Nếu với phương thức tổ chức tình tiết – sự kiện, văn xuôi Đoàn
Giỏi hấp dẫn người đọc ở tốc độ nhanh, mạnh, ở những tình huống căng
thẳng, bất ngờ và hồi hộp thì đến những biểu hiện của chất thơ trên trang viết,
người đọc được hòa mình vào âm hưởng trữ tình của những câu hát dân gian,
những trang văn sâu lắng của thế giới cảm xúc, được hòa mình vào thế giới
tình cảm trong sáng, ngọt ngào của những con người dân quê Nam bộ chất
phác, hồn hậu, giàu tình thương yêu và lòng nghĩa hiệp. Những năm tháng
chiến tranh, chất thơ trong văn xuôi có thể nói là một thanh âm lạ. Lạ nhưng
không xa rời với cuộc chiến vì vậy nó tan chảy trong sự vận động của văn
học cách mạng.
50 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3769 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đoàn giỏi – những đặc trưng phong cách, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cụ già ngồi
ngủ lơ mơ. Bụi nước phun bay như tro phun nhẹ vào xuân Hà Nội” [8; 103].
Ông cũng trải lòng mình trên những trang văn chân thành, sâu sắc và bàng
bạc giữa câu chuyện là cái tôi trữ tình với những suy tư, tự vấn “Tôi xa Cà
Mau đã có hơn mười lăm mười sáu năm rồi. Sự hiểu biết của tôi về những
con người trên vùng đất ấy hiện nay cũng không hơn gì sự hiểu biết của mọi
người chưa có dịp về qua nơi đó. Nhưng ngắm nhìn từng chân dung và tính
cách của họ trong Bức thư Cà Mau của Anh Đức và Rừng U Minh của Trần
Hiếu Minh, tôi có cảm giác như gặp lại một người yêu cũ. Thấy khác xưa mà
cũng chẳng khác xưa! Trong tiếng cười giọng nói, trong cách sống cách đánh
giặc, ở nét mới hiện tại còn in rõ bóng dáng thân quen cũ ngày nào. Có phải
điều đó ta vẫn thường quen gọi truyền thống đây chăng?” [8; 623]. Cuốn theo
dòng tâm sự miên man ấy, chúng ta được đi sâu hơn vào thế giới tinh thần
của nhà văn, hiểu hơn ân tình sâu nặng với quê hương xứ sở của tác giả.
Quy luật của nỗi nhớ dường như luôn là sự tìm về. Nhớ Nam, Đoàn Giỏi bởi
vậy cũng tìm về trong dòng hồi tưởng bất tận. Đồng Tháp Mười, còn mãi
trong ký ức những huyền thoại về vùng đất, và còn mãi trong tâm hồn thơ trẻ
ngày nào hình ảnh một Đồng Tháp miên viễn phía trời xa “Đứng trên những
gò cát cao cuối làng tôi, trông về phía mặt trời lặn những buổi tối trời, chỉ
thấy từng cụm mây trắng như bông loà nhòa lẫn lộn trên đầu sóng cỏ mờ mờ,
xa tít. Lũ trẻ con thường đứng trên lưng trâu, ngóng cổ nhìn về phía chân trời
chấp chới những đàn cò bay trong mây trắng, đố nhau: “Chỗ nào là chân
trời?”. Không đứa nào chỉ được. Sắc trời nối nhau với sắc cỏ một màu xanh
nhạt, mông lung” [49; 262]; một Đồng Tháp với lớp lớp những con người
anh dũng, kiên trung “Quên sao được bàn tay cụ già tự cầm lửa đốt nhà mình
đánh lạc hướng tiến của quân giặc sắp tràn vào xóm để bảo vệ các cơ quan
khu bộ. Quên sao được những người chiến sĩ suốt mấy ngày đói lả, vừa đánh
vừa mở đường máu vừa cõng trẻ con ra khỏi vòng vây trận Hàm Vồ” [264].
Quên sao được… Quên sao được, phép điệp ngữ cùng với phép điệp cú pháp
trong hai câu văn vừa làm cho âm điệu đoạn văn nhịp nhàng, đăng đối, lại
vừa tăng chiều kích của nỗi nhớ thẳm sâu trong tâm hồn tác giả.
Chân thành trong tình cảm, tinh tế trong cảm nhận, sắc sảo trong miêu tả,
chất thơ trong văn xuôi Đoàn Giỏi thêm đằm thắm, lắng đọng và cuốn hút
hơn nhờ sự vận dụng sáng tạo và phát huy tối đa hiệu quả nghệ thuật của các
biện pháp tu từ như thế. Trong đó, so sánh, nhân hóa là hai phương thức
chuyển ngữ xuất hiện thường xuyên trong các tác phẩm của ông tạo những
khúc đoạn mang âm hưởng trữ tình, lắng đọng “Sông Cửu Long chảy vào đất
Nam bộ, dang hai cánh tay dài ôm ấp những bờ dừa trĩu quả, xanh bạt ngàn.
Nước đặc ngầu phù sa cuồn cuộn đổ ra chín cửa, biến thành con rồng chín
đầu nổi lên giữa những cánh đồng lúa mênh mông, đỏ ối. Những buổi trời êm
ả, mặt nước phẳng lì trôi xuôi, soi bóng mây trắng bạc giăng ngang một chiều
rộng hơn bốn cây số, nước triều êm ả lên xuống như con rồng nằm ngủ, thở
nhịp nhàng. Nhưng khi đất trời nổi giận, chim nước hốt hoảng bay rối loạn,
con rồng hiền lành ấy bỗng vụt chồm lên, gào thét ì ầm, cuồng phong ào ào
bẻ gãy những cây bần to hai người ôm bên bờ, cuốn đi từng mảnh đất, lôi nhà
cửa gia súc dìm dưới bọt sóng sôi sùng sục” [8; 255]. Mỗi từ một trạng thái,
mỗi từ một đặc tính, con sông thật sự hiện ra như nó vốn có; hiền hòa mà
cũng thật dữ dội. Thổi hồn vào cảnh vật, diễn tả nó bằng tất cả tình yêu và
lòng ngưỡng phục, những con chữ trên trang viết chồm lên đầy sức sống.
Bằng sự đan xen liên tiếp của các từ láy tượng thanh và tượng hình, câu văn
Đoàn Giỏi vì vậy thêm uyển chuyển, mềm mại và thanh thoát.
Trong tiểu thuyết Ngọn cỏ gió đùa, khi tả cảnh, Hồ Biểu Chánh với vai trò là
người “đi tiên phong và lập công đầu trong việc đưa tiểu thuyết mới từ tình
trạng phôi thai tiến đến giai đoạn thành lập và thịnh hành” [57; 271] cũng đan
xen khá nhiều từ láy “Đêm hôm vắng vẻ, mưa gió ồn ào, dựa mé bờ tiếng ễnh
ương kêu uênh oang, trên mái nhà giọt nước mưa rớt lộp độp. Đêm nay là
đêm rằm, mà trăng bị mây ám nên mịt mù cảnh vật, mùa này là mùa cây cỏ
tươi tốt, mà bị giông mưa nên lá đổ nhành oằn” [56; 182]. Nhưng do câu văn
còn mang tính chất biền ngẫu, vì vậy các từ ngữ được sử dụng mang tính
đăng đối hơn là tính gợi hình.
Bàn về chất thơ trong văn xuôi Đoàn Giỏi, có thể nói, liệt kê cũng là một
trong những thủ pháp đáng chú ý và cần khai thác (Con gái cụ Hồ, Dòng máu
Việt phải lưu thông, Ngọn tầm vông, Mùa thu Nga thăm một vài nơi kỉ
niệm,…):
“Không biết có quá lời chăng, chứ riêng tôi, tôi chưa thấy nơi nào có một sự
hài hòa tuyệt duyệt giữa thiên nhiên và con người từ hình khối và đường nét
kiến trúc , những ngôi nhà gỗ với quang cảnh rừng – núi – sông – hồ như ở
Bạch Nga, từ những bài hát dân ca trữ tình với tiếng rừng thu xào xạc, tiếng
sóng vịnh biển Ban-tích ngày đêm không ngớt xô bờ như ở Lát-vi-a; từ màu
gốm men nâu nổi tiếng của chiếc cốc giải khát với sắc áo màu café (cà–phê)
của cô hầu bàn chan hòa trong chiếc đèn lồng kiểu cổ, và tiếng nhạc dân gian
ru trầm miên man trong mùi thơm dịu của món bít tết Ri-ga độc đáo trong
ngôi quán nhỏ mang cái tên rất gợi là “Gió thổi lên đi” Trôi đi trong chất
giọng trầm buồn, lắng đọng với những vương vấn tưởng chừng khôn nguôi”
[8; 98].
Những vẻ đẹp rất Nga dần được vẽ ra theo lời kể của tác giả. Tất cả gói trong
một câu văn, dài và dàn trải. Xâu chuỗi tất cả trong một, tác giả như muốn đi
hết những xúc cảm đang xô đẩy, chồng chất lên nhau; như muốn giới thiệu
với mọi người về một nước Nga như thế. Lần đầu đến trong mùa đông và sau
mười năm, Đoàn Giỏi có dịp trở lại Nga trong mùa thu. Thu Nga thật đẹp, trữ
tình và đầy thi vị. Còn trong lòng người là sự lặng im, lặng im để chiêm
ngưỡng, để thưởng thức những điều thực nhất mà ngày xưa, tác giả chỉ được
cảm thụ qua hàng loạt bức tranh của danh họa Levitan:
“Nhiều lúc tôi đứng lặng im nhìn những mảng màu vàng điệp mỏng manh
của cây li-ba lay động nhẹ trong hơi thu lạnh, nắng vàng nhè nhẹ sắc xanh,
vẫn xa đôi chút gợn mây sáp lưng cừu. Bên cây vàng lá thu, khi di động
những nét màu đỏ, màu xanh tươi của trang phục thiếu nữ, thu như bừng vui
rộn rực, khi những chấm sáng, những điểm đen hặc các màu tối thẳm của
trang phục lớp người có tuổi đi bên cây, thu như lắng xuống vẻ trầm tư” [8].
Những trang viết về thiên nhiên của ông luôn tạo được những rung động đặc
biệt qua vẻ đẹp trong trẻo và tinh khiết. Những biến đổi tế vi của cảnh vật đều
xuyên thấm qua ông, tâm hồn của một nhà văn và trái tim của một người họa
sĩ. Am hiểu về hội họa, ông đã vận dụng rất thành công trong việc sử dụng
nhiều bút pháp khác nhau để khắc họa thần thái của cảnh vật. Mùa thu Nga,
thăm một vài nơi kỉ niệm, và vài nơi đó đều lưu lại trong ông, trong trang văn
ông những rung động sâu sắc nhất: ngôi lều của Lenin bên hồ Radơlip miên
man sóng vỗ, con tàu lấp lóa ngoài khơi xa trên bờ vịnh Phần Lan, Cổ thành
Bơ-rêtx một chiều xám mây mù, cây bạch dương, nghĩa trang Pít Xcai-rôp,
khu vườn lưu niệm Dan-ki-ku-ba giữa thủ đô Mincơ,… Truyền toàn bộ
những xung động nội quan vào từng câu chữ, ngôn từ văn xuôi Đoàn Giỏi vì
vậy giàu tình cảm, nhạc tính và hình ảnh.
Chiếm số lượng khá ưu thế trong các tác phẩm của Đoàn Giỏi là ký. Ký Đoàn
Giỏi ra đời một mặt do yêu cầu sáng tác của thời cuộc (kịp thời thể hiện
những phẩm chất anh hùng của nhân dân, góp phần cổ vũ, động viên tinh
thần chiến đấu), mặt khác ký Đoàn Giỏi còn được biết đến như là một trong
những thể loại linh hoạt giúp ông (người sáng tác nói chung) có điều kiện bày
tỏ trực tiếp những cảm xúc thẩm mỹ của mình trước khách thể trữ tình. Bởi
vậy bằng cách bổ sung “những dữ kiện của nội tâm” (tưởng tượng, cảm xúc,
xúc cảm, hoài niệm, suy nghiệm,…)” vào “những dữ kiện của thực tại”, chất
thơ và chất thực được tác giả gắn kết một cách tự nhiên và khéo léo qua
những con chữ.
Đi theo hành trình suy tưởng của tác giả trong Dòng máu Việt phải lưu thông,
yêu mến và tự hào thay sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên và con người
mỗi vùng đất dọc Nam chí Bắc. Tất cả quyện hòa làm nên vẻ đẹp toàn bích
của non nước Việt Nam:
“Trời trong vắt, sau lưng tôi ngút ngàn đồng lúa Bạc Liêu, rừng dừa Bến Tre,
vườn sầu riêng măng cụt Thủ Biên, rặng bưởi Biên Hòa. Trong bờ kia là núi
Tràng (Trường) Sơn trùng điệp. Qua những chòm mây trắng như tơ nõn lưa
thưa, sâu sau dáng núi, tôi thấy hiện lên đồi núi Tây Nguyên, rừng thông
xanh mát, vườn rau thẳng tắp, những đàn bò sữa cúi đầu ăn cỏ trên các cánh
đồng mênh mông. Đa Lạc (Đà Lạt), Gia Rinh, Lâm Viên xanh biếc vườn cà
phê, vườn chè. Kia là Phan Thiết thơm lừng nước mắm, Nha Trang, Cam
Ranh cát trắng gió lành. Những bàn tay đưa không ngớt, đánh dây dừa dưới
bóng dừa Bình Định. Mùi đường phổi, đường phèn như phất qua trước mũi.
Bóng người du kích Bình Trị Thiên hôm nào còn len lỏi dưới nhà xiêu cột
cháy, trong vườn thanh trà, thanh yên ngọt lịm mỗi độ đầu thu. Trên mặt sóng
vằng vặc ánh trăng kia là Huế trầm mặc bên sông Hương la đà cành trúc,
trong vắt tiếng hò” [8; 229].
Dòng máu Việt phải lưu thông, Bắc Nam phải được quy về một mối, chỉ có
thể, dải đất hình chữ S mới vẹn nguyên một sức sống trong trái tim bao
người. Gửi đến một thông điệp về chính trị nhưng văn phong Dòng máu Việt
phải lưu thông không hô hào, cứng nhắc. Trang văn êm đềm chảy xuôi theo
những vọng về từ miền ký ức và những nghĩ suy trước thực tại. Nó đi vào
lòng người thật nhẹ nhàng song đầy khắc khoải.
Ngoài cái tôi trữ tình của tác giả thì chất thơ còn được đem đến từ những
khoảnh khắc xao động trong tâm hồn của các nhân vật trong truyện (Dũng
trong Cuộc truy tầm kho vũ khí, An trong Đất rừng phương Nam). Chiến
tranh khốc liệt, chiến tranh có thể cướp đi sinh mạng của con người nhưng
không thể cướp đi những gì thuộc riêng về thế giới tinh thần mỗi người “Gió
ban mai lành lạnh mang theo mùi hương ngát của một loài hoa lạ nào đằm
vào khí trời trong suốt. Cho đến khi những tia nắng đầu tiên chiếu xuyên qua
cánh rừng, rọi vào những hạt sương long lanh đọng trên đầu ngọn cỏ làm cho
sương rung rung buông xuống thì mùi hương sực nức kia cũng tan dần theo
hơi ấm của mặt trời mỗi lúc một nhô cao” [49; 799]. Nắm bắt những bước đi
của thời gian qua sự biến chuyển của sự vật bằng một trái tim nhạy cảm và
một tâm hồn tinh tế.
Những đoạn văn viết về thiên nhiên trong văn xuôi Đoàn Giỏi, không chỉ ở
truyện mà cả ký luôn ánh lên vẻ đẹp lung linh và sức gợi đến nao lòng. Văn
xuôi Đoàn Giỏi, bởi vậy bên cạnh cái hiện thực như nó đang là, thấm đẫm
không khí thời đại, ta còn bắt gặp một hiện thực khác, khác với cái mà văn
học thời kỳ này hãy là, đó chính là sự hiện hữu của hiện thực tâm hồn
“Đường nét làn điệu văn tùy bút của Đoàn Giỏi vừa vạm vỡ vừa phóng
khoáng vừa ngập tràn hơi thở của thơ và luôn ghi rõ dấu ấn một thời” (Anh
Đức).
3.2.3 Những khúc đoạn trong trẻo và ngọt ngào của cuộc sống
Không chỉ được chưng cất từ thơ, từ tình yêu và những rung động của tâm
hồn trước cảnh đẹp thiên nhiên, chất thơ trong văn Đoàn Giỏi còn tỏa ra từ
tình người, tình đời đầy ấm áp, yêu thương - giai điệu trong trẻo và ngọt lành
nhất của cuộc sống.
“Một lúc sau, một chiếc xe hơi lộng lẫy chạy ngang, có một phụ nữ y
phục đoan trang, nhan sắc xinh tươi, ngồi một mình ở phía sau. Cô thấy đứa
nhỏ nằm ngoẻo bên đường liền kêu sốp-phơ biểu ngừng xe. Cô bước xuống
rờ đứa nhỏ, trán nóng hầm, mà tay chơn lạnh ngắt. Cô liền dạy sốp-phơ bồng
đứa nhỏ lên xe và nói: “Tội nghiệp con nít đói rách đau ốm. Để chở nó về
kiếm thuốc cho nó uống, rồi hỏi coi nó con nhà ai thì mình đưa nó về cho nó
ăn Tết. Làm phước không mất đâu mà sợ” [58], Đoàn Giỏi đã chọn cho Kính
trong Nhớ cố hương một kết cục tươi đẹp như thế. Sự đối lập giữa hai thế
giới: một giàu sang, sung túc và một nghèo hèn, đói rách không tạo nên bức
tường ngăn cản. Người phụ nữ vì vậy đã không thờ ơ đi qua Kính, ngược lại,
với tất cả sự chân thành của tình thương, cô cúi xuống và nâng đỡ Kính.
Sự trưởng thành về mặt nhận thức và tư tưởng về sau, nhất là trải qua quá
trình công tác chính trị phục vụ kháng chiến khiến trang viết của ông già dặn
hơn đồng thời mang tính hiện thực cao hơn. Đó có chăng cũng chính là sự
thay đổi mà ông từng thừa nhận trong bài ký Đồng Tháp Mười “Tôi như con
sâu cuộn mình trong tổ kén, như con ốc bó mình trong vỏ hẹp bò quanh quẩn
trong vuông tre làng nhỏ bé. Cuộc đời tôi rồi sẽ như cây xoài, cây mít trồng ở
góc sân, mọc lên chỗ đố, rụi tàn héo khô chết nguyên chỗ đó. Cách mạng
tháng Tám đùng đùng nổi lên như một cơn bão lửa, đốt cháy những mạng
nhện, gai gốc chung quanh mình tôi. Tôi đã xé vỡ tổ kén, mọc lên đôi cánh
giữa sức trai mười tám, bay đi” [49; 263]. Bởi vậy, những sáng tác sau này
của Đoàn Giỏi ít nhiều không còn mang hơi hướng của Nhớ cố hương nữa.
Sự thi vị có chút gì đó mơ hồ của những viễn cảnh tươi đẹp ấy cũng được
thay thế bằng những trang văn “đời” hơn, thực hơn, sinh động và gần gũi
hơn.
Lạc ba mẹ trong một lần chạy giặc để rồi xa mãi, với một đứa bé như An,
cuộc sống ngoài kia không phải là một trò đùa. Bước đường phiêu lưu với An
không trải đầy thảm đỏ nhưng cũng không quá nhiều trắc trở, gian nan. Trong
đắng cay có ngọt ngào. Vị ngọt ấy chính là đôi cánh nâng đỡ An đi qua
những tháng ngày lưu lạc cho đến khi An được đứng vào hàng ngũ cách
mạng “Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá!
Về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ
uống… Nói chuyện công xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân
một mình. Dì coi cháu như con thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn
ra cái nghĩa gì!” [49; 17]. Dù rằng với dì Tư Béo, sống là phải có vay có trả,
thiện căn trong bà không là một khối ngọc toàn bích nhưng tấm lòng hào
hiệp, sự quan tâm (tự tay may cho An cái quần đùi) và nghĩa cử hào phóng
(cho tiền cắt tóc) của bà với An là một thanh âm trong trẻo vang lên giữa
dòng đời còn nhiều bụi bặm và chen lấn này.
Với những nốt nhạc khác như lão Ba Ngù, đặc biệt là gia đình ông lão câu
rắn, thanh âm đó như vang xa hơn và cũng dịu ngọt hơn “Con ở đây với tía
má! Tía má nghèo lắm, chẳng có gì đâu. Nhưng con cứ tin rằng cuộc sống
của con không đến nỗi như cuộc đời đau khổ của tía má ngày xưa” [49; 113].
Tuy là con nuôi nhưng trong thâm tâm ông Hai và bà Hai, An cũng như Cò
vậy. Tất cả xuất phát từ một tình yêu thương chân thành, sâu sắc. Sự ấm nóng
của tình người và những hạnh phúc đôi khi chỉ từ những điều rất nhỏ:
- “Chèo một mạch hết con nước này thì đến thôi. Gắng lên, nghe
An!...
- Con còn chèo được mà. Chưa mỏi lắm đâu, tía ạ!
Má nuôi tôi từ trong mui lom khom bước ra, bảo tôi:
- Vào nghỉ tay đi. Để đó cho má!
Và bà cầm lấy guốc chèo, đẩy tôi vào mui” [49; 205].
Như không có sự cưu mang của gia đình ông Hai, cuộc sống với An những
ngày tiếp theo sau ngày quán rượu dì Tư Béo bị hai tên Việt gian vợ chồng
Tư Mắm đốt trụi sẽ khó khăn và vất vả chừng nào. Một đứa trẻ dù có bản lĩnh
đến đâu đi nữa thì gia đình với nó luôn là chỗ dựa vững chắc và bến bờ của
những bình yên. Với người Nam bộ, sự cưu mang không đơn thuần chỉ là
lòng trắc ẩn với những cảnh ngộ đáng thương mà hơn hết đó là sự tan chảy
rất tự nhiên của tinh thần hiệp nghĩa đã thẩm thấu trong bản chất con người
họ từ lúc nào. Tình cảm của nhân vật chị Bảy với bé Chung qua lời kể của tác
giả trong tác phẩm Người tù chính trị năm tuổi càng làm đẹp hơn hình ảnh
đồng bào miền Nam với những phẩm chất đáng quý ấy.
Chất thơ giữa đời thực trong văn xuôi Đoàn Giỏi còn được biểu hiện qua
hành động cùng giúp đỡ lẫn nhau ngay từ những ngày khởi đầu cuộc sống,
cũng như cả về sau của cư dân nơi đây. Giữa người Việt, người Hoa, người
Khmer hoàn toàn không có sự phân biệt về mặt dân tộc, càng không coi trọng
đó là dân chính cư hay dân ngụ cư như người miền Bắc. Tính mở vì vậy trở
thành đặc trưng trong lối sống của cộng đồng người miền Nam. Bởi thế mà
hình ảnh lũy tre làng cũng không tồn tại trong tâm thức họ. Họ nhiệt thành
chung lưng đấu cật, gây dựng cuộc đời mới “Bảy Phát về đây ở. Bà con trong
xóm kẻ đốn người chằm lá, tiếp giúp người một tay kẻ một chân, mấy hôm đã
dựng được cho chú một căn nhà” [49; 387], cùng nhau chống lại sự bóc lột
của bọn cường hào ác bá, ách áp bức của bọn thực dân xấu xa. Xóm Kèo Nèo
và những tình cảm với gia đình Bảy Phát (Cá bống mú), thằng Bé với vợ
chồng anh Hai (ông Hai – Đất rừng phương Nam), sư thầy, ni cô Diệu
Huỳnh, bác Tám Nghĩa,... với chị Tư Dương (Hoa hướng dương) là những ví
dụ. Ngoài ra, qua nhân vật ông Hai và những người anh em trong phường săn
cá sấu, nhân vật Tư U và Bảy Phát, nhân vật già Tâm và Tám Cốc,… tác giả
đã thành công khi xây dựng tinh thần trượng nghĩa, khí khái của nhân dân và
nâng nó lên thành nét tính cách “miền”.
Giữa khốc liệt của hoàn cảnh, bên cạnh tình người cao đẹp, sự xuất hiện của
tình yêu như những cơn mưa tươi mát làm cho bức tranh cuộc sống dịu đi và
thêm phần thi vị. Bởi vậy, chất thơ trong trẻo trên những trang văn Đoàn Giỏi
được góp một phần từ những khoảnh khắc ngọt ngào như thế “Nghe Kim
Diêu bỗng nhiên xưng em, Đấu hồi hộp nóng bừng cả mặt, ngượng ngịu:
- Vại cô nắn, chắc lắm. Tôi làm đổ mấy lần vẫn không vỡ!
Hai đứa tẩn ngẩn đứng một hồi lâu không biết nói gì. Đấu nhìn xuống nước.
Bóng Kim Diêu mắt tròn sáng rỡ, mấy cánh hoa bèo Nhật Bản tím tím cài lên
tóc tóc rực rỡ trong nắng vàng lốm đốm. Đấu đứng nhích lại gần. Kim Diêu
bỏ chạy về phía gốc cây, xách mấy con cua biển đem lại…” [49; 415].
Nếu yếu tố tự sự thiên về các vấn đề của đời sống thì yếu tố trữ tình thiên về
cảm xúc, suy nghĩ. Văn xuôi Đoàn Giỏi nắm bắt cả hai thần thái đó. Kết hợp
hài hòa, thể hiện sáng tạo, do đó hầu như trong tác phẩm nào của ông cũng có
chất thơ, nhưng chất thơ đó sống được cùng chất thực và cả với thời cuộc
nữa. Bắt lấy những biến động tế vi trong tâm hồn nhân vật và diễn tả những
rung động ấy bằng một ngôn ngữ hồn hậu, bình dị song bao giờ chúng cũng
mang sức lan tỏa và lay động kỳ lạ, cuốn người đọc vào hết phiến đoạn này
đến phiến đoạn kia trên trang giấy. Như câu chuyện tình yêu của bác Trần Vũ
và vợ và sau đó là đến An và Út Thảo. Rừng đêm mãi xào xạc. Rừng đêm
dường như sẽ không bao giờ tĩnh, vì gió, vì những trăn trở, băn khoăn trong
đầu người họa sĩ trẻ, vì ký ức xưa luôn dậy sóng và vọng về trong lòng ba
An, và vì những xao xuyến đang dậy lên trong trái tim hai con người,…
Những biểu hiện của chất thơ trong văn xuôi Đoàn Giỏi có thể nói khá đa
dạng. Sự có mặt của chất thơ là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên
cảm quan nghệ thuật, cá tính nghệ sĩ và hiệu quả thẩm mỹ trong văn xuôi
Đoàn Giỏi. Từ đó dần hình thành nên cái mà chúng ta gọi là phong cách.
Cùng với chất thơ, việc xây dựng hệ thống biểu tượng trong văn xuôi cũng
góp phần làm nên những khác biệt của nhà văn so với các sáng tác của các
nhà văn Nam bộ.
3.3 Hệ thống biểu tượng trong các tác phẩm của Đoàn Giỏi
Biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học
nghệ thuật. Trong Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên), theo nghĩa hẹp, biểu tượng được hiểu “là một
phương thức chuyển nghĩa của lời nói… có quan hệ gần gũi với ẩn dụ và
hoán dụ. Giống với hoán dụ, ẩn dụ, biểu tượng được hình thành trên cơ sở đối
chiếu, so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh,
những đặc điểm gần gũi, tương đồng, nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý
niệm cụ thể, sáng tỏ về hình tượng hay đối tượng đó” [18; 24].
Biểu tượng là một hiện tượng lịch sử, do vậy mỗi thời kỳ văn học thường gắn
với một hệ thống biểu tượng (có kế thừa và cách tân). Ví dụ hình ảnh của mái
đình, giếng nước, cây đa, thuyền, bến trong ca dao xưa; tùng – cúc – trúc –
mai trong văn học trung đại,… Trong văn học hiện đại, số lượng các biểu
tượng khá phong phú. Ngoài những hình ảnh chung mang tính phổ biến, tùy
thuộc vào thế giới quan, nhân sinh quan mỗi nhà văn, biểu tượng còn mang
tính riêng, in đậm dấu ấn của tác giả trong quá trình sáng tạo.
Hệ thống biểu tượng trong văn xuôi Đoàn Giỏi xuất phát từ cảm thức của con
người Nam bộ với đời sống thực tại, vừa kế thừa truyền thống vừa có những
cách tân đáng kể. Chúng được biểu hiện qua các bình diện dưới đây.
3.3.1 Hình ảnh con dao và ngọn tầm vông trong tâm thức người Nam bộ
Tổng thể của cư dân Nam bộ là sự hợp thành của nhiều thành phần dân
tộc khác nhau như Việt, Chăm, Khmer, Hoa cùng một số dân tộc bản địa.
Trước vùng đất mới còn hoang hóa mà tất cả đều là “khách”, họ chung lưng
đấu cật, giúp nhau khai khẩn đất đai thay vì giành giật và chiếm đoạt. Theo
đó, nếu lịch sử hình thành của vùng đất phương Bắc gắn liền với nỏ thần Kim
Quy, với thanh gươm Lê Lợi:
Ai về Bắc ta đi với,
Thăm lại non sông giống Lạc Rồng.
Từ thuở mang gươm đi mở cõi,
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
(Nhớ Bắc – Huỳnh Văn Nghệ)
thì lịch sử hình thành vùng đất phương Nam, những vũ khí ấy được thay thế
bằng con dao (rựa). Công cụ lao động đó tuy đơn sơ nhưng với cư dân Nam
bộ thuở trước, phương tiện này tỏ ra hữu hiệu.
Vai trò tiên chinh, đồng thời quan trọng nhất của con dao rựa chính là ở
công dụng chặt cây, dẫy bụi (bụi rậm). Có con dao trên tay, kết hợp với sức
lao động của mình, con người coi như đã sở hữu một sức mạnh vạn năng
“Sức mạnh là ở con dao rựa trong hai cánh tay họ” (Người và đất Cà Mau)
[49; 625]. Nhờ đó, họ chinh phục được thiên nhiên hoang sơ “Vợ chồng chú
Bảy Phát ra sức khai phá. Canh năm gà gáy, chú đã dắt con chó một mình
xách rựa ra ruộng sậy. Đấu thì đi cắm cá hửng trời về nấu cơm hai mẹ con
con lội ra tiếp làm đến xế” (Cá bống mú) [49; 389] và giành chiến thắng
trước những thế lực hung bạo “cọp beo lền khền trong rừng, cá mập, cá sấu
đầy dẫy dưới sông” [49; 625]. Con dao vì vậy trở thành hình ảnh tượng trưng
cho sức mạnh của người dân Nam bộ trong những nỗ lực sinh tồn với vùng
đất còn khắc nghiệt này. Do đó nó trở thành vật bất ly thân “Con dao này lúc
nào cũng dính trong tay tôi. Lưu lạc khắp xứ, trong những cơn thập tử nhất
sinh, nó đã cứu tôi bao nhiêu lần thoát chết. Gia đình, vợ con còn có khi vì
sinh kế, tôi phải tạm rời xa vài ba tháng, một đôi năm, chứ con dao này chưa
hề xa tôi một chút nào” [49; 255].
Khi trao con dao của mình lại cho An, trong ngày An được gia nhập đội quân
kháng chiến, trước sự chứng kiến của đồng chí ủy viên quân sự, thầy giáo
Bảy cùng các đại biểu dân quân và đám đồng bào dự lễ, ông Hai đã phát biểu
run run đầy xúc động như vậy. Bởi với ông, con dao là chứng nhân cho “tất
cả dĩ vãng của một cuộc đời phiêu bạt”. Qua lưỡi thép sáng chói của con dao,
những đắng cay, vất vả trong sự vật lộn luôn luôn với cái chết để tìm lấy
miếng sống như hiện về nguyên vẹn. Giờ chúng ta mới thấu hết sự vui mừng
của ông khi An đem trả lại cái túi da beo mà ông vô tình đánh rơi và ngỡ
tưởng đã mất ở phần đầu của truyện “Ông cụ già ngước nhìn lên, sửng sốt.
Hai mắt ông dán chặt vào chiếc túi vằn hoa trên tay tôi” [49; 98, 99].
Bắt đầu bằng một không khí khá trang nghiêm và kết thúc trong những tiếng
vỗ tay và hoan hô bằng sự hưởng ứng của tất cả mọi người hiện diện lúc ấy,
hành động của ông Hai thêm thiêng liêng và ý nghĩa. Trao kỷ vật của đời
mình cho An, ông Hai gửi gắm ở con niềm tin, hy vọng “Con tôi được các
đồng chí dẫn dắt đứng vào hàng ngũ, đó là điều hết sức vinh dự cho gia đình
tôi. Vợ chồng tôi già rồi không theo kịp anh em bộ đội, anh em du kích để
cầm súng giết giặc” [49; 255] và cả sức mạnh mà lần đầu cầm chặt cán dao
trong tay, An cảm nhận được “tôi bỗng thấy người mình như cao lớn hẳn lên,
dường như sức khỏe tăng lên vạn bội, tôi nghe mạch máu chảy râm ran trong
những đầu ngón tay” [49; 51].
“Trong chỉnh thể “nhà văn” (các sáng tác của nhà văn)” (Trần Đình Sử), sự
lặp đi lặp lại một cách thống nhất cách cảm nhận độc đáo về thế giới với “hệ
thống bút pháp nghệ thuật phù hợp” tạo nên nét riêng của phong cách. Đoàn
Giỏi qua biểu tượng con dao (rựa) đã làm được điều ấy.
Trong các sáng tác của tác giả, bên cạnh hình ảnh con dao, ngọn tầm
vông cũng là một trong những vũ khí lợi hại của nhân dân Nam bộ trong đấu
tranh “Ngày 23 tháng 9 năm 1945 đúng 5 giờ kém mười lăm phút, tiếng súng
kháng chiến bắt đầu nổ ở Sài Gòn. Tầm vông, súng lửa, dao găm, cung tên
giáo mác tất cả xông ra đương đầu cùng xe tăng, đại bác. Những người nông
dân khởi nghĩa làng tôi năm 1940 bị bắt đày đi Côn Đảo đã trở về, xông lên
hàng đầu chiến trận. Trong khói đạn mịt mù, đứa con miền Nam của Tổ quốc
Việt Nam lăm lăm khúc gậy tầm vông, lưng mang nóp, chống giữ ruộng
vườn từ thước đất” [49; 208]. Cùng với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của
Nguyễn Đình Chiểu, Chiếc sào phơi [1](Lê Giang), ngọn tầm vông trở thành
biểu tượng sống động cho tinh thần quyết chiến với kẻ thù “Ông già Tám
đánh xe ngựa ở sát cạnh nhà tôi lúc nào cũng sẵn sàng một ngọn tầm vông,
chỉ chờ dịp xông ra đâm chết lũ giặc” [49; 76].
Hình ảnh ngọn tầm vông trong văn xuôi Đoàn Giỏi có hai nghĩa: một là vũ
khí, hai là ngọn của cây tầm vông. Do vậy, nó có sự mở rộng ở trường ngữ
nghĩa phản ánh. Cây tầm vông cao vút, thẳng đứng, ngọn tầm vông luôn
vươn lên mạnh mẽ thể hiện sức sống bền bỉ, cứng rắn của người phương Nam
dù đối mặt với hoàn cảnh khó khăn nào. “Bờ tầm vông, qua mấy mùa mưa
nắng, đã lên xanh dày ngăn ngắt. Gió đùa lạo xạo tren ngọn nghe như những
tiếng thì thầm, chờ đợi việc gì” [49; 208]. Tầm vông của Đoàn Giỏi trong
Ngọn tầm vông cũng mang ý nghĩa giống như cây tre trong Tre của Nguyễn
Duy vậy.
3.3.2 Sức sống người phương Nam qua cây đước, cây mắm
Cùng với Hương rừng Cà Mau (Sơn Nam), Rừng mắm (Bình Nguyên Lộc),
Ông lão vườn chim (Anh Đức), hình tượng con người Nam bộ nói chung,
người dân đất Mũi nói riêng qua ba loại cây tiêu biểu của vùng (mắm, đước,
tràm) cũng được tái hiện qua Đất rừng phương Nam, Cây đước Cà Mau,
Rừng đêm xào xạc của nhà văn Đoàn Giỏi. Trong đó cây đước nổi lên như
một hình ảnh mang tính biểu tượng đậm nét nhất.
Về mặt sinh vật học, đước là loại cây có rễ sâu và khỏe. Vì vậy dù sống
trên vùng đất nhão, quanh năm ngập nước (rừng ngập mặn) nhưng nó vẫn
luôn đứng vững và vươn lên xanh tốt “Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng
hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng ngược lên cao ngất như
hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái
rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp
từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lòa nhòa ẩn hiện
trong sương mù ban mai” [49; 220]. Cảnh tượng vừa nên thơ vừa hùng vĩ ấy
được Đoàn Giỏi ghi lại qua cảm nhận của nhân vật An trong Rừng đước Cà
Mau (Đất rừng phương Nam). Cùng với câu chuyện của Tám Mun và Trần
Vũ (Rừng đêm xào xạc) và đoạn trữ tình ngoại đề của người kể chuyện (tác
giả) (Cây đước Cà Mau) với những đoạn văn miêu thuật khá gần nhau đã thể
hiện được sức sống mạnh mẽ của cây đước. Đó đồng thời là sức sống mạnh
mẽ của con người đất Mũi mà trong tâm thức dân gian “đã tồn tại… như một
huyền thoại” (Sự tích cây đước) [30; 36] “Những cây đước cao vút rễ chi chít
từ giữa thân trở xuống, như những cánh tay thò ra bám đất chiến đấu không
ngừng trước kia và trong những năm kháng chiến, để thực hiện hòa bình,
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập dân chủ cho Tổ Quốc” [8; 22].
Huyền thoại đó cũng được Tố Hữu dệt nên qua những câu thơ chứa chan tình
cảm trong bài thơ Bà má Hậu Giang (1941):
“Tao già không sức cầm dao,
Giết bay có các con tao trăm vùng.
Con tao gan dạ, anh hùng,
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm” [41].
Ngoài ra hình ảnh những trái đước “trôi bập bềnh trên sóng, gặp đất lại mọc
lên thành loài mới” cũng là hình ảnh của Nam bộ trong sự thích nghi dễ dàng
với hoàn cảnh sống. Sự có mặt của biện pháp tu từ so sánh, hoán dụ hay ẩn
dụ trong câu văn Đoàn Giỏi vì vậy luôn tạo được chiều sâu liên tưởng thông
qua hình tượng nghệ thuật được xây dựng.
Bên cạnh đước, linh hồn và sức sống của đất rừng U Minh còn được Đoàn
Giỏi gửi gắm qua hình ảnh cây mắm:
“Quả như lời thiên hạ, xứ này: “Rừng từ dưới biển mọc lên”. Có thể nói cây
mắm là cây tiên phong của rừng Cà Mau, có thể sánh như các bậc tiền bối, từ
buổi ông cha mình mở đất về phương này được vậy.
- Sao cháu đọc sách báo, thấy người ta nói cây đước là linh hồn của rừng
Cà mau mà?
- Cũng đúng. Bởi cây đước là chủ lực ở đây mà. Mặc dù mắm có trước,
đước có sau, rồi sau nữa là mới tới tràm” [49; 330].
Hạt mắm lúc mới rụng xuống không nổi trên mặt nước như đước mà chìm
ngay do đó, khả năng tái tạo tự nhiên thuộc về loại cây này. Mặt khác, những
hạt đước được giữ lại bởi mắm, vì vậy nó có đủ thời gian để nó rụng xuống
và nảy mầm. “Mắm đi trước, đước theo sau” là vậy. Bên cạnh đó, sức sống
cây mắm khá dẻo dai và bền bỉ. Nó chịu được mọi sự phá hủy của địch để sau
đó vẫn vươn lên tốt tươi “Đước, vẹt, giá, dà, tràm, chà là,dừa nước… tất cả
mọi thứ cây rừng đều chết, nhưng còn một giống đương đầu, thằng Mỹ phải
chịu thua… Lá héo, lá rụng rồi lá lại nảy mầm xanh tươi trở lại như không”
[49; 331]. Văn Đoàn Giỏi thực là kho tư liệu sinh động về đời sống sinh vật
của vùng đất Nam bộ. Vừa đem lại tính chân xác trong từng trang văn, vừa
tạo sự hấp dẫn và thuyết phục với bạn đọc trong từng chi tiết miêu tả, vốn
sống nhà văn đã góp một phần không nhỏ vào sự thành công của các tác
phẩm.
Cây đước, cây mắm không chỉ thể hiện được sức sống của người Nam bộ
trong lao động và kháng chiến. Trong quá trình sinh tồn, mắm giữ chân đước
và đước cũng giữ chân mắm không bị ngã (rễ mắm yếu). Nhờ sự hợp lực này
mà dù chịu bao mưa bom đạn nổ, rừng xứ này vẫn không sao bị diệt được:
“Đước đã mọc thành rừng gỗ cứng/ Gió càng lay càng vững thành đồng” (Tố
Hữu). Như con người phương Nam, từ già đến trẻ, từ thế hệ này đến thế hệ
khác vẫn tiếp bước nhau đi, anh dũng trên con đường đấu tranh còn nhiều
gian khổ và chông gai (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Việt Chiến).
Nhớ về phương Nam là nhớ về Tiền Giang với những chiến công hiển hách,
nhớ về Tháp Mười với mênh mông sóng nước, là hồi tưởng về Cà Mau với
rừng đước, rừng mắm bạt ngàn. Trái tim và khối óc của nhà văn Đoàn Giỏi
lúc nào cũng đau đáu về quê nhà trong tình yêu, nỗi nhớ và niềm tự hào.
3.3.3 Chú chó - hình ảnh một người bạn trung thành
Viết về loại nhân vật này, cũng gần như các nhà văn nước ta và thế giới qua
một số tác phẩm nổi bật như Tiếng gọi nơi hoang dã, Nanh trắng (Jack
London), Robinson Crusoe (Daniel Defoe), Lão Hạc (Nam Cao), Tuổi thơ im
lặng (Duy Khán), Sao không về Vàng ơi? (Trần Đăng Khoa),… Đoàn Giỏi đã
khắc họa hình ảnh con chó trong những đặc tính tốt đẹp nhất. Dưới lăng kính
nhìn của nhà văn, các phẩm chất đó không đơn thuần chỉ là sự biểu hiện của
bản năng loài.
Vốn là lưu dân từ miền Trung vào Nam tìm kế sinh cơ, xa gia
đình, bạn bè đã lâu lại sống giữa thiên nhiên hoang vắng và xa lạ (Núi cả non
ngàn lấy bối cảnh xã hội Nam bộ những năm cuối thế kỷ XIX), nỗi cô đơn và
cảm giác về sự trống trải với già Tâm là một điều tất yếu. Vì vậy, với ông sự
hiện diện của con Đốm là một gắn bó không thể thiếu “Nó giục ông đi săn,
nhắc nhở ông rằng nó đói, báo cho ông biết có người lạ đến gần… bao nhiêu
hoạt động hằng ngày có ý nghĩa, trách nhiệm, giúp ông bớt cô đơn, bớt chán
nản. Nó còn làm giảm bớt sự bồn chồn, lo lắng bằng cách xoắn xít, cọ sát vào
người ông, làm thư giãn đầu óc và tạo cho ông cảm giác yên ổn” [49; 660].
Trong cuộc sống thường ngày, cũng như con Vàng – người bạn lắng nghe
mọi tâm tư của lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao, con Đốm
với già Tâm cũng luôn là người bạn thân thiết trong mỗi lần chuyện trò.
Bao nhiêu năm sống cùng nhau, mối thâm tình cố kết giữa người
và vật đã tựa như “không gì phá vỡ nổi”. Sự tồn tại của ông cần có nó “Ông
không thể sống một mình như những ngày chưa có nó, nhất là những lúc ốm
đau” [49; 661] và nó cũng cần có ông. Bởi thế khi già Tâm bị cướp bắt đi,
con Đốm đã lao vào chống cự quyết liệt. Dù bị đánh nhào xuống nước, nó
vẫn không bỏ cuộc mà tiếp tục bơi theo ghe và trèo lên lăn xả vào ông. Rồi
trong giây phút cận kề nguy hiểm với cái chết rình rập, đã không những
không bỏ già Tâm để thoát thân, con chó ngược lại còn muốn “tìm cách đánh
tháo” cho ông. Đốm với già Tâm thực sự là người bạn trung thành.
Đến Chuyện rừng thuở ấy và Đất rừng phương Nam, chúng ta còn
cảm phục hơn loài vật ấy ở sự thông minh của trí khôn và sự dũng cảm trong
tinh thần chiến đấu. Chó là loài vật có khứu giác cực kỳ nhạy bén, vì vậy khả
năng phát hiện mục tiêu hay những nguy hiểm trước mắt cao hơn con người
rất nhiều. Giữa thiên nhiên hàng bao hiểm nguy và mối đe dọa khôn lường,
việc có một người bạn đường trong mỗi bước đường chinh phục như con chó
là điều cần thiết. Hành trình tìm kiếm Thị Lụa của Tám Mun (Chuyện rừng
thuở ấy) sẽ vất vả và kéo dài hơn nếu không có sự hỗ trợ đắc lực của con
Đốm. Trong các con vật nuôi, chó được xem là loài vật có nhiều tình cảm với
con người nhất và đồng thời cũng “hiểu” con người nhất. Có khi ở sự cảm
nhận “nó rất nhạy với tâm trạng của chủ” [49; 659] và đôi khi ở những ám
hiệu “mấy lần con Đốm lao ra trảng, nhưng nó còn ngó lên chờ lệnh chủ…
Tám Mun không chờ coi nữa. Gã suỵt suỵt mấy tiếng. Con Đốm lao ra, sủa
dữ dội cướp tinh thần kẻ địch” [49; 270, 271].
Con Luốc trong Đất rừng phương Nam có thể nói là sự kết tụ
những thuộc tính đáng quý của hình tượng nhân vật này. Luốc theo chân gia
đình ông Hai qua mỗi bước đường lưu lạc của cuộc sống, cùng An dõi theo
tía nuôi trong nhiệm vụ bí mật (giết vợ Tư Mắm trả thù chú Võ Tòng) và
luôn sát cánh bên An khi cậu tìm đường vào rừng đến với căn cứ kháng chiến
“Cứ men theo dấu chân tía nuôi tôi, tôi vừa đi vừa dắt con Luốc chạy ộp oạp
trên bờ đất sình lút ngang ống chân… Tôi lội ngay xuống rạch, ngược theo
dòng nước gợn bùn vẩn đục ngầu từ trong rừng chảy ra, mải miết bươn ra.
Con Luốc cứ kêu ư… ử… trong cổ, dường như muốn gọi tôi lên mà mãi
không thấy tôi lên, nó bèn co giò phóng tùm xuống nước lội xộn xộn sát theo
tôi” [49; 239]. Chó Luốc với gia đình tía nuôi An vừa là một người bạn vừa
là một thành viên không thể thiếu.
Nhân vật văn học là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng nhưng
qua trang văn Đoàn Giỏi, con Luốc hay con Đốm hiện ra trong những chi tiết
rất thực. Sự am hiểu những thuộc tính của nhân vật cũng như khả năng quan
sát và miêu tả tinh tế đã đem lại sức sống cho hình tượng. Mỗi tác phẩm một
nhân vật khác nhau nhưng tất cả đều thống nhất trong ý nghĩa của sự thể
hiện. Đó cũng chính là ý nghĩa của hình tượng nhân vật con chó mà nhà văn
xây dựng qua các sáng tác của mình.
3.4 Thế giới cổ tích và huyền thoại qua một vài tác phẩm
Trong văn học hiện đại Việt Nam, cùng với một số ít tác giả như Nguyễn
Huy Tưởng, Tô Hoài, Phạm Hổ, Vũ Tú Nam, Đoàn Giỏi là những
người đã có công trong việc đem truyện cổ tích và huyền thoại vào các tác
phẩm. Tuy chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong cuộc đời văn nghiệp của nhà
văn (với ba truyện kể: Cái chết của con rùa và người thợ săn kiêu mạn, Sự
tích núi Trái Vải và Thiện Dần đánh cọp) nhưng chính mảng sáng tác này đã
tạo nên dấu ấn cá nhân Đoàn Giỏi trong dòng chảy của văn học đương thời.
Với văn học thành văn, sự ảnh hưởng và vay mượn các yếu tố của văn học
truyền miệng được xem là một hiện tượng phổ biến, và là một tất yếu. Chúng
“hiện hữu với vai trò to lớn và là chất liệu, là phương tiện tạo nguồn cho các
sáng tác” [29; 43]. Thực tiễn đời sống văn chương thế giới qua các tên tuổi
như Charles Perrault (1628-1703) của Pháp, A.X.Puskin (1799-1827) của
Nga hay Andersen (1805-1875) của Đan Mạch,… đã minh chứng được điều
đó. Ở Việt Nam, trong Bàn về truyện cổ tích của các nhà văn, Võ Quang
Trọng cho rằng: giới nghiên cứu ngữ vănvà các nhà folklore cũng đã có nhiều
cách gọi khác nhau về thể loại truyện này như truyện cổ tích mới, truyện cổ
tích văn học, truyện cổ tích thành văn, truyện cổ tích của nhà văn,…
Qua hai tác phẩm Cái chết của con rùa và người thợ săn kiêu mạn, Sự tích
núi Trái Vải dấu ấn văn học dân gian được thể hiện rõ nét. Lấy ý tưởng từ
nguồn truyện và quan niệm dân gian, bằng sự sáng tạo, Đoàn Giỏi đã khéo
léo viết nên những truyền thuyết, cổ tích đầy lôi cuốn và giàu ý nghĩa. Như
M.Gorky khi nhận định về Puskin có nói “Ông đã điểm tô cả dân ca và truyện
cổ tích bằng tài năng sáng ngời của mình, nhưng ông không làm biến đổi ý
nghĩa và sức mạnh vĩnh hằng của nó” [29; 43].
Thế giới cổ tích trong Cái chết của con rùa và người thợ săn kiêu mạn mở ra
qua cách dẫn truyện quen thuộc của dân gian “Ngày xửa, ngày xưa, đã lâu
lắm rồi… Ở ven rừng nọ có một cái hồ lớn, trong hồ có một con rùa to sống
lâu năm, mình mẩy đóng đầy rêu. Và ở cách xa khu rừng vài dặm, có túp lều
của một người thợ săn già” [49; 279]. Từ thế giới thực tại, nhà văn đưa độc
giả trở về với thế giới xa xưa, vào một thời điểm nào đó không rõ và tại một
không gian nào đó chưa xác định được.
Những diễn tiến của câu chuyện bắt đầu khi chú nai bị sập bẫy của người thợ
săn và nhờ rùa cứu giúp. Nhìn những sợi dây da đang quấn chặt vào chân
bạn, rùa chỉ biết lắc đầu và thở dài. Tuy nhiên trước sự buồn rầu, thất vọng
đến đáng thương của nai, rùa động lòng. Không có dao, không có răng song
rùa vẫn quyết nghiến mớ dây bề bộn đó. Đến đây, ta như được gặp lại chú rùa
kiên trì, chịu khó trong cuộc chạy đua với thỏ trong câu chuyện Thỏ và Rùa.
Sự kiên nhẫn của rùa qua một đêm cũng như muối bỏ bể khi bây giờ “trời đã
đâm ngang mây”. Thế là một nhân vật thứ ba nữa xuất hiện: chim gõ mõ.
Chúng những kẻ yếu hợp sức nhau lại để chống lại kẻ mạnh là con người.
Với biện pháp nhân hóa, thế giới loài vật của truyện hiện ra qua những thuộc
tính rất con người. Chúng cũng có nghĩa có tình, cũng biết bảo vệ lẫn nhau
“Tôi có thể trốn xuống hồ nhưng không đành bỏ bạn nai rơi vào tay lão thợ
săn tàn ác. Bạn chim gõ mõ ơi, bạn có cách gì cứu anh nai hiền lành khốn
khổ này không?” [49; 281].
Trong văn học dân gian, truyện cổ tích loài vật thường ít sự kiện dù mang
tính hành động kịch cao. Tuy nhiên ở Cái chết của con rùa và người thợ săn
kiêu mạn, Đoàn Giỏi đã để cho các nhân vật trải qua khá nhiều biến cố, đặc
biệt với hai nhân vật chính là người thợ săn và con rùa. Vì cứu bạn và vì
chậm chạp, rùa bị người thợ săn bắt làm vật thay thế cho “miếng mồi” vừa
mất. Không đành nhìn bạn vì mình mà bỏ mạng, lợi dụng lòng tham của ông,
nai nhanh trí lừa ông lạc vào rừng sâu để quay ra cứu bạn.
Câu chuyện sẽ dừng lại ở đó nếu như rùa không cố chấp ở lại vùng hồ cạn
khô “Chỗ này ta sinh ra, chỗ này ta lớn lên, bờ lau, hốc đá, kho lạch… tất cả
đều là của ta. Ta đâu há dễ bỏ giang sơn này lại cho ai?” [49; 284] và người
thợ săn không vì mối thù ngày xưa mà ở lại khu rừng để một ngày nọ họ vô
tình chạm trán với nhau “lưỡi cuốc lớn bập phải lưng con rùa và hất nó lên
như một cục đất to”. Nhưng người thợ săn thôi không bắt nó nữa. Cuộc gặp
gỡ lần hai vì vậy không có sự hồi hộp của những trò trốn – tìm, thay vào đó
là những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc sống mà cả hai nhân vật cùng thú
nhận: “Tại đây ta sinh ra. Trong bùn này ta sống. Bùn ấy hủy diệt ta”, “Tất cả
đều trở thành hư không! Biết thế sao trong thời gian ta sống, ta chỉ gây đau
khổ cho khắp quanh ta và cho ngay chính bản thân ta, mà quên mất điều tối
thượng của lẽ sống cao đẹp là đem lại niềm vui, hạnh phúc cho tất thảy muôn
loài!” [49; 285].
Gạn lọc những chất liệu của những truyện kể dân gian, Đoàn Giỏi đã điều chế
các hình ảnh, các tình tiết, chi tiết một cách tài tình theo nhãn quan của một
nhà văn hiện đại và nhất là với tâm thức của một người hiện đại. Bởi vậy,
truyện ông ngoài lớp nghĩa truyền thống, còn tạo nên những ý nghĩa riêng,
độc đáo. Đó là sự phê phán thói tự kỷ (khép kín, bằng lòng với thực tại, ngại
thay đổi, kiểu “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”), tự kiêu
và nhất là sự xâm phạm đến cuộc sống muôn loài (“Vì sao ông đến đây? Rình
rập hai chúng tôi! Để mỗi mình ông sống?” [49; 285]) bên cạnh sự ca ngợi
cái tâm hướng thiện của con người. Truyện vì thế còn được xếp vào thể loại
truyện ngụ ngôn.
Một trong những đặc trưng của truyện cổ tích loài vật là sự giải thích
về thế giới. Qua Cái chết của con rùa và người thợ săn kiêu mạn, Đoàn Giỏi
đã mở ra một chiều kích nữa trong tổng thể quan niệm dân gian giữa sự vật
và hiện tượng : “Trời sai Bụt xuống cho con rùa biến thành hòn đá, người thợ
săn biến thành cây tùng, để khách lữ hành đường xa dặm thẳm mệt mỏi, có
nơi ngồi, có bóng mát nghỉ chân, cho cả hai được thỏa nguyện lưu lại sự tốt
lành trên cõi thế…” [49; 286].
Chẳng những vận dụng kho tàng văn học dân gian trong nước, Đoàn
Giỏi còn mượn chuyện từ nước bạn Campuchia qua Sự tích núi Trái Vải.
Khác với Cái chết của con rùa và người thợ săn kiêu mạn, Sự tích núi Trái
Vải được tác giả gia công thêm từ một cốt truyện sẵn có trong kho tàng
truyện kể dân gian Campuchia (xem thêm Phụ lục). Trong truyền thuyết về
núi Trái Vải của nhân dân xứ Cao Miên, ngoài tính xác định về không gian
(Siem Raep), tương đối về thời gian (những năm người Hoa đua nhau sang
buôn bán trên vùng đất của Chân Lạp – khoảng từ thế kỷ XIII trở đi) thì các
nhân vật trong câu chuyện đều không tên. Ngược lại, trong truyện kể của
Đoàn Giỏi, tất cả các yếu tố đều mang tính lịch sử, nhân vật theo đó cũng gắn
liền với những tên tuổi nhất định, cụ thể là lão Sê-u-Ta Seng (Tchéou Ta
Seng) gọi theo ta là Châu Đạt Thành, (theo tác giả) vốn là em ruột của Sê-u
Ta Kouan [49; 297] – Châu Đạt Quan.
Như một hình nhân quái dị, chân dung lão Châu Đạt Thành được Đoàn Giỏi
khắc họa thật sinh động “Lão chủ thuyền buôn vải nhãn này vốn là một tay
phù thủy, một dị nhân pháp thuật cao cường, người thấp lùn ti hí mắt lươn,
thường mặc quần áo đen, đi giày đen, đội mũ đen, mồm ngậm chiếc ống điếu
trúc dài đen nhánh. Tên lão là Sê-u-Ta Seng” [49; 297]. Màu đen là màu của
bóng tối, đồng nghĩa với sự bủa vây của cái ác. Lão xuất hiện đúng với bản
chất của một phù thủy mà ta thường bắt gặp trong các truyện dân gian khác,
mụ phù thủy trong Nàng Bạch Tuyết và bảy chú Lùn là ví dụ. Bằng việc vận
dụng tư duy dân gian trong miêu tả nhân vật, thế giới người trong truyện dưới
ngòi bút nhà văn vì vậy hiện ra trong sự phân cực thiện – ác rất rõ ràng. Câu
chuyện do đó gần gũi hơn với tâm thức tiếp nhận của nhân dân. Đơn giản,
trong sáng nhưng cũng không kém phần trau chuốt, tỉ mẩn, văn phong tác giả
qua các sáng tác này thực sự đã thể hiện được sự kết hợp nhuần nhuyễn đầy
thú vị giữa văn học dân gian và văn học viết.
Ngoài ra, sự hấp dẫn đặc biệt của Sự tích núi Trái Vải còn được Đoàn Giỏi
thể hiện qua thủ pháp xây dựng không gian huyền thoại “Những cánh chim
xa đã bay về núi. Tất cả đã lên thuyền. Mặt trời đã tắt. Lão phù thủy bước lên
mui thuyền, đầu xõa tóc, tay cầm chiếc điếu trúc dài họa phù chỉ về phương
bắc, mặt ngửa lên cười ha hả. Tiếng gió gào bỗng nổi lên ghê rợn. Thuyền từ
từ nhấc bổng lên không, lắc lư tròng trành giữa khoảng không, rồi vùn vụt
lướt như bay trên đầu ngọn núi. Trên nền trời đen lấp lánh muôn ngàn vì sao
xanh biếc, chiếc thuyền của lão phù thủy Sê-u-Ta Seng như một kình ngư
quái dị, lặng lẽ giương vây quạt đuôi lao về hướng biển Đông” [49; 299].
Vừa ghê rợn vừa lung linh, không gian đó như cuốn lấy chúng ta trong sự say
mê, thích thú. Trong truyện ngắn Rừng đêm xào xạc, không gian huyền thoại
cũng được tìm thấy qua câu chuyện của Út Thảo về doi Ông Trừng và bầy
rái cá.
Với tính chất là truyện kể về nhân vật lịch sử nhưng trong Thiện Dần
đánh cọp, ta vẫn thấy sự đan xen của những yếu tố ly kỳ “Một đêm, trời nổi
mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng. Gần ngớt cơn mưa, bỗng nghe có tiếng
rên ngoài gốc cây gừa (cây si) chỗ ngôi miếu hoang cạnh bờ sông” [49; 289].
Tuy truyện được lấy bối cảnh những năm cuối XIX, đầu XX nhưng phảng
phất đâu đó trong câu văn màu sắc xa xưa của những tháng ngày nguyên
thủy, như “… có cái vẻ phiêu diêu như câu chuyện hoang đường. Hoang
đường ở trong cõi thực, trong cõi thực mà có hoang đường. Thuộc về trung
cổ, lúc non nứơc đã văn minh, mà tưởng tượng như về thượng cổ” (Nguyễn
Huy Tưởng) [29; 49].
Đặt trong sự so sánh với thế giới cổ tích và huyền thoại trong các tác
phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, thế giới cổ tích và huyền thoại của Đoàn Giỏi
vừa có những nét chung vừa tồn tại những mặt rất riêng. Ở Tưởng, tư tưởng
chủ đạo của mỗi truyện viết mới chủ yếu hướng “đến với những khái niệm cơ
bản về lịch sử, đất nước, con người” [29; 48] qua đó hun đúc lòng yêu mến
dân tộc và lòng tự hào về những trang sử vẻ vang của nước nhà (tập trung ở
đối tượng sáng tác là thiếu nhi) với Lá cờ thêu sáu chữ vàng, An Dương
Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung, Hai bàn tay chiến sĩ, Điện
Biên Phủ của chúng em,... Ngoài ra những ước mơ ngọt lành, những khát
vọng trong trẻo về cuộc sống cũng được ông chuyển tải qua những câu
chuyện cổ tích xưa như Tìm mẹ, Thằng Quấy, Con cóc là cậu ông giời.
Với Đoàn Giỏi, truyện của ông ngoài những hấp lực trên con chữ còn
thể hiện được những triết lý sâu sắc về cuộc đời (“Trồng dưa được dưa,
trồng mận được mận. Kẻ nào gieo gió thì phải gặt bão. Đó là chuyện tất nhiên
ở đời” [49; 301]), hay sự đồng cảm với bi kịch của người trí thức quê hương
trong xã hội Nam bộ nhiễu nhương xưa (cả với người anh hùng không đất
dụng võ – Thiện Dần): “Đây là bộ y phục thầy sắm ngày trước để về kinh
ứng thí. Nhưng triều đình nhu nhược, cắt Nam kỳ nhượng cho Pháp, ngày
càng lủi trước giặc, thầy xếp cất tận đáy rương, thi cử nữa làm gì? Ngoài
Trung Bắc hào kiệt khắp nơi nổi dậy… Thầy trao cho con hôm nay… hãy tỏ
rõ là một học trò xứng đáng của thầy!” [49; 289].
Là một người bạn trong cuộc sống, đồng thời là bậc đàn anh luôn sát
cánh trong hoạt động văn nghệ, do vậy về khía cạnh nào đó văn Đoàn Giỏi
chịu sự ảnh hưởng của văn Nguyễn Huy Tưởng. Vấn đề được phân tích trên
đây là ví dụ. Biết học hỏi và biết làm mới mình bằng sự sáng tạo, văn xuôi
nhà văn Nam bộ này bởi vậy luôn tạo được những ấn tượng riêng, độc đáo.
*Tiểu kết
Nếu với phương thức tổ chức tình tiết – sự kiện, văn xuôi Đoàn
Giỏi hấp dẫn người đọc ở tốc độ nhanh, mạnh, ở những tình huống căng
thẳng, bất ngờ và hồi hộp thì đến những biểu hiện của chất thơ trên trang viết,
người đọc được hòa mình vào âm hưởng trữ tình của những câu hát dân gian,
những trang văn sâu lắng của thế giới cảm xúc, được hòa mình vào thế giới
tình cảm trong sáng, ngọt ngào của những con người dân quê Nam bộ chất
phác, hồn hậu, giàu tình thương yêu và lòng nghĩa hiệp. Những năm tháng
chiến tranh, chất thơ trong văn xuôi có thể nói là một thanh âm lạ. Lạ nhưng
không xa rời với cuộc chiến vì vậy nó tan chảy trong sự vận động của văn
học cách mạng.
Được sống ở miền Bắc sau ngày hòa bình, so với các nhà văn Nam bộ ông có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong sáng tác văn học. Bởi vậy, trang văn
Đoàn Giỏi có sự đa dạng hơn về nội dung phản ánh lẫn kỹ thuật thể hiện.
Tiếp thu văn hóa truyền thống, học hỏi các cây bút đi trước, Đoàn Giỏi
luôn có ý thức tự làm mới mình bằng chính năng lực của ngòi bút “… Trong
con mắt tôi, với nhà văn Đoàn Giỏi, sự sáng tạo đồng nghĩa với một cuộc đấu
tranh vô cùng quyết liệt” (Nguyễn Quang Sáng). Bởi vậy các tác phẩm của
ông đã thật sự để lại những dấu ấn riêng và độc đáo trong lòng người đọc.
Không chỉ với Đất rừng phương Nam, với Cây đước Cà Mau mà còn qua rất
nhiều những sáng tác khác. Và từ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ
thống hình tượng cũng như những phương tiện biểu hiện nghệ thuật ấy đã
dần tạo nên ở nhà văn cái mà ta gọi là phong cách.
MỤC LỤC
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu và nhiệm vụ
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6. Đóng góp mới của đề tài
7. Kết cấu của đề tài
CHƯƠNG 1.
ĐOÀN GIỎI, CUỘC ĐỜI VÀ VĂN NGHIỆP
1.1 Cuộc đời nhà văn Đoàn Giỏi
1.2 Sự nghiệp sáng tác
1.3 Văn xuôi Đoàn Giỏi, nhìn từ vốn sống và cảm hứng nghệ thuật
1.4 Đoàn Giỏi, dòng riêng giữa nguồn chung
CHƯƠNG 2.
CÁC PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ TRONG VĂN XUÔI ĐOÀN GIỎI
2.1 Không gian nghệ thuật
2.1.1 Không gian lịch sử
2.1.2 Không gian thách thức
2.1.3 Không gian chung sống
2.1.4 Không gian tâm tưởng
2.2 Cách thức tổ chức thời gian nghệ thuật
2.3 Thủ pháp xây dựng nhân vật
2.3.1 Từ ngoại hình đến tính cách
2.3.2 Hành động và những biểu hiện của nhân cách
2.3.3 Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật
2.4 Ngôn từ nghệ thuật trong văn xuôi Đoàn Giỏi
2.4.1 Ngôn ngữ đậm màu sắc địa phương
2.4.2 Sắc thái ngôn ngữ qua đối tượng phản ánh
*Tiểu kết
CHƯƠNG 3.
ĐOÀN GIỎI – NHỮNG ĐẶC TRƯNG PHONG CÁCH
3.1 Văn xuôi Đoàn Giỏi nhìn từ phương diện kết cấu
3.2 Chất thơ trên trang viết
3.2.1 Thơ và chất thơ
3.2.2 Dòng chảy của cảm xúc
3.2.3 Những khúc đoạn trong trẻo và ngọt ngào của cuộc sống
3.3 Hệ thống biểu tượng trong các tác phẩm của Đoàn Giỏi
3.3.1 Hình ảnh con dao và ngọn tầm vông trong tâm thức người Nam bộ
3.3.2 Sức sống người phương Nam qua cây đước, cây mắm
3.4 Thế giới cổ tích và huyền thoại qua một vài tác phẩm
*Tiểu kết
KẾT
LUẬN.................................................................................................................
............... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ
LỤC....................................................................................................................
............... 106
[1] Chiếc sào phơi (Lê Giang): Lũ giặc đến làng ta/ Rồi cuộc sống gọi người
đi chiến đấu/ Chiếc sào phơi làm vũ khí – tầm vông.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_ngon_ngu_hoc_10__402.pdf