MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân.
Thái Nguyên là Thủ đô trong những năm nhân dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp, là thành phố công nghiệp trong hiện tại. Đội ngũ công nhân Thái Nguyên là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam với những truyền thống bất khuất kiên cường. Trải qua gần một thế kỷ phát triển, đội ngũ công nhân Thái Nguyên không ngừng trưởng thành về nhiều mặt, có vai trò to lớn trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đội ngũ công nhân Thái Nguyên tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng đó. Tuy nhiên, cũng như giai cấp công nhân cả nước, đội ngũ công nhân Thái Nguyên đã và đang có biến động, bắt đầu bộc lộ những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế và yếu kém đòi hỏi phải từng bước khắc phục để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công hoá hiện đại hoá, thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên là việc làm vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách.
Do vậy, tôi chọn đề tài: "Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng góp một chút sức lực nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu với nhiều góc độ, những phạm vi khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân là gì? thực trạng giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam; những giải pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện nay .chẳng hạn như: "Đặc điểm và xu hướng biến đổi cơ cấu - giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Đỗ Khánh Tặng - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1990). "Giai cấp công nhân Việt Nam vai trò xu thế biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bùi Đình Bôn - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1991). Kỷ yếu hội thảo: "Thực trạng giai cấp công nhân dưới tác động cơ thế thị trường" (Trung tâm nghiên cứu lý luận - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội, 1993). "Một số vấn đề giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam" (GS. Văn Tạo - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997). "Bác Hồ với giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS Đỗ Quang Hưng (chủ Biên) - Nxb Lao động Hà Nội,1999). "Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" (Trần Thị Bích Liên - Luận án tiến sĩ, 2001). "Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay" (Phạm Thị Xuân Hương - Luận án tiến sĩ, 2001). "Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21" (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn, Nxb Lao động Hà Nội, 2001) . Các công trình nêu trên đã khai thác tương đối toàn diện những vấn đề liên quan đến công nhân, xu hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gần đây, còn một số công trình khác nghiên cứu trực tiếp đến mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân" (PGS Cao Văn Lượng (chủ biên) - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). "Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (Trần Ngọc Sơn - Luận án tiến sĩ, 2001). Kỷ yếu hội thảo: "Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Trường Đại học Công đoàn Việt Nam, Hà Nội, 2002). "Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS. Dương Xuân Ngọc - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) . Trong các công trình này đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với sự phát triển của giai cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Ngoài những công trình nêu trên còn một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu thực trạng và đưa ra những phương hướng giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ công nhân ở các địa bàn cụ thể, chẳng hạn như: "Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết" (Nguyễn Văn Năm, 1995). "Xu hướng biến đổi phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay" (Vũ Minh Thủ, 1998). "Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá" (Phạm Hồng Hải, 2002) .
.
119 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3103 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện đại gắn với công nghệ tiên tiến của thế giới và khu vực giúp công nhân sau khi đào tạo có thể áp dụng ngay vào thực tiễn sản xuất...
Để quá trình này thực sự đạt hiệu quả cao theo chúng tôi cần có biện pháp cơ bản sau:
- Tỉnh phải tiếp tục đầu tư về cơ sở vật chất và mở rộng quy mô đào tạo công nhân trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp dạy nghề trên địa bàn. Hiện tại Thái Nguyên có 6 trường đại học và trên 20 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Nhưng cơ sở vật chất thấp kém, các thiết bị dùng cho học tập, thực hành nghề quá cũ, không phù hợp với yêu cầu thực tế. Do đó số lượng công nhân kỹ thuật được đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra trong đó lại bị thu hút đi các tỉnh khác nên số lao động trực tiếp trên địa bàn còn không đáng kể.
- Tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân về ý nghĩa của việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho đội ngũ công nhân. Vận động mọi tầng lớp nhân dân nhất là đội ngũ các doanh nghiệp, các ngành kinh tế trọng điểm trên địa bàn tham gia vào quá trình "xã hội hóa" sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giai cấp công nhân; khuyến khích mở rộng đa dạng các hình thức đào tạo và đào tạo lại với đủ các loại hình cả dài hạn, ngắn hạn, chuyên sâu; chú trọng đào tạo nghề và công nghệ trực tiếp tại các công ty, xí nghiệp với hình thức liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nhằm trang bị cho công nhân những kiến thức về kỹ thuật công nghệ cập nhật, gắn liền với quá trình sản xuất. Thành lập các quỹ khen thưởng, sáng tạo nhằm phát huy năng lực sáng tạo trong đội ngũ công nhân. Cùng với việc mở rộng quy mô đào tạo, cũng cần đầu tư đào tạo chuyên sâu đội ngũ công nhân có trình độ cao thực hiện "trí thức công nhân" hình thành từng bước đội ngũ công nhân kỹ thuật cao.
- Tham vấn với các địa phương khác có kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công nhân thông qua nhiều con đường khác nhau nhằm nâng dần trình độ công nhân trong tỉnh lên ngang tầm đội ngũ công nhân trình độ cao ở các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển giao kinh nghiệm đào tạo, có hướng liên doanh đào tạo, dạy nghề với nước ngoài để có thể tận dụng được vốn và kỹ thuật, công nghệ của các nước công nghiệp phát triển nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân Thái Nguyên.
Đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công nhân Thái Nguyên còn rất nhiều bất cập mà chủ yếu là do cơ chế, chính sách, quy hoạch đào tạo ở lĩnh vực này chưa thật thống nhất, các cấp chính quyền có quan tâm nhưng chưa thật đầu tư đúng với vai trò của nó. Cần phải được quan tâm và đầu tư hơn nữa về tất cả các phương diện đặc biệt là đầu tư kinh phí cho công nghiệp đào tạo công nhân giỏi. Vì sự đóng góp của đội ngũ công nhân có trình độ tri thức cao giữ vị trí quyết định năng suất, chất lượng trong sản xuất.
3.2.3.Thường xuyên giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật, kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp cho đội ngũ công nhân
Đội ngũ công nhân Thái Nguyên ra đời sớm, được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin từ rất sớm, có truyền thống cách mạng cách mạng và truyền thống đó tiếp tục được phát huy. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đội ngũ công nhân Thái Nguyên ngày càng được bổ sung lực lượng lớn công nhân tuổi đời còn rất trẻ, chưa trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, lại bị cạnh tranh lẫn nhau bởi nhu cầu việc làm và thu nhập, vì thế ý thức chính trị, ý thức pháp luật, tác phong lao động công nghiệp đều còn rất hạn chế. Vì vậy, trong quá trình phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng thì một trong những vấn đề cơ bản nhất là phải thường xuyên giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật, hình thành tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cho đội ngũ công nhân.
Giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân Thái Nguyên thực chất là quá trình giáo dục, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất, truyền thống cần cù sáng tạo của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, giáo dục những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, khẳng định mục tiêu, con đường đi lên CNXH của cách mạng Việt Nam. Giáo dục ý thức pháp luật, kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân là quá trình giáo dục Hiến pháp và pháp luật đặc biệt là Luật lao động, Luật công đoàn, Luật đầu tư, các chế độ chính sách có liên quan đến người lao động như chính sách việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội; tuyên truyền và đề cao kỷ luật lao động trong sản xuất công nghiệp, từ đó hình thành ở đội ngũ công nhân tác phong lao động công nghiệp. Để công tác này thực sự đạt hiệu quả, thực sự nâng cao nhận thức, thái độ của mỗi công nhân chuyển biến thành hành động tích cực, cần chú ý đến một số điểm cơ bản sau:
- Tỉnh phải xây dựng nội dung giáo dục thống nhất phù hợp với mọi đối tượng công nhân. Trên cơ sở tổ chức một cách thường xuyên các hoạt động giáo dục, tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ nắm bắt. Phải có sự tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm để có hướng điều chỉnh kịp thời.
- Phải có sự phối kết hợp của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức đoàn thể có liên quan đến đội ngũ công nhân nhằm tiến hành đợt tuyên truyền, giáo dục rộng khắp trong toàn thể đội ngũ công nhân ở mọi loại hình doanh nghiệp. Các tổ chức cơ sở đảng, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... trong các doanh nghiệp là lực lượng chủ yếu tuyên truyền, vận động, đặc biệt là công đoàn tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao động và trực tiếp tuyên truyền đến đội ngũ công nhân.
- Đa dạng hóa các loại hình tuyên truyền, sử dụng phong phú các phương tiện truyền thông nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Sử dụng các loại hình tuyên truyền như thông qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, qua các hội thi tìm hiểu, qua các đợt vận động, qua hoạt động văn hóa văn nghệ, các phong trào thi đua, hoạt động thể thao, giải trí... sử dụng nhiều loại phương tiện tuyên truyền như qua sách báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, diễn đàn công nghiệp, cổ động, áp phích... một cách sinh hoạt, sáng tạo với những nội dung dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm sẽ giúp công nhân tiếp nhận một cách tự giác.
- Đội ngũ làm công tác tuyên truyền giáo dục phải có trình độ tri thức, có kỹ năng về tuyên truyền miệng, có khả năng thu hút và tập hợp quần chúng về mình, thường xuyên được tập huấn nâng cao nghiệp vụ, có chính sách khen thưởng xứng đáng...
- Trong quá trình tuyên truyền giáo dục ý thức chính trị cần chú ý phát hiện những thanh niên công nhân ưu tú vừa có tay nghề, trình độ học vấn cao vừa có lập trường chính trị vững vàng, ý thức giác ngộ XHCN để tiếp tục đào tạo thành những nhà quản lý, những nhà lãnh đạo giỏi xuất thân từ công nhân.
- Có cơ chế khuyến khích những người có ý thức nâng cao trình độ chính trị của mình...
Nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật, tác phong công nghiệp là việc làm cơ bản, liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của đội ngũ công nhân, do đó phải được coi là việc làm thường xuyên, lâu dài và phải có sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, sự chú trọng của các tổ chức chính trị - xã hội, ý thức tự giác của bản thân mỗi người công nhân tỉnh Thái Nguyên trong suốt tiến trình cách mạng nhằm xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
3.2.4. Xây dựng và thực hiện tốt các chính sách tạo động lực cho giai cấp công nhân
Đây là một trong những giải pháp hết sức quan trọng không thể thiếu trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện nay, bởi lẽ việc thực hiện tốt những chính sách tạo động lực trước hết sẽ giúp công nhân ổn định về mặt đời sống, thu nhập, có điều kiện học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, có thời gian hoạt động và hưởng thụ các dịch vụ văn hóa xã hội. Chính sách xã hội có rất nhiều, song chính sách tạo động lực cho giai cấp công nhân về cơ bản có hai loại: Chính sách bảo đảm xã hội và chính sách khuyến khích xã hội.
Chính sách bảo đảm xã hội là hệ thống những quy định có tính chất cam kết và bắt buộc thi hành của Nhà nước đối với người lao động, bảo đảm những điều kiện thiết yếu cho hoạt động sống của người lao động nhằm tạo sự ổn định về mặt xã hội cho người lao động. Ví dụ các chính sách về việc làm, thu nhập, giải quyết tranh chấp lao động, bảo hiểm xã hội.
Chính sách khuyến khích xã hội như: chính sách thi đua khen thưởng, các chính sách về đào tạo và đào tạo lại cho người lao động; chính sách về phát huy tài năng sáng tạo (phát minh, sáng chế), các chính sách phát hiện bồi dưỡng, bảo vệ tài năng... là hệ thống những quy định vừa có tính cam kết bắt buộc thi hành của nhà nước đối với người lao động vừa có tính động viên người lao động cố gắng phấn đấu hết mình trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Thái Nguyên, việc thực hiện tốt các chính sách xã hội tạo động lực cho giai cấp công nhân là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay. Cụ thể là:
- Về giải pháp thực hiện một cách tốt nhất các chính sách bảo đảm xã hội đối với người công nhân.
Các chính sách bảo đảm xã hội quan hệ đến lợi ích vật chất và tinh thần trực tiếp của người lao động. Việc thỏa mãn về cơ bản những lợi ích đó sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc ổn định về đời sống người lao động tạo điều kiện để người lao động có cơ hội phấn đấu nâng cao năng lực sở trường của mình thúc đẩy sự phát triển của tỉnh và đất nước. Trong những năm gần đây, Thái Nguyên rất quan tâm thực hiện các chính sách việc làm, điều chỉnh hợp lý chính sách tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội trong ký kết thỏa ước và hợp đồng lao động với các doanh nghiệp, thường xuyên cải thiện điều kiện làm việc cho người công nhân, chăm lo, cải thiện đời sống tinh thần cho người lao động. Để thực hiện các chính sách này hiệu quả hơn nữa, Thái Nguyên cần phải lưu ý những điểm cơ bản sau:
+ Tiếp tục giải quyết tốt vấn đề việc làm cho đội ngũ và điều kiện làm việc cho công nhân lao động
Việc làm là một nhu cầu thiết yếu đối với người lao động, là điều kiện để đội ngũ công nhân tồn tại và phát triển trên mọi phương diện. Không thể có đội ngũ công nhân lớn mạnh trong khi tình trạng thiếu việc làm đang hàng ngày trở thành nguy cơ thường trực đối với người công nhân. Chính vì vậy, tỉnh Thái Nguyên luôn quan tâm và là một trong những tỉnh giải quyết tốt vấn đề việc làm. Theo điều tra sơ bộ 92 doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh 2004, số người có việc làm thường xuyên là 95,87%, không thường xuyên là 2,09%. Mỗi năm tỉnh giới thiệu việc làm mới trên 11.806 lao động, riêng năm 2004 đã giải quyết 13.320 lao động. Để tiếp tục giải quyết việc làm tỉnh cần:
- Đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để tạo điều kiện giải quyết và phát huy mọi nguồn lực cho phát triển sản xuất, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương và cơ cấu đầu tư; khuyến khích các thành phần, các ngành, các nhà đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh; đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, đổi mới phát triển các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn; nâng cao hiệu quả sản xuất khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư nhân khai thác mọi thế mạnh với mục đích tăng thật nhiều việc làm cho người lao động.
- Phục hồi các làng nghề truyền thống để giải quyết việc làm dư thừa tại nông thôn nhằm hạn chế sự cạnh tranh nhu cầu việc làm do người lao động từ nông thôn chuyển ra thành thị.
- Có chính sách ưu đãi vay vốn, hỗ trợ công nghệ khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ công nhân trên địa bàn. Mở rộng dịch vụ giới thiệu việc làm, tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội tìm việc làm phù hợp.
- Tạo điều kiện và khuyến khích công nhân phát triển kinh tế hộ gia đình để công nhân vừa tăng thu nhập, vừa sử dụng được thời gian nhàn dỗi một cách hợp lý.
- Cần quan tâm hơn nữa đến công tác xuất khẩu lao động sang các địa phương khác cũng như sang các quốc gia khác.
- Chú trọng cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân: ở Thái Nguyên môi trường làm việc của công nhân lao động nhìn chung còn kém. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp còn nhiều, nhất là trong các ngành nghề công nghiệp truyền thống như khai thác quặng kim loại, khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng (điều kiện làm việc bị ô nhiễm, bụi, khói, tiếng ồn...). Việc tăng cường độ và thời gian lao động của các doanh nghiệp ngoài nhà nước khiến sức khỏe của công nhân lao động không đảm bảo, có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng. Do vậy, biện pháp cấp bách hiện nay là chú trọng cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho công nhân Thái Nguyên như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về vệ sinh môi trường, an toàn lao động. Kiểm tra việc chấp hành luật và các điều khoản liên quan đến bảo vệ sức khỏe người lao động, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, các cơ sở sản xuất - kinh doanh điều kiện lao động không đảm bảo phải dừng ngay sản xuất và có biện pháp cụ thể để doanh nghiệp phải chấp hành các quy định về an toàn lao động và trang bị các phương tiện bảo hộ lao động cũng như các điều khoản trong Luật lao động và Luật công đoàn... nhằm tạo ra môi trường ngày càng tốt cho hoạt động của người công nhân trong sản xuất.
+ Chăm lo hơn nữa các chính sách đảm bảo thu nhập và nâng cao đời sống cho công nhân lao động
Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này cần điều chỉnh chính sách tiền lương, tiền công theo hướng nâng cao thu nhập cho người công nhân. Trong mấy năm trở lại đây, thu nhập của người công nhân Thái Nguyên còn thấp, đời sống của các hộ gia đình công nhân còn khó khăn. Tỷ lệ hộ công nhân nghèo còn cao (11,8%); các hộ gia đình trung bình (78,2%), các hộ khá chiếm tỷ lệ rất ít (2,1%). Hơn thế nữa, doanh thu của nhiều doanh nghiệp không ổn định, do vậy, thường trả lương theo ngày, hoặc khoán theo thành phẩm nên ngoài lương người lao động không được hưởng bất cứ một quyền lợi nào khác và mức lương cũng không căn cứ theo quy định của nhà nước. Tỉnh cần có biện pháp điều chỉnh chính sách thu nhập phù hợp, đồng thời phải có chính sách hỗ trợ đối với người lao động có thu nhập thấp hoặc mất việc; có cơ chế giám sát các doanh nghiệp trong thi hành Luật lao động; tận dụng mọi nguồn lực giải quyết nhu cầu nhà ở cho đội ngũ công nhân. Hiện trạng nhà ở tại Thái Nguyên cho thấy, hầu hết công nhân không có đủ khả năng để giải quyết vấn đề nhà ở, các doanh nghiệp cũng hầu như không quan tâm đến vấn đề này. Trên địa bàn, số công nhân nhập cư từ các nơi khác đến khá cao, do vậy nhu cầu về nhà ở cho công nhân trở nên hết sức bức xúc. Tỉnh cần trích ra một khoản kinh phí nhất định, kết hợp sự đóng góp của các doanh nghiệp xây dựng khu nhà ở giành riêng cho công nhân để công nhân có thể thuê hoặc trả góp. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân bằng cách cho ưu tiên vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi trong sử dụng đất đai và quy hoạch nhà ở cho công nhân lao động... Giải quyết tốt vấn đề nhà ở sẽ giải quyết được nhu cầu thiết yếu và cấp bách nhất của người lao động tạo điều kiện để người lao động tái sản xuất sức lao động xã hội cũng thúc đẩy phát triển sản xuất và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
+ Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật lao động. Trên thực tế, trong những năm qua các doanh nghiệp ở Thái Nguyên đã thực hiện tương đối đầy đủ chế độ bảo hiểm đối với người lao động, nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót. Một số doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng lao động thường lợi dụng sự kém hiểu biết của người lao động ký hợp đồng thời hạn ngắn để khỏi chi trả chi phí bảo hiểm. Bản thân công nhân do thiếu hiểu biết cũng không muốn đóng BHXH. Doanh thu của các doanh nghiệp còn thấp chỉ đủ chi trả lương cho người lao động nên dư nợ BHXH còn lớn. Để khắc phục tình trạng trên cần một mặt tuyên truyền về quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH, mặt khác đề ra quy định bắt buộc các doanh nghiệp và người lao động phải đóng BHXH đầy đủ. Giảm bớt các thủ tục khi thanh toán chi trả BHXH, xử phạt nghiêm với những tổ chức và cá nhân cố tình vi phạm không đóng BHXH cho người lao động. Có cơ chế giám sát việc thực hiện các chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, các chế độ nghỉ ngơi của đối với người lao động... Thực hiện tốt chế độ BHXH góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động tạo sự ổn định trong đời sống của công nhân lao động trong giai đoạn tiếp theo.
- Về giải pháp thực hiện các chính sách khuyến khích xã hội tạo cho công nhân lao động phát huy tài năng, sở trường của bản thân thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Chính sách khuyến khích xã hội góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo trong công nhân và để những chính sách này thực sự trở thành động lực, Tỉnh ủy và chính quyền các cấp cũng như các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:
- Phải đề cao và thực hiện tốt các chính sách khuyến khích tài năng, tiếp cận khoa học, kỹ thuật công nghệ hiện đại, tạo nguồn lao động chất xám cao bởi nó chính là động lực thúc đẩy chính sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngay từ thời xa xưa, cha ông ta đã rất chú trọng đến việc đào tạo, phát triển tài năng, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nhất là thiếu kinh phí nên các chính sách này thực hiện chưa tốt. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới các cấp lãnh đạo tỉnh cần phải:
Là một trong 6 trung tâm đào tạo của cả nước, nguồn nhân lực được đào tạo của Thái Nguyên không phải là quá hiếm song việc tận dụng và thu hút nó lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố trong đó chủ yếu là cơ chế ưu đãi về lợi ích. Tỉnh phải hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi để thu hút cao nhất nhân tài phục vụ cho sự phát triển địa phương, nhất là những tài năng thuộc lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Cần vận dụng sáng tạo chính sách thi đua, khen thưởng để động viên người lao động vượt qua khó khăn, lao động sáng tạo, phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật làm lợi cho các doanh nghiệp và nhà nước. Thực hiện các chính sách này không chỉ dừng lại ở hình thức động viên bằng vật chất đơn thuần mà phải kết hợp với sự nêu gương tạo nên một hoạt động rộng khắp trong công nhân lao động. Với những cống hiến to lớn cần có phần thưởng vật chất thỏa đáng và những danh hiệu cao quý để động viên công nhân hăng say thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Cải thiện, nâng cao đời sống tinh thần, đời sống văn hóa cho đội ngũ công nhân. Duy trì và phát triển nhà văn hóa, câu lạc bộ cho công nhân lao động, hình thành trung tâm văn hóa do công đoàn quản lý; ưu tiên đầu tư các cơ sở văn hóa của công nhân về kinh phí để công nhân có điều kiện tham gia sinh hoạt, tạo động lực về tinh thần, giúp công nhân thoải mái sau những ngày lao động mệt mỏi và nhân lên về số lượng các cơ sở đó tương ứng với sự phát triển đội ngũ công nhân.
Có cơ chế giám sát thời gian lao động của công nhân trong các doanh nghiệp, tránh tình trạng công nhân bị ép lao động quá sức không có thời gian tham gia các hoạt động vàhưởng thụ văn hóa.
Khuyến khích nhà khoa học, các văn nghệ sĩ nghiên cứu, sáng tác đề tài về đời sống, tâm lý, gia đình của người công nhân.
+ Tuyên truyền sâu rộng trong đội ngũ công nhân các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người lao động.
Đổi mới và thực hiện các chính sách xã hội đối với đội ngũ công nhân Thái Nguyên sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, tạo động lực để đội ngũ công nhân vươn lên đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.5. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phong trào xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thi đua vẫn là động lực, biện pháp quan trọng nhằm khơi dậy ý thức trách nhiệm, nhiệt tình cách mạng, tinh thần năng động sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, dám nghĩ, dám làm, vượt qua khó khăn với nhiều sáng kiến làm lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần ổn định chính trị, thiết thực xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Trên cơ sở quán triệt Chỉ thị 35/CT-TW năm 1998 của Bộ Chính trị về công tác thi đua khen thưởng, Luật thi đua khen thưởng được Quốc hội thông qua 2003 và có hiệu lực từ ngày 01.7.2004. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND đặc biệt là Liên đoàn lao động tỉnh đã phát động phong trào thi đua rộng khắp trong toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức lao động trong toàn tỉnh. Cụ thể hóa phong trào thi đua thành 5 nội dung chủ yếu là:
- Phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, tiết kiệm phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh và công tác hàng năm.
- Phong trào thi đua giỏi việc nước, đảm việc nhà trong nữ công nhân lao động.
- Phong trào thi đua vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Phong trào xanh, sạch đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động.
- Phong trào học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hàng năm đều có sự tổng kết, đánh giá. Nhìn chung kết quả đạt được rất khả quan, song trong phong trào còn tồn tại khá nhiều hạn chế; hiệu quả còn thấp như phong trào "Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng"; có những nhận thức sai lệch về thi đua khen thưởng; chính sách động viên thi đua còn bất cập; nội dung thi đua chưa thật phù hợp với một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong thời gian tới để phong trào thi đua được đẩy mạnh hơn nữa, có tác dụng tích cực trực tiếp đến sự phát triển chung, các cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực trong công nhân lao động trọng tâm là thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, giữ vững thương hiệu sản phẩm của nền kinh tế tỉnh nhà, tăng hiệu quả cạnh tranh, mục tiêu tăng thu nhập, nâng cao đời sống công nhân lao động.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua học tập nâng cao trình độ trong công nhân lao động.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, thực hiện tốt các chính sách xã hội và quy chế dân chủ cơ sở.
- Động viên cán bộ công nhân lao động tham gia đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 2000 - 2010, xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, củng cố khối liên minh công - nông - trí thức; tích cực tham gia liên kết 4 nhà, xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/1 ha, hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm.
- Phát triển và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và phong trào "xanh, sạch, đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động"...
Trên cơ sở những nội dung chủ yếu đó, tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp công đoàn cũng cần có những biện pháp tích cực nhằm đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh như:
+ Tuyên truyền sâu rộng trong công nhân lao động, chủ các doanh nghiệp về chủ trương, chính sách của Đảng, của công đoàn về thi đua khen thưởng trong tình hình mới.
+ Công đoàn chủ động phối hợp với chính quyền, cơ quan quản lý các cấp và người sử dụng lao động để tổ chức chỉ đạo phong trào.
+ Nghiên cứu, rà soát phân loại đối tượng, tính chất nghề, giới để đưa nội dung thi đua cho phù hợp.
+ Tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức, Hội nghị người lao động cơ sở để tạo điều kiện tổ chức thi đua tốt.
+ Kiện toàn bộ phận theo dõi, chỉ đạo phong trào thi đua.
Bên cạnh đẩy nhanh phong trào thi đua yêu nước, tỉnh cũng cần chú trọng đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động. Cần lưu ý rằng trong điều kiện kinh tế thị trường, người lao động quan tâm tới việc làm và thu nhập, đó là một khách quan. Song điều đó cũng không có nghĩa là họ chỉ dừng lại ở đời sống vật chất đơn thuần không quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần. Việc 'xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động không chỉ tạo điều kiện để giai cấp công nhân có điều kiện sinh hoạt, thưởng thức giá trị văn hóa cộng đồng mà còn có tác động tích cực tới việc tái sản xuất sức lao động hình thành lối sống mới, lối sống có văn hóa mà những mặt trái của cơ chế thị trường có thể ảnh hưởng khá mạnh mẽ. Xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động cần được kết hợp với các phong trào chung của đất nước, nhằm nâng cao hiệu quả của phong trào như phong trào xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa... Để đẩy mạnh nếp sống văn hóa trong công nhân lao động cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Xây dựng nếp sống văn hóa trước hết phải quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục cho công nhân lao động ý thức làm việc có kỷ cương, kỷ luật, tuân thủ Hiến pháp pháp luật và chấp hành đúng quy định của cơ sở sản xuất kinh doanh. Có lối sống lành mạnh, nhân ái, tình nghĩa theo phương châm "mình vì mọi người, mọi người vì mình".
- Tổ chức tốt việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, gắn chính sách sinh đẻ có kế hoạch với chính sách giáo dục, đào tạo, phúc lợi xã hội nhằm khuyến khích công nhân thực hiện thật tốt các chính sách đó.
- Phát triển các hoạt động văn hóa quần chúng, thể dục thể thao, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn bài trừ những trào lưu, tài liệu phi văn hóa, mở rộng mạng lưới thư viện, cung cấp sách báo và văn hóa phẩm đến tận tay người công nhân. Giáo dục tinh thần gương mẫu, gương điển hình tiên tiến trong thực hiện các chủ trương, trong các phong trào thi đua, trong chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác.
- Thường xuyên tổ chức các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong công nhân, tổ chức cho công nhân đi tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng sức định kỳ...
Thực hiện tốt những điều đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển ngày càng lớn mạnh của đội ngũ công nhân trong giai đoạn mới.
3.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong xây dựng đội ngũ công nhân
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân là cơ sở chính trị chủ yếu của Đảng, vì thế giai cấp công nhân có vững mạnh thì Đảng mới có thể vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn thể nhân dân trong suốt tiến trình cách mạng. Mối quan hệ đặc biệt đó đã quy định tính tất yếu là khi Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công, giành được chính quyền thì biện pháp tiên quyết là phải chăm lo xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh. Để thực hiện được điều đó, Đảng thông qua các tổ chức cơ sở của mình để xây dựng công nhân cả về tổ chức lẫn giác ngộ về lập trường giai cấp, có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế đan xen đã làm cho quá trình xây dựng và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng gặp không ít khó khăn nhất là trong loại hình, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong những năm vừa qua Thái Nguyên đã quan tâm đến vấn đề phát triển đảng viên và xây dựng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp này nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mọi bộ phận công nhân. Tuy nhiên, còn rất nhiều doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài và hầu hết các cơ sở sản xuất nhỏ chưa có tổ chức cơ sở đảng. Có nơi có tổ chức song điều kiện hoạt động lại vô cùng khó khăn. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở mọi loại hình doanh nghiệp, mọi cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích xây dựng cho được đội ngũ công nhân lớn mạnh với đầy đủ những phẩm chất: trình độ lý luận, trình độ tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, yêu nước, có tinh thần vượt khó, có tinh thần vươn lên xây dựng một nước Việt Nam XHCN công bằng, dân chủ, văn minh, giàu mạnh.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay, điều quan trọng nhất là Đảng phải đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo phù hợp hơn. Hội nghị Trung ương 3 khóa IX đã chỉ rõ "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp" [17, tr.8]. Trên tinh thần đó, các cấp ủy Đảng cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, trong đó cần chú trọng các nội chủ cơ bản sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho công nhân lao động cho các cán bộ, đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh` đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng giai cấp công nhân. Việc thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như uy tín của các tổ chức đảng sẽ tạo điều kiện cho giai cấp công nhân có nhận thức đúng đắn, tin yêu Đảng, ủng hộ Đảng, giác ngộ ý thức giai cấp, hình thành ý thức tự giác trong xây dựng đảng.
- Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng ở cơ sở, không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy và chi bộ trong các doanh nghiệp. Chú trọng đến việc phát triển đảng viên trong đội ngũ công nhân lao động nhất là trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện để hình thành các cơ sở đảng trong các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng trắng đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp.
- Riêng đối với các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc phát triển Đảng và xây dựng cơ sở Đảng là hết sức khó khăn. Do vậy cần sử dụng các biện pháp hết sức mềm dẻo nhất là chuẩn bị đảng viên có năng lực từ trước để đảng viên sang hoạt động ngay để chuẩn bị thành lập cơ sở đảng khi có điều kiện...
Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc và có ý nghĩa quyết định đến nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân Thái Nguyên. Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nơi thể hiện tập trung sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thể hiện tập trung quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy chính quyền các cấp không thể đứng ngoài quá trình xây dựng giai cấp công nhân. Để phát triển đội ngũ công nhân ngày càng lớn mạnh, các cấp chính quyền tỉnh Thái Nguyên cần phải:
- Đưa nội dung xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh vào trong chương trình, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương, coi đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược.
- Thành lập các bộ phận chuyên trách và giám sát việc thực hiện chính sách của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân lao động.
- Thành lập các quỹ phúc lợi riêng nhằm giúp đỡ công nhân trong các giai đoạn khó khăn như: thất nghiệp, bệnh tật, thai sản...
- Phối hợp với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân.
- Quan tâm đến nâng cao đời sống tinh thần đội ngũ công nhân như đầu tư xây dựng khu vui chơi giải trí, câu lạc bộ, nhà văn hóa cho công nhân lao động...
Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được tăng cường, các cấp chính quyền ngày càng quan tâm và có trách nhiệm trong phát triển đội ngũ công nhân sẽ là giải pháp cơ bản nhất làm cho đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
3.2.7. Xây dựng, củng cố tổ chức công đoàn, tổ chức đoàn thanh niên trong tất cả các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cổ phần hóa)
Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của giai cấp công nhân. Điều này đã được quy định trong Hiến pháp nước ta 1992(chương 2, điều 10) và Luật công đoàn được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, khóa VIII ngày 30-6-1990. Vai trò của công đoàn thể hiện ở chỗ nó là sợi dây liên hệ Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân. Chức năng chủ yếu của nó là bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động, đại diện cho họ tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ ý thức XHCN để công nhân lao động gương mẫu trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với chức năng đó công đoàn là 1 tổ chức không thể thiếu của giai cấp công nhân. Vì vậy, xây dựng, củng cố công đoàn vững mạnh là điều kiện để phát huy vai trò của công nhân đồng thời sự lớn mạnh của công nhân càng củng cố tổ chức công đoàn ngày càng vững chắc hơn nữa. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của công đoàn ngày càng được mở rộng, ngoài bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, công đoàn cũng là người đứng ra hòa giải khi tranh chấp lao động xảy ra, là người giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động giữa hai bên và có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động khi họ bị những người lao động cố tình vi phạm. Trong những năm qua, Thái Nguyên là một tỉnh có tổ chức công đoàn hoạt động tương đối mạnh. Vai trò của công đoàn được phát huy rất tốt và trở thành chỗ dựa tin cậy cho đội ngũ công nhân lao động. Tính đến thời điểm 2004, Thái Nguyên đã có 9 Liên đoàn lao động cấp huyện, thành phố, thị xã, 11 công đoàn ngành và tương đương, 899 công đoàn cơ sở trong đó có 198 công đoàn cơ sở ngoài nhà nước. Tổng số 40.609 đoàn viên. Sáu tháng đầu năm 2005 đã tăng thêm hơn 1000 đoàn viên với trên 50 công đoàn cơ sở. Để xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh hơn nữa, nhất là xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn trong tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cổ phần hóa cần thiết phải thực hiện những biện pháp sau:
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm hơn nữa và có sự đầu tư cả về kinh phí, đào tạo cán bộ chuyên trách đến việc phát triển các tổ chức công đoàn nhất là tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp.
- Bản thân công đoàn phải đổi mới phương thức vận động công nhân nhằm tập hợp vào tổ chức của mình đại đa số công nhân lao động, tiến tới là tập hợp toàn bộ công nhân vào tổ chức công đoàn làm cho tổ chức công đoàn thực sự lớn mạnh.
- Đổi mới công tác cán bộ công đoàn theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công đoàn muốn vững mạnh phụ thuộc rất lớn vào yếu tố cán bộ. Do vậy, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng, trang bị những tri thức toàn diện, những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ làm công tác công đoàn chuyên nghiệp là việc làm cấp bách của Liên đoàn lao động và các cấp chính quyền trong tỉnh hiện nay.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, trong đó có thanh niên công nhân, vì thế tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong tập hợp công nhân lao động trẻ, hướng họ vào các hoạt động chung, có định hướng chính trị, định hướng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có cơ hội phát triển tài năng, sở thích để trở thành người công nhân tốt, những quần chúng ưu tú có thể giới thiệu họ vào Đảng. Thực tế hiện nay ở Thái Nguyên hoạt động của đoàn thanh niên cũng đang đặt ra những điểm đáng lưu ý: Tổ chức đoàn chủ yếu hoạt động có hiệu quả trong khối hành chính sự nghiệp và trong các doanh nghiệp quốc doanh. Còn đa số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoạt động đoàn còn nhiều yếu kém. Lợi thế của đoàn thanh niên trong vận động, tập hợp công nhân trẻ là ở phương thức hoạt động rất dễ lôi cuốn có thể thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa thể thao. Trên cơ sở những hoạt động đó đoàn thanh niên có thể lồng ghép có hiệu quả các nội dung tuyên truyền mục tiêu, lý tưởng, định hướng chính trị, giác ngộ giai cấp cho thanh niên công nhân. Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh hoạt động của đoàn thanh niên, xây dựng và củng cố tổ chức đoàn trong sạch, vững mạnh trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, tổ chức đoàn cần đổi mới nội dung, phương thức, hình thức hoạt động cho phù hợp để tập hợp, thu hút thanh niên công nhân tham gia vào các hoạt động do đoàn tổ chức như: Tổ chức các cuộc thi tay nghề, luyện thợ giỏi, thi đua lao động sáng tạo, khuyến khích các phong trào học văn hóa, ngoại ngữ, tin học, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật; tổ chức nghe thời sự, các cuộc thi tìm hiểu về đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tìm hiểu về Đảng, Đoàn, vị trí, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Qua những hoạt động trên làm cho thanh niên công nhân thấy rõ vinh dự, tự hào cũng như trách nhiệm của mình trong xây dựng tổ chức Đoàn, Đảng phấn đấu trở thành những công nhân hội đủ những phẩm chất cần thiết đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Để thực hiện tốt những điều này, tổ chức Đoàn phải được kiện toàn từ cấp tỉnh xuống đến từng cơ sở sản xuất. Nếu không xây dựng được tổ chức đoàn thì việc tập hợp, vận động thanh niên công nhân để thực hiện những nhiệm vụ chính trị của đoàn là vô cùng khó khăn. Nếu chưa thành lập được tổ chức Đoàn thanh niên thì phải gấp rút xây dựng thành lập cho được Hội Liên hiệp thanh niên để tập hợp đoàn kết thanh niên công nhân nhất là ở các khu vực ngoài quốc doanh. Tỉnh phải đầu tư về kinh phí để hỗ trợ cho các hoạt động của đoàn, tăng hiệu quả thu hút đoàn viên. Công tác cán bộ cũng cần phải được chú trọng, không thể có tổ chức đoàn vững mạnh trong khi cán bộ làm công đoàn yếu kém về năng lực và trình độ.
Tổ chức công đoàn và Đoàn thanh niên là những tổ chức chính trị - xã hội hết sức quan trọng, có điều kiện thu hút số lượng lớn công nhân tham gia. Vì thế, cần đẩy mạnh công tác tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động nhằm thu hút tập hợp nhiều hơn nữa công nhân tham gia sinh hoạt.
KẾT LUẬN
Là một thành phố công nghiệp, với những điều kiện tự nhiên và xã hội rất thuận lợi cho Thái Nguyên phát triển đội ngũ công nhân cả về số lượng và chất lượng. Trong những năm qua, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, đội ngũ công nhân Thái Nguyên càng có cơ hội để phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, thực trạng quá trình phát triển của đội ngũ công nhân Thái Nguyên cho thấy, ngoài những mặt mạnh, đội ngũ công nhân Thái Nguyên cũng bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Số lượng đội ngũ tăng khá nhanh nhưng thiếu cân đối giữa các ngành nghề và khu vực kinh tế, cơ cấu công nhân còn nhiều bất cập, số công nhân thuộc các dân tộc ít người, ít tham gia lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nếu có tham gia thì hầu như chỉ là lao động giản đơn. Do vậy, vẫn còn rất nhiều lao động nông thôn dư thừa nhưng cũng không gia nhập đội ngũ công nhân, làm chậm lại quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, trình độ nhận thức chính trị, giác ngộ giai cấp còn yếu, tác phong lao động công nghiệp còn kém, sự hiểu biết về xã hội, pháp luật còn nông cạn nên còn một bộ phận công nhân nhận thức mơ hồ về chính trị.
Thu nhập và đời sống công nhân còn nhiều khó khăn. Tệ nạn xã hội vẫn tồn tại, các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên trong các khu vực kinh tế, trong các doanh nghiệp mặc dù đã được cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm song chất lượng hoạt động còn nhiều thiếu sót.
Tất cả những vấn đề trên sẽ tiếp tục tồn tại trong thời gian dài và xu hướng sẽ tiếp tục gia tăng nếu không có những giải pháp tích cực nhằm giảm thiểu sự phát triển của những xu hướng tiêu cực đó. Vấn đề đặt ra ở đây là để khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém đó, điều cốt yếu là phải tiến hành đồng thời, kết hợp đồng bộ những giải pháp cơ bản trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, khoa học, kỹ thuật, công nghệ với những biện pháp cụ thể như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục... thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, qua các hạt nhân tiêu biểu trong phong trào công nhân để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đứng ở góc độ cá nhân, chúng tôi cũng xin đề xuất một vài kiến nghị như sau:
Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Thái Nguyên cần quan tâm hơn nữa đến sự phát triển giai cấp công nhân, coi đây là một nhiệm vụ cấp bách cho sự phát triển chung của tỉnh. Sự quan tâm ở đây không chỉ dừng lại ở góc độ chủ trương, đường lối mà phải có sự đầu tư thỏa đáng về mặt kinh phí. Kinh phí cho tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và của tất cả mọi người về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh phí cho đào tạo, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân lao động. Kinh phí cho việc tuyên truyền đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công nhân lao động. Kinh phí cho tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, xây dựng các công trình văn hóa phục vụ công nhân... chỉ có sự quan tâm và đầu tư phù hợp thì quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân mới thực sự thuận lợi.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, tiến hành khảo sát điều tra một cách toàn diện thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên, tìm ra những điểm hạn chế, những nguyên nhân làm cản trở cho sự phát triển của đội ngũ công nhân tỉnh, từ đó điều chỉnh chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tạo động lực cho sự phát triển đó.
Thứ ba, tỉnh cần có chính sách cụ thể thu hút nhân tài, thu hút những nhà đầu tư ở những lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ cao, tạo ra những ngành nghề mới để hình thành bộ phận công nhân trình độ cao, thúc đẩy sự phát triển chung của đại đa số công nhân trên địa bàn.
Thứ tư, trên cơ sở sự quan tâm và nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân lớn mạnh, bản thân đội ngũ công nhân Thái Nguyên cũng cần nhận thức được một cách đầy đủ vị thế của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có ý thức tự nâng cao năng lực, trình độ, tự giác thúc đẩy sự phát triển của bản thân giai cấp mình, đáp ứng những đòi hỏi đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cuối cùng, cũng như nhiều nhà khoa học, nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, tôi cũng mong Đảng ta cần phải có Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có giá trị chỉ đạo khoảng 15 năm tới (2006-2020).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Trọng Bá (1996), "Giai cấp công nhân - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Thông tin lý luận, (7), tr.36-38.
Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (177), Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Lê Đức Bình (1963), Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Bài học về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Trung tâm thông tin, Hà Nội.
Bộ Khoa học công nghệ và môi trường - Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 1998-2002.
Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2004.
Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Nguyên (2004), Thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Thái Nguyên theo kết quả điều tra xã hội học.
Nguyễn Hoàng Chi (1996), "Công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay có gì khác trước", Công nghiệp tư tưởng văn hóa, (8), tr.19-20.
Phạm Thế Duyệt (1986), "Giai cấp công nhân Việt Nam - quá khứ và hiện tại", Tạp chí Cộng sản, (4), tr.37-42.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960), Văn kiện Đại hội, tập 1, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XV, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên.
Trần Văn Giàu (1958), Giai cấp công nhân Việt Nam sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp "tự mình" đến giai cấp "cho mình", Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Cảnh Hưng (2001), "Thành tựu 15 năm phát triển kinh tế", Tạp chí Cộng sản, (1), tr.14.
Phạm Thị Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Trần Thị Bích Liên (2001), Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Cao Văn Lượng (chủ biên) (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Liên đoàn tỉnh Thái Nguyên (2004), Tình hình lao động và việc làm của tỉnh Thái Nguyên.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Nguyên Phương (1993), Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đan Tâm (1997), "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại - một cách tiếp cận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.29.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1995), Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công, Nxb Lao động, Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và công đoàn (2004), Số liệu thống kê về lao động và việc làm.
"Tìm hiểu khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (1994), Tạp chí Cộng sản , (8), tr.63.
Tỉnh ủy Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 2003.
Tỉnh ủy Thái Nguyên (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 2004.
Tỉnh ủy Thái Nguyên (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1, Nxb Tổng hợp Thái Nguyên.
Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 2.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo giới tính, độ tuổi và dân tộc)
Đơn vị: %
Toàn tỉnh
Khu vực kinh tế
Giới tính
Dân tộc
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Nam
Nữ
Kinh
Tày
Nùng
Dao
Mông
Khác
Tổng số
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
Từ 16-25 tuổi
29,6
25,4
34,8
36,2
24,2
28,71
27,52
38,19
42,07
50,47
45,33
26-35 tuổi
37,3
36,3
38,3
39,4
35,2
35,25
38,91
31,23
37,59
29,94
29,47
Trên 35 tuổi
32,62
39,22
24,92
35,24
31,20
33,12
31,27
27,61
16,24
18,19
24,58
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005.
Phụ lục 2
Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo thu nhập đầu người)
Đơn vị tính: %
Toàn tỉnh
Khu vực kinh tế
Giới tính
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Nam
Nữ
1. Thu nhập dưới 200.000đ
20,42
0,51
0,33
0,27
0,55
2. Thu nhập từ 200-300.000đ
3,1
4,21
2,01
3,81
2,41
3. Thu nhập từ 300-500.000đ
8,98
7,26
10,61
5,34
10,52
4. Thu nhập từ 500-1.000.000đ
38,72
32,27
46,75
44,25
33,97
5. Thu nhập từ 1.000.000-1.500.000đ
27,91
39,81
23,81
31,82
25,90
6. Thu nhập trên 1.500.000đ
12,42
15,32
9,52
14,56
10,36
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005.
Phụ lục 3. Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo Đảng, đoàn thể)
Đơn vị tính: %
Toàn tỉnh
Khu vực kinh tế
Giới tính
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Nam
Nữ
Tổng số
100%
100%
100%
100%
100%
A. Chưa tham gia đoàn thể
7,46
5,21
13,21
6,78
8,14
B. Đã tham gia
92,54
94,72
86,79
93,22
91,86
Trong tổgn số:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
9,92
14,89
4,94
11,87
7,22
2. Đoàn TNCS
40,2
49,55
30,55
45,72
34,28
3. Công đoàn
89,78
92,13
80,3
94,52
85,48
4. Hội Phụ nữ
9,52
11,47
7,55
11,26
7,76
5. Khác
4,5
6,37
3,63
6,12
3,88
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.doc