Tiền lương gắn liền với sự phát triển kỹ thuật-khoa học của đất nước, trả
lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển, góp
phần làm lành mạnh trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm
có hiệu suất công tác, đảm bảo nâng cao năng suất lao động. Đối với những
người làm cơ quan đơn vị, hay trong doanh nghiệp họ nhận được tiền lương
tương xứng với công việc của mình. Đối với họ tiền lương là phương tiện là
nguồn sống chính giúp họ tái sản xuất giản đơn có mở rộng tới lao động, nhằm
đạt tới mực đích cho mỗi người. Vì vậy tiền lương đã là động lực trực tiếp đối
với người lao động.
44 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2971 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồ án Thực trạng tiền lương tiền thưởng với vấn đề kích thích lao động trong các doanh nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa vẫn tồn tại nguyên vẹn. Nhà nước tư sản hiện đại, tuy có
tăng cường hoạt động điều tiết, can thiệp vào đời sống kinh tế và xã hội, nhưng
về cơ bản đó vẫn là bộ máy sống kinh tế và xã hội, những về cơ bản vẫn là bộ
máy thống trị của giai cấp tư sản.
Do sự phát triển lịch sử văn minh và do đấu tranh giai cấp của công nhân
mà một bộ phận không nhỏ của công nhân ở các nước tư bản phát triển có mức
sống tương đối sung túc, nhưng về cơ bản, họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn
bị nhà tư sản bóc lột giá trị thặng dư, ngày nay sự tiến bộ của khoa học và công
nghẹ đã đưa đến sự biến đổi sâu sắc các yếu tố sản xuất và banr thân quá trình
sản xuất làm cho việc sản xuất giá trị thặng dư có những đặc điểm mới.
Do máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến được sử dụng rộng rãi nên khối
lượng giá trị thặng dư được tái tạo ra chủ yếu do tăng năng suất lao động, máy
móc hiện đại nên chi phí lao động quá khứ trong một đơn vị sản phẩm cùng
giảm xuống một cách tuyệt đối.
5. Tại sao nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân cách sáng tạo của người
lao động làm thuê ?
Ngày nay cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản công nghiệp phát triển
có sự biến đổi lớn. Do chuyển sang cơ sở công nghệ mới, phát triển sản xuất
15
theo chiều sâu, lao động phức tạp tăng lên và thay thế lao động giản đơn. Để có
lợi cho mình các nhà tư bản buộc phải chú trọng đến nhân cách sáng tạo của
người lao động làm thuê, Điều đó nói lên rằng lao động trí óc, lao động có trình
độ kỹ thuật ngày càng cao có vai trò quyết định trong việc sản xuất giá trị thặng
dư và chính tầng lớp công nhân này có sức sống tương đối sung túc, họ cũng
đem lại tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên cho các nhà tư bản.
6. Các hình thức bóc lột của nhà tư bản
Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển ngày càng mở rộng ra phạm vi
quốc tế dưới nhiều hình thức.
Xuất khẩu tư bản và hàng hoá, trao đổi không ngang giá..sự bòn rút siêu lợi
nhuận từ các nước kém phát triển mà các nước TBCN hiện đại giành được trong
mấy chục năm qua đã tăng lên gấp nhiều lần. Sự cách biệt giữa những nước giàu
và những nước nghèo ngày càng tăng và đang trở thành một mâu thuẫn nổi bật
trong thời đại hiện nay. Sự bòn rút chất xám sự huỷ hoại môi sinh và phá huỷ
những cội rễ đời sống văn hoá xã hội mà các nước tư bản phát triển gây ra cho
các nước lạc hậu, chậm phát triển.
7. Hiện tượng tiền lương trong chủ nghĩa tư bản
Hiện tượng tiền lương trong CNTB thường thấp hơn giá trị sức lao động,
trước tiên ta phải hiểu rằng tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá
sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động.
Nhưng trong xã hội tư bản, tiền lương lại thể hiện ra như là giá cả của lao
động. Vì nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã hao phí
sức lao động để sản xuất ra hàng hoá, tiền công được trả theo thời gian lao động
hoặc theo số lượng trả theo thời gian lao động hoặc theo số lượng hàng hoá đã
sản xuất được
8. Các hình thức tiền lương và phân tích các hình thức tiền lương
Nhìn bề ngoài, dường như toàn bộ lao động mà công nhân đã hao phí được
nhà tư bản trả công đầy đủ, xã hội tư bản dường như là một xã hội công bằng,
16
không ai bóc lột ai. Thực ra tiền lương không phải là giá trị, của lao động hay
giá cả của lao động.
Lao động tạo ra giá trị hàng hoá, nhưng bản thân nó không phải là hàng
hoá và không có giá trị. Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao
động mà là sức lao động, tiền lương không phải là giá trị hay giá cả của lao
động, mà chỉ là giá trị hay giá cả lao động. Dưới chế độ TBCN, tiền lương
thường được trả dưới hai hình thức : tiền lương tính theo thời gian và tiền lương
tính theo sản phẩm.
Tiền lương tính theo thời gian là hình thức tiền lương mà số lượng của nó ít
hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày,
tuần, tháng…) sức lao động làm thuê đó là những người công nhân họ là những
người tự do sở hữu năng lực lao động của mình, có thể bán sức lao động cho
người cần mua trong quan hệ bình đẳng với nhau về mặt pháp lý, khi bán sức
lao động, người lao động vẫn sở hữu sức lao động của mình.
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó
phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn
thành trong một thời gian nhất định, trong thực tế tiền lương trong CNTB
thường thấp hơn giá trị sức lao động mặc dù nhà tư bản vẫn có tính toán cho
người công nhân tiền lương tính theo thời gian và tiền lương tính theo sản phẩm,
giá trị sức lao động của người công nhân bỏ ra lao động nhằm tạo ra sản phẩm
lớn nhưng tiền lương thường thấp hơn. Tiền lương được sử dụng để sản xuất và
tái sản xuất sức lao động do đó tiền lương danh nghĩa phải được chuyển hoá
thành tiền lương thực tế.
9. Tính quy luật của sự vận động tiền lương trong chủ nghĩa tư bản.
CMác đã chỉ rõ tính quy luật của sự vận động tiền lương trong chủ nghĩa tư
bản như sau:
Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền lương danh nghĩa có
xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức
17
tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, khi đó tiền công thực tế của giá cấp
công nhân có xu hướng hạ thấp.
Sự hạ thấp của tiền lương thực tế diễn ra như một xu hướng vì sự hạ thấp
tiền lương đã bị nhiều nhân tố chống lại đó là : các cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân đòi tăng lương, trong điều kiện khoa học công nghệ và do đó nhu cầu
về sức lao động có chất lượng cao để sử dụng kỹ thuật phức tạp ngày càng tăng,
đã buộc giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người
lao động, bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là một yếu tố đã cản trở xu hướng hạ
thấp tiền công.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật mới phát triển như vũ bão và mâu thuẫn của xã hội tư bản cũng gay gắt
hơn do phong trào đấu tranh rất mạnh của công nhân và lao động ở từng nước tư
bản và trên phạm vi thế giới do ảnh hưởng của Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa, giai cấp tư bản đã dùng mọi biện pháp cải lương để làm hoà hoãn mâu
thuẫn xã hội, mối quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản đều có những biến
dạng, về sản xuất và quản lý kinh doanh dùng biện pháp người sản xuất trực tiếp
tham gia quản lý và rút ngắn thời gian lao động của công nhân. Hình thức hiện
đại của chế độ bóc lột TBCN một tấm áo mới dường như giai cấp công nhân
ngày nay không còn bị bóc lột nữa, và chủ nghĩa tư bản ngày nay dường như đã
có sự thay đổi về chất, thực ra tất cả những thủ đoạn đó không thể làm thay đổi
bản chất của nền thống trị của tư bản độc quyền đương đại, không thể thay đổi
được địa vị của người công nhân làm thuê, không che giấu được việc nâng cao
mức bóc lột của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn hiện nay.
18
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG TIỀN THƯỞNG VỚI VẤN ĐỀ KÍCH
THÍCH LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP HIỆN NAY.
I.Tình hình thực hiện tiền lương tiền thưởng trong các doanh nghiệp:
1.Trong các doanh nghiệp nhà nước:
Hiện nay có khoảng trên 5.900 doanh nghiệp nhà nước với tổng số lao đông
khoảng trên 1.8 triệu lao động (1).Tuỳ theo điều kiện cụ thể của doanh nghiệp
mà các doanh nghiệp thực hiện một số hình thức trả lương sau:
Vt
♦Cách 1: Ti =-----------------* n *h .
∑ n * h
Trong đó :
Ti: Tiền lương nhận được của người thứ i.
ni: Ngày công thực tế của người thứ i.
m: Số người của bộ phận lương thời gian.
Vt: Quỹ lương tương ứng của bộ phận làm theo thời gian.
Thậm chí một số còn đưa ra các hình thức trả lương tương tự nhưng đơn giản
hơn:
VD: ở công ty giầy thăng long
Ti= ĐG*n*h.
ĐG: Đơn giá/ngày lương .
n : Số ngày làm việc trong một tháng.
h : Hệ số của người công nhân i . Hệ số này thể hiện vai trò vị trí của
người thứ i trong nhóm.
♦Cách 2:
19
Ti = Tcb + Tcv.
Tcb: Tiền lương theo cấp bậc của người i.
Tcv: Tiền lương theo công việc được giao gắ với mức độ hoàn thành công
việc và số ngày công thực tế của người i.
Tcb = ni*hi.
ni: Số ngày làm việc thực tế.
hi: Mức lương ngày theo hệ số của người i.
Tcv = ĐG*ni*hi.
Tcv: Mức lương theo công việc.
ĐG: Đơn giá bình quân của mỗi người.
ni : Số ngày làm việc thực tế của mỗi người .
hi : Hệ số tiền lương tương ứng với công việc được giao, mức độ phức
tạp và mức độ hoàn thành công việc.
-Đối với bộ phận làm lương khoán, lương sản pghâmr tập thể thì có thể trả
lương theo cách sau:
Một số bộ phận công nhân lâu năm đã có cấp bậc thâm niên công tác thì
trả theo hệ số mức lương quy định ở nghị định 26/ CP và hệ số mức độ đóng góp
:
Vsp
Ti = ------------------- *ni* ti *hi.
∑ * nj *tj *hj
Trong đó:
Ti: Tiền lương của người thứ i.
Vsp:Lượng sản phẩm của nhóm.
ni:Số ngày công của người thứ i.
ti:Hệ số mức lương xếp theo cấp bậc.
20
hi:Hệ số mức độ đóng góp để hoàn thành công việc.
Một số bộ phận công nhân mới vào theo hợp đồng, chưa có thâm niên
công tác thì tiền lương được tính như sau:
Vsp
Ti = ----------------------- *di *ni.
∑ * dj *nj
Hay : Ti = ĐG *di *ni.
Trong đó:
Ti : Tiền lương của người thứ i.
ĐG : Đơn giá tiền lương của một người làm việc trung bình.
di : Điểm đánh giá mức độ đóng góp của người thứ i.
ni : Số ngày công thực tế của người thứ i.
Một số bộ phận trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân, nên cơ sở xác định
được mức lao động.Doanh nghiệp tiến hành xác định của giá tiền lương cho
từng chi tiết của bộ phận mà công nhân thực hiện.
TLi = ĐGi * SLi:
TLi: Tiền lương của công nhâni .
DDG : Đơn giá chi tieưét mà người i thực hiện.
SL : Số sản lượng mà người i làm được.
ngoài ra trong thực tế doanh nghiệp còn hình thành quỹ tiền thưởng , quỹ
này phụ thuộc rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.Hành năm doanh nghiệp điều chỉnh một tỉ lệ % laĩ nhất định các quỹ tièn
thưởng để thưởng cho nhân viên.
2. Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
a.Trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
21
Hiện nay nước ta có một hệ thống đồ sộ các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh như : Doanh nghiệp tư nhân công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ
phần ngoài ra còn có các tổ hợp sản xuất xí nghiệp...Việc chi trả lương cho
ngươì lao động trong khu vực này được tiến hành tùy thuộc vào quy mô tình
hình sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp . Nhưng nhìn chung chia thành
hai cấp độ sau:
Đối với doanh nghiệp quy mô lớn nhu một số công ty trách nhiệm hữu
hạn một số công ty cổ phần và doanh nhgiêpj tư nhân thì các hình thức tiền
lương tiền thưởng dược áp dụng giống như các doanh nghiệp nhà nước.Tức là
doanh nghiệp có hệ thống tổ chức thang bảng lương nghạch lương .Đồng thời
đối với công nhân sản xuất doanh nghiệp cũng áp dung chế độ trả lương cấp bậc
và hình thức trả lương theo sản phẩm.
Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ như cơ sở sản xuất , hộ gia đình
kinh doanh thì việc thực hiện trả lương , trả thưởng còn đơn giản thủ công. Việc
thực hiện tiền lương chủ yếu dựu vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động . Việc
trả lương , trả thưởng cho người lao động ở khu vực kinh tế này dựa trên nguyên
tăc tối đa lợi ích và giảm thiểu chi phí.
Các doanh nghiệp tư nhân hiện nay tham gia hầu hết các ngành kinh tế
của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt những ngành phân phối sản phẩm và sản xuất
thủ công , những ngành này yêu cầu vốn nhỏ , có sự linh hoạt trong hoạt động
kinh doanh. Tiền lương trong khu vực nyaỳ chịu ảnh hưởng của cung cầu sức
lao động. Nếu cung trên thị trươpngf lớn hơn cầu dẫn đến tiền lương của ngưoì
lao động thấp và ngược lại . Cụ thể là trên thị trường sức lao động Việt nam thì
cung lao động lớn hơn cầu rất nhiều . Điều này làm cho tiền lương ở khu vực tư
nhân quá thấp không kích thích được người lao động.
Theo số liệu điều tra của viện nghiên cứu KH và các vấn đề xã hội đối với
doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho thấy :
22
Biểu 1: Thu nhập bình quân lao động của các ngành thuộc lĩnh vực tư
nhân:
Đơn vị 1000đ/người tháng.
Ngành 1995 1996
1. Cơ khí 445,6 601,2
2. Chế biến lâm sản 392,9 586,8
3.Dệt may 344,0 457,9
4.Chế biến lương thực
,thực phẩm
906,6 549,3
5.Xây dựng 369,4 406,6
6.Sành sứ thủy tinh 451,6 515,8
7.Dịch vụ 469,0 728,0
Chung 481,3 549,4
Nguồn : Viện KH lao động và các vấn đề xã hội.
Từ bảng trên ta thấy năm 1995 mức chênh lệch giữa ngành có thu nhập bình
quân cao nhất và ngành có thu nhập bình quân thấp nhất là: 906,9/344=2,5
lần.Còn trong năm1996 là 1,8 lần.Như vậy trong khu vực tư nhân chênh lệch và
khoảng cách thu nhập giưã các ngành nghề giảm dần.Giải thich cho điều này là
sự can thiệp của thi trường nói chung và thị trường sức lao động nói riêng.
Nhưng trong từng ngành lại có sự chênh lệch đáng kể: VD Như ngành xây dựng
người có thu nhập cao nhất chênh lệch với người có thu nhập thấp nhất là
1686/201=8,39 lần.Còn trong ngành cơ khí là có mức chênh lệch nhỏ nhất là
2,56 lần.Diều này là do trong nền kinh tế thi trường có sự lợi thế về vốn về kỹ
thuật, quy mô sản xuất dẫn đến các doanh nghiệp này có mức tiền lương trung
bình lớn hon các doanh nghiệp khác.
b.Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
23
Tính đén cuối năm 1999 đã có 2667 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được
cấp giấy phép trong đó có 2152 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư
35,1 tỉ USD của nưóc ngoài đầu tư tại Việt nam.Các doang nghiệp đó đã tạo
việc làm cho hơn 300000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp bên
ngoài doanh nghiệp như: xây dựng , gia công , dịch vụ, góp phần đáng kể vào sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ
yếu đang hoạt động theo các hình thức: Doanh nghiệp liên doanh , doanh nghiệp
100% vốn đàu tư nước ngoài.
Trong lĩnh vực tiền lương ở khu vực này , chính phủ đã bốn lần thay đổi mức
lương tối thiểu cho phù hợp.Và từ ngày 1-7-1999 Bộ LĐ-TBXH đã có quyết
định áp dụng trả lương baèng VNĐ với 3 mức lương: 487000đ-556000đ và
626000đ tùy theo vùng lãnh thổ.Đồng thòi chính phủ cũng đã có nghị định
197/CP ngày 31-12-1999 và Bộ LĐ-TBXH có thông tư số 11/LĐ-TBXH ra
ngày 3-5-1995 quy định về xây dựng và quản lý tiền lưong trong doanh nghiệp
có vốn đàu tư nướcd ngoài.
Thực tế cho thấy một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chấp
hành pháp luật Việt nam , thực hiện đúng quy định vcaf hướng dẫn của Chính
Phủ, Bộ LĐ-TBXH trong việc xây dựng và tổ chức quản lý tiền công cho người
lao động . Cụ thể là: công ty liên doanh chế tạo đã xếp lương bậc một cho nhân
viên bảo vệ 35USD/ tháng , công nhân kỹ thuật có 7 bậc trong đó bâc1là9
USD/tháng,bậc 7 là:120,75 USD/ tháng.Trung cấp kỹ thuật có 16 bậc với mức
lương bậc 1 là: 51,1 USD/ tháng , bậc 16 là : 116,55 USD/tháng...Còn trong xí
nghiệp chế biến trái cây Food Tech ở tỉnh Long an cũng xếp lương cho lái xe là
:36 USD/tháng,thủ kho là 50USSD/tháng, kế toán là :82 USD/ tháng .Tuy nhiên
vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện ddungs quy chế trả lương gây ra các
tranh chấp lao động. Thông thường các doanh nghiệp thường vi phạm mức
lương tối thiểu quy định, vi phạm việc xắp xếp thang bảng lương đồng thời cũng
vi phạm việc trả thưởng,trả công thêm giờ cho người lao động.Nhung những vi
phạm này nhà nước khó mà quản lý được.Vì các doanh nghiệp rất ít báo cáo và
các cơ quan nhà nước muốn vào kiển tra thì không dễ dàng chút nào.Đồng thời
24
các công tyy cũng chưa có một tổ chức công đoàn hoàn chỉnh mang đúng nhiệm
vụ chức năng của nó.Do vậy tất yếu xẽ tồn tại những bất cập về tiền lương , tiền
thưởng trong khu vực này.
II.Đánh giá về tiền lương ,tiền thưởng trong các doanh nghiệp hiện nay.
1.Mặt được:
Nhìn chung từ khi thực hiện chế độ tiền lương mới tháng 4-1993 và sau những
đợt cải cách về tiền lương chúng ta đã đạt được một số mục tiêu sau:
- Trong những năm đàu giá cả ổn định,tiền lương thực tế của người hưởng
lương và trợ cấp được nâng nên đồng thời kiềm chế được lạm phát .Điều này là
một bước tiến lớn của Đảng và nhà nước ta đạt được trong những năm qua. Nó
đã đảm bảo cho người lao động cóthu nhập để đáp ứng nhu cầu thiết yếu , nâng
cao mức sống của nhân dân , khuyến khích người lao động không ngừng học tập
nâng cao trình độ.
- Quỹ lương tăng thêm hàng năm không vượt quá số Quốc hội cho phép , điều này
khác hẳn so với những năm trước đặc biệt là những năm bao cấp vượt chi ngân
sách ở mức báo động mà chủ yếu là chi thường xuyên trong đó có chi trả công
nhân viên chức.
- Bước đầu xắp xếp đội ngũ công nhân viên chức vào đúng nghạch , bậc lương
đảm bảo cho người lao đông phù hợp với công việc đánh giá chính xác hơn kết
quả của người lao động giảm sự bình quân trong tiền lương ,tăng tính công băng
đối với người lao đọng , giá trị tiền lương dần được khôi phục với đúng nghĩa
của nó.
+ Trong các doanh nghiệp nhà nước tiền lương ngày càng phản ánh đúng
giá trị sức lao động.Thực chất tiền lương chính biêủ hiện giá cả sức lao động.Do
vậy nếu tiền lương bằng giá trị sức lao động bỏ ra của ngưoì lao động thì đảm
bảo sự công bằng kích thích được người lao động nhưng thực tế tiền lưong hiếm
khi bằng giá trị sức lao động và thường ít hơn giá trị sức lao động.Diều này là do
những nguyên nhân sau:
25
*Thứ nhất là giá trị sức lao động của mỗi người rất khác nhau.Nó phụ
thuộc vào đặc tính năng lực trình độ của mỗi ngưoì lao động do vậy sẽ rất khó
xác định giá trị sức lao động của mỗi người bỏ ra.
*Thứ hai là giá trị sức lao động là một hàng hóa đặc biệt . Nó được thanh
toán sau khi mua bán song và rất khó xác định đo đạc được chúng .Do vậy muốn
xác định được tiền lương phù hợp với giá trị sức lao động thì phải xác định giá
trị sức lao động.
*Thứ ba là để trả được tiền lương bằng giá trị sức lao động, các doanh
nghiệp đặc biệt là donah nghiệp nhà nước phải bỏ ra một số lượng tiền khổng lồ
,nói cách khác là phải có một quỹ lương đủ lớn . Việc này không phải tất cả các
doanh nghiệp đều có thể đáp ứng được do hoạt động sản xuât kinh doanh yếu
kếm , đội nhũ công nhân viên đồ sộ hoạt động kếm hiệu quả.
*Thứ tư là do quy định về mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp của
nhà nước quá thấp thường không thích ứng được với sự thay đổi của thị trường
dẫn đến tiền lương tối thiểu điều chỉnh theo sau thị trường lao động, mà các
doanh nghiệp lại dựa vào tiền lương tối thiểu để trả công.Vì vậy mức lương thực
tế mà người lao đông nhận được thường thấp hơn giá trị sức lao động hay thấp
hơn giá cả thị trường.
Như vậy việc thực hiện chế độ tiền lương mới làm cho tiền lương ngày
càng phản ánh đúng bản chất giá trị sức lao động.Nó có ý nghĩa rất quan trọng
trong các doanh nghiệp hiện nay .
+Tiền lương đã gắn với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ nhất là trong khu vực ngoài quốc
doanh đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân.Nếu những doanh nghiệp này làm ăn
thua lỗ ,không có hiệu quả thì liệu người lao động có được hưởng một mức
lương cao hay không?Thậm chí trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài cũng vậy. Một khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì
người công nhân viên ,người lao động cũng được trả lương ,trả thưởng cao hơn
mức bình thường. Điều này khác hẳn với thời kỳ bao cấp , người lao động chỉ
26
biết làm việc và hưởng một lượng lương cố định không phụ thuộc vào hiệu quả
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Sự bất hợp lý này làm triệt tiêu động lực
của người lao động .Người lao động không làm mà cũng được hưởng
lương,doanh nghiệp thua lỗ nhưng vẫn được cấp ngân sách.
+Tiền lươngtrong thời kỳ đổi mới đã gắn liền với chất lượng và hiệu quả
sức lao động. Thể hiện điều này chính là viẹc trả lương , trả thưởng theo sản
phẩm,theo các thang bảng lương,có định mức lao động khoa học.Ngưoì nào làm
nhiều hưởng nhiều , làm ít hưởng ít đã đưọc người lao động biết đến.Trong các
doanh nghiệp người lao động ngày càng phải cố gắng đi làm được nhiều sản
phẩm nhất và chất lượng đạt tiêu chuẩn.Khác hẳn với thời kỳ trước người lao
động không cần biét đến kết quả lao động của mình như thế nào, có đạt hay
không?Mà chỉ cần biết mình làm ở bộ phận nào hưởng lương bao nhiêu.Nhưng
ngày nay thì khác hẳn,hỏi có doanh nghiệp nào lại trả lương cho người lao động
không hoàn thành một sản phẩm hay một công việc nào.Nều làm việc thì người
đó trước sau cũng bị sa thải.Nhung nói như vậy không có nghĩa là tiền lương đã
gắn chặt với chất lượng và hiệu quả lao động.Nếu ta dặt ra câu hỏi :Chất lượng
và hiệu quả lao động là gì?Chúng được đánh giá qua cái gì?Có phải là các văn
bằng,chứng chỉ không hay là một cái gì khác thì chúng ta sẽ nhìn thấy ngay sự
bất cập của nó trong vấn đề trả lương.Trả lời câu hỏi này sẽ dành ở phần
sau:Những điều còn tồn tại trong việc trả lưong , trả thưởng.
Qua những điều đã đạt được có chi trả chúng ta có thể đánh giá lại đưọc
trình độ của lực lưọng lao động trong các lĩnh vực,ngành , đồng thời tạo động
lực kích thích lao động tăng năng xuất lao động đạt hiệu quẩ trong sản xuất linh
doanh.
2.Mặt tồn tại :
Có thể nói tuy đã đạt được một số các mục tiêu nhất định nhưng chế độ
tiền lương hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất hợp lý,những mặt còn hạn chế đặc
biệt là trong khu vực nhà nước.Sự bất hợp lý được thể hiện ra ngoái như là sự
không công bằng trong trả lưong.Chênh lệch quá lớn giữa các doanh
27
nghiệp,giữa các ngành các lĩnh vực thậm chí là các vúng các khu kinh tế và tiền
lương quá thấp không đủ để tái sản xuất sức lao động.Để nghiên cứu điều này
chúng ta cần đi vào từng lĩnh vực từng doanh nghiệp cụ thể:
a.Trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh hay trong khu vực nhà nước:
Theo số liệu điều tra của viện KHLĐ và các vấn đề XH năm 1999:
Nguồn: Viện KHLĐ và các vấn đề XH.
Mức tiền lương bình quân chung của các doanh nghiệp nhà nước là
505.000/tháng/người.Và nếu xét về góc độ tái sản xuất sức lao động thì mức
lương này đã đảm bâỏ tái sản xuất sức lao động chưa,nếu chưa thì nó đảm bảo ở
mức nào!Nguyên nhân tại sao?Còn xét về góc độ đảm bảo nhu cầu cho người
lao động và bản thân gia đình họ thì mức lưong như thế đã đủ chưa.Nếu chưa
đủ thì người lao động có thu nhập từ đâu ra!
Với mức lương là 505.000đ/tháng là quá thấp so với khu vực ngoái quốc
doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.Nó không đủ tái sản xuất mở rộng
sức lao động.Giả sử người lao động có mức thu nhập 505.000đ/tháng sống ở Hà
nội thì người này phải chi tiêu ăn, mặc, ở ...Những khoản chi tiêu này có cũng
vưọt quá 505.000đ,chi tiêu này còn chưa tính đến người lao động phải nuôi con
đ i học đại học hay nuôi bố mẹ già.Rõ ràng mức lương như vậy là quá thấp , nó
chỉ có thể đáp ứng nhu cầu cần thiết của người lao động.Còn các nhu cầu khác
như nhu cầu đảm bảo cho cuộc sống gia đình, nhu cầu giải trí,nhu cầu được
hoàn thiện và phát triển mình thì chưa được đáp ứng.
Tuy nhiên trên thực tế người lao động trong khu vực nhà nước vẫn có
đủ thu nhập để đảm bao các khoản chi tiêu của họ.Qua cuộc điều tr a của Bộ
LĐTB-XH thì chi tiêu của một gia đình ở Hà nội là gần 1.400.000đ/tháng,trong
đó thu nhập của hai vợ chồng chỉ trên dưoí 1000000đ.Như vậy số tiền thêm vào
từ đau ra? Có phải là các công nhân viên chức phải đi làm thêm hay nhận được
một khoản tiền từ ngoài nào khác.Điều này làm cho lao động trong khu vực nhà
nước không gắn với kết quả lao động ,bởi những thu nhập của họ không chỉ lấy
tiền lương làm cơ sở chính.Nó đã giảm kích lao động trong khu vực nhà
28
nước.Không những thế tình trạng thu nhập ngoài lưong còn là một tệ nạn của xã
hội như :Đi làm ngoài giờ,hối lộ...Đặc biệt nghiêm trọng hơn là với xu thế phát
triển của xã hội thì những tệ nạn này cũng không thể kiểm soát nổi.Mọi cố gắng
của họ là tối đa thu nhập ngoài lương.
Tiền lương trong khu vực nhà nước chưa phản ánh đúng kết quả lao động bỏ
ra.Tức là nó chưa gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.Trong các doanh
nghiệp nhà nước của chúng ta heẹ thống xác định mức lao động , tiêu chuẩn xếp
lương cấp bậc công nhân,cấp bậc công việc đều có.Nhưng chúng được sử dụng
như thế nào mới là điều quan trọng và trên thực tế chúng được sử dụng hoàn
toàn sai lệch, chúng đã thay thế cho việc kiểm soát lao động thực sự.Người lao
động được đánh giá qua giấy tờ bằng cấp và các chứng chỉ.Nói khác đi ở đay
thiếu vắng các chủ thể quản lý, kiểm soát lao động.Thậm chí trong nhiều năm
hàng loạt các báo cáo của các doanh nghiệp nhà nước có các thành tích rôm rả
đầy khả quan nhưng nền kinh tế vẫn dậm chân tại chỗ,đặc biệt là khu vực nhà
nước. Đối với lao động tạo ra các sản phẩm cụ thể , ổn định thì việc kiểm soát và
đánh giá lao động còn có ít nhiều tác dụng.Còn đối với các laoị hình phức tạp
đặc thù không có sản phẩm cụ thể thì việc đánh giá ở hệ thống của chúng ta
hoàn toàn bất lực. Vậy việc đánh giá không chính xác hay không đánh giá được
lao động làm cho tiền lương xa rời với kết quả sản xuất, xa rời chát lượng và
hiệu quả lao động.Hơn nữa trong khu vực này nguyên tắc lợi ích tối đa và chi
phí tối thiểu càng được phát huy tích cực .Trong kinh tế vi mô 1 nguyên tắc cơ
bản chi phối hành vi của con người kinh tế là so sánh lợi ích thu được và chi phí
bỏ ra,không ai chấp nhận khi lợi ích thu về thấp hơn lợi ích bỏ ra.Con người lao
động cũng vậy,với một mức lương đã định sẵn người lao động càng muốn tối
thiểu hóa mức lao động bỏ ra. Họ không phải thi đua hay phấn đấu làm theo
người có năng lực giỏi nhất bởi vì họ làm giỏi cũng chỉ có bấy nhiêu.Mà thay
vào đó họ làm viẹc như người có năng lực kém nhất.Điều này trong thời kỳ bao
cấp xảy ra thường xuyên và hiện nay trong các doanh nghiệp vẫn còn xảy
ra.Như vậy thử hỏi làm sao có thể kích thích được người lao động trong các
29
doanh nghiệp nhà nước.Giải pháp nào đối với công tác tổ chức trả lương trả
thưởng cho hợp lý để khuyến khích người lao động tích cực hơn?
Một đặc điểm quan trọng trong trả công ở các doanh nghiệp nhà nước là
không có trả và làm cho ai.Đây là hình thức biểu hiện của cái mà chúng ta gọi là
vô vhur.Tiền lương , tiền công được quản đốc ký trả lương nhưng chúng được
trả từ quỹ đã có quyết định cụ thể là ngân sách nhà nước.
Một đặc điểm quan trọng trong phía công ty các doanh nghiệp nhà nước
là không rõ ai trả và bán cho ai? Đây là hình thức biểu hiện của cái mà chúng ta
gọi là vô chủ. Tiền lương, tiền công được giám đốc ký trả nhưng chúng được trả
từ quỹ tiền cái đó quyết định cụ thể là ngân sách Nhà nước và người lao động
luôn trông chờ ở số phận. Có khi họ “làm thật thì ăn cháo, làm láo nháo thì ăn
cơm”. Họ thấy rằng tiền công không phụ thuộc vào trí óc vào đôi tay họ nữa.
Điều quyết định đối với họ là xin được làm ở đâu? mức lương bao nhiêu chứ
không phải họ làm việc như thế nào? Và một cơ chế như vậy thì làm sao khuyến
khích được lao động đặc biệt là lao động phổ thông có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao.
-Tiền lương trong khu vực nhà nước vẫn còn mang tính bình quân. Tiền
lương bình quân của các lao động trong cùng một doanh nghiệp hay toàn bộ nền
kinh tế bù cho giá trị lao động đó mà mỗi người là tương đương nhau. Điều này
không đúng bởi vì rằng lực lượng lao động của mỗi ngành khác nhau và như vậy
không thể có mức lương tương đương nhau.
Số liệu biểu 2 cho chúng ta thấy chênh lệch về tiền lương giữa các nhà
lãnh đạo, trong các ngành các cấp và đơn vị lao động giản đơn 72.000đ/ người/
tháng. Mà trong khi đó để đào tạo ra một người lãnh đạo hay một công nhân kỹ
thuật bậc cao thì ngành lao động và Nhà nước phải bỏ ra một số tiền rất lớn. Cụ
thể là để ai đi học ở một trường đại học một sinh viên phải bỏ ra trung bình là
500.000đ/ tháng đó là chưa kể tiền nhà nước cấp. Mà khi ra trường thì số tiền
lương họ nhận được có khi thấp hơn 500.000đ này và chỉ cao hơn lao động giản
đơn một khoản tiền nhỏ. Chính vì điều đó đã làm giảm kích thích lao động giỏi
30
đi sâu vào các chuyên môn kỹ thuật cao, đi sâu vào khoa học phát triển kỹ
thuật.
b)Trong khu vực ngoài quốc doanh
Trong khu vực ngoài quốc doanh nói chung và tư nhân nói riêng, Nhà
nước chưa có chính sách cụ thể có hiệu lực để quản lý việc trả lương trả thưởng.
Tiên lương tiền thưởng đó Nhà nước chỉ mang tính định lương, hướng dẫn cho
khu vực ngoài quốc doanh. Do vậy tiền lương trong khu vực ngoài quốc doanh
chịu ảnh hưởng lớn của thị trường sức lao động. Mà đó là thị trường thì thực tế
đã tồn tại một số mặt chưa được như sau:
Tiền lương, tiền công còn quá thấp chưa đảm bảo cuộc sống cho người
lao động. Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì có khoảng 32% doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có mức lương bình quân từ 300.000đ trở xuống. Trong đó
nhiều doanh nghiệp chưa đảm bảo được mức lương tối thiểu.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bị thấp thang bảng lương và quy chế
trả lương. Nhà nước cũng chưa có cơ chế quản lý chặt chẽ, các doanh nghiệp
này đang bị buông lỏng thả nổi vận hành theo cơ chế thị trường mà ở đây chính
là ý định chủ quan của người sử dụng lao động. Vì vậy tiền lương, tiền lương,
tiền công trong khu vực này bị và còn nhiều bất cập, chưa kích thích được người
lao động làm việc. Họ làm việc chỉ là do cuộc sống quá khó khăn, do những nhu
cầu trước mắt để có thể tồn tại được.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có cơ sở định mức khoa học để
trả lương. Nguyên tắc trả lương trong khu vực hành chính là nguyên tắc “sản
phẩm lao động giảm dần”. Tức là với một tư liệu sản xuất nhất định thì nếu thêm
số người lao động vào thì sản phẩm tạo ra của một người sẽ ngày càng ít đi. Vì
người sử dụng sẽ thuê người lao động cho đến khi giá trị của số sản phẩm này
tạo ra bằng sức tiền công mà người sử dụng lao động phải trả. Như tư nhân
chính bằng giá trị sản phẩm của người lao động cuối cùng.
Mức chênh lệch có trả lương qua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn
quá lớn. Cụ thể là trong khi có 32% doanh nghiệp có mức lương bình quân từ
31
300.000đ trở xuống còn lại 60% doanh nghiệp đảm bảo tiền lương của người lao
động tương đương hoặc cao hơn tiền lương theo chế độ đó, công nhân viên chức
trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra mức chênh lệch của tiền lương qua
các loại hình doanh nghiệp cũng rất lớn: Các nhà lãnh đạo trong khu vực tư nhân
có mức tiền lương là 1.083.300đ/tháng trong khi ở khu vực tập thể là
372.500đ/tháng.
c.Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Mặc dù tiền lương trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn
lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng trong qt thực hiện cũng còn
một số tồn tại như:
-Chỉ có khoảng 38% doanh nghiệp xây dựng bị thang lương, bảng lương
theo quy định của nhà nước. Điêù này chứng tỏ nhà nước cũng chưa có chính
sách quản lý chặt chẽ các doanh nghiệp thuộc loại hình này. Các doanh nghiệp
của 65% còn lại thực hiện trả lương tự do, nhà nước chưa quản lý được. Nhiều
doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất thực hiện trả lương tự do, nhà nước
chưa quản lý được. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, khinh
doanh trả lương thấp sát mức lương tối thiểu cho lao động có trình độ tay nghề
cao. Nhiều doanh nghiệp xây dựng định mức sản phẩm quá cao cho nên làm
giảm thu nhập của người lao động. Người lao động phải làm việc thêm giờ mới
hoàn thành định mức những không được trả lương bù thêm giờ…
Khoảng cách tiền lương có thu nhập giữa các đơn vị lao động Việt Nam
và nước ngoài hay cùng một doanh nghiệp có sự chênh lệch quá lớn. Đấy chứng
tỏ một sự bất công hay trình độ của lao động Việt Nam quá thấp. Nhiều doanh
nghiệp mức lương thoả thuận với người lao động ghi trong hợp đồng trái với
quy định của nhà nước. Một số doanh nghiệp chưa thực sự trích lập quỹ khen
thưởng ít nhất bằng 1 tháng lương từ lợi nhuận còn lại để thưởng cả năm cho
người lao động.
Việc quản lý của nhà nước về tiền lương ở các doanh nghiệp này cũng
chưa thống nhất ở một số đầu mối và thực sự Nhà nước chưa nắm được thực
32
trạng tiền lương ở khu vực này. Những tồn tại tiếp diễn các cuộc tranh chấp lao
động tập thể lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Ngoài những tồn tại trong các doanh nghiệp nêu trên còn một số tồn tại về
tiền lương tiền thưởng giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế và các lĩnh vực
lao động, để thấy rõ điều này chúng ta sẽ nghiên cứu bảng sau:
Tiền lương/tiền công của một lao động làm công ăn lương chia theo nhóm
nghề cấp 1 và khu vực thành phần kinh tế của khu vực thành thị 1999: đơn vị
1000 đ
Danh mục
nghề nghiệp
cấp I
Mã
số
Tiền
lương/tiề
n công
tháng
bình quân
của 1 LĐ
làm công
ăn lương
(1000đ)
Chia theo khu vực thành phần kinh tế
Nhà
nước
(1000
đ)
Tập
thể
(1000
đ)
Tư
nhân
(1000
đ)
Cá
thể, hộ
gia
đình
(1000
đ)
Hỗn
hợp
(1000đ)
A B 1 2 3 4 5 6
Chung cho
các nghề
0000 529,0 505,0 566,4 560,3 494,6 685,3
1.Các nhà
lãnh đạo
trong các
ngành, các
cấp và các
đơn vị
1000 584,3 569,9 372,5 1083,3 836,0
2.Chuyên
môn kỹ thuật
2000 583,7 546,3 913,6 893,1 462,5 983,6
33
bậc cao tròng
các lĩnh vực
3.Chuyên
môn kỹ thuật
bậc trung
trong các lĩnh
vực
3000 481,4 460,8 414,2 712,1 520,7 725,9
4.Nhân viên
chuyên môn
sơ cấp, nhân
viên kỹ thuật
làm việc tại
văn phòng,
bàn giấy
trong các lĩnh
vực
4000 520,5 464,4 664,0 650,0 925,0 652,3
5.Nhân viên
dịch vụ cá
nhân, bảo vệd
trật tư-an
toàn xã hội vf
bán hàng có
kỹ thuật
5000 510,6 465,5 391,7 580,7 496,6 783,9
6.lao động có
kỹ thuật trong
nông nghiệp,
lâm nghiệp
và thuỷ sản
6000 449,0 406,2 350,0 432,6 445,6 450,0
34
7.Thợ thủ
công có kỹ
thuật và các
thợ kỹ thuật
khác có liên
quan
7000 505,6 487,5 459,6 529,0 475,6 535,1
8.Thợ có kỹ
thuật lắp ráp
và vận hành
máy móc
thiết bị
8000 622,0 582,6 794,4 620,3 656,8 717,3
9. Lao động
giản đơn
9000 480,2 477,2 562,2 468,7 464,7 594,0
Như vậy, tiền lương giữa các ngành cũng có sự khác biệt đáng kể, sự khác
biệt lớn nhất là giữa các nhà lãnh đạo và quản lý có lao động kỹ thuật trong nông
nghiệp. Ngoài ra chúng còn khác biệt hơn nữa ở mỗi loại hình doanh nghiệp vì
vậy việc điều chỉnh tiền lương, tiền công sao cho hợp lý vẫn còn là một vấn đề
nan giải. Không những thế tiền lương, tiền công và thu nhập của người lao động
giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và đồng bằng cũng có sự chênh lệch.
Theo số liệu đầu tư của bộ lao động kế hoạch ta có:
Vùng Mức thu nhập bình quân (2000) >600
≤ 200 201-400 400-600
Miền Bắc 0.00 62,50 12,50 25,00
Miền Trung 0,00 53,33 26,67 20,00
Miền Nam 0,00 27,27 45,45 27,28
Mức TM bình quân xét theo cơ cấu (%)
35
Như vậy ở miền Bắc thu nhập bình quân từ 201-400 vẫn chưa đa số tức là
thấp hơn miền Trung và miền Nam. Miền Nam có thu nhập lại tập trung chủ yếu
từ 401-600, rõ ràng mức lương ở các vùng là khác nhau.
Không những thế sự chênh lệch về mức lương các vùng cũng rất khác
nhau. Cụ thể là miền Nam có mức thu nhập chênh lệch hơn cả, trong các doanh
nghiệp tư nhân mức chênh lệch tới 4,91 lần (mức chênh lệch giữa vùng cho thấy
cả miền Nam có vùng thấp nhất của miền Nam)
3.Nguyên nhân tồn tại
Để đi sâu vào những mặt còn tồn tại của tiền lương, tiền thưởng chúng ta
nguyên nhân của sự tồn tại:
tiền lương còn quá thấp doanh nghiệp này do những nguyên nhân sau:
-Cung lao động rất lớn trong khi cầu lại không đáp ứng được là tất yếu
xảy ra của cung lớn hơn cầu. Do đó giá cả của hàng hoá sức lao động sẽ thấp.
Trong thực tế tình trạng “mua việc” xảy ra thường xuyên theo lôgic tự nhiên thì
người thuê lao động phải trả tiền lương tiền công. vậy mà ở chúng ta lại phổ
biến hiện tượng đi mua việc. Nhiều người có thể đơn giản nghĩ rằng đó là do
việc ít, người tìm việc nhiều. Nhưng thử hỏi có ai đi xin việc ở doanh nghiệp tư
nhân lại phải mất tiền ? ở các doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước là người cần
thuê. Nhưng đứng giữa người lao động và Nhà nước là người trung gian và
người này không phải luôn hoạt động vì Nhà nước. Họ ngăn cản người lao động
và chủ thể (Nhà nước) gặp nhau tạo ra một căn cứ để kiếm tiền
Do mức lương tối thiểu của Nhà nước quy định quá thấp và thưởng cũng
không được điều chỉnh thường xuyên cho thích hợp.
Năm 1993 mức lương tối thiểu là 120 ngàn đồng hiện nay là 110 ngàn đồng dự
kiến năm 2001 là 210 nghìn đồng: Từ năm 1993-1997 Nhà nước mới điều chỉnh
mức lương tối thiểu. Sau 3 năm nữa Nhà nước mới lại điều chỉnh. Như vậy
khoảng thời gian điều chỉnh mức lương tối thiểu tương đối dù trong sự phát
triển của nền kinh tế ngày càng tăng và yêu cầu thay đổi mức lương tối thiểu
ngaỳ càng rút ngắn. Cứ một lần tăng mức lương tối thiểu Nhà nước phải bỏ ra
36
một khoản ngân sách khổng lồ. Theo báo cáo của Bộ LĐTBXH thì năm 2000
Nhà nước phải bỏ thêm riêng 4000 tỷ đồng Việt Nam để trả lương cho công
nhân viên và những người hưởng lương từ ngân sách. Hơn nữa sự điều chỉnh
của Nhà nước thường theo sau thị trừơng. Khi khảo sát thấy mức lương thị
trường tăng lên thì Nhà nước mới chuẩn bị nâng lương. và ở đây đã có hai
khoảng cách giữa lúc điều tra và khi thực hiện mức lương mới.
Điều này đã hướng Nhà nước và Bộ LĐTBXH phải căn cứ còn hệ số trượt
giá có tốc độ phát triển kinh tế để điều chỉnh mức lương tối thiểu.
Do nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, lao động nông nghiệp chưa
đến 72%. Các khoản thu từ ngân sách thường không đủ hơn nữa ngoài việc trả
lương từ ngân sách Nhà nước còn phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phát
triển kinh tế. Còn trong các doanh nghiệp, khi nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển
thì doanh thu của doanh nghiệp không cao, lợi nhuận ít, yêu cầu tăng tiền lương
cũng khó được thực hiện.
Như vậy: việc tăng mức lương tối thiểu là rất cần thiết đối với người lao
động nhưng trên thực tế do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã cản
trở việc này. Đây là những nguyên nhân cần phải được tháo gỡ cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường.
-Mức chênh lệch về tiền lương, tiền thưởng giữa các doanh nghiệp, các
vùng và các ngành kinh tế còn quá cao.
Thứ nhất là do quy định về tiền lương tối thiểu trong các khu vực kinh tế
này rất khác nhau. Trong doanh nghiệp Nhà nước là 126.000 đ còn trong doanh
nghiệp nước ngoài chia làm 3 mức là 627.000 đ trong đó Thành phố Hà Nội và
Hồ Chí Minh là 587.000, các quận huyện ngoại thành thành phố và các thành
phố loại II 556.000đ đối với các tỉnh thành phố còn lại.
Thứ hai là:quy mô các loại hình doanh nghiệp không những cũng khác
nhau mà còn khác nhau về trình độ chuyên môn, phức tạp của công việc, các
lĩnh vực mà doanh nghiệp sản xuất. Hơn nữa một số doanh nghiệp đặc biệt là
37
một số doanh nghiệp Nhà nước nằm giữa có một ngành quyền trong lĩnh vực ấy.
Từ đó doanh nghiệp đẩy cao thu nhập của người lao động.
Thứ ba là: Do sự phát triển kinh tế của từng vùng, sự hoạt động của sản
xuất kinh doanh cũng khác nhau. Có những vùng kinh tế phát triển cũng như có
những vùng làm ăn phát đạt đã góp phần nâng cao mức sống, nâng cao thu nhập
của người lao động và ở đây họ cũng đã được trả một mức lương cao hơn các
vùng khác. Ví dụ như ở Thành phố Hồ Chí Minh mức thu nhập bình quân năm
1999 là gần 1100USD/người/năm còn ở một số tỉnh miền núi phía Bắc chỉ đạt
gần 80$/người/năm
- Tiền lương còn lại tính bình quân, phản ánh đúng giá thành người lao
động bỏ ra. Đây là do một số nguyên nhân sau:
….. là do việc xây dựng và sử dụng định mức lao động còn nhiều yếu kém.
được sử dụng hoàn toàn sai lệch. Hệ thống định mức lao động đã được sử dụng
do cho việc đánh giá kiểm soát công việc hay nói cách khác là việc các giấy tờ
bằng cấp là chính mà không lấy cơ sở củ việc thực hiện công là chính. Có những
người không được sử dụng để thực hiệnở công việc cách nào đó thì người đó
có nên được trả lương hay không, hay còn phải tuỳ thuộc các để thực hiện công
việc gì, hoàn thành đến mức độ nào. Thực tế ở Việt Nam hiện nay một số doanh
nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước vẫn dựa vào bằng cấp để trả lương.
Nó phản ánh không đúng giá trị sức lao động bỏ ra làm lệch lạc tiền lương, tiền
thưởng đối với người lao động. Chính sự việc đánh giá không chính xác việc
thực hiện công việc, không có xây dựng một đơn giá hợp lý, nhiều sản phẩm còn
chưa được xác định đơn giá tiền lương đã làm cho tiền lương mang nặng tính
chất bình quân giữa các lao động trong cùng nhóm nghề, làm giảm sự kích thích
lao động.
Thứ hai là do cách quản lý của nhà nước có trên lương còn nhiều yếu
kém. Nhà nước khó có thể kiểm soát thực hiện trả lương, trả thưởng song các
số ngoài quốc doanh còn doanh nghiệp có cần được tổ .Các doanh nghiệp này là
do thay đổi mức lương thang bảng lương và còn vi phạm các mức lương tối
38
thiểu do nhà nước quy định. Một số doanh nghiệp còn không coi việc thực hiện
tiền thưởng, nghỉ phép theo quy định do bộ luật lao động biên soạn năm 1994,
người lao động bị chèn ép không có cuộc sống, vì miếng cơm manh áo của họ
phải chịu dựng để nhận được một khoản tiền lương ít ỏi.
39
CHƯƠNG IV
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG TIỀN LƯƠNG, TIỀN
THƯỞNG.
Để biết được người lao động hơn nữa mỗi doanh nghiệp mỗi tổ chức phải
có những giải pháp thiết thực hơn đối với doanh nghiệp mình. Tuỳ thuộc vào
từng điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, mà doanh nghiệp có thể có những giải
pháp khác nhau. Nhưng nhìn chung, chúng đều phải tiếp tục được hoàn thiện để
nâng cao mức sống của người lao động, đồng thời bảo đảm sự công bằng hợp lý
hay sự phân phối tiền lương. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế nói chung và
từng doanh nghiệp nói riêng thì nhà nước cũng cần phải có những giải pháp để
quản lý, kiểm soát việc trả lương. Vấn đề đặt ra là chúng ta nên có những giải
pháp nào ? giải pháp này được thực hiện như thế nào ? ai thực hiện ? thực hiện
khi nào ? ở đâu. Sau đây là một số giải pháp tiêu biểu:
1.Giải pháp trong đó có các doanh nghiệp.
Xuất phát từ quan điểm tiền lương không chỉ là thu nhập của người lao
động nó còn là một khoản chi phí trong sản xuất. Khoản chi phí này cũng cần
phải được đầu tư như những chi phí máy móc thiết bị. Do vậy với quan điểm chi
phí tiền lương chính là việc đầu tư cho con người để nâng cao trình độ, nâng cao
năng suất lao động. Thì việc tăng khoản đầu tư này cũng như tăng tiền lương là
yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để tăng tiền
lương trước hết là phải tăng mức lương tối thiểu chung bằng cách đẩy mạnh phát
triển sản xuất, tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Thứ tư là tăng hệ số lương cho người lao động bằng cách nâng cao trình
độ chuyên môn của họ để họ đón nhận những công việc phức tạp hơn. Xu hướng
lâu dài nhà nước sẽ ban hành một mức lương tối thiểu chung thống nhất trong tất
cả các khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Mức tối thiểu này làm cơ sở để
điều chỉnh mức tiền lương của người lao động trong các doanh nghiệp không
những thúc đẩy người lao động nâng cao trình độ, việc tăng lương còn có tác
40
dụng thúc đẩy sản xuất, kích cầu tiêu dùng đặc biệt là trong những tháng giảm
phát triển qua, đồng thời cũng hạn chế việc tham ô, tham những do thiếu tiền và
bị đồng tiền chi phối.
-Không ngừng cải cách chế độ tiền lương mới cho phù hợp với nền kinh
tế thị trường. Nghiên cứu về mức biến động của giá hàng tiêu dùng, nghiên cứu
về thị trường lao động và tốc độ phát triển của đất nước để có thể định ra được
mức lương tối thiểu. Đồng thời qua việc nghiên cứu này các doanh nghiệp cũng
có những chính sách phù hợp trong việc trả lương, trả thưởng để thu hút người
lao động.
-Tiến hành xây dựng định mức lao động một cách chính xác để có thể xác
định được đơn giá tiền lương, đánh giá đúng việc thực hiện công việc
2.Kiến nghị có giải pháp để có nhà nước:
-Để thực hiện tốt việc cải cách tiền lương trong khu vực nhà nước chúng
ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp kinh tế xã hội như: tinh giảm biên chế,
giải thể hay cổ phần hoá những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện nay chúng ta
đang có một đội ngũ cán bộ công chức kồng kềnh trung chéo làm ăn kém hiệu
quả đang được hưởng lương từ ngoài ngân sách. Việc tinh giảm biên chế sẽ làm
trong sạch bộ máy nhà nước, làm giảm số người hưởng lương từ ngân sách và
giảm bớt khoản chi thường xuyên, thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ. Đồng
thời về lâu dài làm nghiên cứu tiếp tục thực hiện cải cách chính sách tiền lương
ở khu vực hành chính sự nghiệp, cần nghiên cứu lại tổ chức và cơ chế của khu
vực sản xuất kinh doanh theo hướng : giao cho doanh nghiệp tự xây dựng lại
thang bảng lương, các chế độ phụ cấp lương phù hợp với tổ chức sản xuất và tổ
chức lao động, nâng cao năng suất lao động có khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Nhà nước chỉ hướng dẫn phương pháp xây dựng hệ thống tiền lương,
định mức lao động, đơn giá tiền lương có quy định tiền lương bình quân theo
người; hướng dẫn phương pháp tính năng suất lao động gắn với tiền lương, kiểm
soát phân phối tiền lương trong doanh nghiệp. Theo hướng này doanh nghiệp có
quyền ký định hoạch cơ chế trả lương trong khuôn khổ mà nhà nước quy định.
41
-Tăng cường việc đánh giá và kiểm soát lao động, xây dựng các hệ thống
định mức lao động, tiêu chuẩn xếp lương, cấp bậc công nhân, cấp bậc công việc
trong các doanh nghiệp nhà nước, giảm tình trạng phân phối tiền lương bình
quân, xoá bỏ bao cấp tiền lương cũng như việc thực hiện dtiền tệ hoá tiền lương.
-Cần phải tiến hành đào tạo các cán bộ chuyên môn về lao động-tiền
lương để nghiên cứu và xây dựng một hệ thống tiền lương hợp lý. Hơn nữa
trong các doanh nghiệp cũng cần phải có những cán bộ chuyên môn giỏi về định
mức để làm căn cứ cho việc xây dựng tiền lương tiền thưởng.
-Ban hành các hình thức tiền thường cho hợp lý đảm bảo sự công bằng
hợp lý trong quy chế thưởng. Tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, từng mục tiêu
của doanh nghiệp mà doanh nghiệp áp dụng các hình thức thưởng khác nhau.
Xây dựng các hình thức thưởng chặt chẽ, đúng người,đúng việc đảm bảo sựu
kích thích lao động.
3.Kiến nghị và giải pháp đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Trên cơ sở các văn bản pháp luật hiện hành, chúng ta cần đổi mới cơ chế
quản lý tiền lương và thu nhập trong các đơn vị này tăng cường chức năng quản
lý doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện để các daonh nghiệp phát huy tốt khả
năng của mình sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm cơ sở tăng tiền lương có thu
nhập cho người lao động. Nhưng giải pháp như thế nào, bước đi cụ thể ra sao thì
đòi hỏi nhà nước và doanh nghiệp cần phải nghiên cứu đánh giá và cũng có thể
là phải qua một thời gian thử nghiệm.
Trước hết, đối với nhà nước cần phải có các biện pháp thiết thực trong
việc kiểm tra giám sát trong khu vực này. Ví dụ: quy định các doanh nghiệp bắt
buộc phải có tổ chức công đoàn, quy định về mức lương tối thiểu, hay về số
lượng; cũng có thể các doanh nghiệp cuối năm phải nộp các số lượng, hay bản
báo cáo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tránh tình trạng các doanh
nghiệp cúp lương người lao động, gây ra các tranh chấp lao động trong khu vực
42
này. Đồng thời nhà nước cũng cần có chính sách phân phối lại thu nhập trong
khu vực này đảm bảo chênh lệch không quá cao.
Đã có các doanh nghiệp, người chủ doanh nghiệp cần nhận thức tiền
lương là hai khoản chi phí trên sự phát triển. Từ đó có sự tính toán chi phí cho
hợp lý nguồn kết quả thu được và chi phí. Ngày nay nguồn nhân lực của doanh
nghiệp là một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất. Thiếu nó thì doanh
nghiệp không thể tiến hành hoạt động được, do vậy doanh nghiệp cần có chính
sách có tiền lương tiền thưởng và các khoản phụ cấp cũng như cách đối xử của
doanh nghiệp đối với người lao động sao cho phù hợp đảm bảo kích thích được
lao động. Do vậy để làm lại còn phải hiểu được lâu dài doanh nghiệp cần có một
mức lương ổn định, đảm bảo được mức sống cảu người lao động. Hơn thế nữa
phải có chính sách tiền thưởng cho những lao dộng giỏi để thu hút họ về doanh
nghiệp.
43
KẾT LUẬN
Tiền lương gắn liền với sự phát triển kỹ thuật-khoa học của đất nước, trả
lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư cho phát triển, góp
phần làm lành mạnh trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm
có hiệu suất công tác, đảm bảo nâng cao năng suất lao động. Đối với những
người làm cơ quan đơn vị, hay trong doanh nghiệp họ nhận được tiền lương
tương xứng với công việc của mình. Đối với họ tiền lương là phương tiện là
nguồn sống chính giúp họ tái sản xuất giản đơn có mở rộng tới lao động, nhằm
đạt tới mực đích cho mỗi người. Vì vậy tiền lương đã là động lực trực tiếp đối
với người lao động.
Khi tiền lương được trả đúng phù hợp với sự đóng góp ngày càng tăng lên
của người lao động họ sẽ mang hết sức mình ra để lao động sản xuất có năng
suất chất lượng, có hiệu quả cao nhất, góp phần tăng trưởng kinh tế. Vì vậy
trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế, giá cả sinh hoạt hàng năm không
ổn định, thị trường lao động còn rơi rớt chưa đề cao hoạt động chính thức thì
vấn đề tiền lương tiền thưởng còn gặp khó khăn nan giải. Yêu cầu thực tế hiện
nay là đảm bảo mức lương thực tế của người lao động ổn định và tăng trưởng.
Trong những năm qua đảng và nhà nước ta đã đạt được một số yêu cầu nhất
định song vẫn còn nhiều hạn chế, những giải pháp thiết thực hơn nữa trong việc
tổ chức, thực hiện có quản lý tiền lương.
44
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình kinh tế lao động-Nhà XBGD 2001
2.Đổi mới cơ chế và chính sách quản lý lao động-tiền lương trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam-NXB Chính trị Quốc gia
3.Tìm hiểu chế độ tiền lương mới-NXB Chính trị Quốc gia
4.Tạp chí lao động-xã hội.
5.Tạp chí kinh tế phát triển số tháng 1, 2, 6, 9 năm 2002
6. Lịch sử các học thuyết kinh tế – Nhà xuất bản thống kê Hà Nội,1999.
45
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_i_8755.pdf