PHẦN MỞ ĐẦU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
1. Về mặt lý luận:
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng lĩnh vực văn hoá. Người đã nói rằng "Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau đó là: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá - Xã hội .". Lời nói của Bác đã khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Văn hoá là nền tảng của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng đóng vai trò trong tư duy hành động của con người và của dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến các vương quốc của con người phát triển tự do và toàn diện. Hồ Chí Minh từng nói "Văn hoá soi đường cho quốc dân đi, phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ, phải xúc tiến công tác văn hoá đào tạo con người cho cuộc kháng chiến kiến quốc". Trong thời đại Hồ Chí Minh với đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, văn hoá Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần quyết định vào những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam là thành quả do lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường trong quá trình dựng nước và giữ nước qua hàng ngàn năm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Là kết quả giáo dục và tiếp thu tinh hoa của nền văn hoá trên thế giới để không ngừng phát triển và hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam hun đúc trên tâm hồn khí phách, bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng danh lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong những thập kỷ gần đây quá trình CNH - HĐH và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đưa loài người tiến lên những nấc thang phát triển mới. Từ xã hội nông nghiệp cổ truyền chuyển sang xã hội hậu công nghiệp có nền kinh tế tri thức đóng vai trò chủ đạo. Cùng với sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ và nền văn minh tri thức, trình độ dân trí, điều kiện sống và mức sống của con người được nâng lên rõ rệt. Từ đó, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đến Đại hội lần thứ IX của Đảng đều xác định văn hoá trong thời kỳ đổi mới: "Văn hoá là nền tảng tinh thần trong xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, văn hoá; xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc" là nhiệm vụ của Đảng và toàn dân.
Vì vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước sau vẫn là một vấn đề sống còn, là trách nhiệm nặng nề nó có tầm ảnh hưởng rất quan trọng với sự phát triển của đất nước. Đây là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể, quần chúng nhân dân. Trong đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng cốt.
2. Cơ sở thực tiễn
Ngày nay, đất nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Nền kinh tế của Việt Nam với đặc trưng của lịch sử văn hoá là luôn luôn giao lưu, đối thoại với các nền văn hoá mà chủ thể của nó thường là những kẻ đối đầu, có những nền văn hoá hùng mạnh hơn. Vì vậy chủ thể văn hoá Việt Nam phải bao gồm những giá trị đặc biệt về ứng xử thông minh và khôn khéo, để có thể tiếp thu và chọn lọc những giá trị văn hoá của các nước có nền văn hoá phát triển, đồng thời có thể tránh được những âm mưu mà kẻ thù muốn đánh vào nền văn hoá đang phát triển của nước ta. Nhưng nền kinh tế mở cũng kéo theo những luồng văn hoá khác nhau du nhập vào nước ta, lịch sử nước ta đã chứng minh được cách mạng sống lưu truyền đó. Kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó còn có những hủ tục lạc hậu như: ma chay, tảo hôn, đám cưới, mê tín dị đoan, làm lễ bãi cầu mưa, cầu mùa màng bội thu . còn tồn tại một đất nước gồm 54 dân tộc anh em như nước ta. Làm cho nền văn hoá dân tộc "dậm chân tại chỗ" hay kém phát triển so với sự phát triển hiện đại của nền văn hoá các nước khác trên thế giới.
Với điều kiện hiện nay, để hội nhập, hoà chung vào vòng chảy của xã hội cũng như ta phải đáp ứng đòi hỏi có một trình độ văn hoá tương ứng để tiếp biến các thành tựu của nhân loại, đồng thời chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của xu hướng "toàn cầu hóa" mặt trái của quá trình "hiện đại hóa" đang diễn ra hiện nay.
Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, không phải là của riêng ai mà là của chung tất cả mọi người . Nước ta nói chung, huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng nói riêng với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong TN là một vấn đề cấp bách và quan trọng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và góp phần vào việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành con người mới XHCN, sẵn sàng và phát huy tối đa vai trò của con người chủ vận mệnh đất nước.
Sự xuống cấp về tư tưởng đạo đức và lối sống trong TN hiện nay ngày càng nhanh. Thanh thiếu niên quan tâm tới lợi ích của mình hơn tập thể, chạy theo lối sống thực dụng, theo văn hoá ngoại không có sự chọn lọc, không quan tâm đến giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Một số người không thích vào Đoàn, không tham gia vào các tổ chức hoạt động của Đoàn thanh niên.
Nền kinh tế nông nghiệp truyền thống - Thiết lập nên lối sống và chuẩn mực có sự phát triển ưu lợi về đạo đức được thay thế bằng nền kinh tế hàng hoá thị trường cơ chế mới. Lối sống hiện nay cần được coi đúng mức phù hợp hơn từ góc độ lợi ích kinh tế: mức lương, mức thu nhập tiêu dùng, y tế, các phúc lợi xã hội, sức khoẻ. Song cho đến nay, chúng ta chưa biết chính xác những chuẩn mực giá trị đúc kết xã hội Việt Nam chuyển mình như thế nào. Sự nghiệp CNH - HĐH đất nước đặt ra những yêu cầu mới đối với chuẩn mực giá trị của con người. Đồng thời nó là quá trình đô thị hoá làm biến đổi tính chất căn bản của xã hội.
Chưa bao giờ những vấn đề văn hoá lại được quan tâm như hiện nay cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều đó, được quyết định bởi vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của một quốc gia. Trên cơ sở xác định đúng đắn vai trò quan trọng của văn hoá. Nghị quyết TW5 khoá VIII của Đảng đã khẳng định "tiếp tục xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nền tảng tinh thần, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội".
Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế, là cơ hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Đồng thời cũng đặt ra những thử thách mới trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là xã hội hoá ngày càng sâu sắc hơn, đồng thời với cơ chế thị trường, xuất hiện và du nhập những tư tưởng phản động có tác dụng không ít đến thanh niên làm cho họ trở thành con người không có lý tưởng, niềm tin với xã hội, ích kỷ, cực đoan, khinh lao động và gạt bỏ những đức tính truyền thống tốt đẹp.
Nghiên cứu việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho đến nay không phải là một lĩnh vực mới; trước đây cũng đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều hội thảo quan tâm đến vấn đề này nhưng cũng chỉ ở mức độ nghiên cứu chung chung; chưa đi sâu đi sát một cách tỉ mỉ, cụ thể tới từng địa bàn dân cư như địa bàn huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng.
Chính vì vậy, là người cán bộ Đoàn trong tương lai, là người con của quê hương đất nước, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc" mong góp phần nhỏ bé của mình cùng các cấp bộ Đoàn, các đoàn thể, quần chúng nhân dân huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao nhận thức, tư tưởng hành động của đoàn viên thanh niên trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT. 2
PHẦN MỞ ĐẦU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 3
I. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ. 3
1. Về mặt lý luận: 3
2. Cơ sở thực tiễn. 4
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 7
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 7
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 7
V. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 7
VI. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 7
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
VIII. BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ. 8
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHUYÊN ĐỀ. 9
1.1. Hệ thống các khái niệm liên quan đến chuyên đề. 9
1.1.1. Khái niệm văn hoá: 9
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hoá: 11
1.1.3. Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc: 12
1.1.4. Nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. 13
1.1.5. Khái niệm Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. 14
1.2. Những quan điểm về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. 16
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Ăngghen-Lênin. 16
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc: 17
1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 19
1.2.4.Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. 21
CHƯƠNG 2. 25
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC HUYỆN BẢO LÂM - TỈNH CAO BẰNG. 25
2.1. Vài nét về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế chính trị - văn hoá - xã hội huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng. 25
2.1.1. Vị trí địa lý: 25
2.1.2. Tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội. 26
2.2. Thực trạng các hoạt động của Đoàn thanh niên huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. 28
2.2.1. Tình hình thanh niên và Đoàn thanh niên huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng. 28
2.2.2. Thực trạng hoạt động ĐTN huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. 30
2.2.3. Nguyên nhân thực trạng. 33
CHƯƠNG 3. 37
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH HUYỆN BẢO LÂM - TỈNH CAO BẰNG. 37
3.1. Những định hướng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng. 37
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng. 37
3.3. Kiến nghị 40
KẾT LUẬN 43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
49 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3012 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo đó là văn hoá".
Theo Người một nền "văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc" là nền tảng tinh thần cho quá trình giữ vững độc lập, dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, thể hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vững bước đi lên CNXH, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc không có nghĩa là thực hiện việc "đóng cửa" để xây dựng một nền văn hoá đơn điệu, nghèo nàn mà phải nhìn ra thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới để làm giàu và phong phú thêm nền văn hoá Việt Nam. Phải có sự đào thải (những cái cũ, cái lỗi thời, cái mới nhưng độc hại), đấu tranh đào thải với những luồng văn hoá xấu làm ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của nền văn hoá tốt đẹp, của dân tộc nhằm củng cố giữ gìn và phát huy những cái tốt đẹp, những tinh hoa của dân tộc tiếp thu có chọn lọc có giá trị văn hoá cao đẹp của nhân loại, hình thành văn hoá mới dân tộc nhưng phải phù hợp với truyền thống dân tộc, theo hướng phát triển của nền văn hoá hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta. Trong quá trình xây dựng chúng ta cần phải nắm vững và quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá.
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng văn hoá mới, tổ ấm suốt đời của con người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là nơi thế hệ trẻ được nuôi dưỡng, giáo dục trong tình thương yêu để trở thành người công dân có ích cho xã hội. Sự nghiệp văn hoá lớn nhất quan trọng nhất của Hồ Chí Minh là đã huy động được sức mạnh truyền thống hàng ngàn năm của văn hoá dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hoá của nhân loại, lãnh đạo thành công sự nghiệp giải phóng dân tộc giành lại cho nhân dân ta quyền làm người, quyền được sống một cuộc sống xứng đáng với nền văn hoá Việt Nam, đồng thời là một sự nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hoá thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Vì vậy sự nghiệp văn hoá của Hồ Chí Minh đem đến cho kho tàng văn hoá thế giới những giá trị và quyền dân tộc cơ bản. Vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của mỗi dân tộc khẳng định được bản sắc văn hóa riêng của mình và phát triển sự biểu hiện của nền văn hoá với các dân tộc khác trên thế giới. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và không ngừng phát triển những giá trị cao đẹp của nền văn hoá đất nước, đã góp phần sức mạnh vào những thành quả đấu tranh giữ nước và dựng nước của các dân tộc.
1.2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Quan điểm của Đảng là sự thể hiện tập trung đường lối văn hoá của Đảng, là tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các hoạt động văn hoá ở nước ta, nó vừa giúp cho hoạt động văn hóa đi đúng phương hướng chiến lược vừa giúp giải quyết tốt những vấn đề cụ thể đặt ra trong đời sống. Ngay từ năm 1943, khi chưa có chính quyền dưới ánh sáng của cương lĩnh chính trị 1950, Đảng ta đã xây dựng đề cương văn hoá Việt Nam với phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng. Ba nguyên tắc cơ bản ấy của nền văn hoá có đặc trưng dân tộc, hiện đại, nhân văn. Đó là định hướng của nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc mà ngay nay chúng ta đang phấn đấu trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước ở nước ta. Cốt lõi của nền văn hoá cách mạng Việt Nam trước sau vẫn là chủ nghĩa nhân văn Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hội nghị lần thứ V BCH TW Đảng (họp từ 6/7/1998 - 16/7/1998) đã thảo luận và ra nghị quyết "về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Hội nghị cho rằng sự cần thiết phải có một nghị quyết của Đảng về văn hoá trong tình hình đổi mới với những trọng tâm cần tập trung và ra nghị quyết vấn đề văn hoá hiện nay là: "Tư tưởng, đạo đức, lối sống, đời sống văn hoá". Trong những quan điểm chủ đạo cơ bản của hội nghị và quan điểm thứ hai "nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà dân tộc". "Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh giữ nước và dựng nước", mới tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong những chuẩn mực giá trị tinh thần của một dân tộc có những giá trị từ bền vững trong suốt chiều dài lịch sử và những giá trị biến đổi nhất định hoặc ít. Có những yếu tố, những bộ phận, có những giá trị chỉ thích hợp với từng thời kỳ nhất định. Vì vậy chỉ "những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước", mới tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Những yếu tố cơ bản cấu thành: những giá trị bền vững, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, giá đình, xã hội - tổ quốc - lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...
Vì vậy việc giữ gìn và bảo vệ bản sắc dân tộc có khuynh hướng cần tránh là: đóng cửa, thu mình trong chủ nghĩa hẹp hòi, giữ mãi hoặc phục hồi những gì lạc hậu, lỗi thời không phù hợp với sự phát triển của thời đại. Cho nên chúng ta phải mở rộng giao lưu với thế giới tiếp thu có chọn lọc những cái hay cái tiến bộ trong nền văn hoá của các dân tộc khác trong mở rộng giao lưu văn hoá quốc tế, yêu cầu hàng đầu là phải trên tinh thần độc lập dân tộc. Mặt khác phải biết giữ gìn, khai thác phát triển và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc tức là nâng cao năng lực tiếp thu cái mới, cái tiến bộ của tinh hoa văn hoá thế giới. Nhằm chống lại sự xâm nhập của mọi thứ văn hoá độc hại, cực đoan, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng ích kỷ, lối sống hưởng thụ...
Như vậy, nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm trong nó các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế, trên cơ sở Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay càng rõ ràng, văn hoá có vị trí vai trò to lớn, điều đó được thể hiện trong 5 quan điểm cơ bản của Đảng về văn hoá:
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
- Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, Đảng lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hoá là một mặt trận xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì trân trọng.
1.2.4.Vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập lãnh đạo và rèn luyện. Đảng và Nhà nước ta khẳng định vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn của thanh niên trong công cuộc xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN thanh niên là lực lượng hùng hậu, có sức khoẻ, có trình độ học vấn, năng động tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học kỹ thuật, những cái mới của xã hội. Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay vinh dự được thừa hưởng cả một kho tàng giá trị tinh thần do cha ông để lại, nhưng cũng là trách nhiệm lớn lao của mỗi đoàn viên thanh niên, vừa phải kế thừa vừa phải phát huy và bảo đảm tính truyền thống của dân tộc để không hổ thẹn với cha ông, đó là điều mà không chỉ có tuổi trẻ mà mỗi người dân Việt Nam biến thành tình cảm hành động cách mạng.
Đất nước đang trên đà phát triển thì việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc càng trở nên cần thiết và mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng cùng với việc mở rộng giao lưu với thế giới thì văn hoá Việt Nam có cơ hội để bạn bè thế giới biết đến nhiều hơn, chúng ta có nhiều cơ hội nhiều điều kiện để tiếp thu và học tập những tinh hoa của nhân loại để làm phong phú thêm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam.
Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay cần phải vượt qua những thách thức đó thì chúng ta mới giữ vững và phát triển được bản sắc văn hóa dân tộc theo định nghĩa khoa học cách mạng. Với đặc trưng cơ bản là cả dân tộc, hiện đại và nhân văn. Thế hệ trẻ làm được như vậy là chúng ta đã tạo được nền tảng tinh thần vững chắc, là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Như vậy thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay và mai sau có trách nhiệm thật nặng nề nhưng đầy vinh quang khi được Đảng, Bác Hồ tin tưởng giao cho trọng trách, điều này khẳng định vị trí vai trò quan trọng của ĐVTN.
Đáp lại lòng tin tưởng của Đảng, Nhà nước, Bác Hồ và nhân dân, tổ chức Đoàn cần xung kích đi đầu và có những chương trình cụ thể, thiết thực để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, cần có những biện pháp giáo dục hữu hiệu của đoàn viên thanh niên nhận thức đầy đủ sâu sắc nhiệm vụ này. Từ đó biến thành tình cảm hành động thành phong trào cách mạng, xây dựng, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong bối cảnh giao lưu, mở cửa và toàn cầu hoá, thời đại của CNH - HĐH đất nước như hiện nay, giữ gìn và bồi bổ văn hoá dân tộc vừa là cơ hội, vừa là nhiệm vụ, vừa là thách thức. Dân tộc và văn hoá là hai thực thể văn hoá với nhau, có dân tộc là có văn hoá, mất văn hoá là mất dân tộc. Vì thế nhiệm vụ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là phải hiểu, biết về văn hoá để xây dựng nền văn hóa dân tộc vừa tiên tiến vừa đậm đà bản sắc.
* Những hoạt động của Đoàn tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước và trên cơ sở nghị quyết đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII. Hai phong trào lớn "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước" là một chủ trương đúng đắn được triển khai có hiệu quả, rộng khắp, góp phần cổ vũ hàng triệu thanh niên vươn lên lập thân, lập nghiệp, xung kích thực hiện các chương trình kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh... đánh dấu bước phát triển mới trong công tác Đoàn về phong trào thanh niên trong điều kiện mới, tạo nên nguồn lực to lớn về tinh thần vật chất, làm chuyển biến nhận thức và hành động của cán bộ, đoàn viên thanh niên của cả nước, được toàn xã hội quan tâm ủng hộ (báo cáo tại đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VII).
Công tác tư tưởng - văn hoá, tuyên truyền giáo dục của Đoàn bám sát các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng được thanh niên tiếp nhận một cách tích cực. Các hoạt động giáo dục tuyên truyền dân tộc và truyền thống cách mạng của Đảng, của Đoàn viên được triển khai sâu rộng và có hiệu quả các hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT, giáo dục lối sống cho thanh niên thông qua cuộc vận động "hai xây một chồng" thông qua các cuộc thi thanh niên thanh lịch, liên hoan thanh niên hát dân ca và cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư". Tất cả những phong trào trên khi phát động được đông đảo thanh niên ủng hộ, hưởng ứng mạnh mẽ và thiết thực.
Văn hoá gắn liền với thế hệ trẻ như một quá trình tự nhiên, vì văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là mục tiêu của CNXH, CNH - HĐH đất nước là hiện thân của một đời sống văn hoá rộng lớn với những sáng tạo vật chất và tinh thần cao đẹp. Nguồn lực to lớn của tuổi trẻ chỉ có thể được tăng cường khi kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của nền văn hoá dân tộc. Trách nhiệm to lớn của thế hệ trẻ ngày nay là chuẩn bị hành trang đi vào thế kỷ mới, là góp phần xây dựng con người Việt Nam về tâm hồn tình cảm có lối sống lành mạnh phù hợp với những chuẩn mực xã hội. Mặt trái cơ chế thị trường giúp cho thế hệ năng động sáng tạo, nhưng bên cạnh đó cũng làm tha hoá cuộc sống và sống với lối sống thực dụng, chỉ biết hưởng lạc... trước tình hình đó, để khắc phục phần nào hậu quả mỗi chúng ta phải xây dựng được một bản lĩnh văn hoá Việt Nam nhất là trong thế hệ trẻ hiện nay. Xây dựng bản lĩnh văn hoá đó chính là giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần "gạt đục khơi trong" mà Bác Hồ đã dạy: vững vàng và tỉnh táo trong tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Tuổi trẻ phải trang bị cho mình kho tàng hành trang văn hoá, đó chính là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Nhưng bên cạnh đó không thể thiếu là bản lĩnh chính trị vững vàng, bản lĩnh trong học tập, bản lĩnh lao động sáng tạo hiệu quả... Đây là những nền tảng cơ bản giúp thế hệ thắng lợi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc chính là giữ gìn phát huy tư tưởng đạo đức lối sống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam thông qua chức năng nhiệm vụ của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là giáo dục thế hệ trẻ.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC HUYỆN BẢO LÂM - TỈNH CAO BẰNG.
2.1. Vài nét về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế chính trị - văn hoá - xã hội huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
2.1.1. Vị trí địa lý:
Bảo Lâm là một huyện miền núi có vị trí chiến lược quan trọng nằm ở phía tây tỉnh Cao Bằng, với địa thế chủ yếu là núi non hiểm trở, thị trấn Pắc Miầu - huyện Bảo Lâm nằm dọc theo sông Gâm với tổng diện tích tự nhiên là 1.003.426,67 ha (trong đó đất chưa sử dụng là 47.303 ha chiếm 52,41% diện tích đất tự nhiên).
Là huyện miền núi cách tỉnh là 187km theo trục đường quốc lộ 34 phía Tây Nam, phía Bắc giáp với huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang và nước bạn Trung Quốc, phía Nam giáp với huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang và huyện Pắc Nặm tỉnh Bắc Kạn, phía Đông giáp huyện Bảo Lạc, phía Tây giáp với 2 huyện Yên Minh và Bắc Mê tỉnh Hà Giang. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 500km.
Bảo Lâm nằm ở toạ độ 105 - 105 58' độ kinh đông từ 22038' - 23003' vĩ độ Bắc. Nên huyện có khí hậu gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa nóng ẩm bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa lạnh khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 220c/năm, mùa hè 260c/ mùa đông 190c, song có ngày nắng nóng ở mùa hè nhiệt độ lên tới 400C và xuống thấp nhất là -10C nhưng ít xuất hiện và không kéo dài. Lượng mưa trung bình 1.100 - 1.600mm/năm, nhưng lượng mưa phân bố không đồng đều. Lượng mưa ở tháng 6,7 và 8 chiếm 70% lượng mưa cả năm. Vùng cao có khí hậu lạnh, nhiệt độ ban ngày và ban đêm chênh lệch nhau rất nhiều, khí hậu có ngày thay đổi đột ngột, có năm rét hại xuống tới -10C và sương mù dày đặc, khí hậu mát mẻ và dễ chịu nhất là cuối xuân đến giữa thu.
Do yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ đẩy mạnh việc phát triển kinh tế miền núi và đảm bảo cuộc sống ấm no cho dân tộc vùng cao, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số... Đến năm 2001 huyện Bảo lâm được thành lập (tách ra từ huyện Bảo Lạc): đến nay huyện có 1 thị trấn (Pắc Miầu), gồm 13 đơn vị hành chính xã là vùng 3 có 7825 hộ; 48.500 nhân khẩu đang cùng nhau sống quần cư trong 196 xóm. Trong toàn huyện có 8 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống và chủ yếu là các dân tộc thiểu số: Tày, H'mông, Nùng, Dao, Lôlô, Sán chỉ, Kinh, Quý Châu (trong đó các dân tộc chiếm tổng số dân trong huyện: H'mông chiếm 45%, Tày chiếm 25%, Nùng chiếm 12%, Dao chiếm 9%, Sán chỉ chiếm 8%, còn lại là Lôlô, ít nhất là dân tộc Kinh và Hoa).
Bảo Lâm có con sông Gâm chảy dọc theo thị trấn, và khá nhiều suối, đây là nguồn cung cấp nước và thủy sản phục vụ đời sống nhân dân. Về mùa mưa hệ thống nước sông - suối đổ dồn tạo thành những lũ lớn làm thiệt hại lớn về của cải, mùa màng của nhân dân, đặc biệt còn gây sạt lở làm tắc nghẽn giao thông trong huyện và giao lưu với các huyện, tỉnh...
2.1.2. Tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội.
Điều kiện tự nhiên đã mang lại cho Bảo Lâm lợi thế về nông nghiệp, giao lưu buôn bán, trong rừng có gỗ quý như: Lim, nghiến, lát... và động vật quý hiếm như: lợn rừng, Hươu, nai, nhím...
Trong lòng đất Bảo Lâm có chứa khoảng sản có giá trị như: quặng vàng... và có nhiều dãy núi đá vôi trùng điệp là nguồn thu nhập chính cho một số bà con trong vùng. Nhưng chủ yếu vẫn là nghề nông nghiệp với kỹ thuật vẫn lạc hậu (con trâu đi trước cái cày theo sau. Do làm ruộng bậc thang và thửa ruộng nhỏ không bằng phẳng nên không áp dụng máy móc vào trong sản xuất được). Bên cạnh đó một số hộ gia đình đã chăn nuôi gia súc theo thống kê có 1.300 con dê; 5.935 con trâu; 17.42 con Bò; 897 con ngựa; 25.462 con lợn...
Qua thực tiễn lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển, người dân Bảo Lộc đã xây dựng cho mình một nền văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: nhà sàn của dân tộc Tày Nùng, nhà đất có hàng rào xếp bằng đá của dân tộc H'mông... hay các điệu hát của các dân tộc như: như lượn cọi, nàng ới, đá hai, sligiang, hát then...
Bảo Lâm là một khu du lịch hấp dẫn trong tương lai của tỉnh, với khí hậu mát mẻ đặc trưng của vùng cao thêm, bốt của thực dân Pháp xây dựng (được xây dựng từ thời Pháp thuộc). Nơi đây sẽ thu hút nhiều khách thập phương từ trong nước và ngoài nước.
Phong tục tập quán nơi đây có những nét riêng biệt so với các nơi khác, như phong tục ma chay hay cưới xin dưới chế độ phong kiến, những nghi thức tang lễ được tổ chức thật đầy đủ theo quy định cổ truyền là một chuỗi nghi thức phức tạp kéo dài hàng tuần lễ. Ngày nay, những phong tục đó vẫn được tồn tại trong một số dân tộc thiểu số, được hợp thức hoá đơn giản hơn trước ở một số gia đình và dòng họ.
Tục cưới xin: của người tày Bảo Lâm có nhiều thủ tục và được tiến hành theo nhiều giai đoạn trước ngày làm lễ thành hôn. Các thủ tục tiến hành tuần tự theo các bước.
Đi thăm dò ướm hỏi (pslẩy slảm): gia đình nhà trai người làm mối thay mặt gia đình sang đặt vấn đề với nhà gái (người làm mối có quan hệ với cả hai gia đình hoặc là người có uy tín). Sau khi đặt vấn đề được vài ngày nếu nhà gái đồng ý, thì người làm mối sẽ báo tin về nhà trai chuẩn bị đồ ăn hỏi cho ngày lành tháng tốt do hai bên nhà trai và nhà gái thống nhất. Khi thống nhất ngày ăn hỏi (văn chỉn slảm) thì nhà trai chuẩn bị cho một trong ba loại: 1 l là mọi thứ đều 5 như 5kg gạo nếp, 5kg gạo tẻ, 50 bánh ăn hỏi, 5 con gà, 5 con vịt... (cài há cẩn); 2 là mọi thứ đều 10 cũng tương tự (cài slíp cẩn); 3 là mọi thứ đều 15 và cũng tương tự (cài slíp há cẩn)... và phân chia rõ rệt cho gia đình nghèo thì mọi thứ đều là 5, nhà trung bình thì mọi thứ đều 10 còn nhà khá giả là 15. Trong ngày ăn hỏi hai bên thống nhất chọn ngày để nhà trai đón dâu (rlặp lua): mọi chi phí nhà trai lo, bên nhà gái cử vài chục người đủ mặt nội ngoại đi đưa dâu (slồng lua). Tuỳ theo điều kiện của gia đình, cô dâu về nhà chồng mang theo chăn gối và một số đồ đạc khác (phần để biếu bố mẹ chồng, anh em họ hàng, còn lại là mình dùng).
Bên cạnh việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc, quê hương mình. Theo đó trình độ dân trí ngày càng phát triển, hệ thống trường học từ mầm non đã có đến xã. Bảo Lâm hôm nay đã dần thay đổi, kinh tế ngày càng phát triển, chính trị văn hoá tương đối ổn định... và dần thay đổi vươn lên thoát khỏi đói nghèo, sánh vai với sự phát triển chung của đất nước.
2.2. Thực trạng các hoạt động của Đoàn thanh niên huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
2.2.1. Tình hình thanh niên và Đoàn thanh niên huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị, xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập lãnh đạo và rèn luyện. Thanh niên là lớp người ôm nhiều hoài bão, nhiều khát vọng. Họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, họ có trọng trách gánh vác sứ mệnh lịch sử này. Chính vì vậy các cấp bộ Đoàn huyện Bảo Lâm đã có nhiều hình thức, phương thức triển khai tuyên truyền, vận động ĐVTN tham gia vào các phong trào hoạt động. Từ đó tăng dần các cơ sở đoàn vững mạnh, giảm dần các cơ sở Đoàn yếu.
Huyện Đoàn Bảo Lâm hiện nay có 15 cơ sở Đoàn và Đoàn trực thuộc 10. Toàn huyện có 2531 ĐVTN, trong đó có 1389 đoàn viên nông thôn. Do địa hình đồi núi phức tạp, nhất là vào mùa mưa lũ giao thôngthường bị ách tắc, người dân đi lại khó khăn, nên công tác tổ chức hoạt động đoàn vào mùa thu hoạch, mùa mưa là rất khó khăn. Những năm gần đây được sự quan tâm lãnh đạo của tỉnh Đoàn, huyện Uỷ, HĐND, UBND sự phối kết hợp giữa cá ban ngành đoàn thể từ huyện đến cơ sở. Sự hưởng ứng nhiệt tình của cán bộ, đoàn viên TTN trong huyện. Công tác Đoàn và phong trào TTN đã đạt được kết quả cao trong những năm qua. Huyện đoàn Bảo Lâm đã được tỉnh Đoàn trao tặng nhiều bằng khen, đây là nguồn động viên khích lệ đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở làm tốt công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi hơn nữa.
Thực hiện tốt nghị quyết của Đại hội Đoàn cùng với sự quan tâm lãnh đạo của tỉnh Đoàn, huyện uỷ, HĐND, UBND tuổi trẻ huyện Bảo Lâm đã xây dựng chương trình hành động tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, đoàn các cấp. Quá trình tổ chức đã có nhiều cơ sở Đoàn và đoàn viên thanh niên trưởng thành hưởng ứng tham gia nhiệt tình, đã làm tăng thêm uy tín của tổ chức Đoàn, tạo nên bước phát triển mới của tổ chức Đoàn góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương.
* Điều tra nhu cầu của thanh niên với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng là một huyện miền núi nằm ở phía Tây của tỉnh. Trong địa bàn huyện có 8 dân tộc anh em cùng sinh sống. Do vậy cũng tồn tại các nếp sống, phong tục tập quán khác nhau; địa hình nơi đây chủ yếu là đồi núi phù hợp với nếp sống của các dân tộc thiểu số như: Lô lô, H'mông, Dao... Qua đó thăm dò và trưng cầu ý kiến của một số đoàn viên thanh niên trong địa bàn huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng thông qua điều tra xã hội học bằng các phiếu hỏi đã đạt được kết quả sau đây:
Nội dung
Số phiếu phát ra
Hiểu biết
(Tham gia)
Chưa rõ (Không tham gia)
Không ý kiến
Hiểu biết bản sắc văn hoá dân tộc
150
52
58
40
Chiếm 100%
34,6%
38,6%
26,8%
Tham gia các lễ hội văn hoá, các hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT
185
120
50
15
Chiếm 100%
64,8%
27%
8,2%
Biết hát làn điệu truyền thống
95
20
55
20
Chiếm 100%
21%
58%
21%
Bảo tồn di tích văn hoá truyền thống
100
100
0
0
Chiếm 100%
100%
0
0
Qua số liệu trên cho chúng ta thấy được thanh niên ở đây phần lớn chưa nắm rõ về bản sắc văn hoá dân tộc chiếm 38,6%. Do những phong tục tập quán nơi đây đã dần dần mai một đi, một số gia đình ngay cả tiếng dân tộc mình còn không biết nói. Do vậy cần phải được giữ gìn và phát huy những nét đặc trưng của các dân tộc và sao cho phù hợp với ngày nay (những nét đặc trưng đó không phải là thủ tục, lạc hậu nữa).
Thanh niên tham gia các lễ hội văn hoá, văn nghệ, TDTT vẫn chưa thu hút được đông đảo thanh niên tham gia với số người là 50/185 chiếm 27%. Thanh niên biết hát các làn điệu truyền thống của dân tộc mình chiếm 21% (trong tổng số là 20/95 người) và thanh niên không nắm rõ về các làn điệu hát truyền thống chiếm 58% (trong tổng số là 55/95 người) bên cạnh đó một số thanh niên không quan tâm lắm về các làn điệu hát truyền thống chiếm 21%...
TN trong địa bàn huyện Bảo Lâm có một số TN không mấy quan tâm đến vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, không tham gia vào các lễ hội văn hoá, các hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT vì các hoạt động này chưa hấp dẫn và nhàm chán, các làn điệu múa hát truyền thống phần lớn thanh niên cũng không biết đến, giữ gìn và phát huy (vì không được phổ biến mà nó còn mang tính truyền thống, không phù hợp lắm với thời đại CNH - HĐH đất nước).
2.2.2. Thực trạng hoạt động ĐTN huyện Bảo Lâm - Tỉnh Cao Bằng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Hưởng ứng cuộc vận động của Uỷ ban trung ương MTTQ Việt Nam: "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", trong năm qua BCH huyện Đoàn Bảo Lâm đã phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT tạo ra các phong trào thi đua sôi nổi thu hút được đông đảo ĐVTN tham gia, tạo môi trường lành mạnh, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần... Hiện nay, Huyện Bảo Lâm vận động toàn dân xây dựng "Nếp sống văn minh, gia đình văn hoá", lồng ghép cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới tại cụm dân cư", đã tạo thành phong trào cách mạng tự giác trong cán bộ, ĐVTN... được dư luận, nhân dân đồng tình ủng hộ. Tổ chức Đoàn được củng cố thực sự là lực lượng xung kích đi đầu trong mọi hoạt động, các cơ sở Đoàn thường xuyên tuyên truyền vận động ĐVTN xây dựng nếp sống văn hoá, bài trừ các tệ nạn xã hội trong TTN với các chủ đề "Cần kiệm là nếp sống đẹp của TN, Tuổi trẻ sống đẹp - sống có ích...", tiết kiệm trong lễ hội, cưới, tang...
Thông qua hoạt động thực tế cho thấy ở những nơi có đăng ký xây dựng phong trào đều có những thay đổi rõ rệt, an ninh trật tự được ổn định, tình làng nghĩa xóm được củng cố. Các tệ nạn xã hội giảm hẳn, ý thức chấp hành pháp luật của ĐVTN cao. Các tệ nạn xã hội giảm hẳn, ý thức chấp hành pháp luật của ĐVTN cao. Thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình, giúp nhau phát triển kinh tế... Huyện Đoàn tổ chức nhiều cuộc thi văn hoá văn nghệ, trang phục dân tộc... đặc biệt là trong hai ngày 24 - 25/02/2008 tại thị trấn Pắc Miầu: Sở VH - TT - DL, huyện Đoàn phối hợp với UBND huyện Bảo Lâm tổ chức thành công "Hội thi hát dân ca giao duyên cụm huyện miền Tây" với nội dung trình diễn các trang phục dân tộc (Tày, Nùng, H'mông, Dao, Lôlô, Sán chỉ), các tiết mục dự thi với nhiều thể loại làn điệu (lượn cọi, nàng ới, dá hai, sligiang, then... với nội dung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương đất nước, tình bạn, tình yêu đôi lứa). Tham dự có hơn 200 cán bộ, ĐVTN các huyện (Hà Quảng, Thông Nông, Hoà An, Nguyên Bình, Bảo lạc, Bảo Lâm và đoàn khách mời huyện Bắc Mê tỉnh Hà Giang), các đoàn đem đến 30 tíêt mục văn nghệ đặc sắc tiêu biểu của các dân tộc và trình diễn 6 bộ trang phục dân tộc. Ban tổ chức trao giải nhất cho huyện Bảo Lâm.
Huyện có đội văn nghệ, đội thể thao thường xuyên luyện tập, tham gia biểu diễn thi đấu vào các ngày lễ hội lồng tồng đầu năm cầu may mắn... ngoài ra còn tổ chức thi văn hoá văn nghệ, TDTT cho các em thiếu niên nhi đồng trong dịp hè hàng năm. Thường xuyên tuyên truyền vận động cho ĐVTN, bà con nhân dân về DSSKSS, SKSSTN. Vận động ĐVTN và nhân dân: ba trồng, bốn hố.
Hưởng ứng tháng TN do trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phát động, ban thường vụ huyện Đoàn đã triển khai kế hoạch đến các cơ sở, phân công từng thành viên tham gia phụ trách chỉ đạo các xã thị trấn. Ban thường vụ huyện Đoàn tổ chức các lễ ra quân tại các đơn vị. Đoàn thanh niên ra quân giúp đỡ gia đình chính sách: tổ chức được 1889 công lao động giúp đỡ gia đình thương binh liệt sỹ, 1.340.000đ với 72 công lao động giúp đỡ các gia đình chính sách khó khăn, hoạn nạn, hỗ trợ gia đình và nhà trường bị lũ quét được 332 công có 247 ĐVTN tham gia ủng hộ được 23 cho đối tượng nghèo.
* Những kết quả đạt được:
- Công tác giáo dục truyền thống các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và tổ chức học tập các nghị quyết của Đảng... Trong năm đã tổ chức triển khai học tập được 37 buổi với 3606 ĐVTN tham gia.
- Phối hợp với trung tâm chính trị mở được 2 lớp nghiên cứu nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, mở 3 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Đoàn - Hội - Đội có 150 cán bộ các cấp chi đoàn tham gia.
- Tuyên truyền về 100 năm ngày sinh đồng chí Trường Chinh, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của đồng chí Lê Duẩn Tổng bí thư của Đảng, có 314 ĐVTN tham gia.
- Thiết thực chào mừng ngày bầu cử của Đại biểu Quốc hội khoá XII, tuyên truyền vận động ĐVTN tham gia bầu cử và tổ chức làm cổng trào được 30 buổi, có 641 ĐVTN tham gia. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được 38 buổi có 893 ĐVTN tham gia.
- Triển khai luật nghĩa vụ quân sự được 4 buổi có 100 ĐVTN, tuyên truyền kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sỹ được 10 buổi có 200 ĐVTN tham gia. Tuyên truyền luật TN được 25 buổi có 494 ĐVTN tham gia.
- Tuyên truyền ĐVTN dân tộc Sán chỉ không nghe theo truyền đạo trái phép được 5 buổi có 115 ĐVTN tham gia.
- Ngày 10/02/2007 Huyện Đoàn đã chỉ đạo các chi đoàn trực thuộc tổ chức ra quân tình nguyện tại xóm Nà Xa - Đức Hạnh - Bảo Lâm có 50 ĐVTN tham gia. ĐVTN tham gia lao động vê sinh, khám chữa bệnh và cấp phát thuốc miễn phí cho 59 lượt người trị giá gần 2 triệu đồng, tặng chân bông cho 9 gia đình có hoàn cảnh khó khăn, trường ủng hộ quỹ "Tấm lòng vàng" được 850.000đ và chi đoàn quyên góp quần áo...
Thông qua các hoạt động thực tế ĐVTN đã học hỏi trau dồi kiến thức, trang bị được kinh nghiệm và tự mình nâng cao trình độ kỹ năng nghiệp vụ trong lĩnh vực văn hoá nói chung và hoạt động Đoàn nói riêng. Thông qua các hoạt động trên mà vị trí vai trò của tổ chức Đoàn huyện Bảo Lâm thực sự khẳng định được mình, là lực lượng nòng cốt, đội dự bị tin cậy của Đảng, đồng thời tỏ rõ được nguồn nhân lực dồi dào, trẻ khoẻ trong việc tham gia giác ngộ quần chúng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
2.2.3. Nguyên nhân thực trạng
* Nguyên nhân thành công
- Được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở bên cạnh đó mỗi cán bộ Đảng viên luôn nêu cao tinh thần gương mẫu trong học tập và hoạt động. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền nội dung nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước đến cán bộ ĐVTN và người dân giúp họ nhận thức được mọi vấn đề.
- Các ban ngành đoàn thể trong huyện thường xuyên có sự phối hợp thực hiện. Được sự đôn đốc kiểm tra đánh giá sát sao của cấp trên, có các biện pháp khen thưởng kịp thời và kỷ luật thích đáng.
- Phong trào xây dựng xã, làng xóm văn hoá, gia đình văn hoá được triển khai rộng khắp. Công tác giáo dục tuyên truyền được các cán bộ hưởng ứng nhiệt tình tham gia có trách nhiệm.
Bên cạnh những thành tựu đã được trong lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại những mặt ảnh hưởng về sự xuống cấp tư tưởng đạo đức, lối sống của một số TN ảnh hưởng đến môi trường văn hoá, đến nền văn hoá dân tộc và sự phát triển của đất nước.
* Nguyên nhân của tồn tại:
- Về chủ quan:
+ Một số cán bộ Đoàn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp trên, chưa chủ động sáng tạo trong công việc. Công tác chỉ đạo và triển khai thực hiện các hoạt động của cán bộ Đoàn còn chậm, chưa có sự đổi mới phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
+ Đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở một số nơi phát huy hết vai trò trách nhiệm đối với nhiệm vụ được phân công công tác, lãnh đạo chỉ đạo còn chung chung chưa cụ thể. Việc tham gia các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong việc định hướng, chỉ đạo các phong trào hoạt động chưa mang tính thuyết phục cao.
+ Công tác sơ kết, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong việc quán triệt triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, tổ chức đoàn thể cấp trên về "Sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá văn nghệ". Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá " chưa kịp thời.
- Về khách quan:
+ Đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở một số nơi phát huy hết vai trò trách nhiệm đối với nhiệm vụ được phân công công tác, lãnh đạo chỉ đạo còn chung chung chưa cụ thể. Việc tham mưu cho các cấp uỷ Đảng, chính quyền trong việc định hướng, chỉ đạo các phong trào hoạt động chưa mang tính thuyết phục cao.
+ Công tác sơ kết, tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong việc quán triệt triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, tổ chức đoàn thể cấp trên về "Sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá văn nghệ". Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" chưa kịp thời.
- Về khách quan:
+ Do nhận thức của một số cán bộ Đoàn và nhân dân địa phương còn hạn chế, do phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại.
+ Việc tăng cường cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá chưa phù hợp.
+ Năng lực hoạt động trên lĩnh vực văn hoá của cán bộ Đoàn chủ yếu hầu hết cán bộ chưa qua trường lớp, việc tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ chưa thường xuyên, công tác tổ chức cán bộ Đoàn thường xuyên biến động cho nên đã ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức Đoàn.
+ Các cuộc phát động sinh hoạt tập thể của tổ chức Đoàn chưa đa dạng và phong phú, do đó chưa thu hút được 100% ĐVTN tham gia sinh hoạt.
* Đánh giá chung:
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vấn đề quan trọng và cấp bách, là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với sự phát triển của đất nước mà lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu thực hiện nhiệm vụ này là Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Nhận thức được vấn đề trên cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể trên địa bàn huyện Bảo Lâm, triển khai thực hiện các hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, bên cạnh đó BCH huyện Đoàn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong việc quán triệt, thực hiện nghị quyết TW5 khoá VIII bằng nhiều nội dung hình thức phong phú hấp dẫn. Trong thực tiễn đạt được tổ chức Đoàn đã khẳng định được vị trí vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu là đội dự bị tin cậy của Đảng, là lực lượng chính tham gia giác ngộ cán bộ ĐVTN và nhân dân giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
* Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tiễn kết quả hoạt đông đạt được của phong trào TN những năm qua có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn, bám sát vào chương trình, kế hoạch chỉ đạo của Huyện Uỷ, tranh thủ sự lãnh đạo của Đoàn cấp trên để gắn với từng nhiệm vụ cụ thể cho từng giai đoạn kịp thời đề ra chương trình phù hợp với thực tế và đáp ứng cao nhiều nhu cầu của ĐVTN. Tăng cường công tác tham mưu đối với cấp uỷ, chính quyền.
- Phát huy tính năng động sáng tạo và tích cực của TN, chọn đúng thời cơ, thời điểm phát động phong trào, kết hợp hài hoà giữa nhu cầu của TN với các chương trình công tác của Đoàn. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và đánh giá động viên khen thưởng kịp thời. Đặc biệt là thông tin báo cáo 2 chiều kịp thời có chất lượng.
- Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ có uy tín trong TN, tạo môi trường rèn luyện phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, kỹ năng nghiệp vụ, làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng chính quyền về công tác TN, biết vận dụng sáng tạo các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng tổ chức thực hiện các chương trình công tác Đoàn.
- Phải coi trọng vai trò hoạt động chính trị của tổ chức Đoàn, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ và công tác tổ chức Đoàn trong việc thu hút, tập hợp ĐVTN.
- Biết phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng trên địa bàn... Để ĐVTN có thể thực hiện được những nhu cầu nguyện vọng chính đáng.
- Luôn đổi mới nội dung phương thức hoạt động phù hợp với từng đối tượng, ĐVTN và điều kiện địa phương, công tác Đoàn và phong trào TTN, phải đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của TTN, chú trọng các hoạt động chiều sâu có liên quan trực tiếp đến quyền lợi ĐVTN. Gắn hoạt động của Đoàn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng địa phương.
CHƯƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC CỦA ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH HUYỆN BẢO LÂM - TỈNH CAO BẰNG.
3.1. Những định hướng về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc ở huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
- Căn cứ vào cơ sở lý luận của đề tài.
- Căn cứ vào thực trạng của các hoạt động Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Căn cứ vào tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
- Qua tham khảo ý kiến của ban lãnh đạo, của các ban ngành đoàn thẻ khác.
- Qua tham khảo nhu cầu, nguyện vọng trưng cầu ý kiến của ĐVTN trên địa bàn huyện Bảo Lâm.
- Căn cứ vào bài học kinh nghiệm.
Dựa vào những căn cứ trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp mang tính khả thi để tổ chức Đoàn và ĐVTN có thể áp dụng vào hoạt động của mình, để ĐVTN hiểu - nắm rõ làm tốt hơn nữa việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc góp phần: "Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc", một nền văn hoá riêng của Việt Nam cũng được toàn thế giới biết đến và tiếp nhận như những tinh hoa của nhân loại...
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng.
1. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho ĐVTN
Các cấp bộ Đoàn luôn tập trung tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, học tập các nghị quyết của Đảng cho ĐVTN. Đây là nhân tố rất quan trọng, nên các cấp bộ Đoàn luôn tích cực đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đảm bảo vai trò định hướng chính trị của Đoàn, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần trong lý tưởng của ĐVTN, góp phần củng cố vào đường lối độc lập dân tộc và CNXH.
Việc triển khai học tập 6 bài học lý luận chính trị các cơ sở Đoàn duy trì thực hiện. ĐVTN là lực lượng nòng cốt kế thừa sự nghiệp cách mạng của đất nước, là chủ nhân đưa nước ta sánh tầm với các cường quốc năm châu, trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Do đó công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho ĐVTN là rất quan trọng và thiết thực.
2. Xây dựng và phát triển cơ sở vật chất.
Hiểu rõ được đặc điểm tình hình, bản sắc văn hoá từng dân tộc, từng địa phương. Thông qua việc tìm hiểu trao đổi với trưởng ban người cao tuổi, kết hợp với việc nghiên cứu thực tế để nắm bắt được những nét đặc trưng tiêu biểu và khả năng đặc trưng của bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt là hiểu về đời sống phong tục tập quán của từng dân tộc.
Qua đó có những chủ trương chính sách phù hợp với từng dân tộc, bồi dưỡng đội ngũ cơ sở là người dân tộc... Cần trang bị cho Đoàn TNCS những trang thiết bị phù hợp cho phong trào, hoạt động của Đoàn ở nơi làm việc cũng như các hoạt động lưu động... Đặc biệt các hoạt động của Đoàn cần được hỗ trợ kinh phí nhiều hơn, vì phong trào Đoàn là cái gốc của mọi hoạt động. Có như vậy phong trào hoạt động của Đoàn sẽ tốt hơn và đạt hiệu quả cao, thực hiện tốt nhiêm vụ.
3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đoàn viên thanh niên.
Tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng cán bộ Đoàn, coi đây là nhân tố quyết định đến thành công của phong trào, ngành VH - TT - DL. Thường xuyên xây dựng chỉ đạo và tổ chức các phong trào ở cơ sở, củng cố phong trào cơ sở. Để cơ sở đảm nhận tốt công tác và mở lớp tập huấn: nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ, tổ chức. Cần có chính sách ưu đãi bồi dưỡng kịp thời để hỗ trợ phần nào đó cho cán bộ cơ sở.
Cán bộ đảm nhận công tác của mình cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, đặt lợi tập thể lên trên lợi ích cá nhân, tích cực bồi dưỡng chuyên môn, nhiệt tình với các phong trào. Tạo bước phát triển hết mức cho phong trào tổ chức Đoàn, nâng cao uy tín của tổ chức Đoàn trong ĐVTN và các tầng lớp nhân dân, góp phần vào sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
4. Đa dạng hoá các hoạt động:
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho ĐVTN hiểu, nắm rõ về văn hóa dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc cũng như trách nhiệm của họ trong việc thực hiện sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao nhận thức tư tưởng tình cảm cho ĐVTN. BCH huyện cần tiếp tục quán triệt, triển khai xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết TW5 khoá VIII các nghị quyết chỉ thị của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trước hết cần tập trung vào các vấn đề bức xúc trong đời sống văn hoá của ĐVTN.
Trước sự thay đổi về nền kinh tế thị trường theo hướng CNH - HĐH, đã tác động không ít đến tư tưởng đạo đức, lối sống của ĐVTN đặc biệt là ĐVTN dân tộc thiểu số. Một số người còn cho rằng những chuẩn mực đạo đức của các thế hệ trước là cổ hủ, lạc hậu không còn hợp thời đại. Do vậy cần biết chọn lọc, kế thừa và phát huy cho phù hợp với thời đại.
Thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với chủ đề, phong phú đa dạng, hấp dẫn nhằm thu hút tập hợp đông đảo ĐVTN tham gia. Thông qua các hình thức thông tin tuyên truyền, hình thức sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt văn hoá, diễn đàn hội thảo: "Tuổi trẻ với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc"...
5. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động
3.3. Kiến nghị
1.Đối với Đảng:
Thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá giữa các vùng các dân tộc.
Thực hiện "bình đẳng, đoàn kết, tương trợ" giữa các dân tộc trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Xoá bỏ được đói, giảm được nghèo ổn định và cải thiện được cuộc sống, sức khoẻ của đồng bào, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng hải đảo... Xoá nạn mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ Đảng của các dân tộc ở các vùng các cấp trong sạch và vững mạnh.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hoá, mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số.
2. Đối với Nhà nước:
Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần tốt đẹp, lành mạnh, phong phú ở cơ sở, thực hiện cuộc vận động "toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hoá".
Chính quyền tổ chức các hoạt động về một nội dung nhưng dưới nhiều hình thức tuyên truyền như: phát tờ rơi đến từng giai đoạn, hoạt động văn hoá hay thông qua hình thức câu lạc bộ...
Xây dựng điển hình mẫu để nhân ra diện rộng, động viên mọi người lao động sáng tạo, để có nhiều sản phẩm về các chuyên ngành các lĩnh vực như: tác phẩm văn hoá nghệ thuật, nhà doanh nghiệp thành đạt...
Thực hiện việc tổ chức giao lưu văn hoá văn nghệ giữa các dân tộc, mở rộng hình thức "Ngày hội văn hoá - thể thao các dân tộc", theo quy mô vùng, các cấp địa chính... nhằm tăng cường hiểu biết, đoàn kết giữa các dân tộc, qua đó giới thiệu về văn hoá - Nghệ thuật của dân tộc mình cho các dân tộc khác và trên thế giới.
3. Đối với Trung ương Đoàn:
Phát động cuộc thi "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong toàn quốc", thông qua cuộc thi này các ĐVTN sẽ hiểu rõ thêm về các dân tộc. Có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc, cán bộ nguồn, nâng cao năng lực cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo là cái gốc của mọi phong trào ... Có như vậy phong trào Đoàn cơ sở địa phương mới có thể phát huy được và hoàn thành tốt phong trào hành động của Đoàn TNCS, đặc biệt là thực hiện tốt nhiệm vụ thu hút và tập hợp TTN vào tổ chức Đoàn, vào phong trào Đoàn...
4. Đối với Tỉnh Đoàn và Huyện Đoàn:
Quan tâm chỉ đạo hoạt động, phong trào của tổ chức Đoàn cơ sở, thường xuyên đôn đốc kiểm tra. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động triển lãm ở cơ sở. Phát triển mạng lưới thư viện, phong trào đọc sách báo.
Công tác bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống. Tổ chức và quản lý các hoạt động lễ hội trên địa bàn, tổ chức thi tìm hiểu: Theo bài thu hoạch, thi tiểu phẩm, văn hoá văn nghệ, TDTT và các hoạt động tìm hiểu về Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Tổ chức cho ĐVTN học các bài học nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các bài học kỷ luật chính trị.
5. Đối với các ban ngành đoàn thể khác.
Tổ chức các cuộc vận động sáng tạo văn hoá, nghệ thuật, báo chí về đề tài miền núi, dân tộc thiểu số và có kế hoạch xuất bản. Giới thiệu những tác phẩm ấy nhằm phản ánh kịp thời những tiến bộ, những tâm tư nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong quá trình đổi mới. Làm tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời nghiên cứu ban hành chính sách phù hợp đối với các cán bộ các ngành ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Tổ chức xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các đội văn nghệ quần chúng cơ sở, củng cố và phát triển các đội chiếu bóng lưu động, đội tuyên truyền văn hoá lưu động.
Làm tốt hơn nữa công tác giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số. Đồng thời với công việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác và giới thiệu cần có kế hoạch bảo tồn các công trình, địa chỉ văn hoá có giá trị tiêu biểu ở vùng các dân tộc thiểu số. Cải thiện và nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, thông tin ở miền núi và vùng các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh các hình thức xã hội hoá, mở rộng sự hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực bên ngoài.
6. Đối với gia đình:
Tạo mọi điều kiện cho ĐVTN tham gia sinh hoạt và tìm hiểu về Đoàn - Hội - Đội, về các phong trào do Đoàn TN phát động...
Xây dựng nếp sống văn hoá trong gia đình: gia đình ấm no, hoà thuận, hạnh phúc, kế hoạch hoá gia đình, gia đình văn hoá, gia đình tiến bộ...
Xây dựng nếp sống văn minh: giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục và đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện lành mạnh tiết kiệm (trong việc cưới, hiếu hỷ, lễ hội, tết và các hình thức sinh hoạt văn hoá khác...).
Không thực hiện các hành vi tín ngưỡng, mê tín dị đoan, hủ tục lạc hậu (cúng bãi cầu mưa, cầu mùa màng, khảo cây ăn quả...).
KẾT LUẬN
Nghị quyết hội nghị TW5 khoá VII với nội dung: "Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc", là nghị quyết cực kỳ quan trọng nó sẽ xác định lại tâm hồn và cốt cách con người Việt Nam. Đó là một quá trình đấu tranh lâu dài (nó còn là quá trình giữ nước và dựng nước) là chống xâm lược. Chính vì đó mà nó khẳng định sự tồn tại của dân tộc Việt Nam. Ở Việt Nam chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành "cẩm nang thần kỳ", là ánh đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN, chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang thời kỳ CNH - HĐH. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống pháp trị và cả đức trị, song truyền thống của người Việt Nam là phải có lý, có tình. Trong cuộc sống luôn vận động phát triển không ngừng nên không thể lấy khuôn mẫu của thời kỳ phong kiến áp đặt cho thời kỳ CNXH một cách rập khuôn. Do vậy cần có những chuẩn mực đạo đức phù hợp với xã hội văn minh hiện đại, do đó mà người Việt Nam luôn sống và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với nội dung: Luôn chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, TN, TN và rèn luyện theo đức tính: Trung - Hiếu - Chí - Dũng - Cần - Kiệm - Liêm - Chính - Chí công vô tư... đó là những chuẩn mực và những bài học đạo đức còn giá trị cho ngày hôm nay. Trong điều kiện của thế giới, ngày nay những gì trong nói tiếp tục khẳng định mình và đóng vai trò là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Thế hệ trẻ TN ngày nay được tiếp thu, lĩnh hội những tinh hoa văn hoá của nhân loại; ĐVTN là lực lượng nòng cốt, là thế hệ kế tụng sự nghiệp của đất nước. Do vậy, thế hệ trẻ cần phải bảo tồn những di sản văn hoá (đó là kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người...
Hiện nay đồng tiền đang chi phối mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành vi đối xử của con người, nó đang góp phần làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống, nhân văn của dân tộc ta. Điều đáng nói là nhiều nếp sống thể hiện thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc ta bị thương mại hoá. Đời sống tinh thần tâm linh của lễ giáo, nơi tôn nghiêm của các lễ hội cũng trở thành nơi kinh doanh trục lợi clủa không ít cá nhân và tập thể... Ngược lại rất nhiều người tuy hạn chế về học vấn, song lại giàu lòng nhân ái, lao động cần cù, khiêm tốn trung thực, đức độ sống trong sáng, biết sống vì mọi người... Những người đó luôn được coi là những tấm gương mẫu mực về văn hoá. Tất cả các hoạt động văn hoá đều nhằm phát huy năng lực bẩm sinh và năng lực bản chất của con người, trên cơ sở đó con người là tổng hoà được thuộc tính sinh vật - xã hội và tính chất xã hội - văn hoá. Văn hoá không nằm ngoài kinh tế, chính trị, nhưng chính văn hoá có đời sống riêng của nó, có quy luật hoạt động riêng của nó. Mục tiêu cao cả nhất của hoạt động văn hoá là vì con người, vì sự phát triển hoàn thiện con người. Mục tiêu của tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội... suy cho cùng cũng thống nhất với mục tiêu đó của hoạt động.
Văn hoá là toàn bộ những giá trị do sản xuất vật chất của con người sáng tạo ra trong lịch sử, là toàn bộ sản phẩm và giá trị được tạo ra trong sản xuất tinh thần của con người. Do vậy mỗi cá nhân phải có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, trong mỗi cá nhân mà không có ý thức bảo tồn về bản sắc văn hoá dân tộc mình thì nó sẽ dần dần mất đi và không còn tồn tại.
Văn hóa dân tộc Việt Nam và sức mạnh của nó là nền tảng và linh hồn cho sự phát triển đất nước. Chính nền tảng tinh thần vững chắc ấy đã đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách nghiệt ngã của lịch sử để bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của mình và vươn lên ngang tầm thời đại. Sức mạnh văn hoá dân tộc Việt Nam đã và đang mang lại sức sống mãnh liệt cho nhân dân Việt Nam vững bước tiến lên con đường đổi mới, bước vào thiên niên kỷ mới, với niềm tin tưởng và tự hào dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Từ khi nghị quyết ra đời đến nay, đã được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng nhiệt tình. Trong quá trình triển khai nghị quyết là một quá trình nhận thức mới trong hành động của Đảng bộ và nhân dân huyện Bảo Lâm, đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Huyện Bảo Lâm đã có những chuyển biến bước đầu đáng khích lệ và nghị quyết đã đi sâu vào cuộc sống mọi tầng lớp nhân dân. Nhằm khắc phục những tồn tại và những biểu hiện sai lệch trong đời sống văn hoá, đồng bào các dân tộc huyện Bảo Lâm đang cố gắng tìm mọi biện pháp đưa nghị quyết thành hiện thực, làm cho con người phát triển toàn diện các thể lực và trí lực. Đáp ứng sự nghiệp CNH - HĐH đất nước tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh như nghị quyết của Đảng đã đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện hội nghị lần thứ V của BCH trung ương khoá VIII. Hà Nội 1998, NXB chính trị quốc gia.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia năm 2003.
3. Giáo trình lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002.
5. Chu Quang Cường “giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc”, tạp chí nghiên cứu khoa học tự nhiên năm 1998.
6. Báo cáo chính trị tại đại hội đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm lần thứ 8 nhiệm kỳ 2007 – 2012.
7. Văn hoá với thanh niên thanh niên với văn hoá, Hà Nội 2002.
8. Văn kiện đại hội Đảng bộ huyện Bảo Lâm lần thứ 19 nhiệm kỳ 2005 – 2010.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh huyện Bảo Lâm - tỉnh Cao Bằng với sự nghiệp giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.doc