MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ.
1. Về mặt lý luận.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lĩnh vực Văn Hoá. Người đã nói rằng “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá - Xã hội .”. Lời nói của bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong sự nghiệp phát triển của đất nước.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước đã góp phần sức mạnh vào những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Từ xa xưa ông cha ta đã khơi nguồn sức mạnh từ nền văn hoá truyền thống của dân tộc, biết chắt lọc nền văn hoá tiên tiến của nhân loại, tạo nên giá trị cao đẹp của nền văn hoá nước nhà mang đậm bản sắc dân tộc, thấm đượm tinh thần nhân đạo cao cả. Tạo dựng được những giá trị truyền thống riêng của nền văn hoá Việt Nam.
Trong những thập kỷ gần đây, quá trình công nghiệp hoá và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người tiến lên những nấc thang phát triển mới. Từ xã hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công nghiệp có nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Cùng với sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ và nền văn minh trí thức, trình độ dân trí, điều kiện sống và mức sống của con người được nâng lên rõ rệt. Từ đó nghị quyết đại hội Đảng VIII, IX, đến đại hội lần thứ X của Đảng đều xác định văn hoá trong thời kì đổi mới: “Văn hoá là nền tảng tinh thần trong xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hoá”. “Xây dựng nền văn hoá đậm đà bản săc dân tộc” là nhiệm vụ của toàn đảng toàn dân.
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước sau vẫn là một vấn đề sống còn là trách nhiệm nặng nề, nó có tầm ảnh hưởng rất quan trọng với sự phát triển của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, quần chúng nhân dân trong đó Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ vai trò là nòng cốt.
2.Cơ sở thực tiễn.
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Nền kinh tế của việt nam với đặc trưng của lịch sử văn hoá là luôn luôn giao lưu, đối thoại với các nền văn hoá mà chủ thể của nó thường là những kẻ đối đầu, có những những nền văn hoá hùng mạnh hơn vì vậy chủ thể văn hoá việt nam phải bao gồm những giá trị đặc biệt về ửng xử thông minh và khôn ngoan, để có thể tiếp thu chọn lọc những giá trị văn hoá của những nước có nền văn hoá phát triển, đồng thời có thể tránh được những âm mưu mà kẻ thù muốn đánh vào nền văn hoá đang phát triển của nước ta. Nhưng nền kinh tế mở cũng kéo theo những luồng văn hoá khác nhau du nhập vào nước ta. Lịch sử đất nước ta đã chứng minh được mạch sống lưu truyền đó. Kế thừa truyền thống văn hoá dân tộc vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó còn có những thủ tục lạc hậu mê tín dị đoan còn tồn tại của một đất nước gồm 54 dân tộc anh em như nước ta. Làm cho nền văn hoá dân tộc “dậm chân tại chỗ” hay kém phát triển so với sự phát triển hiện đại của nền văn hoá các nước khác trên thế giới.
Với điều kiện thế giới hiện nay, để hội nhập, hoà chung vào dòng chảy của xã hội cũng như ta phải đáp ứng đòi hỏi là phải có một trình độ văn hoá tương ứng để tiếp biến các thành tựu của nhân loại, đồng thời chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của xu hướng “toàn cầu hoá ” mặt trái của quá trình “ hiện đại hoá ” đang diễn ra hiện nay.
Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, không phải là của riêng ai mà là của chung tất cả mọi người . Nước ta nói chung và ở huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh nói riêng việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thanh niên là một vấn đề cấp bách, quan trọng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng và phát huy tối đa vai trò của người chủ vận mệnh đất nước.
Sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức và lối sống trong thanh niên hiện nay ngày càng nhanh. Thanh thiếu niên quan tâm đến lợi ích của mình hơn tập thể, chạy theo lối sống thực dụng, theo văn hoá ngoại không có sự chọn lọc mà không quan tâm đến giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một số người không thích vào Đoàn, không tham gia vào các tổ chức hoạt động của Đoàn thanh niên.
Chưa bao giời những vấn đề về văn hoá lại được quan tâm như hiện nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó được quyết định bởi vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của một quốc gia. Trước tình hình đó đòi hỏi nó hướng tiếp cận phù hợp để tìm hiểu bản chất của văn hoá. Đồng thời tìm hướng xây dựng văn hoá đặc trưng của khu vực.
Chính vì những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Đoàn thanh niên huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc” làm chuyên đề tốt nghiệp chương trình trung cấp lý luận chính trị và nghiệp vụ Đoàn - Hội - Đội tại Học Viện Thanh Thiếu Niên Việt Nam.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 3
MỞ ĐẦU 4
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ. 4
1. Về mặt lý luận. 4
2.Cơ sở thực tiễn. 5
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. 7
III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. 7
IV. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 7
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 7
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 7
VII. BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ. 8
PHẦN THỨ NHẤT 9
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
I. HỆ THỐNG CÁC KHÁI NIỆM . 9
1. Kh¸i niÖm vÒ ®oµn TNCS Hå ChÝ Minh. 9
2. Khái niệm văn hoá, bản sắc văn hóa dân tộc. 9
II. HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN. 18
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 18
2. Quan điểm của Đảng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. 21
3. Quan điểm của Đoàn thanh niên về giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. 29
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN 32
PHẦN THỨ HAI 32
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC 32
VĂN HOÁ DÂN TỘC. 32
CHƯƠNG I: Các điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tại huyện Đầm Hà - tỉnh Quảng Ninh. 32
I. Về địa lý: 32
II. Về kinh tế. 32
III. Về chính trị, văn hoá, xã hội. 32
CHƯƠNG II: Thực trạng văn hoá tại huyện Đầm Hà - Tỉnh Quảng Ninh. 33
I. Thực trạng công tác Đoàn thanh niên và phong trào Đoàn tại huyện Đầm Hà - tỉnh Quảng Ninh. 33
CHƯƠNG III: Nguyên nhân. 34
I. Nguyên nhân khách quan. 34
II. Nguyên nhân chủ quan. 35
PHẦN THỨ BA 38
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 38
I. GIẢI PHÁP. 38
1. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho Đoàn viên thanh niên. 38
2. Xây dựng và phát triển có cơ sở vật chất. 38
3. Đa dạng hoá đội ngũ cán bộ. 38
4. Đa dạng hoá các hoạt động. 39
II. KIẾN NGHỊ 40
1. Đối với Đảng. 40
2. Đối với nhà nước. 40
3. Đối với Trung Ương Đoàn. 41
4. Đối với Tỉnh Đoàn và Huyện Đoàn. 41
5. Đối với các ban ngành đoàn thể khác. 41
6. Đối với gia đình. 41
KẾT LUẬN 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 44
47 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2862 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đoàn thanh niên huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung với nước, tận hiếu với dân...Những cái xấu cái phiền phức cần xoá bỏ như là: tính lười biếng, tham lam, chủ nghĩa cá nhân, tục cúng cơm, cưới hỏi quá xa xỉ...
Một nét riêng mà thế giới nhận ra ở Việt Nam đó là truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc để bảo vệ độc lập dân tộc và góp phần tích cực cho nền hoà bình thế giới. Sử sách Việt Nam đã ghi nhận những gương mặt tiêu biểu cho sự đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, các bậc hiền tài thi sĩ, đã giày công vun đắp lên nền văn hoá dân tộc. Chúng ta càng tự hào và vô cùng biết ơn Bác Hồ kính yêu vị anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hoá lớn của thời đại, người cộng sản mẫu mực, người chiến sĩ quốc tế trong sáng thuỷ chung, tấm gương sáng về người, về lòng yêu nước thương dân, về tư tưởng, trí tuệ, nhân cách, lối sống cho các thế hệ Việt Nam.
Những giá trị văn hoá mà cha ông đã để lại cho chúng ta thật to lớn, chung ta phải khai thác những giá trị ấy phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, ấm no, tự do và hạnh phúc.
Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hoá Việt Nam hình thành trên nền văn hoá Nam - Á và Đông Nam Á (lớp văn hoá thứ nhất) trải qua nhiều thế kỷ nó đang phát triển trong sự giao lưu mật thiết với văn hoá khu vực, trước hết là lớp văn hoá Trung Hoa (lớp văn hoá thứ hai). Từ vài thế kỷ trở lại đây nó đang chuyển đổi dữ dội nhờ sự giao lưu càng chặt chẽ với nền văn hoá Phương Tây (lớp văn hoá thứ ba). Nhưng du trải qua ba lần lột xác mạnh mẽ như thế, văn hoá Việt Nam vẫn mang trong mình những nét đăc sắc văn hoá riêng.
Sống trong một nước nông nghiệp, nhỏ, lạc hậu kéo rài, dù vậy các dân tộc ở nước ta vân có thể sáng tạo ra văn hoá vật chất, văn hoá xã hội và văn hoá tinh thần từ trình độ thấp, đơn giản thô sơ tiến lên trình độ cao hơn, phức tạp hơn, đa rạng hơn, có hiệu quả cao hơn.
Nhưng trình độ lạc hậu của nền nông nghiệp nhỏ, trong đó bên nghề lúa nước ở vùng thấp, vùng trung du, vùng đồng bằng còn có nghề lúa, nương lúa, trồng hoa màu..., với kĩ thuật thô sơ, bị kìm hãm bởi chế độ phong kiến cho nên xã hội nước ta chậm phát triển.
Trong các di sản văn hoá, chủ yếu sống tiềm tàng trong nhân dân, ít có công trình lớn để lại.
Nền văn hoá Việt Nam vừa là tiếng còi xung trận, vừa gìn giữ các giá trị truyền thống. Trong những năm tháng kháng chiến ác liệt từ năm 1945 - 1975 mặc dù nhân dân ta phải liên tiếp, Đảng, nhà nước ta do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã đề ra chính sách “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá là kháng chiến”. Các lực lượng văn hoá, văn nghệ đều phải tham gia cứu nước.
Trong cuộc đấu tranh anh dũng và gian khổ nhân dân và chiến sĩ đã xây dựng đời sống văn hoá tinh thần để cổ vũ long hăng hái xả thân chiến đấu vì độc lập tự do .
Tiêu chuẩn của nền văn hoá không phải là ở quy mô to lớn (tất nhiên có được công trình đồ sộ từ người xưa để lại, thì càng là niềm tự hào lớn).
Một nền văn hoá thật sự trở thành những giá trị tinh thần ở bài học về phẩm chất con người ở chủ nghĩa nhân văn truyền lại cho đời sau.
Nền văn hoá nhiều dân tộc của Việt Nam như vườn hoa nhiều hương sắc, 54 dân tộc cùng chung sống trong một Tổ quốc, chung một lí tưởng độc lập tự do và XHCN, chung một Đảng lãnh đạo, chung một chế độ quản lí của chính quyền nhà nước XHCN nhưng mỗi dân tộc vẫn được hiến pháp nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng quyền bảo vệ bản sắc các giá trị văn hóa lưu truyền được dùng tiếng nói chữ viết riêng...
Sự phát triển không đều về kinh tế xã hội là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng chênh lệch nhau về học vấn, về số lượng trí thức và công nhân vẫn có thể phát huy các giá trị truyền thống, có thể sáng tạo ra đời sống văn hoá phù hợp với hoàn cảnh của mình.
Mối quan hệ giao lưu văn hóa trong cả nước càng ngày càng được mở rộng từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng lên miền núi và các dân tộc được tạo những điều kiện để tiếp xúc với nhau, hiểu nhau trao đổi với nhau, bổ sung cho nhau.
Tóm lại: Nhận thức đúng về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam chúng ta mới có thể hiểu, coi trọng. Từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp bảo vệ, tôn tạo, kế thừa và phát huy đối với nền văn hoá Việt Nam.
Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Trong đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, Đảng ta xác định nền văn hóa mới Việt Nam có ba tính chất: Dân tộc, khoa học và đại chúng. Đồng thời chỉ rõ: Đó là nền văn hoá có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung. Đến Đại hội III năm 1960, đó là nền văn hoá với nội dung XHCN và tính chất dân tộc. Từ Đại hội VII năm 1991 đến nay Đảng ta đề xướng: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá tiên tiến: Là nền văn hoá yêu nước tiến bộ. Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của văn hoá Việt Nam. Và đây là chủ nghĩa yêu nước chân chính, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Sôvanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ. Chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa yêu nứơc là một hệ thống những quan niệm, lý luận về địa vị và sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ về sự đoàn kết gắn bó và cố kết cộng đồng hướng vào dân và lấy dân làm gốc, về vai trò của nhân dân...trong đó lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Ngày nay, chúng ta cần phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần kế thừa và phát triển nội dung chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, phù hợp với yêu cầu phát triển mới của đất nước, của dân tộc. Vì vậy lý tưởng độc lập dân tộc phải gắn liền với lý tưởng XHCN, và đó chính là nội dung cốt lõi của nền văn hóa yêu nước.
Nền văn hoá tiến bộ: Trước hết là nền văn hoá yêu nước (như đã nói ở trên). Đó là nền văn hoá chứa đựng những giá trị bền vững và những tinh hoa văn hoá dân tộc, trong đó những truyền thống tốt đẹp của dân tộc hoà quyện là một với tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Nền văn hoá tiến bộ là một bộ phận văn hoá thúc đẩy lịch sử phát triển với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường. Hệ tư tưởng đó là chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá tôn trọng con người, vì con người, nâng con người đúng lên vị trí người sáng tạo, người chủ lịch sử. Con người ở đây trước hết là người lao động. Do đó, nó mang tính nhân văn sâu sắc.
Nền văn hoá tiến bộ là nền văn hoá có khả năng tạo ra được con người phát triển toàn diện, đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp trên đất nước ta, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tính chất tiến bộ của một nền văn hoá bao gồm tính chất tiến bộ của chế độ xã hội - đó là chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hoá tiến bộ bao hàm cả nghĩa hiện đại trong những hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.
Tóm lại: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chi Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong phương tiện chuyền tải nội dung''.
II. HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà cách mạng lỗi lạc, người anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân ta, nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại, là danh nhân văn hoá thế giới. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình từ khi ra đi tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ như hiện nay những di sản văn hoá vô giá mà người để lại vẫn còn nguyên giá trị nó là tài sản quý báu giúp nhân dân ta tiếp tục xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận dự trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, lấy quan điểm toàn diện làm trung tâm nhằm giải quyết những quy luật, những vấn đề đặt ra trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự trên những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, hình thành trong tư duy lý luận của mình những phương thức nhìn nhận, đánh giá và lãnh đạo nhân dân ta bỏ chế độ cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với quá trình phát triển của cách mạng việt nam, sự tiến bộ của nhân loại.
Ngoài ra, chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh “Trong cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề phải coi trọng như nhau: chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội”. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi trọng 4 vấn đề trên phải ngang nhau trong quá trình xây dựng xã hội mơí có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, tiến trình phát triển của xã hội, có những vấn đề nảy sinh cấp bách, chúng ta cần phải giải quyết, song quyết không để duy nhất hoá, chỉ tập chung giải quyết các vấn đề trước mắt mà không nghĩ đến các mối liên hệ phổ biến, đến sự phát triển lâu bền. Quan điểm về sự phát triển toàn diện của chủ tịch Hồ Chí Minh nó có tính cục bộ trong quá trình nhân dân ta xây dựng xã hội mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho rằng: “Văn hoá là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết, văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện để phát triển được”. Rõ ràng chủ tịch Hồ Chí Minh không những đồng nhất kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá mà còn coi tính chất quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển của văn hoá. Theo Hồ Chí Minh , các quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng quy định cơ cấu xã hội và cơ cấu kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra văn hoá muốn phát triển được thì nhất thiết phải gắn với lao động, mọi quá trình vận động của văn hoá đều bắt nguồn từ lao động, phương thức lao động. Sự phát triển của phương thức lao động, quan hệ sản xuất nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền văn hoá. Vì vậy, muốn nền văn hoá ngày càng phát triển thì chúng ta phải quan tâm đến các quan hệ sản xuất. Bên cạnh đó, muốn xây dựng nền văn hoá mới trước hết phải quan tâm đến xây dựng xã hội, các mối quan hệ xã hội, tâm lý và đạo đức và các vấn đề lợi ích. Phải quan tâm toàn diện của sự sáng tạo lịch sử, sáng tạo của nhân dân lao động trong lĩnh vực văn hoá. Vì nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử trong đó có giá trị văn hoá. Muốn phát triển văn hoá phải quan tâm đến động lực to lớn của lịch sử và vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân. Với sự định hướng phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thì chúng ta cũng phải có những con người xã hội vừa có đức vừa có tài, nói tóm lại ở xã hội nào thì phải có con người ở xã hội đó mới là một xã hội văn hoá phát triển.
Bác còn cho rằng, nền văn hoá nước ta muốn phát triển được thì phải phát triển theo định hướng lãnh đạo của Đảng. Nhất thiết phải xây dựng những con người có đạo đức cách mạng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiên phong trong công cuộc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hoá luôn phải gắn với lợi ích của đất nước. Người cho rằng văn hoá phải gắn trực tiếp với quá trình cách mạng của nhân dân ta. Trong tiến trình đó, văn hoá giữ vai trò nền tảng trong đời sống tinh thần của xã hội, văn hoá gắn liền toàn diện với đời sống dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói trong hội nghị văn hoá toàn quốc: “Văn hoá có liên lạc với chính trị rất mật thiết, phải làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của quốc dân. Nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do làm gốc. Văn hoá phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hoá phải là thế nào cho quốc dân cho tinh thần vì nước, quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng”.
“Với văn hoá phải làm thế nào cho mỗi người dânViệt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông, đàn bà, ai cũng hiểu cái nhiệm vụ của mình, biết hưởng cái hạnh phúc của mình nên được hưởng”. “Số phận của ta nằm trong tay ta. Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”.
Khi trở thành chủ tịch nước, người luôn luôn quan tâm đến việc xây dựng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Theo Hồ chí Minh, Tính dân tộc của văn hoá thống nhất ở 4 mối quan hệ: Con người và tự nhiên; Dân tộc và hiện đại; Dân tộc và tộc người; Dân tộc và quốc tế. Việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc chính là động lực cho sự phát triển. Các tư tưởng văn hoá của người nó luôn có giá trị tiềm ẩn và lâu dài, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của văn hoá Việt nam, nền văn hoá tiên tiến mạng đậm bản sắc dân tộc.
2. Quan điểm của Đảng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
a. Vai trò của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng.
Văn hoá Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước, của cộng đồng dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Đồng thời là kết quả của sự giao lưu quốc tế, tiếp thu tinh hoa của nhiêù nước trên thế giới, không ngừng hoàn thiện mình, văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm dạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.Với cái nhìn toàn diện về sự vận động của lịch sử và những nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt coi trọng Mặt trận tư tưởng và văn hoá trong sự hợp đồng tác chiến với các mặt trận khác : kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao và sự vận động của xã hội. Đảng ta động viên nhân dân vừa chiến đấu vừa xây dựng, kết hợp chính trị, quân sự với kinh tế và văn hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta đồng thời “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”.
Cuộc cách mạng tháng 8 thành công là một cuộc cách mạng đã đánh đổ chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm và chế độ thực dân thống trị gần 1 thế kỷ. Cách mạng tháng 8 thành công đã phê phán triệt để những gì lạc hậu và hủ bại còn di hại trong tư tưởng văn hoá và đời sống lạc hậu của nhân dân.
Văn hoá Việt Nam có truyền thống từ lâu đời, gắn liền với những chiến công lừng lẫy trong cuộc đấu tranh chống xâm lược hàng ngàn năm và truyền thống ấy đã được phát huy, được nâng lên một tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh. Bên cạnh việc tiếp thu mhững giá trị truyền thống của dân tộc, nhân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới đã góp phần vào việc đánh thắng những tên đế quốc lớn, giữ vững nền độc lập dân tộc, đứng vững trước các biến động to lớn của lịch sử, đổi mới thắng lợi, đổi mới mà không đổi màu, tiếp tục đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN.
Có thể nói trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảngcộng sản, văn hoá đóng vai trò rất quan trọng:
Nhờ có chủ nghĩa anh hùng cách mạng được phát huy đến tận đỉnh cao mà dân tộc Việt Nam có thể chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và chủ nghĩa thực dân mới là đế quốc Mỹ, đi tiên phong trào lưu giải phóng dân tộc của thời đại.
Văn hoá vừa là điểm xuất phát, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cách mạng Việt Nam. Chúng ta đã tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách khoa học kỹ thuật, và cách mạng tư tưởng văn hoá hướng tư 4 mục tiêu: Chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới XHCN.
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, những yếu tố đặc sắc sau đay của văn hoá cách mạng được thể hiện rực rỡ nhất: ý chí Việt Nam, bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, cốt cách, tâm hồn, trí tuệ của con người Việt Nam.
b. Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá.
Quan điểm của Đảng là sự thể hiện tập trung đường lối văn hoá của Đảng, là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các hoạt động văn hoá ở nước ta. Nó vừa giúp cho hoạt động văn hoá đi đúng phương hướng chiến lược vừa giúp giải quyết tốt vấn đề cụ thể đặt ra trong đời sống.
Ngay từ năm 1943, khi chưa có chính quyền, dưới ánh sáng của cương lĩnh chính trị năm 1930, Đảng ta đã xây dựng đề cương văn hoá Việt Nam với phương châm “dân tộc, khoa học và đại chúng”.Ba nguyên tắc cơ bản ấy của nền văn hoá mới đã được khẳng định trong hiến pháp năm 1992 của nước ta là nền văn hoá đặc trưng dân tộc - hiện đại - nhân văn. Đó là định hướng của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc mà ngày nay chúng ta đang phấn đấu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Cốt lõi của nền văn hoá cách mạng Việt Nam trước sau vẫn là chủ nghĩa nhân văn Mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nghị quyết các đại hội Đảng đều có phần về văn hoá: Đại hội IV và V xác định cách mạng tư tưởng và văn hoá là một trong ba cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Cương lĩnh chính trị năm 1991 và nghị quyết đại hội VI và VII đến đại hội IX, X của Đảng đều xác định văn hoá trong thời kỳ đổi mới: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội”; “xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ngày nay, văn hoá có vị trí và vai trò to lớn. Điều đó được khẳng định trong 5 quan điểm cơ bảm của Đảng về văn hoá:
* Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kinh tế là cơ sở vật chất của xã hội, là nhân tố quyết định tạo ra sự giàu có của xã hội, do đó nó cũng là tiền đề để phát triển văn hoá. Song đến lượt mình văn hoá lại là động lực của phát triển kinh tế. Bởi văn hoá bắt nguồn từ yêú tố nguồn lực của con người. Con người là chủ thể, là linh hồn của sự sáng tạo, là nhân tố hàng đầu của văn hoá, với phẩm chất đạo đức, tài năng, trí tuệ của mình, con người làm nên tất cả, làm kỹ thuật, làm chủ khoa học, công nghệ khai thác tài nguyên... tạo ra sự giàu có về vật chất và tinh thần của xã hội, cho nên văn hoá tác động sâu sắc, găn bó chặt chẽ và là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Việc chăm lo, phát triển văn hoá là đặc biệt cần thiết nó củng cố nền tảng tinh thần xã hội, tạo điều kiện cho việc xây dựng thành công mục tiêu của Đảng là vì xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh. Các yếu tố văn hoá luôn phải gắn kết với nhau, hoạt động luôn phải dựa trên các phương tiện hoạt động của xã hội như chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, pháp luật...Chỉ có như vậy đất nước mới phát triển.
* Nền văn hoá chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính chất tiên tiến gắn kết với bản sắc dân tộc là đặc trưng bản chất của nền văn hoá Việt Nam. Nói tới tiên tiến chính là lý tưởng tiến bộ của những con người có tấm lòng yêu nước là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sống vì mục tiêu tất cả vì con người, vì sự phát triển xã hội.
Nói đến dân tộc: văn hoá gắn với một dân tộc, có gốc rễ từ dân tộc và là diện mạo của dân tộc. Biểu hiện tập trung diện mạo lại chính bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù...bản sắc văn hoá dân tộc còn biểu hiện trong các hìmh thức mang tính dân tộc độc đáo.
Như vậy, nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm trong lòng nó các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển; dân tộc và quốc tế, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc bảo vệ giữ gìn bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng giao lưu quốc tế, phải biết tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác.
* Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam là đất nước gồm 54 dân tộc anh em, các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau vào vận mệnh chung của đất nước, cố kết lao động, đấu tranh chống thiên tai, dịch hoạ, dựng nước và giữ nước, làm nên lịch sử chung của dân tộc, xây dựng nền văn hoá chung.
Các dân tộc anh em đã trải qua bao nhiêu thử thách đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức nô lệ hàng ngàn thế kỷ, cuộc đấu tranh gần nhất của dân tộc Việt Nam đó là đánh bại tên đế quốc Mỹ hùng mạnh. Sau chiếc thắng oanh liệt chống Mỹ cứu nước, tổ quốc thông nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, sự thống nhất về chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng kinh tế phát triển càng làm tăng thêm tính thống nhất về văn hoá. Hiện nay, tính thống nhất đó biểu hiện tập trung ở các dân tộc trong cộng đồng dân tộc nước ta nhất trí, đồng lòng phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội theo mục tiêu của Đảng đề ra.
* Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, không phải chỉ với ý nhĩa toàn dân tham gia sáng tạo văn hoá, làm nghĩa vụ văn hoá, mà còn có ý nghĩa toàn dân, trước hết là nhân dân lao động được hưởng thụ đẩy đủ nhất những thành tựu văn hoá, mọi tài sản văn hoá đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân.
Mọi tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá. Đội ngũ trí thức chính là lực lượng không thể thiếu trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Việc bảo tồn và giữ gìn các di sản văn hoá của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ trí thức. Đội ngũ trí thức là lực lượng tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng về bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam.
* Văn hoá là một mặt trận: xây dựng và phát triển là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Xây dựng con người tiên tiến phát triển toàn diện, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú, chăm lo vun đắp vốn văn hóa nước ta ngày càng giàu có.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới XHCN, làm cho những giá trị ấy sâu thấm vào cuộc sống toàn bộ xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó “xây” đi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quý báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá trên thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới phải kiên trì đấu tranh bài trừ các thủ tục lạc hậu, thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng vào văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình”.
c. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thanh niên hiện nay.
Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm - uỷ viên bộ chính trị, bí thư trung ương Đảng, trưởng ban tư tưởng văn hoá trung ương và rất nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, nhà nước tại hội nghị khoa học - thực tiễn: “Văn hoá với thanh niên và thanh niên với văn hoá” tổ chức tại Hà Nội đều đã nhận định: Công tác văn hoá cho thanh niên là mối quan tâm của toàn xã hội bởi vì hiện nay đời sống văn hoá tinh thần đã xuất hiện một vấn đề mới với những dấu hiệu mới chưa từng xảy ra so với các thế hệ tiền bối. Đó là từ trong lòng cuộc sống đang có sự đan xen nhiều quan hệ khác nhau về văn hoá trong thanh niên hiện nay, Thứ hai là trong xã hội bắt đầu hình thành một thị trường hàng hoá cho thanh niên. Cả một thị trường thanh niên đồ sộ, ồn ào với đặc điểm chủ yếu là hàng ngoại, chi phối mạnh mẽ văn hoá tiêu dùng trong thanh niên, thế hệ trẻ, tạo ra một thế giới riêng, sức hút riêng và một nền cai trị riêng. Tiềm ẩn nguy cơ về một lối sống hưởng thụ, tiêu xài, sùng ngoại trong bộ phận không nhỏ của giớ trẻ. Thứ ba là sự thành đạt rất sớm trong xã hội. Điều đó cũng nói nên rằng thanh niên có cơ hội lớn để khẳng định mình và cống hiến cho xã hội, cho đất nước. Nhưng góc khuất của nó là sự bi quan, thoái chí nếu họ không thành đạt. Thứ tư là thanh niên hiện nay đang là đối tượng trung tâm của chiếc lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Và cuối cùng là phải làm sao gắn kết được ba nhân tố lớn trong xã hội hiện đại đó là gắn kết “nhân tố dân tộc, nhân tố quốc tế và nhân tố XHCN”. Ba nhân tố này làm ra bộ mặt văn hoá quan trọng của thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tự hào của dân tộc, vì Người đã kết hợp được dân tộc với thời đại và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy xây dựng đời sống văn hoá của thanh niên vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Vì CNH, HĐH đất nước, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cần được quan tâm mấy điểm sau:
Tạo nhiều cơ hội lựa chọn văn hoá cho thanh niên, đi đôi với định hướng hết sức nghiêm túc. Đảng, nhà nước luôn tạo cơ hội cho thanh niên có sự lựa chọn về văn hoá ở mức cao nhất, đầy đủ nhất nhưng có sự định hướng. Nghĩa là làm như thế nào để tạo môi trường văn hoá phong phú, tránh khuynh hướng thị trường, lai căng, vọng ngoại. Hướng thanh niên tới những giá trị cổ điển, những bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Nghị quyết TW V của Đảng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đưa thanh niên vào các hoạt động liên quan đến đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Thông tư về thực hiện đời sống văn hoá trong quần chúng nhân dân tại Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ và vai trò của đoàn viên thanh niên phải ra sức tổ chức các hoạt động để nâng cao đời sống kinh tế xã hội, đồng thời phát huy và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc
Đảng ta chăm lo đời sống văn hoá, coi trọng nâng cao tính tự giác và tự chịu trách nhiệm của thanh niên, để thanh niên thực sự là một thế hệ năng động, sáng tạo, có bản lĩnh, ý chí, tình cảm cao thượng phong phú. Thanh niên phải tự xây dựng đời sống văn hoá tinh thần của mình. Phải đi đầu đấu tranh chống tệ nạn xã hội. Tệ nạn xã hội nếu không được ngăn chặn thì sẽ tàn phá một thế hệ trẻ. Đây là công việc mà hàng ngày, hàng giờ chúng ta phải tính toán, suy nghĩ. Đấu tranh trên phương diện văn hoá, là mình phải làm tốt hơn, đẹp hơn những sản phẩm văn hoá. Đoàn TNCS phải chủ trì chương trình văn hoá thanh niên để thanh niên sáng tạo ra một nền văn hiến cao đẹp, tương xứng với sức vươn dậy của đất nước.
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt từ năm 1986, khi khởi xướng công cuộc đổi mới. Đảng ta luôn luôn quan tâm đến lĩnh vực xây dựng nguồn lực con người, phát triển con người, với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới, bởi vì Đảng thấu hiểu sâu sắc ý nghĩa quyết định và giá trị lớn lao của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất, tinh thần của cả nền văn hóa, văn minh các quốc gia dân tộc.
Để thực hiện nhiệm vụ to lớn đầu tư phát triển con người, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ, khẳng định dứt khoát thanh niên giữ vai trò vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển nhân tố và nguồn lực con người của nước ta “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỉ 21có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên. Đó chính là vấn đề sống còn của dân tộc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Đảng ta đặt niềm tin vào thanh niên trong sự nghiệp cách mạng thời kì đổi mới và trong mặt trận văn hoá như là một sự đặt cược toàn bộ sự nghiệp cách mạng, số phận, tiền đồ của dân tộc vào vào thế hệ trẻ, vào lực lượng thanh niên. Mục đích cuối cùng của sự nghiệp “trồng người” đó là “hình thành một lớp thanh niên nam nữ ưu tú, vững vàng về chính trị kiên định con đường XHCN, tiêu biểu cho thế hệ trẻ, có hoài bão lớn, tự cường dân tộc, năng động, sáng tạo, trở thành nhà lãnh đạo quản lý kinh doanh, những chuyên gia xuất sắc trong mọi hoạt động của xã hội, những tri thức uyên bác chiếm lĩnh các đỉnh cao của khoa học vươn lên ngang tầm thời đại, sánh vai cùng lớp thanh niên thế giới”.
3. Quan điểm của Đoàn thanh niên về giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Cũng tại hội nghị khoa học - thực tiễn. GS.TS Đỗ Huy có đưa ra một vấn đề: “Có một văn hoá riêng của thanh niên trong nền văn hoá chung của dân tộc không”. Theo GS thì vừa có một văn hoá riêng của thanh niên trong nền văn hoá chung của dân tộc, vừa không có một nền văn hoá riêng của thanh niên trong văn hoá chung của dân tộc.
Thanh niên là tầng lớp trong xã hội tuổi từ 15 - 30, đây là giai đoạn phát triển nhân tính trong tiến trình phát triển chung của con người. Về thể chất, thì đây là giai đoạn đang phát triển và nhiều sức sống. Về mặt tính cách, lứa tuổi này là giai đoạn có nhiều ước mơ và năng lực sáng tạo đầy cảm quan lãng mạn. Về mặt thế hệ thì thanh niên là một mắt khâu quan trọng trong lôgíc phát triển về mặt sinh học lẫn xã hội. Thanh niên hiện nay có nhiều tố ưu so với thế hệ trước. Xét về mặt văn hoá, thanh niên có các thành tố đặc biệt. Phong cách sống, diện mạo đạo đức, phẩm hạnh cá nhân...đều không giống các thế hệ trước. Nhu cầu, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, tình bạn, tình yêu đều khác thế hệ trung niên, người già...Vì vậy, cần khẳng định rằng có một nền văn hoá của thanh niên trong mối liên hệ với các thế hệ trong cộng đồng văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, văn hoá của thanh niên không tác rời văn hoá các thế hệ khác trong công đồng dân tộc, càng không thể nói rằng nó có mâu thuẫn kịch tính giữa văn hóa thanh niên và văn hoá các thế hệ đi trước. Bởi vì cơ cấu văn hoá của Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước gắn với các giá trị cộng đồng và một chủ nghĩa nhân văn có sự phát triển ưu tiên về mặt đạo đức. Xét về mặt thế hệ, thanh niên và các thế hệ trước, có sự khác nhau về tuổi tác, tâm lí, hoài bão, nhu cầu, sở thích và các nhiệm vụ lịch sử. Có những lợi ích, những giá trị chuẩn mực hình thành riêng cho mỗi thế hệ. Nhưng rõ ràng các chuẩn mực văn hoá chung của cả dân tộc, trình độ của các quan hệ xã hội, các quy luật kế thừa không cho phép thế hệ thanh niên tách ra khỏi nền văn hoá chung của dân tộc. Thế hệ thanh niên muốn phát triển chỉ có thể tiếp thu các giá trị mà các thế hệ trước đạt được, đứng trên vai của các thế hệ trước mà vươn lên. Do vậy văn hoá thanh niên không thể tách riêng các giá trị chung của văn hoá dân tộc.
Từng có nhận định : “thế hệ trẻ có vai trò lịch sử quan trọng”, điều đó được chứng minh bằng các sự kiện lịch sử trọng đại, vẻ vang của dân tộc trong tất cả các thời đại. Trong giữ nước, thanh niên là lực lượng chính cầm súng đánh giặc, bảo vệ chủ quyền đất nước, bảo vệ dân tộc. Trong dựng nước, thanh niên vẫn là xung kích đi đầu trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, tiến bộ xã hội.
Thanh niên là người chủ tương lai của đất nước, là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, xã hội. Đa số thanh niên đang tích cực thực hiện hoá các nghị quyết của Đảng xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vì một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh. Thế hệ thanh niên là lực lượng chủ chốt xung phong tình nguyện đi đầu sáng tạo, thực hiện mục tiêu lý tưởng của Đảng, đất nước. Nhân cách của những con người xã hội chủ nghĩa trong thanh niên, góp phần thành công chiếc lược kinh tế - xã hội, trở thành mục tiêu, là động lực cho sự phát triển chung của quốc gia.
Xây dựng văn hoá thanh niên là xây dựng nền văn hoá chung của dân tộc.
Thanh niên phải luôn tiên phong trong việc giữ gìn phát huy những giá trị chuẩn mực của dân tộc. Bởi trong điều kiện đổi mới và hội nhập, thanh niên có nhiều điều kiện tiếp cận với các nền văn hóa nhân loại, có điều kiện để cống hiến và trưởng thành hơn.
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc bắt đầu từ giữ gìn bản sắc văn hoá trong thanh niên bởi những biểu hiện và tác động mặt trái của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập và quá trình CNH, HĐH đang tác động một cách mạnh mẽ nhất, làm thay đổi nhiều nhất, có nhiều nguy cơ tiềm ẩn nhất ở ngay trong văn hoá thanh niên, trong văn hoá của thế hệ trẻ nước nhà.
Vì vậy, với thanh niên Việt Nam hiện nay đó là cả một trọng trách nặng nề, mà toàn Đảng, toàn dân giao phó để thành công trên mặt trận văn hoá, của công cuộc xây dựng nước Việt Nam hưng thịnh.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
PHẦN THỨ HAI
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HOÁ DÂN TỘC.
CHƯƠNG I: Các điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội tại huyện Đầm Hà - tỉnh Quảng Ninh.
I. Về địa lý:
Đầm Hà là một huyện miền núi nằm về phía Bắc của tỉnh Quảng Ninh, có diện tích tự nhiên là 576,66km2 chia thành 9 xã 1 thị trấn. Toàn huyện nằm trên toạ độ địa lý 21độ 7'40 đến 21độ 15'23 vĩ độ Bắc, 107 độ 58'5 đến 107độ 22' độ kinh đông.
+ Phía Bắc giáp với Hải Hà và Móng Cái.
+ Phía nam giáp với huyện Tiên Yên.
+ Phía Đông giáp với Biển Đông
+ Phía Tây giáp với Lạng Sơn.
Địa hình chia cắt phức tạp bởi nhiều dãy núi cao, có độ dốc lớn đa số độ dốc bình quân là 25độ. Có thể chia cắt địa hình huyện Đầm Hà thành 2 vùng sau:
+ Vùng phía Tây là đồi núi xen kẽ thung lũng hẹp.
+ Phía Đông là vùng có độ dốc tương đối bằng phẳng đồng đều.
II. Về kinh tế.
Đầm Hà có điều kiện khá thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ yếu là nguyên nhân chủ quan nên nền kinh tế huyện Đầm Hà vẫn ở mức trì trệ. GDP bình quân đầu người năm 2001đạt 108USD đến năm 2007 đạt 150USD. Sản lượng lương thực mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu tại chỗ.
III. Về chính trị, văn hoá, xã hội.
Được Đảng bộ thường xuyên quan tâm chỉ đạo xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. An ninh trật tự ở địa phương được đảm bảo. Gắn với cuộc vận động xây dựng "Gia đình văn hoá", "Làng văn hoá" hàng năm đều đạt tỉ lệ cao nên nền an ninh chính trị của huyện được giữ vững, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đoàn và phong trào TTN phát triển.
Tổng số học sinh có mặt năm học 2007 - 2009 toàn huyện có 4950 học sinh. Cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng, hoàn thiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở xoá mù chữ 10/10 xã và thị trấn.
Mạng lưới y tế không ngừng được củng cố, công tác vệ sinh, phòng bệnh, chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng hàng năm được thực hiện tốt nên không có dịch bệnh lớn xảy ra.
Hiện có 10/10 xã được sóng phát thanh truyền hình của hai đài chuyển tiếp trong huyện, 10/10 xã có nhà bưu điện văn hoá xã, 6/8 xã có báo đọc hàng ngày, 5/10 xã có đàm thoại số hoà mạng quốc tế v.v. Các hoạt động văn hoá văn nghệ thể dục thể thao ngày càng phong phú, hàng năm huyện có tổ chức các hội thi văn nghệ như: Hội diễn văn nghệ quần chúng thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân.
CHƯƠNG II: Thực trạng văn hoá tại huyện Đầm Hà - Tỉnh Quảng Ninh
I. Thực trạng công tác Đoàn thanh niên và phong trào Đoàn tại huyện Đầm Hà - tỉnh Quảng Ninh.
Theo thống kê từ năm 2007 - 2009 của huyện đoàn Đầm Hà tổng số đoàn viên thanh niên của toàn huyện qua các năm đều tăng. Toàn huyện có 196 cơ sở đoàn nằm ở 9 xã và 1 thị trấn, hàng năm lượng đoàn viên thanh niên đều tăng.
Năm
Tổng số đoàn viên thanh niên
Tổng số đoàn viên
2007
12.630
4.220
2008
13.560
4.725
2009
15.021
5.484
Bảng số liệu cho thấy đoàn viên thanh niên và lực lượng xã hội có tiềm năgn to lớn của địa phương, chiếm khoảng 16,12% tổng dân số của toàn huyện, thanh niên có mặt trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như lao động sản xuất, chiến đấu bảo vệ tổ quốc, học tập, công tác v.v... là lực lượng xung kích đi đầu trong việc thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Thanh niên các dân tộc huyện Đầm Hà có truyền thống yêu nước không ngại khổ, không ngại hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của dân tộc, không gây mâu thuẫn mất đoàn kết giữa các dân tộc trên địa bàn, hăng hái cần cù trong lao động sản xuất, năng động nhạy bén trong cơ chế mới, có ý thức xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, cuộc sống ngày càng no ấm hạnh phúc.
Điều tra sự hiểu biết của thanh niên huyện Đầm Hà trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc qua 2 phương pháp điều tra.
Điều tra bằng hình thức hỏi trực tiếp 120 đoàn viên ở 2 xã và 1 thị trấn của huyện là:
+ Số đoàn viên thanh niên hiểu biết về văn hoá dân tộc là: 33/100 đoàn viên thanh niên.
+ Số đoàn viên thanh niên có nhu cầu tham gia các công tác và hoạt động văn hoá là: 86/120 đoàn viên thanh niên.
+ Số đoàn viên thanh niên không hiểu biết về văn hoá là: 15/120 đoàn viên thanh niên.
Điều tra bằng phiếu hỏi ở địa bàn huyện Đầm Hà cho thấy số đoàn viên thanh niên có ý thức với công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của 9 xã và 1 thị trấn là:
+ Thanh niên tham gia sinh hoạt tại các nhà văn hoá là: 58%
+ Thanh niên công nhân: 69%
+ Thanh niên nông thôn: 80%
+ Thanh niên làm nghề tự do là: 62,3%
+ Thanh niên tham gia các hoạt động giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc: 75,2%.
CHƯƠNG III: Nguyên nhân
I. Nguyên nhân khách quan
Do tác động của quá trình chuyển đổi nền kinh tế thị trường mà mà mặt trái của nó đã làm ảnh hưởng đến tư tương r, đạo đức, lối sống của thanh niên.
Các thế lực thù địch ráo riết chống phá cáh mạng xã hội chủ nghĩa trên mặt trận tư tưởng, văn hoá nhằm thực hiện “ diễn biến hoà bình” với tính chất ngày càng tinh vi, ngày càng thâm độc, đặc biệt là tác động vào văn hoá truyền thống của các dân tộc ít người. Chúng lợi dụng trình độ thấp, các hủ tục lạc hậu để tuyên truyền đạo trái phép, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Đối với thế hệ trẻ sự nhận thức nông cạn thiếu chín chắn về văn hoá, mặt khác cũng do trình độ thanh niên còn thấp kém nên có người còn không chịu tham gia, còn làm sấu đi những giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc.
Nước ta còn nghèo, nhu cầu văn hoá của nhân dân, của thanh niên ngày càng lớn. Nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu nhiều điều kiện và phương tiện, cơ sở vật chất, thiết chế văn hoá cần thiết.
II. Nguyên nhân chủ quan
Khi tập chung phát triển kinh tế, khôi phục hậu quả chiên tranh và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để tiến kịp các nước trên thế giới và phù hợp với thời đại, Đảng ta chưa lường hết được những tiêu cực do biểu hiện mặt trái của nó, từ đó chưa đặt đúng vị trí của văn hoá, chưa coi trọng công tác giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt xây và chống trên các lĩnh vực văn hoá. Quá trình đổi mới về văn hoá, công tác lý luận chưa giải quyết được hết những mâu thuẫn giữa giá trị truyền thống và giá trị mới, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hoá và chính trị, văn hoá và kinh tế.
Việc sử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và tự phê xa sút ở nhiều cấp Đảng bộ. Nội quy giáo dục tư tưởng chính trị trong sinh hoạt Đảng, Đoàn còn nhiều bất cập.
Trong lãnh đạo và quản lý có nhiều biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. Trong đó hoạt động kinh tế chưa chú ý đến các yếu tố văn hoá. Mức đầu tư ngân sách cho văn hoá còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ làm công tác văn hoá còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc trong văn hoá thanh niên chưa được phát hiện sử lý kịp thời.
Công tác quản lý văn hoá phẩm và thông tin đại chúng còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo nên đã để văn hoá độc hại len lỏi vào trong đời sống văn hoá nhân dân, đặc biệt là đối với thanh niên.
Một số bộ phận thanh niên quay lưng lại với văn hoá truyền thống có thái độ coi thường, chạy theo lối sống thực dụng từ cách ăn mặc , nói năng thiếu văn hoá...
Nhiều trò chơi dân gian bắt đầu bị mai một, rất ít những bạn trẻ còn giữ được những trò chơi dân gian như: Tung còn, đánh trận giả, chồng nụ chồng hoa...bên cạnh đó còn tệ nạn xã hội, ma tuý, rượu chè ngày càng tăng nhanh trong thanh niên và trở thành những gánh nặng cho xã hội.
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề quan trọng và cấp bách là việc làm hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triển của đất nước, mà lực lượng nòng cốt xung kích thực hiện nhiệm vụ này là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Cùng với sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đặc biệt là tổ chức Đoàn thanh niên với sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo và là lực lượng nòng cốt của phong trào. Để làm tốt công tác vận động phong trào cần phải đi đôi sâu vào quần chúng nhân dân, dựa vào sức mạnh tập thể, tranh thủ sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân đề ra mục tiêu phương hướng cụ thể để dựa trên cơ sở chủ trương chính sách pháp luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chủ động xây dựng chương trình đề ra các qui ước sát với tình hình thực tế, của từng địa phương và từng đơn vị và cán bộ phải là người gương mẫu đi đầu trong mọi lĩnh vực.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của huyện Đầm Hà nói chung và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Việc tổ chức thực hiện chưa đạt hiệu qua cao, nhận thức của một bộ phận về dân chưa đầy đủ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ văn hoá còn hạn chế, nội dung sinh hoạt của các cấp bộ Đoàn về văn hoá chưa được đổi mới. Một bộ phận thanh niên quay lưng lại với các giá trị truyền thống, có thái độ coi thường chạy theo lối sống thực dụng làm văn hoá truyền thống ngày càng bị mai một.
Ban chấp hành huyện Đầm Hà đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhờ vậy Đoàn thanh niên đang dần khẳng định vai trò là cánh tay đắc lực của Đảng, là lực lượng chính tham gia giác ngộ cán bộ đoàn viên thanh niên và nhân dân giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. GIẢI PHÁP
1. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho Đoàn viên thanh niên.
- Tổ chức các lớp học chính trị ngắn ngày.
- Tổ chức các buổi tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng, nhà nước, Đoàn thanh niên các nghị quyết của Đảng, đoàn về văn hoá.
- Truyền bá sâu rộng trong thanh niên về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tuyên truyền cho thanh niên biết, hiểu những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc những nét đẹp văn hoá của dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số.
2. Xây dựng và phát triển có cơ sở vật chất.
- Phối kết hợp các ban ngành đoàn thể, tăng cường sự hỗ trợ để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng những dụng cụ phục vụ cho các hoạt động.
- Không ngừng tổ chức các buổi lao động gây quỹ phục vụ cho các hoạt động.
- Kêu gọi sự ủng hộ cả vật chất lẫn tinh thần của nhân dân đóng góp cho sự phát triển chung.
- Xây dựng những kế hoạch, chính sách phát triển lâu dài
3. Đa dạng hoá đội ngũ cán bộ.
- Thường xuyên mở lớp tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Đoàn, đây là yếu tố quan trọng quyết định đến các phong trào hoạt động của Đoàn, cần có thêm lượng cán bộ cho ngành văn hoá hiện tại còn đang thiếu. Những đội ngũ cán bộ trên cũng cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, phải đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, phấn đấu hết mình, tích cực bồi dưỡng chuyện môn, trau rồi nghiệp vụ, nhiệt tình với phong trào, đi sâu vào cơ sở.
- Tăng cường khả năng đáp ứng và chất lượng của các thiết thế văn hoá do Đoàn thanh niên quản lý.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của phong trào thi đua trong thanh niên.
- Cần phải bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số làm nòng cốt cho phong trào văn hoá, bởi họ là những người am hiểu hơn ai hết mọi phong tục tập quán và sinh hoạt của nhân dân.
4. Đa dạng hoá các hoạt động
- Phát triển các phong trào thể dục thể thao tăng cường thể lực cho thanh niên.
- Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội, các cấp chính quyền đẩy mạnh phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư” nhằm phát huy và nâng cao nhận thức về văn hoá tới mọi tầng lớp nhân dân.
- Xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng ở các làng bản, phục vụ đời sống văn hoá gắn liền văn hoá nghệ thuật với đời sống, phát triển kinh tế xã hội. Phong trào văn hoá phát triển sẽ thúc đẩy lao động sản xuất.
- Phải đưa ra những phương pháp xây dựng và duy trì các giá trị truyền thống của dân tộc và hoạt động văn hoá, văn nghệ.
- Thường xuyên tạo điều kiện, tranh thủ sự ủng hộ, tận dụng khả năng sẵn có thúc đẩy các phong trào phát triển.
II. KIẾN NGHỊ
1. Đối với Đảng.
- Nâng cao hơn nữa hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đảm bảo tính định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, đảm bảo quyền tự do, dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ văn hoá.
- Phải thường xuyên nắm bắt tình hình hoạt động văn hoá ở khu vực dân cư, đặc biệt quan tâm đến các dân tộc thiểu số.
- Chăm lo, hỗ trợ, giải quyết những khó khăn của ngành văn hoá.
- Xây dựng văn hoá trong Đảng, mỗi đảng viên cần xây dựng, bồi dưỡng cho mình những phẩm chất cần - kiện - liêm - chính - chí công vô tư cộng với phẩm chất của người Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Đối với nhà nước.
- Tạo điều kiện, hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động của ngành văn hoá, mua cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động.
- Nâng cấp, xây dựng mới cơ sở hạ tầng.
- Có chính sách đào tạo nguồn cán bộ văn hoá.
- Chỉ đạo việc thực hiện “đoàn kết xây dựng văn hoá khu vực dân cư”.
- Thường xuyên tổ chức các lễ hội truyền thống của các dân tộc.
3. Đối với Trung Ương Đoàn.
- Tạo điều kiện giúp đỡ các tỉnh miền núi phía bắc, cần phối hợp với các bộ ngành nghiên cứu xây dựng các công trình trọng điểm liên quan đến văn hoá Việt Nam.
- Trung ương Đoàn cần rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, đặc biệt việc nâng lương, trợ cấp cán bộ Đoàn ở khu vực miền núi.
- Đầu tư các phương tiện, sách báo, tài liệu tuyên truyền về cấp cơ sở.
4. Đối với Tỉnh Đoàn và Huyện Đoàn.
- Thường xuyên xây dựng những kế hoạch hoạt đọng thu hút tập hợp Đoàn viên thanh niên tham gia.
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ Đoàn cơ sở.
-Mở các trung tâm giới thiệu việc làm cho thanh niên.
- Tham mưu cho Đảng, chính quyền để xây dựng kế hoạch phát triển văn hoá.
- Làm tốt công tác tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, nhà nước.
5. Đối với các ban ngành đoàn thể khác.
- Các ban ngành cần phối hợp hiệu quả các hoạt động trong lĩnh vực văn hoá với nhiều chủ đề khác nhau.
6. Đối với gia đình.
- Cần phấn đấu theo tiêu chí gia đình văn hoá, gia đình là hạt nhân của xã hội.
KẾT LUẬN
Văn hoá Việt Nam là nhân tố hợp thành, là nền tảng tinh thần của dân tộc ta và chế độ ta. Nó được hình thành hàng ngàn năm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.Từ thủa ban đầu dựng nước bằng lao động và xương máu, sức sáng tạo và ý chí bền bỉ không ngôn từ nào tả hết được, dân tộc ta đã xây dựng và bồi đắp một nền văn hoá hết sức rực rỡ kết tinh sức mạnh, in đậm dấu ấn bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đảm bảo cho dân tộc tồn tại và không ngừng phát triển cho đến ngày nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và giao lưu, hội nhập, quốc tế đang gia tăng, vấn đề giữ gìn và phát huy bản lĩnh dân tộc, bản sắc văn hoá Việt Nam ngày càng đặt ra hết sức cấp bách. Sống và hoạt động trong bối cảnh đó thanh niên Việt Nam đang đứng trước những cơ hội thuận lợi, đồng thời đang đổi mạnh với những thách thức hết sức gay gắt hàng ngày, hàng giờ. Không trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng, không bồi đắp tri thức văn hoá phong phú, không rèn luyện đạo đức con người mới, người thanh niên không những khó có thể đóng góp vào sự ngiệp chung mà còn rễ nghiêng ngả trước những tác động mặt trái của cơ chế thị trường. Muốn trau dồi tư tưởng, đạo đức, lối sống thì trước hết phải có được những nhận thức đúng đắn để có những hành động, hành vi phù hợp chuẩn mực văn hoá dân tộc. Thế hệ trẻ Việt Nam phải là những người đại diện xứng đáng cho đất nước, nhân dân, đại diện cho những nét văn hoá dân tộc mình để tham gia giao lưu hội nhập.
Việc bảo tồn và phát triển nền văn hoá dân tộc phụ thuộc vào mỗi con người chúng ta, vào lớp trẻ ngày nay, sứ giả tương lai của đất nước, từ chỗ hiểu biết đến chỗ thấy cần, đến chỗ tự thân vận động. Sách vở về văn hoá có khá nhiều, văn hoá tồn tại ở khắp mọi nơi, mỗi chúng ta cần phải tự tìm kiếm, học hỏi và suy nghĩ, đừng nên thụ động trông chờ vào người khác.
Bản sắc văn hoá của một dân tộc là những đăc trưng về văn hoá, đời sống, tinh thần của dân tộc ấy, chỉ có dân tộc ấy, nơi có những nét đặc biệt độc đáo về tinh thần, về văn hoá, cách sống, sức sáng tạo để phân biệt dân tộc này với dân tộc kia, phải giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc bởi lẽ mất bản sắc văn hoá dân tộc là dân tộc bị đồng hoá, chỉ còn là cái vỏ vật chất.
Chính vì việc giữ gìn bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc có nghĩa là giữ gìn đất nước, con người Việt Nam nên trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tỉnh Quảng Ninh nói chung, Huyện Đầm Hà nói riêng. Bằng những việc làm và hành động cụ thể cùng tham gia vào công cuộc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc miền tây tổ quốc, cũng là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Với những nội dung đã được trình bày trên cơ sở nhìn nhận từ thực trạng của văn hoá Quảng Ninh nói chung, huyện Đầm Hà nói riêng, tôi rất mong Đoàn thanh niên huyện Đầm Hà quan tâm đến đề tài này. Tuy nhiên đây chỉ là sự nhìn nhận từ góc độ cá nhân nên không thể có cái nhìn tổng thể, khách quan, không thể không có những thiếu sót, vì vậy rất mong được sự giúp đỡ của các cấp uỷ Đảng, các ban ngành đoàn thể để đề tài được hoàn thiện hơn. Góp phần phát huy bản sắc văn hoá dân tộc khu vực miền núi phái tây bắc của tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện hội nghị lần thứ V ban chấp hành trung ương khoá VIII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2. Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc - Chu Quang Cường. Tạp chí nghiên cứu khoa học tự nhiên 1998.
3.Xây dựng nếp sống văn hoá trong thanh thiếu nhi - nhà xuất bản thanh niên 1997.
4. Báo cáo tổng kết Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi Huyện Đầm Hà từ năm 2006 đến năm 2008
5. Báo cáo tổng kết các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể dục thể thao của phòng văn hoá Huyện Đầm Hà từ năm 2006 đến năm 2008.
6. Báo cáo tổng kết của phòng Dân Vận, Uỷ Ban Mặt Trận Tổ Quốc Huyện Đầm Hà.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đoàn thanh niên huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.doc