Đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, khảo sát thực trạng và những giải pháp

Cùng với những chuyển biến và phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM theo đường lối "đổi mới", đặc biệt là từ sau Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về "Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới" và Nghị quyết VII Ban chấp hành TW về CNH và HĐH đất nước, hoạt động khoa học và công nghệ (KH - CgN) đã có những đóng góp thiết thực trong việc đạt được những thành tựu tăng trưởng của các ngành kinh tế - xã hội thời gian qua, cũng như tạo được một số tiền đề khoa học và công nghệ cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là những chuyển biến bước đầu. Nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội trong các giai đoạn kế tiếp đã và đang đặt ra hàng loạt các nhu cầu cấp bách và ngày càng gay gắt đối với sự phát triển của KH và CgN. Vì thế, những đánh giá tổng quát dưới đây xuất phát từ hai giác độ: một là, những nhu cầu của CNH và HĐH trong giai đoạn quy hoạch và hai là, các khả năng và nỗ lực có thể huy động được trong điều kiện của nền kinh tế mở, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2905 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, khảo sát thực trạng và những giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khoa học và công nghệ I. Thực trạng phát triển khoa học và công nghệ Cùng với những chuyển biến và phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM theo đường lối "đổi mới", đặc biệt là từ sau Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị về "Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới" và Nghị quyết VII Ban chấp hành TW về CNH và HĐH đất nước, hoạt động khoa học và công nghệ (KH - CgN) đã có những đóng góp thiết thực trong việc đạt được những thành tựu tăng trưởng của các ngành kinh tế - xã hội thời gian qua, cũng như tạo được một số tiền đề khoa học và công nghệ cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, những kết quả đạt được mới chỉ là những chuyển biến bước đầu. Nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội trong các giai đoạn kế tiếp đã và đang đặt ra hàng loạt các nhu cầu cấp bách và ngày càng gay gắt đối với sự phát triển của KH và CgN. Vì thế, những đánh giá tổng quát dưới đây xuất phát từ hai giác độ: một là, những nhu cầu của CNH và HĐH trong giai đoạn quy hoạch và hai là, các khả năng và nỗ lực có thể huy động được trong điều kiện của nền kinh tế mở, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. 1. Hiện trạng trình độ công nghệ và tình hình đổi mới công nghệ thuộc các ngành sản xuất - dịch vụ chủ yếu 1.1. Theo đánh giá của các ngành hữu quan, nhìn chung, trình độ công nghệ của hầu hết các cơ sở sản xuất, dịch vụ của TP cho tới nay vẫn còn ở mức lạc hậu (hữu hình và vô hình). Kết quả điều tra tại gần 900 cơ sở cho thấy tỷ lệ các máy móc thiết bị chính đang sử dụng có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu chiếm tới trên 91% (ngay tại 19 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài được điều tra, chỉ tiêu này cũng ở mức trên 55%). Trong khu vực ngoài quốc doanh, việc đầu tư mua sắm thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất có chất lượng và mức độ tiên tiến hơn, phần lớn còn mới, tỷ lệ còn lại của tài sản cố định khoảng 90% (công ty cổ phần 87%, công ty TNHH 90%, DNTN 91,5%). Trong các cơ sở TTCN, máy móc thiết bị hầu như không được đổi mới bao nhiêu, thường dùng máy cũ mua lại hoặc máy tự trang tự chế. - CN dệt - sợi: khâu công nghệ kéo sợi, dệt thoi dệt kim, dệt khăn bông đạt mức trung bình khá của thế giới (70 - 75%). Riêng công nghệ dệt len, dệt chăn, dệt vải màn còn ở mức thấp của thế giới (50 - 55%). Về thiết bị, đa phần sử dụng thiết bị cũ đã lạc hậu (số cọc sợi hoạt động trên 25 năm chiếm 30%, thiết bị dệt thoi 95% thuộc loại thế hệ I, II). - CN giấy: công nghệ sản xuất giấy chỉ đạt ở mức trung bình của thế giới (60 - 65%). Riêng công nghệ sản xuất giấy bao bì, giấy trắng phấn, đạt ở mức thấp (50%) so với thế giới. - CN may: hệ thống thiết bị của ngành may hầu hết là của Nhật và Đức thuộc thế hệ thứ II. - CN da giày: chủ yếu là thiết bị của Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ chỉ ở mức trung bình của thế giới (50%). - CN nhựa: chủ yếu là gia công, nguyên liệu nhựa nhập 100%. Trong những năm gần đây thiết bị đổi mới, chủ yếu là thiết bị của Cộng hòa Liên bang Đức, Ý, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc... thuộc thế hệ II và đầu thế hệ III. Chất lượng sản phẩm tương đương 70 - 80% so với thế giới. - CN sữa - bánh kẹo: tuổi thọ trung bình của thiết bị trên 20 năm, thuộc thế hệ I và II. Chất lượng sản phẩm đạt 70 - 80% so với các nước trong khu vực. - CN chế biến lương thực - thực phẩm, máy móc thiết bị khá cũ, đã thay thế nhiều lần nên rất chắp vá. Tuổi thọ trung bình của thiết bị gần 12 năm. Nhiều thiết bị đã lâu không được thay thế. - CN cơ khí: dù có một số sản phẩm xuất khẩu, nhưng yếu kém lâu nay của CN cơ khí TP vẫn tồn tại nguyên vẹn. Đó là trình độ nhiệt luyện yếu kém, máy móc cũ kỹ lạc hậu, công nghệ tạo phôi lạc hậu. - CN in: tốc độ đầu tư thiết bị mới tăng nhanh từ năm 1990 đến nay và đã tạo được bước tiến bộ mới. Hầu hết các xí nghiệp đều đã trang bị hệ thống chế bản điện tử. Thiết bị mới đầu tư đều thuộc loại tương đối hiện đại nên hiện nay ngành in TP có thể nhận các hợp đồng in xuất khẩu. - CN kỹ thuật điện - điện tử: đã có những tiến bộ đáng kể trong đổi mới công nghệ và thiết bị nên sản phẩm được người tiêu dùng tín nhiệm như dây cáp điện, ti vi, quạt điện... - Xây dựng: đã có nhiều tiến bộ trong công nghệ khảo sát, thiết kế, thi công, nhưng trình độ trang bị vẫn còn ở mức trung bình 65,2%, quá lạc hậu 33%. - Vận tải - bưu điện: là những ngành được quan tâm đầu tư, trang bị, đổi mới công nghệ. Tuy vậy, trình độ trang, thiết bị hiện nay cũng mới chỉ đạt mức: 8% hiện đại, 54% trung bình, 32% lạc hậu. 1.2. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, nhiều cơ sở sản xuất - dịch vụ đã quan tâm và đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, sản xuất mặt hàng mới, tăng năng lực sản xuất các mặt hàng có chất lượng đáp ứng nhu cầu cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng hàng CN xuất khẩu tăng từ 20,4% năm 1991 lên trên 48,4% năm 1995. Nhiều sản phẩm CN đã thay thế hàng ngoại nhập, được thị trường tín nhiệm (dệt, nhựa, điện tử, may mặc, chế biến lương thực - thực phẩm, in...). Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển đổi từng bước theo hướng sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao (sữa bò, thịt, trứng, gia cầm, rau quả tươi, thủy sản nuôi tại các thủy vực...). Tuy nhiên, mức độ đổi mới công nghệ vẫn còn ở mức 10%/năm (chưa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng và phát triển). Trong 40 mặt hàng chủ yếu của CN TP, hầu hết vẫn là hàng tiêu dùng. Trên 80% nguyên liệu của các cơ sở sản xuất vẫn còn phải nhập khẩu. Trong các ngành CN, có khoảng 70% số cơ sở tiến hành đổi mới công nghệ (chủ yếu đổi mới từng bộ phận, từng khâu công nghệ), với mức đầu tư trung bình 3 tỷ đồng cho một cơ sở (thấp nhất 1,5 - 2,0 tỷ đồng trong ngành nhựa, cao su, hóa dược; cao nhất 5 -10 tỷ đồng trong ngành dệt - nhuộm, điện - điện tử, thuốc lá...). Trong các ngành xây dựng, vận tải - bưu điện, nông - lâm - ngư nghiệp, dịch vụ... có khoảng 60% số cơ sở tiến hành đổi mới trang thiết bị, với mức đầu tư trung bình cho một cơ sở: nông - lâm - ngư nghiệp: 600 triệu đồng, xây dựng: 1 tỷ đồng, vận tải - bưu điện: 10 tỷ đồng... 1.3. Trước nhu cầu đổi mới cơ chế kinh tế, nhu cầu của sản xuất và đời sống, hoạt động nghiên cứu - triển khai KH - CgN trên địa bàn TP cũng đã có những chuyển biến và thành tựu bước đầu đáng quan tâm. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã tập trung điều tra, nghiên cứu nhiều vấn đề, hiện tượng kinh tế - xã hội của TP, xây dựng các cơ sở, luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng chiến lược quy hoạch và kế hoạch tăng trưởng và phát triển ổn định, cho việc đổi mới cơ chế và tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội nhằm thực hiện đường lối đổi mới, các chủ trương của lãnh đạo TP ngày càng có hiệu quả. Trong lĩnh vực sản xuất CN, đã nghiên cứu đổi mới, nắm vững và cải tiến, thích ứng công nghệ, thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo sản phẩm mới cho nhiều ngành, góp phần thiết thực vào việc tăng cường năng lực sản xuất, giảm tiêu hao nguyên - nhiên - vật liệu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa trên thị trường trong nước và thế giới. Trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp đã đạt nhiều thành tựu trong nghiên cứu, tổ chức áp dụng qui mô lớn những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, các giải pháp thâm canh trên cơ sở kỹ thuật mới và công nghệ sinh học, tạo được các tiền đề khoa học và công nghệ làm cơ sở cho việc thay đổi cơ bản cơ cấu cây trồng vật nuôi cho thời gian tới. Trong một số lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện đại có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển trong đầu thế kỷ 21 như công nghệ tin học, chế tạo và sử dụng vật liệu mới, sử dụng các nguồn năng lượng mới, lực lượng khoa học và kỹ thuật của TP đã chứng tỏ có khả năng nhanh chóng tiếp thu làm chủ một số công nghệ ngoại nhập trong điều kiện thực tiễn, đáng lưu ý là việc áp dụng tin học và điện tử trong bưu chính - viễn thông, trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; nghiên cứu triển khai việc áp dụng vật liệu compozite tạo ra hàng trăm loại sản phẩm có khả năng áp dụng rộng rãi trong vận tải thủy, trong các công trình thủy lợi, xây dựng và quốc phòng; việc áp dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió cũng đạt được các kết quả thiết thực bước đầu ở quy mô nhỏ... 2. Thực trạng xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học trên địa bàn TP và quản lý khoa học và công nghệ 2.1. Về cán bộ KH - CgN: Hiện nay tại TP có khoảng 100.000 cán bộ có trình độ đại học trở lên (chiếm 14,3% tổng số cả nước), trong đó số cán bộ có trình độ tiến sĩ, phó tiến sĩ và thạc sĩ khoảng trên 800 người (chiếm 10% tổng số cả nước). Trong đó, số cán bộ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên - 20%, khoa học kỹ thuật - 22%, y dược - 9%, khoa học xã hội - 44%. Số cán bộ do TP quản lý chiếm khoảng 60% (chủ yếu là cán bộ có trình độ đại học, số có trình độ trên đại học - TP chỉ quản lý khoảng 5%). Số cán bộ trình độ trung học chuyên nghiệp gần 90.000 người, công nhân kỹ thuật khoảng 150.000 người. Trong 5 năm từ 1990 đến 1994, CN trên địa bàn TP thu hút khoảng 100.000 - 110.000 lao động (bình quân 22.000 - 23.000 lao động/năm). Riêng ngành may, 5 năm qua đã thu hút 24.545 người (chiếm khoảng 22 - 23% số lao động CN tăng thêm). Điều đáng lưu ý là nhiều công nhân trong ngành may từ các nơi khác đến TP làm việc. Số lao động ở các ngành khác tăng lên không đáng kể, thậm chí lao động ở một số ngành còn giảm (dệt, sản xuất hóa chất, vật liệu xây dựng, sản xuất kim loại...). Chất lượng lao động trong các cơ sở CN ngày càng được nâng cao. Do được đầu tư trang bị mới nên nhiều công nhân đã sử dụng thành thạo các máy móc hiện đại. Trình độ cán bộ quản lý cũng được nâng lên một bước. Theo số liệu điều tra gần đây của Bộ Công nghiệp nhẹ, tỷ trọng cán bộ, công nhân được đào tạo đã tăng lên rõ rệt, tuy vậy số công nhân lành nghề (4/7) được đào tạo cũng chỉ mới chiếm trung bình khoảng 30%. Khảo sát một số đơn vị ngoài quốc doanh cho thấy 58,9% lao động chưa qua đào tạo, khoảng 27% là công nhân kỹ thuật và 6,5% có trình độ đại học. Hầu hết giám đốc các cơ sở CN ngoài quốc doanh ở độ tuổi 50, số dưới 40 tuổi chiếm 52,8%, dưới 31 tuổi chiếm 12,3%. Còn 32% giám đốc các cơ sở CN ngoài quốc doanh chưa có bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ. Phần lớn giám đốc các công ty TNHH, DNTN chưa được huấn luyện về quản trị kinh doanh. Đây là một trong những vấn đề cần lưu tâm. Tuy điều kiện làm việc còn gặp nhiều khó khăn, nhưng đội ngũ này đã có nhiều đóng góp tích cực trong các hoạt động KH - CgN phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của TP. Trước các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong quy hoạch, điều có thể nhận thấy là sự bất cập về số lượng cũng như cơ cấu, chất lượng của đội ngũ này (TP mới có khoảng 20.000 cán bộ đại học/1 triệu dân, trong khi Hàn Quốc - 53.000, Nhật 71.000...). Một điều đáng lưu ý là tỷ lệ cán bộ khoa học kỹ thuật làm việc trong các ngành sản xuất CN chỉ chiếm 18,7%, trong nghiên cứu triển khai chiếm 12%. Mặt khác, số cán bộ có độ tuổi trên 50 có trình độ đại học và trên đại học chiếm khá cao: 63% tiến sĩ, 32% phó tiến sĩ và 20% đại học. 2.2. Các cơ quan nghiên cứu - triển khai: Trên địa bàn TP có 35 cơ quan nghiên cứu - triển khai KH - CgN (các Viện, Trung tâm), trong đó trên 30 cơ quan trực thuộc các Bộ, ngành TW (trong tổng số 200 cơ quan của cả nước, số các cơ quan trên địa bàn Hà Nội là 160). Cùng với các cơ quan này, các trường đại học và đào tạo chuyên nghiệp (25 trường và phân hiệu), các trung tâm phân tích, thực nghiệm, các cơ sở y tế cũng tham gia các hoạt động nghiên cứu, triển khai thúc đẩy áp dụng kỹ thuật tiến bộ và có đóng góp đáng lưu ý. Mức độ đầu tư bình quân cho 1 cán bộ nghiên cứu (bao gồm đầu tư trang thiết bị và chi phí cho đề tài nghiên cứu - triển khai), theo đánh giá của Bộ Khoa học - Công nghệ - Môi trường là quá thấp so với các yêu cầu của những nhiệm vụ được đặt ra. 2.3. Các hoạt động thông tin KH - CgN, quản lý tiêu chuẩn đo lường và kiểm định chất lượng sản phẩm hàng hóa, sở hữu CN tuy còn nhiều hạn chế, nhưng đã hình thành các hệ thống hoạt động, đã có những chuyển biến và đóng góp nhất định nhằm đáp ứng những yêu cầu mới đối với từng lĩnh vực tương ứng trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. II. Dự báo xu thế phát triển khoa học và công nghệ theo Các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM Thời kỳ 1996 - 2010 là khoảng thời gian trong đó nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của KH - CgN. Trong vài năm gần đây với việc hàng năm có hàng loạt các sản phẩm hàng hóa thế hệ công nghệ mới được đưa vào sản xuất và tiêu thụ rộng rãi trên thị trường thế giới, kèm theo đó là việc thay đổi và loại thải hàng loạt các công nghệ cũ, đã và đang chứng tỏ những chuyển biến cách mạng trong KH - CgN diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Những chuyển biến này, một mặt là kết quả của sự phát triển KH - CgN trong 20 - 30 năm vừa qua, mặt khác, đáp ứng được những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và xã hội trong một thời đại văn minh mới - nền văn minh hậu CN: năng suất lao động, hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm nguyên - nhiên - vật liệu (công nghệ ít hoặc không phế thải), sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo và bảo vệ, cải thiện môi trường sống, thỏa mãn các nhu cầu cao cả về vật chất lẫn tinh thần của con người. Những định hướng phát triển chủ yếu có thể nhìn thấy là: Công nghệ thông tin liên kết giữa tin học và viễn thông dựa trên nền tảng của vi điện tử với việc tạo ra xa lộ thông tin toàn cầu và các hệ thống đối thoại người - máy; vi điện tử và các hệ thống máy tính thế hệ thứ 5 sẽ là nền tảng của công nghệ tự động hóa đưa năng suất và đặc biệt là chất lượng sản phẩm, chất lượng của nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, lên một bước phát triển mới. Công nghệ sinh học trên nền tảng của kỹ thuật gen, tế bào, không những tạo nên những tiềm năng mới đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm toàn cầu, mà còn mở ra những khả năng to lớn trong cải thiện, bảo vệ môi trường sinh thái, trong bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người. Công nghệ sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới với những phát kiến liên tục trong các lĩnh vực vật liệu bán dẫn, siêu dẫn nhiệt độ cao, quang điện tử, compozit, gốm kỹ thuật... đã và đang đưa vào áp dụng phổ biến nhiều loại vật liệu, một mặt, thay thế có hiệu quả những vật liệu truyền thống ngày càng cạn kiệt hoặc phi kinh tế, mặt khác, mở ra nhiều ứng dụng mới mà loài người từng mong mỏi (công nghệ vũ trụ; khai thác tiềm năng biển và trong lòng đất; khai thác các nguồn năng lượng tái tạo - mặt trời, gió, địa nhiệt - giảm tối đa các tổn thất điện năng và nhiệt năng...). Trên cơ sở phân tích các xu hướng phát triển KH - CgN toàn cầu và trong khu vực (đặc biệt là các nước mới công nghiệp hóa - NICs), đánh giá nhu cầu và khả năng của đất nước, Ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Việt Nam đã có Nghị quyết về CNH và HĐH, đồng thời xác định đây là một trong những nội dung chủ yếu sẽ được thảo luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Chính phủ cũng đã có các Nghị quyết về các chương trình quốc gia phát triển dài hạn công nghệ thông tin, công nghệ sinh học (Nghị quyết 49/CP năm 1993 và 18/CP năm 1994), cũng như các chương trình quốc gia 5 năm thực hiện CNH và HĐH 1996 - 2000 thuộc các lĩnh vực quan trọng khác (công nghệ vật liệu và năng lượng mới; phát triển công nghệ sản xuất các sản phẩm truyền thống và phát triển nông thôn). III. VỊ TRÍ, VAI TRÒ, QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TP.HCM 1. Vị trí, vai trò của KH - CgN KH - CgN (bao gồm các lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật và xã hội) có một vị trí quyết định quá trình phát triển, đặc biệt đối với quá trình phát triển ổn định và lâu dài. Vai trò động lực của KH - CgN càng thể hiện rõ trong thời kỳ chuyển biến mang tính đột biến. Đối với TP.HCM, sau giai đoạn khai thác các nhân tố tăng trưởng và phát triển theo chiều rộng thời gian qua và trong những năm trước mắt, thời kỳ khai thác các nhân tố theo chiều sâu (năng suất, chất lượng và hiệu quả) để duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định hàng năm trên 14 - 15%, vai trò của KH - CgN tăng lên gấp bội. Điều này đòi hỏi phải có những quan điểm, mục tiêu và phương hướng quy hoạch cụ thể và nhất quán trong suốt thời kỳ 1996 - 2010. Từ các dự báo xu thế phát triển KH - CgN trong điểm II, cần nhận rõ 2 khu vực để có các định hướng và giải pháp đúng đắn. Một là các công nghệ tiên tiến, phù hợp được tạo ra trên thế giới và trong nước cần và có khả năng đưa áp dụng rộng rãi, có hiệu quả tại TP.HCM trong thời gian quy hoạch nhằm đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội được xác định. Hai là các thành tựu KH - CgN tiên tiến, phù hợp, được tạo ra trên thế giới và trong nước cần có nghiên cứu, triển khai trong điều kiện cụ thể của TP.HCM mới có thể đưa áp dụng rộng rãi có hiệu quả. Thông thường, khu vực này liên quan tới các lĩnh vực gắn với các điều kiện tự nhiên và sinh thái, cũng như xã hội. Với khu vực thứ nhất, vấn đề mấu chốt là lựa chọn đúng đắn, tạo đủ các điều kiện nhân lực, vật lực để áp dụng kịp thời và có hiệu quả ở qui mô thích hợp. Với khu vực thứ hai, cần có tiềm lực khoa học tương xứng để tổ chức nghiên cứu triển khai và đạt các kết quả cho phép phổ biến, mở rộng qui mô áp dụng. 2. Quan điểm phát triển 2.1. Phát triển KH - CgN TP.HCM thời kỳ 1996 - 2010 gắn hữu cơ và là nhân tố động lực trong phát triển kinh tế - xã hội TP, của VPTKTTĐ PN. 2.2. Phát triển KH - CgN TP.HCM gắn chặt chẽ với các chương trình và kế hoạch phát triển KH - CgN Quốc gia, các chương trình và kế hoạch phát triển của TP.HCM từng thời kỳ. 2.3. Phát triển KH - CgN TP.HCM dựa trên cơ sở lựa chọn, áp dụng có hiệu quả các công nghệ tiên tiến, phù hợp của thế giới và trong nước trong sản xuất và đời sống, cũng như xây dựng và phát huy tiềm lực khoa học và công nghệ trên địa bàn TP nhằm nghiên cứu triển khai giải quyết các vấn đề KH - CgN kịp thời đáp ứng các nhu cầu phát triển nhanh, ổn định của TP trong suốt thời kỳ quy hoạch, tương xứng với vị trí một trung tâm KH - CgN của khu vực Nam bộ và của đất nước. 3. Mục tiêu phát triển 3.1. Tập trung đổi mới công nghệ ở những ngành sản xuất chủ yếu với mức đổi mới ít nhất 15%/năm, tạo nhiều sản phẩm, hàng hóa có chất lượng, khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước, tạo bước ngoặt về năng suất, chất lượng và hiệu quả để tới năm 2010 trình độ công nghệ của những ngành này đạt trình độ trung bình tiên tiến của thế giới và các nước trong khu vực, đồng thời hình thành và phát triển một số ngành công nghệ cao, hiện đại, như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học... 3.2. Phổ cập các thành tựu mới của công nghệ sinh học và các kỹ thuật tiến bộ trong nông, lâm, ngư nghiệp để nâng cao năng suất chất lượng các sản phẩm lương thực, thực phẩm, xây dựng phát triển vùng nông thôn ngoại thành tương xứng với quá trình đô thị hóa của TP và bảo đảm các nhu cầu về bảo vệ cải thiện sức khỏe, điều kiện chăm sóc y tế của nhân dân. 3.3. Các ngành khoa học xã hội - nhân văn đáp ứng kịp thời nhu cầu cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; cho việc ban hành các chính sách xã hội và xây dựng hệ thống quản lý (kinh tế, hành chính) hữu hiệu trên địa bàn TP; cho việc duy trì và phát triển các truyền thống văn hóa dân tộc cũng như tiếp thu các tinh hoa của văn minh nhân loại, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, tương xứng với vị trí một trung tâm văn hóa của đất nước. IV. CÁC CHƯƠNG TRÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN 1. Định hướng đổi mới công nghệ và nghiên cứu triển khai 1.1. Đối với các ngành và sản phẩm truyền thống chủ yếu: 1.1.1. Ngành dệt, nhuộm, may mặc đầu tư nhập các công nghệ hiện đại cho các khâu kéo sợi (các thiết bị thế hệ mới kéo sợi bông, máy chải kỹ sợi bông và len...); khâu in nhuộm và hoàn tất (máy nhuộm tự động khung lưới, máy nhuộm trục lưới, nhuộm từng mẻ cao áp, máy hoàn tất cho vải dệt kim...); khâu dệt (thay máy dệt thoi bằng máy dệt khổ rộng không thoi, máy dệt kim phẳng hiện đại có đầu giắc ca, công nghệ vải không dệt); may mặc (các thiết bị thêu, ren điều khiển bằng chương trình...). 1.1.2. Ngành chế biến thực phẩm phát triển các công nghệ chế biến tạo nhiều loại sản phẩm đa dạng, chất lượng cao, vệ sinh, sử dụng tổng hợp nguyên liệu (công nghệ không có phế thải) và bảo quản lâu dài như các phương pháp sấy thăng hoa, sấy phun, trích ly, bảo quản lạnh và đông lạnh nhanh, các phương pháp thanh trùng bằng các tia gamma, tia tử ngoại... và đồng bộ hóa các quá trình sản xuất khác nhau trên cùng một hệ thống thiết bị chế biến (cơ học, nhiệt, lạnh, hóa học...); áp dụng các thành tựu của công nghệ sinh học (enzim, vi sinh, công nghệ sản xuất các loại chất màu và hương vị nguồn gốc sinh học...). 1.1.3. Ngành điện tử từ các dây chuyền lắp ráp SKD, CKD một số mặt hàng điện tử dân dụng, từng bước đầu tư và nắm vững công nghệ sản xuất các mạch tổ hợp (IC), máy tính cá nhân và thiết bị ngoại vi, thiết bị thông tin viễn thông, thiết bị quang điện tử, thiết bị tự động hóa (điều khiển bằng kỹ thuật số và máy tính - CNC, điều khiển khí động - thủy lực...). 1.1.4. Ngành cơ khí chế tạo nhanh chóng sử dụng các công nghệ hiện đại trong các khâu tạo phôi, nhiệt luyện, gia công chính xác, nâng khả năng sản xuất phụ tùng thay thế có chất lượng cho các ngành sản xuất khác và sản xuất các sản phẩm cơ khí có lợi thế so sánh cho xuất khẩu. 1.1.5. Ngành nông, lâm, ngư nghiệp áp dụng rộng rãi các thành tựu của khoa học - kỹ thuật đã được tạo ra trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp (rừng ngập mặn, đất trống), cơ cấu kinh tế trong thâm canh cây trồng - vật nuôi, tăng vụ, trong điều kiện điện khí hóa, CNH và đô thị hóa; phát triển CN sau thu hoạch và chế biến sản phẩm tại chỗ (những đối tượng cần lưu ý là lương thực, cây ăn quả, rau tươi sạch, bò sữa, gia súc - gia cầm nuôi CN và hộ gia đình, thủy sản nuôi và đánh bắt biển sâu...), phát triển ngành nghề TTCN nhằm phát triển nhanh nền kinh tế hàng hóa tại các vùng nông thôn ngoại thành, khai thác có hiệu quả nhất các điều kiện tự nhiên đồng thời với việc nâng cao mức sống, trình độ dân trí và văn hóa - xã hội trên từng địa bàn. 1.2. Đối với các lĩnh vực công nghệ mới hiện đại: 1.2.1. CN sản xuất vật liệu mới, cùng với việc áp dụng công nghệ cao (plazma, lazer công suất lớn, tự động hóa) trong sản xuất các vật liệu cơ bản có chất lượng cao (thép, thép hợp kim, kim loại màu, xi măng và vật liệu xây dựng khác), phát triển sản xuất các loại vật liệu mới như vật liệu gốm kỹ thuật, vật liệu siêu bền, tổ hợp compozit... để thay thế các loại vật liệu truyền thống kém hiệu quả. 1.2.2. Công nghệ thông tin: phát triển CN phần mềm, liên doanh và nhập công nghệ lắp ráp sản xuất các thiết bị tin học, xây dựng và bảo đảm dịch vụ cho các hệ thống truyền thông dữ liệu quốc gia và quốc tế, các hệ thống tự động hóa sản xuất và tự động hóa quản lý... 1.2.3. Công nghệ sinh học: ứng dụng các kỹ thuật hiện đại (gen, tế bào, vi sinh, enzim...) trong quy trình công nghệ nhân giống cây trồng - vật nuôi; sản xuất các chất kích thích sinh trưởng, các chất bảo vệ thực vật, xử lý bảo vệ môi trường; sản xuất các loại phân bón sinh học; trong chế biến các sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp; trong sản xuất các loại chế phẩm hóa chất (axit, dung môi hữu cơ...), các loại thuốc phòng chữa bệnh cho người, phòng chữa bệnh cho gia súc; trong khai thác và chế biến khoáng sản có ích, dầu khí... 2. Các chương trình KH - CgN Trong hoạt động nghiên cứu KH - CgN, một mặt cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và triển khai để đưa nhanh các kỹ thuật và công nghệ thích hợp vào sản xuất và đời sống, đáp ứng các yêu cầu bức bách trước mắt. Mặt khác, cần mạnh dạn chọn lựa những đối tượng đặc thù của điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi trường Việt Nam, để tổ chức nghiên cứu, sớm nắm bắt và làm chủ được những thành tựu KHKT hiện đại và kỹ thuật cao, góp phần tích cực vào việc hình thành tiềm lực CN mới đúng hướng và hiệu quả cao, tạo được sức mạnh tổng hợp làm chuyển biến nhanh nền kinh tế theo hướng hiện đại. 2.1. Chương trình khoa học xã hội và nhân văn: nghiên cứu áp dụng các thành tựu mới về khoa học quản lý, tin học vào thực tiễn các mặt hoạt động kinh tế - xã hội của TP để xây dựng các luận cứ khoa học cho các chủ trương, quyết định lớn của TP, chọn lựa các phương án, các qui trình tối ưu, các mô hình hiệu quả cao, nhằm thúc đẩy các quá trình đổi mới nhanh hơn và đạt hiệu quả cao. 2.2. Chương trình công nghệ thông tin: phát triển nguồn tiềm lực và xây dựng kết cấu hạ tầng về công nghệ thông tin, thực hiện các dự án về tin học hóa chủ chốt trong ngành quản lý nhà nước và trong lãnh vực phát triển kinh tế - xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin trong sự nghiệp CNH và HĐH nền sản xuất và kinh tế. Triển khai xây dựng từng bước nền CN công nghệ thông tin làm cho công nghệ này dần dần trở thành một động lực. 2.3. Chương trình nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới: nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới kỹ thuật cao về cơ khí, điện tử, tin học, lazer, siêu dẫn, quang dẫn... để đảm bảo yêu cầu phát triển công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từng bước tạo ra các mặt hàng chiến lược cho tiêu dùng và xuất khẩu bảo vệ an ninh quốc phòng. 2.4. Chương trình vật liệu mới: phát triển các ngành hóa nguyên liệu, hóa dầu, hóa tinh vi, để giải quyết các nguyên liệu thay thế từ nguồn gốc có sẵn ở Việt Nam, tinh chế, nâng cao giá trị tài nguyên của khu vực thành những vật liệu cao cấp với tính năng đặc biệt dùng trong CN hiện đại và tạo ra các vật liệu mới phù hợp với xu hướng phát triển hiện đại như vật liệu compozit, thủy tinh, gốm, các chất vi lượng quý hiếm... 2.5. Chương trình công nghệ sinh học: phát triển công nghệ sinh học và áp dụng các thành tựu mới của KHKT NN để giải quyết các vấn đề về giống, dinh dưỡng, bảo vệ cây trồng và vật nuôi, sử dụng hiệu quả tài nguyên, phát triển về số lượng, chủng loại và chất lượng các sản phẩm của vành đai thực phẩm TP và khu vực, tận dụng phế liệu, cải thiện môi trường sinh thái. 2.6. Chương trình nghiên cứu và bảo vệ môi trường: nghiên cứu quy hoạch tổng thể môi trường và có kế hoạch từng bước cải thiện môi trường đảm bảo cân bằng sinh thái có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển lâu bền và nâng cao chất lượng sống của cộng đồng dân cư TP. Nghiên cứu bảo vệ nguồn nước mặt, nước ngầm, phát triển cây rừng phòng hộ, đánh giá đầy đủ tác động môi trường của những công trình lớn, các khu CN... là những đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả trong tương lai. Chăm lo giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của cộng đồng dân cư, khắc phục các thói quen, tật xấu gây ô nhiễm môi trường, xây dựng nếp sống văn minh đô thị. 2.7. Chương trình nghiên cứu dự báo và phát triển khoa học - công nghệ: nghiên cứu dự báo quy hoạch phát triển KH - CgN, phát triển tiềm lực KH - CgN (tổ chức, đội ngũ, điều kiện vật chất, kỹ thuật), các dự án hợp tác KH - CgN với trong, ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH TP.HCM, phát huy vai trò trung tâm KH - CgN ở khu vực và góp phần phát triển chung cả nước. 3. Phát triển tiềm lực khoa học 3.1. Phát triển nguồn nhân lực: Phát triển về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ KHKT và công nhân lành nghề đáp ứng các nhu cầu phát triển. Công tác phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đào tạo lại, đào tạo mới, trẻ hóa nguồn nhân lực KH - CgN của TP, chú ý đào tạo kỹ sư công nghệ, kỹ sư cao cấp và các nhà khoa học trẻ. Để đạt mục tiêu này, cần có chính sách ưu đãi để khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đào tạo nhân lực KH - CgN. Rà soát sửa đổi các qui định làm hạn chế đào tạo hiện nay. Cho phép hợp tác với nước ngoài để mở trường đào tạo kỹ sư và cán sự công nghệ trên địa bàn TP. Trường chịu sự quản lý nhà nước của TP và Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhằm mở rộng phương thức du học tại chỗ để đào tạo một số lượng lớn cán bộ KH - CgN có trình độ quốc tế gắn với nhu cầu phát triển TP (sản xuất CN, quản lý đô thị...). Khuyến khích các doanh nghiệp hợp đồng với cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, Việt kiều để đào tạo chuyên sâu, gắn với hệ thống ngành nghề của các doanh nghiệp (có sự quản lý của Nhà nước). Thành lập hệ thống các trung tâm đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao. Với các định hướng phát triển nguồn nhân lực được đào tạo nêu trên, sau năm 2000 sẽ có những phát triển đột biến trong ngành giáo dục và đào tạo và vào giai đoạn 2006 - 2010, TP.HCM đạt mức 90% công nhân kỹ thuật được đào tạo chuyên nghề, 60.000 cán bộ đại học/1 triệu dân (mức phát triển của các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á vào năm 2000). Do những giảm sút nhanh chóng trong đào tạo trên đại học và tỷ lệ về hưu lớn trong đội ngũ này vào thập niên 90, khả năng bù đắp những thiếu hụt và phát triển chỉ có thể đạt mức 1 trên đại học/100 đại học (chỉ đáp ứng được 20 - 30% nhu cầu cơ cấu tối ưu). 3.2. Tổ chức mạng lưới nghiên cứu - triển khai KH - CgN: Để phát triển KH - CgN, cần thiết phải có một cơ cấu tổ chức tương xứng, hợp lý, trong đó mỗi thành viên chức năng phải có đủ năng lực và cơ sở pháp lý, hoạt động có hiệu quả trong việc thúc đẩy sự phát triển KH - CgN. - Hình thành và sớm đưa vào hoạt động khu công nghệ kỹ thuật cao Thủ Đức với những chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài trong lãnh vực kỹ thuật cao, tạo ra các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao cho nhu cầu phát triển trong nước và xuất khẩu, tổ chức tốt mối liên kết với cộng đồng KH - CgN, các trường đại học và các doanh nghiệp ở TP để thúc đẩy phát triển chung. - Để tăng cường công tác nghiên cứu triển khai (R - D), trước hết cần đầu tư tăng cường các cơ quan nghiên cứu triển khai hiện có, kết hợp các nỗ lực của TW và địa phương để nhanh chóng hình thành các trung tâm nghiên cứu, triển khai trực thuộc các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn tương ứng, đồng thời thành lập Viện Khoa học - Công nghệ TP.HCM. Viện nghiên cứu KH - CgN đa chức năng hoạt động tự chủ theo nguyên tắc hợp đồng. Viện đẩy mạnh nghiên cứu một số ngành KH - CgN mũi nhọn như: tin học, cơ khí chế tạo, điện tử, tự động hóa, công nghệ sinh học, vật liệu mới... - Kiện toàn, tăng cường Viện Kinh tế TP và thành lập Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cấp bách của nghiên cứu kinh tế và các vấn đề xã hội. - Phát triển hệ thống thông tin KH - CgN TP nối kết với các hệ thống quốc gia và quốc tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, lựa chọn và chuyển giao công nghệ mới, hiện đại. 4. Phát triển các hệ thống quản lý tiêu chuẩn, đo lường, kiểm định chất lượng hàng hóa Hệ thống quản lý tiêu chuẩn - đo lường - kiểm định chất lượng hàng hóa (kết hợp giữa các cơ quan TW trên địa bàn và của TP): + Đáp ứng được các điều kiện để có thể tiếp cận được thị trường EU, Bắc Mỹ. + Hoàn thiện công tác tiêu chuẩn - đo lường - kiểm định chất lượng hàng hóa theo tập quán thế giới, mức độ chứng nhận hệ thống ISO 9.000, ISO 14.000 thành phổ biến. + 100% sản lượng sản phẩm tương đương mức chất lượng của ASEAN, 50% sản lượng sản phẩm đạt mức của khối G7. - Đối với sản phẩm xuất khẩu: sử dụng yêu cầu hàng xuất khẩu như là đòn bẩy để thúc đẩy khâu thay đổi giống, kỹ thuật gieo trồng và CN chế biến đối với hàng nông sản thực phẩm, cũng như thúc đẩy sản xuất nguyên liệu, thay đổi công nghệ đối với các hàng công nghệ phẩm. - Đối với hàng tiêu dùng trong nước: tập trung nâng cao chất lượng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phổ cập trong đời sống, trong đó coi trọng những mặt hàng có khả năng thay thế ngoại nhập như hàng điện, điện tử gia dụng, tiến tới đưa các mặt hàng ra thị trường thế giới. - Đối với sản phẩm và tư liệu sản xuất: tập trung bảo đảm tính thống nhất, tính đổi lẫn, độ tin cậy, tuổi thọ cũng như tính tiện dụng, để sửa chữa thay thế trong vận hành sử dụng. Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật về công dụng, công thái học phải gắn liền với an toàn và bảo vệ môi trường. - Đối với hoạt động dịch vụ: xây dựng và thực hiện các chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng dịch vụ trong lãnh vực y tế, du lịch, khách sạn, thương mại, ăn uống công cộng, bưu chính - viễn thông, tài chính, ngân hàng, thông tin, điện, nước, bảo hiểm... nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước. 5. Phát triển hoạt động sở hữu CN - Tạo được sự phát triển và quản lý chặt chẽ hoạt động sở hữu CN trên 15 lĩnh vực phát triển của TP, làm cơ sở kích thích đầu tư KH - CgN và cạnh tranh lành mạnh. - Giúp một số ngành trọng điểm tạo các sản phẩm truyền thống có bản quyền đủ sức cạnh tranh trong khu vực. - Hòa nhập hoàn toàn với hoạt động sở hữu CN quốc tế và khu vực. 6. Công tác thông tin KH - CgN - MT - Xuất phát từ vai trò và vị trí của TP.HCM hiện nay và tương lai, Trung tâm thông tin phải là một tiếp điểm thông tin quan trọng hàng đầu của đất nước. - Vào những năm đầu của thế kỷ 21, khi các nước phát triển đã vào kỷ nguyên xã hội thông tin, Trung tâm thông tin sẽ là điểm neo kết chặt nước ta với các nước xã hội thông tin nhằm tránh khỏi nguy cơ tụt hậu, tạo phát triển trong một số lãnh vực CN nhất là CN kỹ thuật cao. Nhu cầu vật chất phải được giải quyết cơ bản trong xã hội CN. Trong xã hội thông tin, nhu cầu thông tin, nhu cầu biết sẽ được giải quyết. Như vậy có 2 mặt tiếp giáp: - Tiếp giáp xã hội thông tin, nhằm thỏa mãn nhu cầu biết. - Tiếp giáp với xã hội CN. Trung tâm thông tin - một tiếp điểm giữa Việt Nam CNH ở trình độ trung bình với thế giới tiên tiến đang ở trong xã hội thông tin: - Nối với toàn thế giới thông tin qua các xa lộ thông tin: thực sự sống trong xã hội thông tin dù đất nước còn đang ở chặng đường văn minh CN. - Có đủ điều kiện về công nghệ, con người và các cơ sở vật chất kỹ thuật khác để tiếp nhận được các nhu cầu biết TP, cả nước và đáp ứng một cách cơ bản nhu cầu biết đó. - Từng bước trở thành trung tâm chuyển giao công nghệ mua bán bản quyền. Để đạt tới trình độ đó trong những năm tới đây chúng ta phải chuẩn bị rất nhiều. Phải bám sát mục tiêu trước mắt là cung cấp thông tin phục vụ công cuộc CNH - HĐH đất nước, phải vượt lên phía trước, nhanh chóng neo chặt vào thế giới xã hội thông tin. V. CÁC ĐỊNH CHẾ VÀ CHÍNH SÁCH NHẰM ĐẠT CÁC MỤC TIÊU VÀ CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nhìn từ những phương hướng lớn phát triển công nghệ của đất nước, TP.HCM và xu thế chung của các nước trong khu vực và thế giới trong những năm sắp tới, có thể nhận thấy: vấn đề đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả tác động của công nghệ tới quá trình tăng trưởng và phát triển ổn định kinh tế TP.HCM cần được xem xét thêm trên nhiều phương diện quan trọng khác và từ đó đề ra những giải pháp tương ứng. Trong khung cảnh mang tính thời sự của các quá trình diễn ra hầu như đồng thời: một là giai đoạn đổi mới hàng loạt công nghệ hiện đại trên thế giới (theo đó là việc chuyển giao hàng loạt công nghệ hiện hành cho các nước và doanh nghiệp có trình độ kém phát triển hơn như một phản ứng dây chuyền); hai là quá trình hình thành và phát triển các xí nghiệp nhỏ, rất nhỏ và vừa ở giai đoạn đầu nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đồng thời với quá trình cải tạo và đổi mới các xí nghiệp quốc doanh từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường; và ba là việc thực hiện chủ trương của nhà nước (đó cũng là nhu cầu khách quan của phát triển) nhanh chóng CNH, HĐH đất nước, hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới. Rõ ràng là ba quá trình này có mối quan hệ với nhau, vừa cạnh tranh vừa thúc đẩy lẫn nhau. Một hệ thống đổi mới công nghệ hữu hiệu sẽ là hệ thống có được các giải pháp hỗ trợ cho các xu thế tích cực và hạn chế được các xu thế tiêu cực. Đối với quá trình thứ nhất, vấn đề là phải tạo được các điều kiện (rất phức tạp và chi phí lớn) để tiếp nhận và khai thác có hiệu quả các công nghệ hiện đại của thế giới kết hợp với sử dụng các lợi thế nội sinh, đồng thời tránh được việc chuyển giao các công nghệ hiện hành (sắp bị thay thế) từ các nước phát triển hơn. Đối với quá trình thứ hai liên quan tới việc giải quyết vấn đề lựa chọn các công nghệ phù hợp với qui mô, điều kiện và khả năng đầu tư còn rất hạn chế của các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế đang hình thành và sẽ phát triển mạnh sau 5 - 7 năm nữa (khu vực các xí nghiệp nhỏ, vừa và hộ gia đình). Ở đây tiêu thức lựa chọn chủ yếu dựa trên khả năng sinh lợi (nhanh chóng thu hồi vốn và tăng nhanh tích lũy), chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, để sau một giai đoạn ngắn (tùy thuộc vào từng ngành, sản phẩm và qui mô xí nghiệp), tới một trình độ phát triển nhất định, các xí nghiệp này có đủ điều kiện để HĐH có hiệu quả công nghệ của mình (khi các nhân tố lợi thế so sánh tương đối đã giảm tới mức không thể khai thác tiếp). Đối với quá trình thứ ba, có quan hệ mật thiết với quá trình thứ nhất, liên quan tới việc giải quyết vấn đề tạo các tiền đề và điều kiện bằng các nỗ lực có tính toán của Nhà nước (khu vực quốc doanh) và các xí nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong một số lĩnh vực công nghệ có lựa chọn. Ở đây có thể lựa chọn các giải pháp với qui mô tương tự như trường hợp đầu tư đổi mới, nhập ngoại công nghệ trong ngành dầu khí, bưu chính - viễn thông, hàng không dân dụng... trong thời gian vừa qua. 1. Những giải pháp chung Những giải pháp chung là những giải pháp mang tính chất tạo nền (môi trường) thuận lợi cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả đổi mới công nghệ. Trước hết là những giải pháp liên quan tới đào tạo và sử dụng nhân lực trong điều kiện của cơ chế thị trường. Nhân lực cho việc đổi mới công nghệ, nhập công nghệ từ nước ngoài, bao gồm lực lượng kỹ sư, kỹ thuật viên và công nhân. Trên cơ sở mặt bằng dân trí và giáo dục, từ điều kiện và khả năng của hệ thống đào tạo kỹ thuật hiện hành, vấn đề là mở rộng và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống đang hoạt động dựa vào việc thu hút sự đóng góp của Nhà nước, của các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế theo cơ chế hợp đồng - đặt hàng linh hoạt, đặc biệt là đối với hệ thống đào tạo nghề nghiệp cho công nhân. Hai là các giải pháp liên quan tới việc nhanh chóng hình thành hệ thống thông tin và tư vấn giám định công nghệ nối với các hệ thống khu vực và quốc tế trong lĩnh vực này, nhằm cung cấp các dịch vụ (theo cơ chế thị trường) bảo đảm thông tin tiếp thị về công nghệ và có khả năng tư vấn có hiệu quả cho các đối tượng có nhu cầu. Ba là xây dựng các khu CN tập trung và áp dụng phương thức thuê - mua trả chậm (leasing) với các điều kiện ưu đãi hợp lý đối với các nhà đầu tư trong nước và Việt kiều. Bốn là các giải pháp tăng cường tiềm lực nghiên cứu - triển khai và dịch vụ kỹ thuật trên địa bàn TP.HCM tương ứng với vai trò và đòi hỏi của Nhà nước đối với sự phát triển của TP theo định hướng hỗ trợ có hiệu quả cho việc nhập công nghệ từ nước ngoài. Năm là các giải pháp bảo vệ bản quyền và khuyến khích sáng tạo trong lĩnh vực đổi mới và làm chủ công nghệ ngoại nhập trên cơ sở hiệu quả kinh tế và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. 2. Những giải pháp đặc thù Những giải pháp đặc thù là những giải pháp hỗ trợ và khuyến khích việc phát triển công nghệ cho các đối tượng và mục tiêu được lựa chọn cho từng thời kỳ phát triển. 2.1. Các giải pháp nhằm tập trung và định hướng các nỗ lực của các thành phần kinh tế trong việc hình thành và phát triển các công nghệ hiện đại có ý nghĩa chiến lược. Trước hết đó là việc tổ chức nghiên cứu thị trường, hoạch định chiến lược và các chương trình mục tiêu nhằm tạo được các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có lợi thế so sánh, tính cạnh tranh cao và qui mô chiến lược trên thị trường (trong nước và quốc tế) trên cơ sở công nghệ hiện đại. Hai là trên cơ sở chiến lược và các chương trình mục tiêu được lựa chọn (có đối tượng và mục tiêu cụ thể cũng như kịch bản thực hiện), Nhà nước tập trung đầu tư và có chính sách khuyến khích đầu tư cho các xí nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong việc nhập công nghệ tiên tiến để đạt các mục tiêu cụ thể, xác định cho từng thời kỳ. Ba là hình thành các thể chế bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong việc tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu được lựa chọn trên cơ sở các hợp đồng đấu thầu cho từng đối tượng, nhiệm vụ cụ thể. 2.2. Các giải pháp nhằm hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất (với tư cách là một doanh nhân độc lập) thuộc các thành phần kinh tế trong việc đổi mới công nghệ, nhập công nghệ từ nước ngoài. Trong điều kiện thực hiện các biện pháp chung, những giải pháp hỗ trợ thêm cho các cơ sở sản xuất trong việc đổi mới kỹ thuật cần tập trung vào việc tăng cường các khả năng tạo vốn ban đầu và hỗ trợ vốn với các điều kiện bình đẳng và hợp lý từ các tính toán trên cơ sở cơ chế thị trường. Ở đây bao gồm việc tăng cường khả năng của các hệ thống ngân hàng và tín dụng, mở rộng các phương thức và điều kiện vay, thanh toán thuận lợi (bao gồm cả phương thức rất quan trọng đã đề cập tới ở trên là leasing), cũng như có hệ thống bảo hiểm phù hợp cho những trường hợp thiệt hại bất khả kháng (ngoài các tính toán chủ quan của chủ đầu tư). 2.3. Huy động nguồn vốn phát triển KH - CgN: - Đầu tư ngân sách: để phát triển một số ngành công nghệ tiên tiến, có nhiều triển vọng, những lãnh vực nghiên cứu mang ý nghĩa chung cho toàn xã hội, đóng góp cho sự phát triển chung của cộng đồng. Nâng tỷ lệ đầu tư cho KH - CgN hàng năm lên 3% tổng chi ngân sách thường xuyên. - Phát triển nhanh các nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp trích từ nguồn doanh thu (5 - 10%) để đầu tư cho nghiên cứu - triển khai (R & D) nhằm đổi mới công nghệ, chế thử sản phẩm mới... phần vốn đó không phải chịu thuế. Trong các tổng công ty, nguồn vốn này được dùng cho việc xây dựng và phát triển hoạt động của trung tâm nghiên cứu - triển khai trực thuộc. - Tổ chức tín dụng đầu tư trung và dài hạn: thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển KH - CgN, tín dụng phi ngân hàng để mở rộng nguồn vốn vay cho doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế để phát triển KH - CgN, đổi mới trang thiết bị. - Thu hút nguồn tài trợ quốc tế cho các dự án KH - CgN bao gồm viện trợ không hoàn lại hoặc vay của các tổ chức tài chính như ngân hàng thế giới, ADB, nguồn tài trợ ODA song phương... - Ban hành các chính sách như thuế, lãi suất khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng các thành tựu KH - CgN, đổi mới công nghệ, đầu tư mạo hiểm hoặc sản xuất sản phẩm từ kết quả nghiên cứu có hàm lượng KH - CgN cao được miễn thuế 3 năm đầu và giảm 50% thuế cho 2 năm tiếp theo. Bảo hộ mậu dịch hợp lý đối với hàng nội địa có áp dụng công nghệ mới. - Sớm ban hành luật về KH - CgN và chính sách quốc gia về KH - CgN: nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho sự phát triển nhanh KH - CgN. Dùng đòn bẩy thuế và tín dụng ngăn hàng để điều tiết, khuyến khích nhập công nghệ cao và hạn chế công nghệ thấp. Nghiêm cấm nhập công nghệ lạc hậu. - Bảo đảm quyền dân chủ bình đẳng trong sáng tạo khoa học, quyền mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài, bản quyền và quyền sở hữu CN. Sản phẩm trí tuệ phải được trả theo đúng giá trị của chúng thông qua thị trường (thuận mua vừa bán), đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhà nghiên cứu, phát minh và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KH - CgN của thế giới vào sản xuất và đời sống xã hội. 2.4. Phát triển hợp tác quốc tế về KH - CgN - MT: Sử dụng đa dạng phương thức hợp tác quốc tế, nhưng đặc biệt ưu tiên hợp tác với các nước có trình độ KH - CgN tiên tiến nhất, nhằm tiếp thu thành tựu KH - CgN mới từ phía những người sáng tạo ra chúng và có nhiều tiềm năng chuyển giao công nghệ. Cũng cần chú trọng hợp tác với các nước trong vùng, có những bước đi có thể phù hợp với nước ta. Một trong những nét đặc thù của Việt Nam là có một tiềm năng trí tuệ đáng kể trong 2 triệu Việt kiều hiện đang sống ở các nước CN trên thế giới. Muốn huy động được nguồn lực khoa học này vào sự nghiệp phát triển đất nước cần phải có một cơ chế thích hợp để khắc phục sự bất cập giữa vốn trí thức bên ngoài rất phong phú, đa dạng với nhu cầu bên trong đối với đội ngũ này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, khảo sát thực trạng và những giải pháp.doc
Luận văn liên quan