng mực nào đó, một đơn vị mong muốn vốn bỏ ra là thích hợp cho các chi phí hành chính và chi phí chung khác. Sau khi xem xét kĩ lưỡng nên đưa ra hệ thống thông tin cần thiết để nhận biết các chi phí trực tiếp.
Chính sách về chi phí hành chính và chi phí chung khác được áp dụng nhất quán để so sánh chi phí và báo cáo giữa các giai đoạn.Những thay đổi xảy ra sau báo cáo được đề cập trong các chính sách kế toán.
1.3. Các chi phí đi vay:
Theo tôi chi phí đi vay không phải là chi phí E&E mà có thể được ghi nhận như E&E tài sản phù hợp với chính sách kế toán. Thay vào đó ta có thể xem xét sự hướng dẫn trong IAS 23 chi phí đi vay nên được áp dụng như thế nào.
Một đơn vị có thể lựa chọn chính sách kế toán về chi phí vốn vay để phù hợp với một phần chi phí tài sản. Nếu một doanh nghiệp chọn cách sử dụng vốn đi vay thì tất cả các chi phí đi vay đủ tiêu chuẩn về tài sản hạch toán phải được vốn hóa.
Tài sản hạch toán là tài sàn có chu kì trọng yếu cần thiết được chuẩn bị cho mục đích sử dụng hoặc bán. Nói chung, tài sản hạch toán là những thứ chịu ảnh hưởng của việc mở rộng và xây dựng các dự án trọng yếu. Không có sự chỉ dẫn chính xác nào về chu kì trọng yếu là bao lâu, tuy nhiên theo chúng tôi một chu kì tốt nên kéo dài hơn 6 tháng.
Chi phí đi vay là chi phí trực tiếp phục vụ cho hoạt động mua bán,xây dựng hoặc sản xuất của tài sản hạch toán được vốn hóa, chỉ khi chúng mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai.
Chi phí đi vay cũng như E&E tài sản đủ tiêu chuẩn có thể bao gồm một phần chi phí phù hợp với chính sách kế toán tại đơn vị nếu chúng có đầy đủ tiêu chuẩn về vốn.
Nói chung không dễ dàng để trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai khi áp dụng chi phí thăm dò và đánh giá cũng như chi phí đi vay. Nếu theo yêu cầu của IAS 23, trong trường hợp E&E tài sản hạch toán, thì các tiêu chuẩn về vốn có thể gặp khó khăn trong trình bày các lợi ích kinh tế trong tương lai.
Chi phí đi vay được vốn hóa là chi phí phải trả. Bao gồm lãi trên số tền vay sử dụng cho mục đích dành được việc thăm dò và đánh giá tài sản theo tiêu chuẩn và những chi phí khác liên quan đến khoản tiền vay sẽ được hoàn trả lại nếu các khoản chi phí trên phần tài sản không phải chịu.
Bao gồm các Chi phí vay vốn hợp lí, nhưng không giới hạn về lãi suất, những khoản chiết khấu giảm dần, hoặc phí bảo hiểm và phí giao dịch đang sử dụng theo hệ thống lãi suất thực tế, phí tài chính đặc biệt về sự cho thuê tài chính và sự thay đổi trong các phạm vi khác nhau, chúng được coi như là sự điều chỉnh các khoản phí tổn trả lãi. Tuy nhiên, việc chiết khấu để tu sửa sản xuất định kì sẽ không được tài trợ vốn.
1.4.Nợ phải trả:
Một doanh nghiệp áp dụng IAS 37 “dự phòng, các khoản nợ phát sinh, tài sản”, những chi phí phát sinh dịch chuyển và sửa chữa là các khoản nợ phải trả khi đưa ra kết quả của việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản. Nhiều doanh nghiệp trong công nghiệp khai khoáng chịu trách nhiệm tu sửa liên quan đến kết quả công việc kinh doanh của những hoạt động thăm dò và đánh giá.
Những khoản nợ có kết quả từ quá trình sản xuất (ví dụ trữ lượng khai khoáng) được ghi nhận chỉ khi việc khai khoáng được thực hiện.
Quan hệ nợ có thể dựa trên pháp luật (ví dụ: luật hoặc các điều khoản về giấy phép thăm dò) hoặc ngầm định. Các khoản nợ hình thành phát sinh - trình bày chi tiết, tỉ mỉ trên báo cáo tài chính khi công bố ra bên ngoài - khi một đơn vị lập các dự án hợp lệ trong kế hoạch của họ và tiến hành các hoạt động trong kế hoạch đó. Ví dụ: một doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp dầu khí, tại đất nước không có luật về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên tại đơn vị lại ban hành chính sách môi trường, chính sách này thể hiện ở khía cạnh làm sạch các chất bẩn. Do vậy, tại đơn vị sẽ hình thành trách nhiệm, nghĩa vụ khi chính sách dự tính sẽ làm sạch các chất bẩn được đưa ra.
Một nhà quản lí thường sẽ tối đa hóa lợi nhuận, do đó họ sẽ không đưa ra các quyết định làm gia tăng các khoản nợ, và không đưa ra các dự toán hợp pháp cho đến khi hội đồng gửi các quyết định đến họ. Dù vậy, quyết định của hội đồng không phát sinh các ghi nhận dự phòng.
2. Đo lường sau khi ghi nhận:
Sau khi ghi nhận đơn vị áp dụng các mô hình chi phí hoặc các mô hình đánh giá lại, phù hợp với E&E chi phí.
2.1.Các mô hình chi phí
E&E tài sản hữu hình (và E&E tài sản vô hình hạn chế về thời gian hoạt động) được khấu hao trên phần thời gian sử dụng. Lượng khấu hao của E&E tài sản hữu hình (hoặc E&E tài sản vô hình hạn chế về thời gian hoạt động) chính là khoản phí tổn của phần giá trị còn lại. Giá trị còn lại của E & E tài sản hữu hình là lượng mà đơn vị có thể nhận được từ tài sản vào ngày lập bảng cân đối kế toán nếu tài sản phù hợp với điều kiện thì tài sản đó sẽ thích hợp khi đơn vị mong muốn, bố trí, sắp xếp nó. Giá trị trị còn lại của tài sản vô hình bị hạn chế về thời gian sử dụng được giả định là thấp nhất nếu không thỏa mãn các tiêu chuẩn.
E&E tài sản vô hình không giới hạn thời gian sử dụng không được khấu hao. Tuy nhiên, do bản chất của tài sản, sẽ hiếm khi có một E&E tài sản vô hình nào được đánh giá là thời gian sử dụng không rõ ràng.
Sự khấu hao hay sự khấu hao dần của tài sản hữu hình hoặc vô hình chỉ được thực hiện khi tài sản có hiệu lực để sử dụng. Tất nhiên những E&E tài sản không xác định rõ thời gian (giấy phếp thăm dò, xe cộ hay các dàn khoan) có thể có hiệu lực để sử dụng ngay lập tức.Những E&E tài sản khác không có hiệu lực để sử dụng sau thời gian đó,ví dụ khi việc phát triển các tài nguyên khoáng sản bắt đầu.
Trong trường hợp những tài sản vô hình có hiệu lực sử dụng, nói chung rất hiếm khi có bằng chứng thuyết phục để chấp nhận một phương thức khấu hao mà kết quả của việc khấu hao dần thấp hơn so với phương pháp đường thẳng. Tuy nhiên, dùng các đơn vị của các phương thức xản xuất cho E&E tài sản vô hình có hiệu lực sử dụng có thể là thích hợp nhất.
Cả E&E tài sản hữu hình và vô hình đều được nghiên cứu về các yếu điểm trong các tình huống cụ thể.
2.2.Mô hình đánh giá
Trong thực tế, việc đánh giá E & E tài sản vô hình hiếm khi xảy ra khi những tài sản này không đồng nhất. Một vài GAAPs quốc tế cho phép đánh giá E & E tài sản, chúng tôi cho rằng sẽ có một vài yêu cầu áp dụng phương pháp đánh giá E & E tài sản khi có sự phân loại thành vật hữu hình hoặc vô hình.
Nếu đơn vị lựa chọn áp dụng mô hình đánh giá thì mô hình được áp dụng nên nhất quán với việc phân loại tài sản thuộc loại vô hình hoặc hữu hình. Như vậy, E & E tài sản hữu hình sẽ được đánh giá khi sử dụng mô hình trong ISA 16 và E&E tài sản vô hình dùng mô hình trong ISA 38. Có một vài sự khác nhau về mô hình đánh giá tài sản vô hình và hữu hình dưới IFRSs. Những mô hình đánh giá này chỉ cho phép đánh giá tài sản khi có những yêu cầu xác định được thỏa mãn.
IFRS 6 chú ý rằng E&E tài sản nên được xem xét khi từng lớp tài sản riêng lẻ được trình bày có mục đích. Nói chung IFRSs định nghĩa phân lớp tài sản là một nhóm các khoản mà có trạng thái tự nhiên giống nhau và dùng trong hoạt động kinh doanh của đơn vị. Ban đầu một chính sách đánh giá phải được áp dụng cho tất cả các tài sản trong cùng một phân lớp. E & E tài sản vô hình và hữu hình có thể được xem là hai phân lớp tồn tại riêng biệt. Nói chung tất cả E & E tài sản hữu hình sẽ có hình thức một lớp đơn và một chính sách chi phí hoặc đánh giá nên áp dụng nhất quán với tất cả các tài sản trong phân lớp đó. Chúng tôi cho rằng rất đáng hoan nghênh trong việc lập mô hình đánh giá cho E & E tài sản hữu hình và mô hình các chi phí trong E & E tài sản vô hình.
2.2.1. Mô hình đánh giá E & E tài sản vô hình.
E&E tài sản vô hình có thể được đánh giá lại để phù hợp với giá trị thực chỉ khi các hoạt động thị trường mua bán náo nhiệt tồn tại. Các hoạt động thị trường mau bán náo nhiệt tồn tại khi thỏa mãn các điều kiện:
Các điều khoản kinh doanh được áp dụng đồng nhất.
Những người mua và người bán bình thường sẵn có có thể được thiết lập theo thời điểm.
Công khai giá sẵn có.
Sẽ rất hiếm có những E & E tài sản vô hình thỏa mãn các tiêu chuẩn này.
2.2.2. Mô hình đánh giá E & E tài sản hữu hình.
E&E tài sản hữu hình có thể đánh giá theo giá trị thực, cung cấp các giá trị thực có thể được đo lường một cách đáng tin cậy.
Giá trị thực thường được xác định bởi đánh giá dựa trên nền tảng các bằng chứng thị trường vốn có, dựa vào vị trí (vị trí địa lí) và điều kiện hiện tại của tài sản (chúng ta giả sử rằng người mua phải chịu các phí tổn vận tải). Sẽ có những khó khăn trong việc xác định giá trị thực của E & E tài sản hữu hình và vô hình. Ví dụ không thể tìm bằng chứng về giá trị thị trường khi tài sản nói chung được thiết kế chuyên dụng và rất hiếm khi việc nhượng bán hàng hóa bị loại trừ khi doanh nghiệp hoạt động liên tục hoặc khi thiết kế máy móc thiết bị riêng biệt để thích ứng với đặc tính của các giếng dầu. Thêm vào đó, có thể rất khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường dịch vụ khi dựa trên nền tảng giá trị thị trường
Khi không có bằng chứng thị trường về giá trị thực, khấu hao các chi phí thay thế hoặc phương pháp thu nhập có thể dùng để ước lượng giá trị thực,điều này có thể xảy ra khi tài sản được chuyên dụng và nhượng bán hàng hóa bị loại trừ trong quá trình hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Thu nhập (những lưu lượng tiền mặt) có thể phát sinh trong tương lai mặc dù việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản không được chắc chắn lắm, phương pháp thu nhập có thể cung cấp các ước lượng đáng tin cậy về giá trị thực của E & E tài sản hữu hình.
Do những khó khăn trong việc xác định giá trị thực của E & E tài sản hữu hình nên chúng ta cần cẩn thận trong việc đánh giá những tài sản khan hiếm.
III. CHI PHÍ PHÁT TRIỂN:
Có sự khác biệt giữa IFRSs và thực hành ngành công nghiệp vì nó liên quan đến sự phát triển lâu dài.
IFRS 6 không có một định nghĩa về hoạt động phát triển hoặc chi phí phát triển. IAS 38 định nghĩa, (Kế toán) phát triển trong bối cảnh nghiên cứu và phát triển như là "việc ứng dụng các phát minh nghiên cứu hoặc kiến thức khác để có kế hoạch, thiết kế phù hợp cho sản xuất mới hoặc cải thiện đáng kể vật liệu, thiết bị, sản phẩm, quy trình, hệ thống, dịch vụ trước khi bắt đầu thương mạị sản xuất, sử dụng. Ví dụ về các chi phí phát triển (kế toán) bao gồm các chi phí liên quan đến việc " thiết kế, xây dựng và hoạt động của một nhà máy thí điểm đó không phải là quy mô một kinh tế khả thi cho thương mại sản xuất.
Trong bối cảnh phát triển ngành công nghiệp thực hành đề cập đến giai đoạn khi một khoáng chất được xác định dự trữ để chuẩn bị cho sản xuất (ví dụ, xây dựng các truy cập vào các tài nguyên khoáng sản).
IFRS 6 ngụ ý rằng các hoạt động phát triển mà các tiêu chuẩn này không bắt đầu áp dụng khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của việc chiết xuất một nguồn tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh được.
Trong các ngành công nghiệp khai khoáng, khi xác định tính khả thi kỹ thuật và tính khả thi thương mại, một doanh nghiệp nói chung sẽ xuất phát từ hoạt động phát triển trực tiếp (ví dụ, xây dựng.1 giai đoạn), và do đó có thể không phải những chịu chi phí, được xem xét trong (kế toán) chi phí phát triển.
1. Xác định chi phí phát triển:
IFRS 6 không quy định khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh, các doanh nghiệp cần thiết lập một chính sách có thể được áp dụng thống nhất. Trong trường hợp không có hướng dẫn cụ thể trong IFRS 6, nhà quản lý phải đưa ra các phán quyết để phát triển chính sách kế toán phù hợp theo quy định của IFRSs. Các hệ thống phân cấp thiết lập trong IAS 8 được sử dụng làm cơ sở. Hệ thống phân cấp này đòi hỏi tham chiếu đến IFRSs khác (bao gồm cả giải thích), các vấn đề tương tự và các định nghĩa, tiêu chuẩn, công nhận và các khái niệm đo lường trong khung IASB. Hệ thống phân cấp giấy phép tham chiếu đến GAAPs khác và ngành công nghiệp, cung cấp các chính sách được thông qua phù hợp với khung IASB.
Một yếu tố quan trọng trong việc xác định tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại kiểm chứng sự tồn tại và khả năng dự trữ. Trong đánh giá khả năng tồn tại, một doanh nghiệp thương mại sẽ cần phải xem xét liệu họ có đủ nguồn lực để tiến hành các hoạt động phát triển.
Khi một thực thể đã xây dựng chính sách để xác định những gì tạo nên chi phí phát triển, thì chính sách này nên được áp dụng thống nhất.
2. Kế toán chi phí phát triển:
Theo IFRS, một khi tính khả thi kỹ thuật và khả năng thương mại của các tài nguyên khoáng sản có thể chứng minh được, chi phí liên quan đến sự phát triển của tài nguyên khoáng sản mà không được công nhận là tài sản E & E.
Khi chi tiêu vào việc phát triển và khai thác tài nguyên khoáng sản nằm ngoài phạm vi IAS 16, IAS 38 và IFRS 6, doanh nghiệp sẽ cần phải xác định chính sách kế toán liên quan đến các chi phí bằng cách sử dụng các hướng dẫn có sẵn.
Các IASB lưu ý rằng sự phát triển của một nguồn tài nguyên khoáng sản hoạt động thăm dò à đánh giá một lần sẽ bao gồm ví dụ về các giai đoạn phát triển (kế toán) của dự án nội bộ. Theo IAS 38, trong giai đoạn phát triển của một dự án nội bộ, doanh nghiệp thường có thể xác định một tài sản vô hình và chứng minh rằng các tài sản sẽ tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai.
Ngoài ra, một doanh nghiệp có thể kết luận rằng không có giai đoạn phát triển (kế toán) giữa việc xác định tính khả thi kỹ thuật, khả năng thương mại và các hoạt động được chuẩn bị để sản xuất, khai thác tài nguyên khoáng sản cụ thể (hoạt động phát triển). Trong trường hợp này, nó có thể thích hợp để tận dụng chi tiêu phát triển như một phần của chi phí của một khoản mục tài sản, với điều kiện là những chi phí khác đủ điều kiện như là một phần của chi phí.
IV. TỔN THẤT
IFRS 6 yêu cầu đơn vị áp dụng IAS 38 “tổn thất tài sản” để đo lường và trình bày các tổn thất về việc thăm dò và đánh giá tài sản.
Khi đo lường các tổn thất, việc vận chuyển tài sản được so sánh với lượng tài sản có thể thu hồi được và lượng dôi ra được ghi nhận như là một khoản lỗ. Tài sản thu hồi cao hơn giá trị thực bỏ ra và giá trị sử dụng. Bất cứ khi nào có thể, thì mỗi loại tài sản nên được nghiên cứu một cách tách biệt nhau. Khi tài sản không thể theo dõi tách biệt, thì tài sản nói chung được nghiên cứu theo nhóm tổn thất được gọi là cash-generating units (CGUs).
Bản chất của các hoạt động khai khoáng là đòi hỏi vốn lớn, với lượng hàng tồn kho đáng kể trong chu trình sống của tài sản. Hầu hết ở những đơn vị thực hiện hoạt động khai khoáng, máy móc thiết bị áp dụng IAS 36 phù hợp với những thay đổi trong thực tế, đặc biệt về khía cạnh đánh giá các tổn thất trong quá trình thăm dò và đánh giá tài sản.
1. Biểu hiện của tổn thất:
Theo IFRS 6, việc thăm dò và đánh giá tài sản được đánh giá là tổn thất chỉ khi thực tế và tình hình tài chính thể hiện rằng quá trình thăm dò và đánh giá tài sản vượt quá khả năng thu hồi vốn. Không giống với những tài sản khác, tài sản này không có các yêu cầu đánh giá các tổn thất tồn tại vào ngày lập báo cáo, cho đến khi doanh nghiệp có đủ thông tin để đi đến kết quả cuối cùng về khả năng sinh lời kinh tế và tính khả thi của việc khai khoáng.
IFRS 6 bao gồm ví dụ thực tế và tình hình tài chính của các khu công nghiệp riêng biệt, nó thể hiện việc các doanh nghiệp nên nghiên cứu các tổn thất của E&E tài sản, đồng thời thể hiện quyền thăm dò của doanh nghiệp trong một khu vực xác định đã hết hiệu lực hay còn hiệu lực trong tương lai gần, và mong muốn phục hồi lại quyền thăm dò.
“Tương lai gần” không được định nghĩa rõ ràng trong IFRSs. Chúng tôi nghĩ rằng nó được xem là một chu kì thăm dò ngắn hạn, không có nghi ngờ về sự tồn tại của việc các khu vực có thể được phát triển và dự trữ lượng khai khoáng hay không với mục đích để dành lại quá trình thăm dò và đánh giá tài sản trước khi quyền thăm dò mất hiệu lực. Những khu vực được quyền thăm dò trong thời gian còn hiệu lực là trong vòng 12 tháng từ ngày lập bảng cân đối tài khoản sẽ được xem xét lại trong danh sách chỉ thị.Nó phù hợp với những ví dụ chỉ thị khác trong IFRS 6 đang tồn tại trước thời điểm có hiệu lực. Những chỉ thị này là:
Chi phí trọng yếu trong tương lai liên quan đến hoạt động thăm dò và đánh giá trong khu vực xác định không có trong ngân sách mà cũng không có trong kế hoạch.
Đơn vị không phát hiện ra khả năng sinh lời kinh tế của các tài nguyên khoáng sản khi có kết quả hoạt động thăm dò trong khu vực đó và quyết định đình chỉ hoạt động trong khu vực đó.
Mặc dù việc phát triển diễn ra một cách thích hợp, đơn vị có đầy đủ dữ liệu thể hiện lượng tài sản không chắc chắn thu hồi được đầy đủ trong giai đoạn phát triển thành công hoặc bán ra.
Những chỉ thị này dựa trên thông tin quản lí hoặc dự định và quyết định đối với khía cạnh thăm dò và có thể dễ dàng giám sát.
Việc định nghĩa các khu vực xác định được giám sát là nhân tố quan trọng thường xuất hiện trong các chỉ thị, vì vậy cần xem xét lại khả năng thu hồi vốn của E & E tài sản. Trong thực tế, để phù hợp hơn thì quá trình giám sát và quá trình thu hồi của E&E tài sản phải được tiến hành nhất quán với nhau.
Danh sách biểu hiện tổn thất không thể hiện hết mọi khía cạnh tốn thất, có thể thực tế và tình hình tài chính sẽ thể hiện rằng đơn vị nên xem xét lại tổn thất của E &E tài sản. Một vài biểu hiện khác của tổn thất, ví dụ: những bất lợi trong việc thay đổi giá cả hàng hóa, vật liệu trao đổi thương mại và giá thị trường và thay đổi của luật thuế hoặc các luật định về môi trường.
2. Đánh giá mức tổn thất:
IFRS 6 yêu cầu đơn vị xác định chính sách kế toán về việc phân bổ E & E tài sản theo CGUs hoặc theo các nhóm của CGUs với mục đích đánh giá tổn thất tài sản. IFS 6 khác với các chuẩn mực trình bày được cho phép trong ISA 36 mà áp dụng một cách “đặc biệt” UGCs cho E & E tài sản. IFRS 6 yêu cầu đơn vị phân bổ tổn thất của E & E tài sản có tiềm năng trong giai đoạn sản xuất sản phẩm theo UGCs hoặc phân đoạn và kết hợp với việc nghiên cứu khối lượng tổn thất.
Một doanh nghiệp có thể nhận định E&E tài sản với mục đích quản lí nội bộ ở mức độ thấp, ví dụ: Các mức xác đinh cấu trúc địa chất có chứa hydrôcacbon hoặc các lớp quặng kề nhau. Doanh nghiệp có thể chọn phương pháp đánh giá tổn thất dựa vào các mức này, hoặc có thể kết hợp một hoặc nhiều CGUs trong mục đích nghiên cứu của E&E tài sản bị lỗ vốn.
Tuy nhiên, tiếp tục để tổng hợp các khoản chi phí trong khu vực mà sẽ không phát triển ở UGCs, có thể mang lại kết quả trong việc có dụng ý gia tăng chi phí và tài sản khi quyết định không đầu tư vào tài sản này. Doanh nghiệp phải xem xét việc đánh giá mức độ tổn thất để tránh việc gia tăng tài sản mà nếu các tài sản này không kết hợp với tài sản khác sẽ bị tổn thất. Một chính sách tốn nhiều chi phí vốn thăm dò và đánh gía tài sản liên quan đến khu vực thăm dò, khi không có khả năng phát triển tài sản sản xuất phù hợp vớikhuyến khích xem xét các chỉ số bổ sung của suy giảm (trong đoạn 20), và do đó có thể thích hợp.
Trong khi IFRS 6 cho phép một đơn vị tập hợp CGUs để tạo thành một nhóm các đơn vị phục vụ cho mục đích nghiên cứu các tổn thất, các CGUs hoặc nhóm các đơn vị không thể có một mức độ kết hợp cao hơn các phân đoạn theo IAS 14 Báo cáo bộ phận mà CGU phụ thuộc vào đó (trên cơ sở của một trong hai thực thể của chính hay phụ đoạn báo cáo định dạng).
Yêu cầu mà mỗi CGU (hoặc nhóm các đơn vị) không được lớn hơn so với một phân đoạn, không cần được xem xét một cách tuyệt đối như là doanh thu từng thời kì hoặc tài sản. Thay vào đó, cần giải thích rằng việc nghiên cứu không thể chỉ được thực hiện ở một cấp độ mà phải sự kết hợp kết quả của quá trình E & E tài sản hoặc CGUs thuộc các phân đoạn khác nhau (hoặc kinh doanh hoặc địa lý).
Ví dụ, một thực thể mà là một người áp dụng lần đầu IFRSs có hai địa điểm thăm dò trong cùng đất nước. Dưới IFRSs, hai có hai vị trí được báo cáo trong các phân đoạn khác nhau về địa lý vì điều kiện hoạt động địa chất khác nhau có nghĩa là mỗi vị trí có những rủi ro và trở ngại khác nhau.
Việc xác định CGUs hoặc các nhóm của các đơn vị đòi hỏi phải đưa ra sự phán quyết và có thể là một trong những khó khăn nhất trong lĩnh vực thử nghiệm tài sản E & E. tương tác của nó với các chỉ số dựa trên "khu vực của cụ thể" sẽ đặt ra các yêu cầu xem xét khác nhau.
Ở Anh, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dầu khí áp dụng phương pháp thành công nỗ lực, yêu cầu phân bổ E & E tài sản để CGUs hoặc một nhóm các đơn vị khác với hiện tại thực hành đề ra trong SORP Kế toán Thăm dò, phát triển, sản xuất và hoạt động ngừng hoạt động của dầu khí. Hướng dẫn này tương tự như khái niệm về một đơn vị tạo ra thu nhập (IGU), theo đó IGU thường sẽ được liên kết với một lĩnh vực cụ thể hay một nhóm các lĩnh vực mà mức độ kinh tế phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, như một kết quả giới hạn dựa vào IAS 14, một doanh nghiệp nên xem xét tổng quan lại chi phí hiện hữu lãi gộp, như kết hợp một số hoạt động hiện tại không tuân thủ theo IAS 14 bị giới hạn bởi việc kết hợp các hoạt động trong một giai đoạn đơn. Điều này đặc biệt liên quan đối với các đơn vị áp dụng toàn bộ phương pháp tính chi phí.
3. Đánh giá giá trị thu hồi:
3.1. Giá trị sử dụng:
Trong ước tính giá trị sử dụng, các ước tính của các luồng tiền mặt và sự vận động của các dòng tiền trong tương lai được xuất phát từ việc sử dụng liên tục của tài sản, bằng cách sử dụng các giả định hợp lý, việc thiết lập quản lý các ước tính tốt nhất về điều kiện kinh tế sẽ tồn tại trên phần còn lại giá trị sử dụng của tài sản.
Lưu lượng tiền mặt dự đoán dựa trên ngân sách được nhà quản lí phê duyệt không vượt quá năm năm. Một thời gian dài hơn dự đoán có thể được sử dụng nếu quản lý tin tưởng rằng các luồng tiền là đáng tin cậy.
Đối với hầu hết các hoạt động khai khoáng, ngân sách chi tiết được chuẩn bị bao gồm một khoảng thời gian đáng kể không quá năm năm, thông thường thiết lập các ước tính có thể là 20 năm hoặc hơn. Theo đó, khi chúng được coi là đáng tin cậy, dự báo lưu lượng tiền mặt có thể dựa trên những lâu hơn ngân sách giai đoạn.
3.2. Chi phí vốn trong tương lai:
Khi đánh giá tổn thất theo IAS 36, các luồng tiền trong tương lai sẽ được ước tính cho tài sản trong điều kiện hiện tại của nó. Trong trường hợp tài sản đó đang được sử dụng, lưu lượng tiền mặt không nên bao gồm chi phí vốn trong tương lai điều này sẽ cải thiện hoặc tăng cường hiệu suất của tài sản. Ví dụ, Số tiền liên quan đến việc ứng dụng công nghệ trong tương lai có thể tăng cường dự trữ sẽ được loại trừ khỏi cả các luồng tiền dự kiến và chi phí vốn. Tuy nhiên, trong trường hợp một tài sản đó là chưa sẵn sàng để sử dụng, dự toán bao gồm các luồng tiền ra dự kiến sẽ được phát sinh để đưa tài sản vào sử dụng.
Nó không phải là không phổ biến cho các đơn vị nhất định, đặc biệt là trong ngành công nghiệp khai thác mỏ, để thực hiện từng giai đoạn phát triển của một dự án. Theo một số GAAPs quốc gia trước đây, dòng tiền dự kiến chuẩn bị để ước tính giá trị sử dụng cho các nghiên cứu tổn thất có thể bao gồm vốn dự kiến trong tương lai, để chứng minh và truy cập dự trữ thêm nếu chúng là một phần không thể thiếu của việc đưa ra các quyết định và công ty "thể hiện các cam kết" về chi phí.
V. CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN:
“IFRS6 không yêu cầu hay cấm dùng bất cứ chính sách kế toán xác định nào để ghi nhận và đo lường giá trị thăm dò và đánh giá TS.”
1.Lựa chọn chính sách kế toán để thăm dò và đánh giá tài sản.
Chính sách kế toán phong phú và đa dạng phát sinh ở doanh nghiệp tham gia vào quá trình thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản - ở các phạm vi khác nhau trên bảng cân đối kế toán gần như là tất cả chi phí thăm dò và đánh giá, để ghi nhận tất cả các khoản chi phí này vào lợi nhuận hoặc lỗ khi phát sinh. IFRS 6 không yêu cầu hoặc cấm bất kỳ chính sách kế toán cụ thể nào cho việc ghi nhận và đo lường của tài sản thăm dò và đánh giá. Đúng hơn, nó cho phép các doanh nghiệp tiếp tục sử dụng chính sách kế toán hiện hành của họ miễn là họ thực hiện theo yêu cầu của khoản 10 của IAS 8 - tức là có thông tin liên quan đến ra quyết định nhu cầu kinh tế của người sử dùng, và thông tin đó là đáng tin cậy.
Đoạn 11 và 12 xác định rõ các nguồn lực khác nhau từ việc căn cứ vào các yêu cầu và hướng dẫn, nói chung cần xem xét việc phát triển một chính sách kế toán cho một khoản mục nếu IFRS 6 không xác định cách áp dụng. Đã có lo ngại rằng các doanh nghiệp đòi hỏi áp dụng những đoạn khi đánh giá chính sách kế toán hiện hành của họ trong việc thăm dò và đánh giá tài sản sẽ làm nổi bật các khu vực mà không chắc chắn thu được lợi nhuận. Để tránh những chi phí tiềm tàng và sự gián đoạn không chắc chắn như vậy có thể xảy ra, IFRS 6 tạm miễn áp dụng các đoạn văn 11 và 12 của IAS 8 cho đến hội đồng xác định các vấn đề này như là một phần của một dự án toàn diện.
2.Thay đổi chính sách kế toán:
Doanh nghiệp có thể thay đổi chính sách kế toán của họ khi thăm dò và đánh giá chi phí nếu thay đổi này làm cho các báo cáo tài chính có liên quan đến việc ra quyết định nhu cầu kinh tế của người sử dụng và không ít đáng tin cậy, hoặc đáng tin cậy hơn và không ít liên quan đến những nhu cầu đó, đánh giá bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn trong IAS 8.
IFRS 6 xác định rằng, để biện minh cho một sự thay đổi trong chính sách kế toán để thăm dò và đánh giá chi phí, doanh nghiệp là chứng minh rằng sự thay đổi mang lại cho báo cáo tài chính chặt chẽ hơn để đáp ứng các tiêu chuẩn trong IAS 8. Tuy nhiên, sự thay đổi không cần phải được tuân thủ đầy đủ các tiêu chí.
IV. TRÌNH BÀY:
Vấn đề chuyển tiếp các điều khoản, cấp độ so sánh được đòi hỏi cho tất cả các giá trị hiện tại.Tường thuật các thông tin được quy định đối với từng giai đoạn so sánh trong một phạm vi nhất định, nó có liên quan đến sự hiểu biết về báo cáo tài chính trong giai đoạn hiện hành.
Những yêu cầu trình bày trên IFRS dựa trên nguyên tắc:một doanh nghiệp nên trình bày thông tin sao cho việc nhận biết và giải thích giá trị ghi nhận trên báo cáo tài chính phát sinh từ việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản, thỏa mãn mục đích trình bày chính xác.
Mặc dù nhiều người đồng ý rằng doanh nghiệp nên được phép linh hoạt trong việc ra quyết định về sự mức độ tập trung và số lượng trình bày,họ đề nghị rằng hội đồng nên hướng dẫn việc trình bày cụ thể hơn và chuẩn hóa các yêu cầu trình bày.Một vài người đồng ý với quan điểm rằng sự khác biệt của kế toán thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản có thể gia tăng tính so sánh.
Hội đồng nên kết kuận về phương pháp ED chiếm ưu thế trong danh sách dài trình bày chi tiết và đề ra nguyên tắc cụ thể bởi vì nó tập trung vào các nguyên lí cơ bản:
Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hiểu cơ sở hợp lí của các yêu cầu,tiến hành đúng theo yêu câu.
Tránh các đòi hỏi trình bày chính xác mà không phù hợp với mục đích cơ bản của tình hình tài chính tại doanh nghiệp và có thể dẫn đến thông tin quá tải làm che đậy thông tin quan trọng
Để cho doanh nghiệp linh hoạt trong việc đưa ra quyết định thích hợp về mức độ tập trung,cho phép người sử dụng xem xét một cách tổng quát,nhưng không kết hợp những thông tin có đặc tính riêng biệt.
Cho phép lập báo cáo chi phí thăm dò và đánh giá bằng cách phân khúc các nhân tố cơ bản hằng năm hoặc cộng dồn các nhân tố.
Một vài người đồng ý với quan điểm hội đồng nên yêu cầu trình bày giống nhau trong những đoạn 73 và 74 của IAS 16 hoặc trong đoạn 118-125 của IAS 38.Cả IAS 16 và IAS 38 có chứa phạm vi loại trừ việc thăm dò và đánh giá tài sản.Vì vậy,một doanh nghiệp ghi nhận các tài sản này nên được biết các yêu cầu không thể áp dụng được.Hội đồng quyết định điều đó,mặc dù phạm vi của các tiêu chuẩn loại trừ việc thăm dò và đánh giá tài sản,yêu cầu trình bày nên cung cấp thông tin liên quan đến sự hiểu biết báo cáo tài chính và hữu ích cho người sử dụng.Do đó,hội đồng cho rằng IFRS nên xác nhận việc trình bày của IASs 16 và 38 nhất quán với việc phân loại thăm dò và đánh giá tài sản ở doanh nghiệp.
Thêm vào đó một vài người đề nghị rằng hội đồng nên trình bày các định chế tài chính,bao gồm:
Chất lượng thương phẩm
Quyền thăm dò,mở rộng và cung cấp tài nguyên
Trình bày về giai đoạn sau khi thăm dò và đánh giá
Số lượng năm khi việc thăm dò bắt đầu,và ước lượng thời gian còn lại để đưa ra quyết định về tính khả thi cao và khả năng sinh lời của tài nguyên khoáng sản.
Việc trình bày các thông tin dự trữ thương mại và giai đoạn sau khi E&E ngoài phạm vi của IFRS 6. IFRS 6 không yêu cầu trình bày số lượng năm khi việc thăm dò bắt đầu,tuy nhiên,IASB chú ý rằng nếu một dự án quan trọng thì khi trình bày yêu cầu trình bày thêm các thông tin cần thiết giúp hiểu rõ hơn về báo cáo tài chính.
Ví dụ về chính sách kế toán
Trình bày các ví dụ dưới đây về chính sách kế toán mà doamh nghiệp đã vốn hóa chi phí E&E có thể xem xét thông qua việc tuân thủ IFRS 6.
Ví dụ 1:chính sách dựa vào hoạt động dầu khí
Chi phí các giấy phép được ghi nhận lời hoặc lỗ khi chịu tổn thất
Chi phí thăm dò và đánh giá,bao gồm các chi phí để có được giấy tờ,vốn hóa ban đầu khi việc thăm dò và đánh giá tài sản hữu hình hoặc vô hình theo bản chất của tài sản.Chi phí được tích lũy trong chi phí trung tâm phù hợp với giếng dầu,khu vực khai thác hoặc phạm vi thăm dò trong quá trình đưa ra quyết định về tính khả và khả năng sinh lời kinh tế.
E&E tài sản hữu hình và vô hình có sẵn được dùng để trích khấu hao trên thời gian sử dụng dự kiến,như sau:
[Trình bày thời gian hữu ích và và phương thức sử dụng của từng loại E&E tài sản
..................]
Tài sản E&E đánh giá sự sút kém: của việc dữ liệu là có thật hay không để đưa ra quyết định về tính khả thi và khả năng sinh lời trong tương lai của tài sản,và thực tế tình hình tài chính gợi lên rằng giá trị có thể thu hồi vượt quá số lượng. Mục đích của việc nghiên cứu các yếu điểm là E&E tài sản được phân phối các khoản tiền mặt nói chung của đơn vị nhất quán với từng phần báo cáo nhất định.
Tính khả thi và khả năng sinh lời của tài nguyên khoáng sản được xem xét để đưa ra quyết định khi số lượng bằng chứng tích lũy được xác định là có thật. Xem lại giấy tờ thăm dò hoặc khu vực khai thác đã được tiến hành,hơn nữa phải tìm hiểu chính xác nguồn bằng chứng dự trữ tìm được.Theo nguồn bằng chứng dự trữ xác định, E & E tài sản vô hình có thuộc tính dự trữ được kiểm tra đầu tiên về các yếu điểm,sau đó phân loại lại từ E & E tài sản đến phạm trù riêng biệt trong giới hạn tài sản hữu hình.
Ví dụ 2:Chính sách dựa vào các hoạt động chính.
Chi phí thăm dò và đánh giá,bao gồm chi phí để có được giấy phép,vốn hóa việc thăm dò và đánh giá tài sản dựa trên dự án cơ bản trong quá trình xác định tính khả thi và khả năng sinh lời của dự án.Chi phí vốn biểu thị E&E tài sản hữu hình hoặc vô hình theo bản chất tự nhiên của tài sản.Khi một giấy phép không được thừa nhận hoặc một dự án bị bỏ dở, các chi phí liên quan lập tức được ghi nhận vào các khoản lợi nhuận hoặc thua lỗ.
Những nguồn dự trữ tạo ra lợi nhuận
Hội đồng thừa nhận thông tin về chất lượng thương phẩm dự trữ,có thể là trình bày quan trọng nhất tại doanh nghiệp thực hiện hoạt động khai khoáng. Tuy nhiên,chú ý rằng,nguồn dự trữ thương mại thường được xác định sau khi giai đoạn thăm dò và đánh giá đã kết thúc và nó bao gồm việc trình bày ngoài phạm vi bản báo cáo của IFRS.
Giai đoạn sau khi thăm dò và đánh giá
Cũng như nguồn dự trữ thương mại,hội đồng đưa ra kết luận rằng, các thông tin về giai đoạn sau khi thăm dò và đánh giá sẽ rất hữu ích cho người sử dụng báo cáo tài chính,như việc trình bày thông tin ngoài phạm vi của IFRS.
Định lượng dự án
Hội đồng cũng kết luận rằng trình bày số lượng năm từ khi việc thăm dò bắt đầu và ước lượng thời gian còn lại trước khi đưa ra quyết định về việc phát triển, chỉ áp dụng để mở rộng các hoạt động thăm dò. Chú ý rằng nếu dự án quan trọng thì cần thêm các thông tin cần thiết để làm rõ hơn các báo cáo tài chính.
TÓM TẮT
Mục tiêu của IFRS 6 là xác định các báo cáo tài chính thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.
IFRS 6 yêu cầu các đơn vị xác định và định khoản thăm dò trước, E&E ,chi phí phát triển riêng rẽ.
Chi phí thăm dò và đánh giá ít khi bao gồm các chi phí phát sinh trước khi mua lại của một giấy phép thăm dò.
Chi phí thăm dò và đánh giá có thể bao gồm các chi phí (và chi ohí trực tiếp của việc mua lại) của giấy phép.
IFRS 6 cho phép, trong nhiều trường hợp, một doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí E&E để tiến hành chính sách kế toán đối với các chi phí trên
Chi phí E &E có thể tốn phí khi phát sinh hoặc đầu tư vốn theo quy định mà doanh nghiệp lựa chọn chính sách kế toán.
Chi phí vốn hóa thăm dò và đánh giá phải được tách biệt và phân loại hoặc là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, theo bản chất của nó
IFRS 6 không nhằm mục đích công nhận hoặc đo lường chi phí trước hoặc sau thăm dò, chi phí phát triển.
Chính sách tổn thất của GAAP quốc tế không thể tự động áp dụng, thay vào đó các bài kiểm tra tổn thất phải được áp dụng để đo lường sự mất mát của E&E tài sản khi chỉ số giá trị ghi sổ của E&E tài sản vượt quá số tiền thu hồi.
Các thử nghiệm cho khả năng thu hồi tài sản E&E có thể kết hợp để tạo ra uồng tiền mặt cho đơn vị, miễn là nhóm không lớn hơn một phân đoạn.
Chính sách kế toán thăm dò và đánh giá phãi dẫn theo các thông tin liên quan và đáng tin cậy.
Một doanh nghiệp có thể thay đổi chính sách kế toán của IFRS hiện hành liên quan đên E&E tài sản, nếu có sự thay đổi kết quả trong việc cung cấp thông tin liên quan hơn và không ít đáng tin cậy,hoặc đáng tin cậy hơn và không ít liên quan.
KẾT LUẬN
Bộ Tài chính có nhiệm vụ xây dựng các chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), về cơ bản dựa trên IFRS. Mặc dù một số VAS đã ban hành về cơ bản vẫn chưa đáp ứng được một số phương diện phức tạp của IFRS, như việc đánh giá các công cụ phát sinh theo giá trị hợp lý theo quy định của Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) 39, kế toán việc mua bán doanh nghiệp theo IFRS 3 hay ghi nhận lỗ do giảm giá trị tài sản theo IAS3.Một số VAS được ban hành trong thời gian gần đây và VAS tiếp tục được ban hành đã đáp ứng được những vấn đề chuyên môn có tính phức tạp hơn.
Hiện này, nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng VAS trong việc lập BCTC theo luật định và áp dụng IFRS trong công tác báo cáo cho tập đoàn. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước đều áp dụng VAS và một số cũng lập BCTC theo IFRS. Mặc dù nước ta chưa có chuẩn mực kế toán tương ứng với IFRS 6 nhưng trong xu thế Việt Nam ngày càng mở cửa, hội nhập và việc Việt Nam trở thành thành viên của WTO, ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và lập BCTC cho tập đoàn theo IFRS. Hơn nữa, ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tìm cách gia tăng xuất khẩu và thiết lập hoạt động ở nước ngoài, do đó, họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và yêu cầu phải lập BCTC theo IFRS.
Hơn nữa mỗi nước phải dựa trên đặc điểm về tài nguyên khoáng sản, mức độ điều tra địa chất, về hiện trạng hoạt động của thị trường nguyên liệu khoáng và các điều kiện kinh tế xã hội của nước mình để hình thành chương trình thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản thích hợp có tính khả thi. Các bước triển khai của quá trình thăm dò và đánh giá gắn liền với một kế hoạch chi tiết về đào tạo cán bộ, từ người thực hiện chương trình đến người hoạch định chính sách, người sử dụng những sản phẩm khoa học của chương trình. Chương trình đánh giá được thực hiện từng bước, có tính liên tục sao cho có thể cập nhật số liệu mới, thích ứng với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật của nền kinh tế thị trường. Như vậy Việt Nam cần phải có chuẩn mực kế toán “thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản” thích hợp dựa trên IFRS 6. Chương trình thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản đang được thực hiện và hiện nay đã hoàn thành bước tổng hợp tài liệu hiện có. Sự khởi đầu đổi mới này sẽ là cơ sở cho các bước tiếp theo với các mục tiêu được định sẵn sẽ làm cho việc thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản của nước ta cóvai trò đích thựctrong việc phát triển nền kinh tế - xã hội của Việt Nam
IFRS 6 được áp dụng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Cụ thể, BCTC cung cấp thông tin toàn diện, đúng đắn, kịp thời và do đó nhà đầu tư có nhiều thông tin về thị trường vốn giảm được rủi ro trong việc đưa ra quyết định kinh tế. BCTC được định dạng theo biểu mẫu thống nhất và loại trừ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán, các thông tin trên BCTC có tính so sánh qua đó sẽ giúp cho các nhà đầu tư giảm chi phí trong việc xử lý thông tin kế toán, giảm sự khác biệt khác biệt quốc tế trong chuẩn mực kế toán. Ngoài ra, chất lượng thông tin cao hơn, tính minh bạch rõ ràng sẽ làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư.
Có thể nói rằng việc áp dụng IFRS 6 đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục trên BCTC. IFRS được chấp nhận như chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự thừa nhận trên thị trường chứng khoán thế giới. Việc áp dụng IFRS sẽ tăng khả năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm sự bất định trong đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn. Hơn nữa, thông qua việc áp dụng IFRS sẽ giảm ngăn cách buôn bán chứng khoán bằng việc đảm bảo BCTC minh bạch hơn. BCTC được lập theo IFRS dễ hiểu và có thể so sánh sẽ cải thiện và tạo lập mối quan hệ với người sử dụng BCTC.
Tuy nhiên, việc áp dụng IFRS cũng không hoàn toàn dễ dàng đối với các doanh nghiệp.
- Thách thực đầu tiên là xây dựng một đội ngũ nhân viên kế toán và tài chính có năng lực. Đây không phải là một công việc dễ dàng vì IFRS được cọi là rất phức tạp, ngay cả ở những nền kinh tế phát triển. Kế toán viên Việt Nam sẽ gặp nhiều khái niệm mới và các phương pháp hạch toán mới không có trong hệ thống kế toán Việt Nam. Thay vào đó, phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS 6 dựa trên bản chất của giao dịch, do đó yêu cầu phải có xét đoán và đánh giá mang tính phân tích của cán bộ quản lý, những người sẽ tham vấn nhân viên kế toán của mình. - Thách thức thứ hai là việc xây dựng các hệ thống nhân viên kế toán đủ năng lực, có thể lưu trữ toàn bộ dữ liệu liên quan của các giao dịch, đảm bảo việc xử lý giao dịch đầy đủ, chính xác và đưa ra được các phân tích tài chính chi tiết. Việc áp dụng đúng các phương pháp hạch toán phù hợp và các yêu cầu trình bày và thuyết minh theo IFRS 6 có thể đòi hỏi phải ghi chép những thông tin mà doanh nghiệp hiện không lưu giữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- IFRS6 thăm dò và đánh giá tài nguyên khoáng sản.doc