LỜI MỞ ĐẦU: 1.Lý do chọ đề tài:
Xu thế quốc tế hóa toàn cầu cùng với chính sách mở cửa của nhà nước ta là một thuận lợi lớn trong công cuộc phát triển kinh tế.Chính nhờ vậy mà trong những năm trở lại đây nền kinh tế nước ta phát triển khá mạnh.Quá trình này cũng đồng thời dẫn đến tình trạng đô thị hóa và sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ở các thành phố lớn.sự xuất hiện nhanh chóng của các khu công nghiệp đòi hỏi một lực lượng lớn lao động
Nhu cầu tìm kiếm lao động tại các thành phố lớn diễn ra mạnh đến đâu thì quá trình lao động đổ dồn lên thành thị mạnh tới đó.Phần lờn là lao động từ các vùng quê nghèo di cư lên nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm nuôi sống bản thân và gia đình.
Là một trong những thành phố lớn nhất cả nước,thành phố HỒ CHÍ MINH hội tụ rất nhiều tiềm năng phát triển trong đó cơ hội tìm kiếm việc làm khá cao,thu hút một lực lớn lao động từ khắp các tỉnh thành trên cả nước di cư đến.
Quá trình di cư ban đầu chủ yếu là lao động nam ,song vài năm trở lại đây tình hình này đã chuyển sang một xu hướng khác với phần lớn là lao động nữ di cư đến cũng với mong muốn có thể nuôi song bản thân và nuôi sống gia đình.
Nam giới có thể đi làm xa nhà và giao phó công việc chăm sóc gia đình cho mẹ,vợ.Vậy một câu hỏi dặt ra là khi người lao động nữ đi làm xa thì gia đình của họ sẽ như thế nào? Vì sao lao động nữ lại phải bươn trải nơi đất khách quê người để nuôi sống bản thân và gia đình?Cuộc sống của họ như thế nào khi “tay trắng” lên thành phố kiếm việc?Những suy nghĩ trăn trở của họ khi xa gia đình?
Cũng trong hoàn cảnh này,là một đứa con của một nữ công nhân đang bươn trải nơi đất khách quê người hơn ai hết tôi thấu hiểu nỗi thống khổ của mẹ tôi khi một lúc bà vừa phải vật lộn với cuộc sống bon chen,ngạt thở ,sự leo thang của giá cả nơi đô thị ,vừa phải đối mặt với sự dằn vặt khi phải xa chồng con.
Cảm nhận thôi chưa đủ,phải tận mắt chứng kiến cuộc sống của nữ công nhận nhập cư mới có thể đưa ra những kết luận chính xác.Hai năm sống và học tập tại thành phố Hồ Chí Minh đã giúp tôi nhận ra được nhiều điều,cái khổ về vật chất đôi lúc chẳng là gì đối với những nữ công nhân nhập cư này nhưng sự “nghèo nàn” về tinh thần có khi đủ sức phá hủy hết niềm tin vào cuộc sống của họ,và có thể đưa họ sa vào những “vũng bùn lầy” của cuộc đời.
Tất cả những lý do trên là động lực thúc đẩy tôi vượt qua rào cản của sự thiếu tự tin ở bản thân để thực hiện đề tài với mong muốn tìm hiểu sâu hơn nữa thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh,đồng thời chia sẻ sự hiểu biết này tới các bạn sinh viên.
Thực hiện đề tài này cũng là cái mốc đánh dấu trong sự nhận thức chín chắn về hiện thực cuộc sống của tôi với tư cách là một cán sự xã hội trong tương lai.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
2.1.Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài xoay quanh đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh nên đối tượng nghiên cứu trong đề tài này tập trung đi sâu vào các mặt của đời sống tinh thần như học tập,vui chơi,giải trí,thể thao,các mối quan hệ và các mặt hoạt động xã hội khác của chị em công nhân nữ.
2.2 Khách thể nghiên cứu:
Để đáp ứng đúng nội dung của đề tài khách thể nghiên cứu là công nhân nữ nhập cư đang làm việc tại các công ty trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ,trong đó điển hình là công nhân nữ nghành dệt may.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài nghiên cứu về trường hợp do vậy địa điểm chọn để nghiên cứu là khu vực thành phố Hồ Chí Minh
4. Mục tiêu nghiên cứu:
4.1 Mục tiêu chung:
Nhìn một cách tổng quát thì toàn bộ nội dung của đề tài nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ dưới tác động của hoàn cảnh xã hội,qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm giải quyết thực trạng
4.2 Mục tiêu cụ thể:
1. Tình hình di dân tại TPHCM từ 2000-2008
2. Thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1 Các mối quan hệ của công nhân nữ nhập cư với lãnh đạo công ty,bạn bè,gia đình
2.2 Quá trình tham gia vào các hoạt động học tập,vui chơi,giải trí,thể dục thể thao. Mức độ tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng như sách,báo,tivi,radio,internet.
2.3Tình hình tham gia vào các hoạt động xã hội như đi bộ,ủng hộ đồng bào bão lũ
3. các chính sách của nhà nước nhằm bảo vệ và đáp ứng nhu cầu lao động nữ nhập cư.
5. Ý nghĩa đề tài:
5.1 Ý nghĩa về mặt lý luận:
Đề tài nghiên cứu được hoàn thành góp phần vào việc áp dụng các lý thuyết xã hội học,kỹ năng phân tích giới. Đồng thời góp phần nhỏ trong lý luận nghiên cứu về đời sống của cồng nhân nữ nhập cư
5.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Trước hết quá trình nghiên cứu đã giúp người thực hiện đề tài bổ sung một lượng kiến thức thiếu hụt về thực trạng đời sống công nhân nữ nhập cư tại nơi mình đang học tập,đặc biệt là về mặt tinh thần
Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên và tất cả những người quan tâm đến đời sống của công nhân nữ nói chung và công nhân nữ nhập cư nói riêng.
Những kiến nghị trong đề tài sẽ là những điều tham khảo cho giới lãnh đạo công ty,những cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và các nhà hoạt động xã hội.
6. Nguồn dữ liệu và phương pháp phân tích thông tin:
6.1 Nguồn dữ liệu:
Trong nghiên cứu này có kế thừa nguồng dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trước của các tác giả,ngoài ra người nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu mà bản thân thu thập được qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách,báo,tivi,radio,internet và quá trình quan sát trong suốt thời gian học tập sinh sống tại địa bàn thành phố.
6.2.Phương pháp xử lý thông tin:
Do sử dụng tài liệu thứ cấp là chính nên phương pháp sử lý thông tin chủ yếu là khái quát,tổng hợp,quan sat,định tính.
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3280 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đời sống tinh thần công nhân nữ nhập cư tại Tp. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩ trăn trở của họ khi xa gia đình?
Cũng trong hoàn cảnh này,là một đứa con của một nữ công nhân đang bươn trải nơi đất khách quê người hơn ai hết tôi thấu hiểu nỗi thống khổ của mẹ tôi khi một lúc bà vừa phải vật lộn với cuộc sống bon chen,ngạt thở ,sự leo thang của giá cả nơi đô thị ,vừa phải đối mặt với sự dằn vặt khi phải xa chồng con.
Cảm nhận thôi chưa đủ,phải tận mắt chứng kiến cuộc sống của nữ công nhận nhập cư mới có thể đưa ra những kết luận chính xác.Hai năm sống và học tập tại thành phố Hồ Chí Minh đã giúp tôi nhận ra được nhiều điều,cái khổ về vật chất đôi lúc chẳng là gì đối với những nữ công nhân nhập cư này nhưng sự “nghèo nàn” về tinh thần có khi đủ sức phá hủy hết niềm tin vào cuộc sống của họ,và có thể đưa họ sa vào những “vũng bùn lầy” của cuộc đời.
Tất cả những lý do trên là động lực thúc đẩy tôi vượt qua rào cản của sự thiếu tự tin ở bản thân để thực hiện đề tài với mong muốn tìm hiểu sâu hơn nữa thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh,đồng thời chia sẻ sự hiểu biết này tới các bạn sinh viên.
Thực hiện đề tài này cũng là cái mốc đánh dấu trong sự nhận thức chín chắn về hiện thực cuộc sống của tôi với tư cách là một cán sự xã hội trong tương lai.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
2.1.Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài xoay quanh đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư hiện nay tại thành phố Hồ Chí Minh nên đối tượng nghiên cứu trong đề tài này tập trung đi sâu vào các mặt của đời sống tinh thần như học tập,vui chơi,giải trí,thể thao,các mối quan hệ và các mặt hoạt động xã hội khác của chị em công nhân nữ.
2.2..Khách thể nghiên cứu:
Để đáp ứng đúng nội dung của đề tài khách thể nghiên cứu là công nhân nữ nhập cư đang làm việc tại các công ty trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ,trong đó điển hình là công nhân nữ nghành dệt may.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài nghiên cứu về trường hợp do vậy địa điểm chọn để nghiên cứu là khu vực thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu nghiên cứu:
4.1..Mục tiêu chung:
Nhìn một cách tổng quát thì toàn bộ nội dung của đề tài nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ dưới tác động của hoàn cảnh xã hội,qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm giải quyết thực trạng..
4.2 Mục tiêu cụ thể:
1. Tình hình di dân tại TPHCM từ 2000-2008
2. Thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư đang làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1 Các mối quan hệ của công nhân nữ nhập cư với lãnh đạo công ty,bạn bè,gia đình…
2.2 Quá trình tham gia vào các hoạt động học tập,vui chơi,giải trí,thể dục thể thao. Mức độ tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng như sách,báo,tivi,radio,internet.
2.3Tình hình tham gia vào các hoạt động xã hội như đi bộ,ủng hộ đồng bào bão lũ…
X3. các chính sách của nhà nước nhằm bảo vệ và đáp ứng nhu cầu lao động nữ nhập cư.
5. Ý nghĩa đề tài:
5.1 Ý nghĩa về mặt lý luận:
Đề tài nghiên cứu được hoàn thành góp phần vào việc áp dụng các lý thuyết xã hội học,kỹ năng phân tích giới. Đồng thời góp phần nhỏ trong lý luận nghiên cứu về đời sống của cồng nhân nữ nhập cư
5.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Trước hết quá trình nghiên cứu đã giúp người thực hiện đề tài bổ sung một lượng kiến thức thiếu hụt về thực trạng đời sống công nhân nữ nhập cư tại nơi mình đang học tập,đặc biệt là về mặt tinh thần..
Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên và tất cả những người quan tâm đến đời sống của công nhân nữ nói chung và công nhân nữ nhập cư nói riêng.
Những kiến nghị trong đề tài sẽ là những điều tham khảo cho giới lãnh đạo công ty,những cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và các nhà hoạt động xã hội.
6. Nguồn dữ liệu và phương pháp phân tích thông tin:
6.1 Nguồn dữ liệu:
Trong nghiên cứu này có kế thừa nguồng dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trước của các tác giả,ngoài ra người nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu mà bản thân thu thập được qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách,báo,tivi,radio,internet và quá trình quan sát trong suốt thời gian học tập sinh sống tại địa bàn thành phố.
6.2.Phương pháp xử lý thông tin:
Do sử dụng tài liệu thứ cấp là chính nên phương pháp sử lý thông tin chủ yếu là khái quát,tổng hợp,quan sat,định tính.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Trong những năm vưa qua vấn đề đời sống của nữ công nhân đặc biệt là công nhân nữ nhập cư đã được nhiều người quan tâm đến.Với sự hạn chế về hiểu biết tôi xin giới thiệu một số bài nghiên cứu để bạn đọc tham khảo.
X “Tìm hiểu đời sống nữ nhập cư tại khu phố1 phường 15 quận Bình Thạnh”tiểu luận tốt nghiệp của sv Đỗ Vĩnh Thái, khoa phụ nữ học, ĐH Mở Bán Công TP.HCM, khóa 1(1992-1996)
Qua quá trình nghiên cứu đề tài chỉ ra thực trạng đời sống của phụ nữ nhập cư tại khu phố 1,phường15.quận Bình Thạnh. Những nguyên nhân của việc phụ nữ di cư vào thành phố tìm việc,điều kiện sinh sồng vất vả như thế nào khi họ lên thành phố với hai bàn tay trắng,những công việc mà họ thường làm ở thành phố,những tâm tư tình cảm của họ khi phải xa quê hương.
X “Việc thực hiện luật lao động đối với nữ công nhân ở một vài doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh”của sv Vũ Thị Khương, khoa phụ nữ học, ĐH Mở Bán Công TP.HCM, khóa 1(1992-1996)
Nghiên cứu tập trung làm rõ tình hình các chế độ tại các doanh nghiệp như thế nào,luật có thực sự đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ về vấn đề tuyển dụng phân công trả lương hay không?nghiên cứu chỉ ra điều kiện làm việc,điều kiện vệ sinh,an toàn lao động,bảo hộ lao động,bảo hiểm xã hội,bệnh nghề nghiệp như thế nào ở các doanh nghiệp.
Đề tài khoanh vùng nghiên cứu ở bốn địa điểm cụ thê:công ty may Việt Tiến,công ty dệt Thành Công,công ty thủy sản Seaprodex,xí nghiệp công trình giao thông đô thị Quận 3.Tình hình thực hiện luật lao động tại bố địa điểm này.
X “khảo sát đời sống và điều kiện làm việc của lao động nữ nghành dệt may”của sv Nguyễn Thị Ngọc, khoa phụ nữ học, ĐH Mở Bán Công TP.HCM,niên khóa”1997-2001).
Đề tài cung cấp thông tin về đời sống công nhân nữ nghành dệt may.Với tư cách là một người thợ dệt đứng máy trực tiếp sản xuất hơn 10 năm tác giả đã đưa ra cái nhìn sâu sắc về tất cả mọi mặt của cuộc đời nữ công nhân nghành dệt may.Nghiên cứu chọn hai trường hợp điển cứu là công ty dệt Việt Thắng và công ty dệt may Thành Công .Điều có thể thấy được qua nghiên cứu đó là công nhân nữ nghành dệt may đang phải làm việc trong điều kiện hết sức khó khăn,nóng bức,bụi,chật hẹp và thiếu ánh sáng…trong khi đó họ thường xuyên phải tăng ca.Đồng lương nhận được sau mỗi tháng không đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày,nhiều vấn đề khác nảy sinh như thiếu thốn về điện nước sinh hoạt…
X “Tìm hiểu đời sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt Tiến”của sv Trần Thị Hồng Châu,khoa phụ nữ học,ĐH Mở Bán CôngTP.HCM,khoá 7(1998-2000)
Đề tài đề cập đến thực trạng nhóm nữ công nhân công ty may Việt Tiến về mọi mặt của cuộc sống như:điều kiện dự tuyển,quyền lợi và nghĩa vụ của họ đối với công ty,
những trở ngại về thời gian lao động,sức khỏe bản thân,sinh hoạt gia đình và các mối quan hệ xung quanh nơi cư trú.Điển hình là những khó khăn mà công nhân tại công ty may Việt tiến gặp phải khi làm việc trong điều kiện không thỏa mái và luôn ở trong tình trạng stress nặng….
X “Lao động nữ di cư tự do nông thôn-thành thị”của Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc,nhà xuất bản phụ nữ,Hà Nội 2000.
Bài nghiên cứu đã đưa ra một cách khái quát về tình hình di cư tự do từ các vùng nông thôn lên thành thị,nguyên nhân của tình hình di cư đó.Trong lực lượng lao động di cư đó thì nữ giới chiếm số lượng đông hơn nam giới.Nghiên cứu cho thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến di dân lao động nữ trong dố nguyên nhân chủ yếu là cái ngèo nơi những miền quê.Đặc điểm của những nghề nghiệp phụ nữ nhập cư thường chọn,suy nghĩ trăn trở của họ về việc làm của mình về gia đình hay nói khái quát hơn là toàn bộ cuộc sống của họ sau khi cư trú và làm việc tại thành thị.
X “Tình trạng tiến tới hôn nhân của lao động nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh” khóa luận tốt nghiệp của sv Đàm Thanh Giang, khoa xã hội học, ĐHDL Văn Hiến,niên khóa (2003-2007).
Toàn bộ nội dung đề tài đi sâu vào khiá cạnh nhạy cảm nhất của lao động nữ nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh, những khó khăn, lo lắng, và có cả sự tuyệt vọng của nữ công nhân trước thực trạng “tuổi xuân” chôn vùi bên máy móc và những nguy cơ “ế chồng”của đại bộ phận nữ công nhân nhập cư tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh
Ngoài ra còn một số bài viết trên các báo và các tạp chí như:
TẠP CHÍ KHOA HỌC VỀ PHỤ NỮ:
♣“Điều kiện lao động của nữ công nhân :thực trạng và giải pháp ” Nguyễn Tín Nhiệm, Số 2/1998.
Bài viết có xu hướng thiên về nghiên cứu môi trường lao động qua các năm từ 1995 đến 1997 của cá xí nghiệp trên khắp cả nước với 1294 doanh nghiệp.qua nghiên cứu chỉ ra trên tất cả các doanh nghiệp nói chung ,công nhân luôn phải làm việc trong những điều kiện không đảm bảo,luôn phải chịu áp lực nặng từ công việc…Trên thực trạng đó tác giả đưa ra một số biện pháp đề xuất để hạn chế bớt khó khăn trong công việc…
♣ “Lao động nữ ra thành phố cư trú tự do tìm việc làm:thực trạng và giả pháp”của Lê Trọng và Nguyễn Minh Ngọc,số 2/2001,tr 44.
Trong bài tác giả đưa ra những nguyên nhân của việc lao động nư ra thành phố cư trú tự do,nguyên nhân về kinh tế và cũng có cả nguyên nhân về tinh thần .Đồng thời bài viết cũng chỉ ra những khó khăn mà chị em phải đối mặt trong suốt quá trình di cư tìm việc làm.
♣ “Sự gắn kết của nữ công nhân với công việc và doanh nghiệp”của Bùi Thị Hà, số 2/2006
Bài viết chỉ ra mối quan hệ giữa công nhân với công việc mình làm và với lành đạo doanh nghiệp,những khó khăn về công việc cũng như quá trình tiếp xúc và làm việc dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo công ty,mắc độ quan tâm của lãnh đạo công ty với đời sống của nữ công nhân.
.
CHƯƠNG II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1 Tổng quan về tình hình di dân 2000-2008 tại TP. HỒ CHÍ MINH.
Di dân là biểu hiện tất yếu của sự phát triển kinh tế không đồng đều.Quá trình di dân đang diễn ra hết sức phức tạp trên quy mô toan cầu trong đó có Việt Nam.
Là một thành phố lớn hội tụ rất nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế:một trung tâm cư dân lớn,trung tâm kinh tế, văn hóa,khoa học-kĩ thuật,giao dịch quốc tế.Thành phố Hồ Chí Minh đang là điểm hướng đến của các luông di dân lên thành phố kiếm việc làm.Đây cũng là một sức ép lên mọi mặt của đời sống tại thành phố.
Theo các con số thống kê gần đây cho thấy số lượng dân nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng ngày càng tăng:năm 1996 là 50 .000 người, năm 1997 là 60.000 người,năm 1998 là 70.000 người,năm 1999 là 79000 người, đến năm 2000 thì vần là 79000 người,cho đến thời gian gần đây lượng dân nhập cư cũng không hề giảm tại thành phố.(theo PTS. Nguyễn Văn Tài “Di dân tự do nông thôn-thành thị tại thành phố Hồ Chí Minh”)
Lượng dân nhập cư tăng ,cơ cấu di dân cũng có nhiều biến đổi.Giai đoạn đầu,lượng dân nhập cư chủ yếu là năm giới,nhưng một vài năm trở lại đây thì luồng di dân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
Các luồng di dân đến từ khắp tất cả các tỉnh thành trong cả nước,cụ thể khu vực ĐBSCL là 36,1%,ĐNB là 19,7% Trung bộ là 21,4%,và Bắc bộ là 22,8%,chủ yếu là những vùng nông thôn nghèo khó…(Theo “Tiểu ban chỉ đạo quản lý dân cư”)
Lên thành phố tìm việc làm,địa bàn sinh sống của dân nhập cư chủ yếu là vùng nội thành với 69,33% (1) tổng di dân.Muốn tìm được việc là buộc họ phải cư trú tại các vùng nội thành như quận Tân Bình,Bình Thạnh,Gò Vấp, Quận 3, Quận Phú Nhuận,Quận 1 ,Quận 8 ….Bên cạnh đó một số vùng ngoại thành như Thủ Đức,Nhà Bè…cũng tập trung lượng dân nhập cư khá dông do các vùng này tập trung các khu chế xuất và các khu công nghiệp tập trung.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng di dân vào thành phố Hồ Chí Minh.Nhưng nổi bật lên với ba nguyên nhân chính:đoàn tụ gia đình(48,30%),kiếm việc làm(25,33%),các lý do khác như người nước ngoài về…(26,37%)(Nguyễn Văn Tài “Di dân tự do nông thôn-thành thị tại TPHCM”)
Điều tra di dân cho thấy đa số người nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh không có hộ khẩu thường trú tại đây,chủ yếu là tạm trú ngắn hạn hoặc không có giấy tạm trú.Xét về trình độ và chuyên môn kĩ thuật thì có 27,2% người có trình độ cấp 1,trình độ cấp 2 là 38,8%,trình độ cấp 3 trở lên là 34%.(Nguyễn Văn Tài “Di dân tự do nông thôn –thành thị tại TPHCM”)
Với trình độ khác nhau thì sự phân công lao động cũng khác nhau,chỉ có 8,82% (2)lao dộng làm việc tại khu vực quốc doanh và nhà nước,còn lại chủ yếu làm việc tại các khu vực ngoài quốc doanh(kinh tế cá thể,tư thân…).Nhìn chung thì hầu hết lao động nhập cư có việc làm không ổn định,đồng lương thấp ma công việc lại hết sức vất vả.
Một điều đáng báo động là điều kiện sinh hoạt của lao động nhập cư hết sức khó khăn.do không có hộ khẩu nên việc tìm nhà rất khó khăn.Để tìm được một nơi cư trú là một cuộc hành trình hết sức gian nan,các phòng trọ tại thành phố hầu như không con trống,giá cả đắt đỏ,kết cấu xây dựng không thuận lợi,nóng bức,chật chội,ẩm thấp là đặc điểm chung của các phòng trọ.Một bộ phận lớn lao động phải trú ngụ ngay cạnh những bãi rác,nghĩa địa,vùng lầy lội…
Trong điều kiện cư trú như thế này thì chất lượng cuộc sống không lấy gì làm khả quan cho lắm,sức khỏe người lao động bị giảm sút nghiêm trọng,thiếu nước sinh hoạt,nguồn điện và những nhu cầu thiết yếu khác cho cuộc sống hằng ngày.
Nhìn một cách tổng quan thì qua trình di dân làm ảnh hưởng tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội mà trước tiên là cuộc sống của chính họ.đây là vấn đề mà các nhà hoạt động xã hội,các cơ quan lành đạo cần phải quan tâm hơn nữa tới dân nhập cư,giúp họ có cuộc sống ổn định và hạn chế bớt áp lực cho thành phố về nạn di dân.
(1),(2)(Theo Nguyễn Văn Taì và CTV “Di dân tự do nông thôn –thành thị tại TPHCM”
2. Thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư tại thành phố Hồ Chí minh:
2.1 Thực trạng:
Đi khắp các ngả đường của tại TP.Hồ Chí Minh, ở đâu ta cũng bắt gặp hình ảnh của những người lao động nữ đang phải lăn lộn ở những loại hình công việc khác nhau giữa sự ồn ào, ngột ngạt của bầu không khí đất Sài Gòn.Ở đó thấp thoáng bóng dáng của những người lao động nữ nhập cư: “Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số 1999,trong số 2.001.409 người trên 5 tuổi đã di cư trong năm năm qua là nữ”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc: “Lao động nữ di cư tự do nông thôn- thành thị”
Người phụ nữ thường gắn bó với các công việc chăm lo gia đình, gắn bó với quê hương và hầu như có mức lương ổn định.Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là :Tại sao họ phải rời bỏ gia đình, làng quê để lên các thành phố để kiếm việc?
Qua những cuộc khảo sát,nghiên cứu cho thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do cái nghèo, cái đói đang diễn ra ngay trên quê hương của họ: “theo các tính toán hiện nay ngày công lao động nông thôn chỉ đạt trên dưới 10.000 đồng/ngày và nếu chỉ thâm canh cây lúa thì với số diện tích,năng xuất như hiện nay,các hộ gia đình nông dân chỉ có thể đạt được tổng thu nhập khoảng từ 15-20 kg thóc/người/tháng,tương đương khoảng 30-40đồng/người/tháng”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc “Lao động nữ di cư tự do nông thôn- thành thị”,NXB Phụ Nữ,Hà Nội- 2000).Đấy là chưa kể những năm mất mùa do lữ lụt hạn hán gây ra.
Bước vào thành phố với hai bàn tay trắng , họ muốn có được một công việc để ổn định cuộc sống của bản thân và hi vọng sẽ có chút tiền dư giả để nuôi sống gia đình.Nhưng thực tế nghiệt ngã không cho họ thực hiện được những ước mơ giản dị đó.Đời sống bấp bênh, công việc thì không ổn định và nặng nhọc, vất vả với mức thu nhập không đủ để trang trải chi tiêu cho cuộc sống của bản thân.Bởi thu nhập của họ thấp trong khi giá cả thì leo thang (mức lạm phát 3 tháng đầu năm 2008 là 9.19%-một con số quá cao trong khi khi mức lương tăng trung bình của công nhân là 10%)(nguồn báo Lao Động số 70 ngày 28/3/2008) khiến cho họ như đang đứng trên một biển lửa.
Chỗ ở là điều kiện tối thiểu khi bước vào thành phố Hồ Chí Minh.Để có thể kiếm được việc làm thì điều trước tiên là phải kiếm được một chỗ để trú ngụ.Đối với lao động nữ nhập cư, chi tiêu của họ dung để thuê nhà trọ là rẻ nhằm phù hợp với đồng lương eo hẹp.Nhưng đồng nghĩa với cái “rẻ” ấy là những phòng trọ lụp xụp, nóng bức, chật chội.Trong bài “tết lên bãi rác”của Thảo Sương, đăng trên báo phụ nữ TP.Hồ Chí Minh,ngày 20/2/1999 viết: “Dân tạm trú làm rác ở đây sống trong những mái nhà tạm bợ,tối tăm,lụp xụp.Có đến hàng trăm căn hộ như vậy xung quanh bãi rác”.Mô tả lại nơi tạm trú,Khuất Huyền viết:”Một căn phòng mái tôn 16m2 mà chứa 24 người,không giường chỉ manh chiếu sờn đã cũ nát được trải trên nền gạch hoặc cái giát giường cũ nếu ở nơi ẩm thấp.Bên ngoài hành lang là công trình phụ được quây tạm bằng tấm cót ép meo mốc, cách đó 2m là khu nhà bếp tuềnh toàng, nhưng có 3,4 cái bếp dầu ,vài ba rổ đựng bát đĩa cùng chai lọ lủng củng bụi đã phủ mờ và mạng nhện chăng khắp.”(Khuất Huyền,phụ nữ Việt Nam-số 5,6/12/1999)
Tuy sống trong những căn nhà này nhưng một số chị em vẫn thấy vui vì mình còn có chỗ để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng.Bên cạnh đó có rất nhiều chị em phải chịu cảnh màn trời chiếu đất,trong số họ, phần lớn là những người muốn ra thành phố tìm việc không có thu nhập “Họ là những người mới ra thành phố hoặc chưa có việc làm,hoặc chưa có người thuê;tiền mang theo thì hết ,tiền thu nhập mới chưa có;họ không quen biết ai,nên đành phải sống vật vã nơi đầu đường góc phố,chịu nắng, mưa, sương, gió,đầy đọa tấm thân mình”(Hà thị Phương Tiên-Hà Quang ngọc “Lao động nữ di cư tự do nông thôn-thành thị”,NXB Phụ nữ Hà Nội-2000)
Công việc với tính chất bấp bênh nên mức thu nhập mà họ nhận được cũng không ổn định.Và mức thu nhập mà họ nhận được còn tùy thuộc vào từng loại công việc. “thu nhập bình quân tháng của người di cư(957.000đ)thấp hơn so với người không di cư (1.212.000đ) khoảng 21%.Người di cư là nam(thu nhập bình quân tháng 1.105.000đ) kiếm được nhiều hơn nữ(839.000đ) (Tổng Cục Thống Kê “ Điều tra di cư Việt nam 2004”,Hà Nội,Tháng 11-2006).Sự chênh lệch giữa thu nhập của người nhập cư và người không di cư cũng không hề nhỏ,điều này cho thấy rằng lao động nhập cư gặp nhiều khó khăn hơn lao động không nhập cư về thu nhập,trong khi đó họ phai trang trải những khoản chi phí mà lao động không nhập cư không phải lo nghĩ đến.Sự chênh lệch giữa thu nhập bình quân của lao động nam và nữ nhập cư cũng khá cao nó phần nào nói lên sự bất bình đẳng trong công việc, thu nhập, lợi ích… giữa nam và nữ công nhân,đó là sự bất công mà lao động nữ nhập cư phải gánh chịu.
Với thu nhập thấp như vậy thì cuộc sống của họ hết sức khó khăn huống chi còn phải mang trong mình nỗi lo kinh tế của gia đình.Đồng lương eo hẹp như vậy muốn đảm bảo được cuộc sống phải hết sức tiết kiệm.Chính vì tiết kiệm này đã dẫn đến tình trang thiếu thốn về nhiều mặt của đời sống vật chất.Bữa ăn là cần thiết nhất phải chi tiêu hang ngày,song với điều kiện giá cả tăng vọt như hiện nay thì việc đảm bảo đủ chất cho chị em là rất khó khăn.Thường thì công nhân nữ nhập cư chỉ chi từ 7.000đ-10.000đ cho bữa ăn của một ngày,và phần lớn họ phải nhịn ăn sáng.Với kiểu ăn uống như thế thì họ không thể bù đắp nổi lượng sức lao động bỏ ra làm việc trong điều kiện nặng nhọc, vất vả.
Với gánh nặng công việc và nỗi lo gia đình như vậy ,các nữ công nhân luôn phải ở trong tình trạng stress nặng.
Thêm vào đó trong điều kiện làm việc không mấy dễ chịu như vậy các chị luôn cảm thấy mệt mỏi,ngán ngẩm,đau khắp người…Theo GS.TS Nguyễn Văn Lê “Khoa học bảo vệ con người trong lao động”,tr4 :môi trường làm việc quá nóng bức,ồn ào,nhiều bụi,nồng độ chất độc cao tuy không gây nguy hiểm tính mạnh ngay tại thời điểm làm việc nhưng có thể làm giảm tuổi thọ về sau.
Phần lớn nữ công nhân thường phàn nàn sau những ca làm việc “người dã dời,đau lưng ,mỏi mắt,có người mắt đã kém dần” một số lo lắng “không biết còn đủ sức làm đến 50 tuổi hay không”(theo Nguyễn Thị Ngọc “Khảo sát đời sống và điều kiện làm việc của lao động nữ nghành dệt may”)
Điều tra về tình hình sức khỏe công nhân tại 53 đơn vị dệt may với 19.638 người cho thấy: “sức khỏe loại 1:8,6%; loại 2:2,35%;loại 3:43,5% ;loại 4:11,8% ;loại 5 :1,1%.(LêMinh Đại,phó chủ tịch công đoàn công nghiệp VN: “Thực trạng điều kiện làm việc và sức khỏe nữ công nhân viên chức la lao động nghành công nghiệp”
2.2 Đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư nghành dệt may
2.2.1 các mối quan hệ của công nhân nữ
♣ mối quan hệ với lãnh đạo công ty:
Đa số công nhân khi vào làm việc tại các công ty đều nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của công ty về thời gian lao động .Cả hai bên đều có ý thức trong việc tôn trọng hợp đồng lao đọng kí kết trước khi lao động vào làm việc tại công ty,tuy nhiên gần đây tại thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành khác luôn xảy ra mâu thuẫn giữa lãnh đạo công ty và công nhân dẫn tới hành động công nhân đình công với số lượng lớn gây sức ép trong dư luận xã hội,làm mất lòng tin của công nhân vào giới lãnh đạo công ty,công việc sản xuất bị ngưng trệ ảnh hưởng tới tiến độ phát triển kinh tế chung của toàn xã hội.(N.Dương-H.Hùng “Ngừng việc xô xát tại công ty may Quảng Việt”,vietnamnet,1/3/2008).Gần đây nhất 25/4/2008 hơn 3000 công nhân công ty giày Gia Định đình công đòi tăng lương và các khoản chế độ: “Bức xúc lớn nhất của tập thể công nhân là công ty bố rtis cho công nhân nghỉ phép năm 2008 vào những ngày không có hàng nhưng không báo trước,khiến họ bị thiệt thòi”( Lê Việt, vietnamnet,26/4/2008).Đó là những minh chứng cho sự khôn ghiểu nhau giữa lãnh đạo công ty và công nhân khiến họ bức xúc đến mức phải lên tiếng bằng biện pháp đình công.Sự không hiểu nhau này gây ảnh hưởng bất lợi tới nhịp độ phát triển kinh tế chung của công ty cũng như toàn xã hội.
♣ mối quan hệ với nam công nhân
Thời gian lao động quá nhiều cùng với sự mệt mỏi của công việc khiến cho chị em công nhân không có điều kiện để giao lưu với các bạn khác giới.Một số chị em mặc cảm vì mình là dân nhập cư nên sống co mình lại không giao lưu với ai chỉ lo lam được nhiều công việc để tăng thu nhập.
Hạn chế nữa là hầu hết công nhân nghành may mặc là nữ,số lượng nam rất ít nên số chị em không có cơ hội để tìm bạn đời cho mình,nhất là các chị đã qua tuổi xuân thì nguy cơ “ế chồng” là rất cao.
Là phụ nữ ai cũng mong muốn tìm được người bạn đời để chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống,nhưng thực tế “nghiệt ngã”đã không thể đem lại hạnh phúc cho các chị.Nhận thức được hoàn cảnh của mình,có nhiều chị chấp nhận an phận,nhưng một số khác không chịu nổi cảnh cô đơn,nhất là khi về già nên chọ cách nuôi con đơn thân: “công nhân nữ tuổi ngoài 30 vẫn chưa lập gia đình chiếm số đông.Sợ tuổi già hiu quạnh,một số chị em tìm cách có được một đứa con bằng mọi giá”(nguồn Tintuconline “Nỗi khát khao làm mẹ”,thứ 7 ngày 10/3/2007)
Đây là vết thương in hằn lâu nhất trong trái tim người phụ nữ và chính nó đã khiến các chị mất hết niềm vui và tin yêu vào cuộc sống,xa lánh xã hội.Đau lòng hơn nữa khi một bộ phận chị em bị rơi vào bẫy của các tệ nạn xã hội:mại dâm,trộm cắp: “Ngoài những vấn đề tiền công,nhiều chủ thuê nhân công còn có hành vi lợi dụng sắc đẹp và thể xác của lao động nữ để làm tăng thu nhập và thỏa mãn dục vọng của mình.các cửa hàng ăn uống,karaoke thương thu hút các cô gái trẻ để đưa ra làm tiếp viên.Nhiều chủ cửa hàng yêu cầu và khuyến khích các em ăn mặc và có biểu hiện lả lơi để thu hút khách,thậm chí tiến hành cả hoạt động mại dâm”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang Ngọc “Lao động nữ di cư tự do thành thị-nông thôn”
Tình trạng sống thử cũng diễn ra hết sức gay gắt trong đời sống công nhân nữ nhập cư: “Nam nữ công nhân tại khu công nghiệp,có khi chỉ mời nhau li chè,thấy thích nhau là có thể dọn về ở chung như vợ chồng.Không ít trường hợp còn hoán đổi “vợ”, “chồng” cho nhau sau một thời gian chung sống không thấy thích hợp(Theo Việt Báo,thứ 2 ngày 14/8/2006).Tình trạng trên là sự báo động chon guy cơ gia tăng nạo phá thai ở công nhân nữ và nó dẫn đến sự tổn thương về tinh thần cho người nữ công nhân .
♣Mối quan hệ với đồng nghiệp nữ
Chị em công nhân khi bước chân vào làm việc ai cung luôn có một ý niệm là kiếm thật nhiều tiền để phụ giúp gia đinh,bởi vậy họ luôn có tư tưởng làm sao để mình có được nhiều việc làm,có công việc là lao vào làm dẫn đến tình trạng xâm lấn vào công việc của nhau.Chanh chấp giữa các chị em là không thể tránh khỏi.
Điều tra tại xí nghiệp may Việt Hải: “thỉnh thoảng có 63,3% công nhân nhập cư không hòa hợp với đồng nghiệp”(Trần Thị Hồng Châu “Tìm hiểu đời sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt Tiến”)
Trong suốt quá trình làm việc và sinh sống tất nhiên không tránh khỏi va chạm,nhưng chủ yếu là va chạm nhỏ có thể tự giải quyết với nhau.
Nhìn chung ngoài những mâu thuẫn nhỏ trong công việc thì chị em luôn có ý thức giúp đỡ nhau trong cuộc sống nhất là lúc ốm đau,bệnh tật.Đây cũng là việc chị em cần phải thích nghi trong suốt quá trình sinh sống và làm việc tại thành phố.
♣ Mối quan hệ nơi cư trú:
Đối với mỗi người tạo được thiện cảm với mọi người xung quanh là rất quan trọng.Công nhân cũng vậy,ngoài giờ làm việc ở công ty họ trở về nhà để nghỉ ngơi.Trong quá trình sống họ giao tiếp với mọi người xung quanh và dần dần tạo được mối quan hệ mật thiết với những người xung quanh nơi cư trú.
Nhìn chung tại các xóm trọ ,công nhân nhập cư có mối quan hệ tốt với mọi người xung quanh kể cả dân địa phương cũng đối sử rất tôt với họ “có 33,3% nữ công nhân may nhập cư có quan hệ tốt với địa phương nơi cư ngụ;66,6% quan hệ với bà con hàng xóm chỉ ở mức xã giao,họ không dặt nặng mối quan hệ với người địa phương,họ trú trọng mối quan hệ với người cùng quê đang nhập cư cùng họ hơn.thường là mối quan hệ giữa người nhập cư dân địa phương thông qua chủ nhà nơi họ thuê”(Trần Thị Hồng Châu “tìm hiểu đời sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt Tiến”)
Chỉ với số liệu điều tra tại công ty may Việt Tiến cũng đủ cho ta thấy được mối quan hệ của nữ công nhân nhập cư bó hẹp như thế nào trong khu cư trú.Nhưng nhìn chung họ luôn muốn tạo thiện cảm với dân địa phương trong quá trình sinh sống.
Phần lớn công nhân có xu hướng tiếp xúc với người đồng hương.Nguyên nhân là do xuất phát từ một địa phương nên họ hiểu nhau về đặc điểm văn hóa dẫn đến dễ tiếp xúc và dễ hiểu nhau hơn.
Tới thăm một số khu trọ của công nhân chúng ta nhận thấy rằng phần lớn họ cư trú theo kiểu những người đồng hương.Có khu trọ toàn là người đến từ Thanh Hóa,Nam Định,Hà Tây…Xu hướng tìm nhà trọ với những người cùng quê cũng không phải là mới.
Việc bó hẹp phạm vi giao tiếp sẽ hạn chế mối quan hệ giữa những người đến từ nhiều vùng miền khác nhau,Do vậy mà hạn chế khả năng nhận thức về các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau,quá trình giao lưu các nền văn hóa với nhau không được rộng dãi.
Điều này cũng làm ảnh hưởng tới khả năng kết bạn của công nhân ,nhất là việc tìm cho mình một người tâm đầu ý hợp để chia sẻ những lúc buồn vui trong cuộc sống.
♣ Mối quan hệ với gia đình:
Đa số công nhân nữ nhập cư đến từ các vùng miền xa,cho nên việc về thăm gia đình là hết sức khó khăn.Mỗi năm may ra được về thăm nhà một lần con không có điều kiện thì hai ,thậm chí ba năm mới về thăm nha được.
Với những nữ công nhân nhập cư xa nhà ngoài việc chịu nhiều áp lực của công việc kiếm tiền họ vừa bị tổn thương bởi nỗi lo cho chồng và những đứa con nheo nhóc ,thiếu tình yêu thương của người mẹ.
Nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong sâu thẳm đáy lòng người công nhân xa sứ. “sống xa nhà nhưng điều kiện làm việc và chi phí đi lại là hai lý do chính khiến công nhân nhập cư dù nhớ nhà nhưng khó lòng về thăm gia đình được” (Trần Thị Hồng Châu “Tìm hiểu dời sống nữ công nhân nhập cư công ty may Việt Tiến”),chi phí cho mỗi lần về quê là hết sức tốn kém.Bởi vậy thường công nhân nữ tranh thủ những dịp như lễ tết ở lại làm thêm để kiếm tiền gửi về gia đình: “Chị Nguyễn Thị Na năm năm nay không về quê,vì không có tiền.Mỗi lần về quê là mỗi lần tốn kém.Lương công nhân chẳng được bao nhiêu”(Hà Dịu: “Cháy lòng công nhân ăn tết xa quê”,vietnamnet,6/2/2008)
Tuy phải chịu nhiều khó khăn như vậy nhưng diều mà ta phải trân trọng ở họ đó là sự cố gắng không mệt mỏi để vượt qua khó khăn ,kiếm những đồng tiền lương thiện để nuôi gia đình.
2.2.2. Qúa trình tham gia các hoạt động vui chơi giải trí ,thể dục thể thao và mức độ tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng ti vi,sách báo,internet…
Với cường độ làm việc căng thẳng ở công ty cùng với gánh nặng công việc gia đình khiến cho quỹ thời gian lao động tăng mà thời gian rảnh thì hầu như không có: “Ngoài giờ làm việc,nghỉ nghơi là cách tốt nhất để nữ công nhân may tự chăm sóc sức khỏe bản thân,đảm bảo cho quá trình tái tạo sức lao động của mình.Cường độ làm việc quá căng thẳng,về đến nhà chị em chỉ muốn ngủ bù”(Trần Thị Hồng Châu “Tìm hiểu Đời sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt Tiến”
Phần lớn công nhân khi có thời gian rảnh thì họ dùng vào việc nghỉ ngơi là chủ yếu . Sau những giờ làm việc quá căng thẳng về đến nhà tâm lý chị em ai cũng chỉ muốn lăn ra ngủ cho đỡ mệt để lấy sức đi làm tiếp, có rất ít người xem sách báo hay ti vi .
Với mặt bằng lương chỉ đủ chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu hằng ngày và gửi về phụ gia đình nên rất ít công nhận có điều kiện để mua sắm các loại phương tiện giải trí như radio, tivi , sách báo…Đôi khi sang phòng khác có thể xem nhờ nhưng như vậy rất ngại nên chị em chọn giải pháp “đi ngủ” cho là tốt nhất .
Thực đơn giải trí cho chị em công nhân sau những giờ làm việc hết sức nghèo nàn, ngày nào cũng quanh quẩn với chiếc máy cassetle, thỉnh thoảng thứ bảy , chủ nhật được nghỉ thì đi siêu thị hoặc vào các tiệm net để chat. Nhưng số lượng công nhân biết chat là rất ít , phần lớn họ ra mạng chỉ để tán gẫu với bạn bè chứ không có nhu cầu truy cập nhiều thông tin về vấn đề kinh tế , chính trị , xã hội ...
Với việc hạn chế về các phương tiện giải trí nên công nhân chỉ biết đến nhà máy rồi về phòng trọ,áp lực công việc đang là tâm trạng chung của nhiều công nhân hiện nay.Sức lao động thì đang dần cạn kiệt theo thời gian làm tăng ca. Tất cả những yếu tố này cũng tác động một lúc dẫn đến tình trạng trầm uất , stress đối với công nhân nữ nhập cư.
Đã đến lúc tất cả chúng ta cần quan tâm đến sức khỏe , tinh thần của người lao động .Các nhà lãnh đạo công ty phải phối hợp với các nhà hoạt động xã hội xây dựng nhiều mô hình hoạt động văn hóa , vui chơi , giải trí cho công nhân để đảm bảo tái sản xuất sức lao động và sức khỏe cho người lao động .
Mức độ tham gia các hoạt động công tác xã hội
Quỹ thời gian làm việc căng thẳng với cường độ ba ca một ngày , giờ giấc lại không ổn định nên mỗi khi được nghỉ chị em có thể đi chợ , nghỉ ngơi , ít có điều kiện chăm sóc cho bản thân và tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí . Ngày nay có nhiều nhà văn hóa , các câu lạc bộ , các lớp học nữ công gia chánh , các buổi hội thao nhưng chị em không thể tham gia một phần vì không có thời gian và phương tiện đi lại , phần vì mặc cảm là công nhân ăn nói không được khéo léo cùng với công việc không được chu đáo trong ăn mặc nên các chị sẽ khép mình hơn : “Chị em ít có thời gian chăm sóc cho bản thân ít cơ hội tham gia các loại hình giao lưu giải trí.Dù ngày nay cá câu lạc bộ các nhà văn hóa đã có nhiều hình thức hoạt động phong phú”(1)
Một số chị sau quá trình tham gia các hoạt động xã hội bị các bạn đồng nghiệp nam chêu chọc nên đành thôi : “Xuất phát từ quan điểm con gái lớn lên phải lấy chồng các chị em nghành dệt may mặc cảm “ế” cộng cái nhìn thương hại hay chế nhạo do vô tình khiến chị em ngày càng co cụm lại”(2)
Đôi khi do mặc cảm mà những lời nói bỡn cợt vô tình làm tổn thương tới tâm hồn mềm yếu của các chị , nó chính là bức tường rào ngăn cách các chị tham gia vào các hoạt động vui chơi , giải trí…, hòa nhập vào cộng đồng xã hội .
Nhìn chung đời sống tinh thần của chị em công nhân nữ nhập cư hết sức nghèo nàn, thêm vào đó là sự mặc cảm về thân phận khiến cho chị em sống rụt rè hơn và có ý niệm lẩn tránh xã hội.
(1),(2) Nguyễn Thị Ngọc “Khảo sát đời sống và điều kiện làm việc của lao động nữ ngành dệt may”
3. Những chính sách của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu và bảo vệ quyền lợi của người lao động nữ.
Bảo vệ quyền lợi cho lao động nữ là một trong những mục tiêu nhằm tiến tới sự bình đẳng xã hội giữa nam và nữ,và cũng là xu hướng phát triển chung của xã hội nước ta hiện nay.Đồng thời với những quy định này thì lao động nữ được bảo vệ về quyền và lợi ích trong suốt quá trình lao động.
Tại điều 109 luật lao động Việt Nam gồm hai điều nhằm hướng tới mục đích bình đẳng về lao động giữa nam và nữ,quy định này nhằm hạn chế tinh trạng phân biệt đối sử của người sử dụng lao động đối với lao động nam và lao động nữ:
- Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà.
Giữa nam và nữ công nhân đều bình dẳng trong công việc, lợi ích…Ngoài ra chính sách này cũng góp phần tạo cho lao động nữ có được công việc ổn định và có nhiều thời gian nghỉ ngơi,làm việc tại nhà để có điều kiện chăm sóc gia đình,làm tố hai nhiệm vụ “giỏi việc nước,đảm việc nhà”.
Trong thực tế điều kiện làm việc của đa số công nhân hết sức khó khăn,điều kiện làm việc không đảm bảo an toàn lao động,một số lao động nư phải làm việc trong các môi trường độc hại như các công ty hóa chất,thuốc bảo vệ thực vật…trong những điều kiện làm việc như vậy sức khỏe của nữ công nhân bị giảm sút nghiêm trọng nhất là sức khoẻ sinh sản,để khắc phục tình trạng này nhà nước ta cũng có những biện pháp khắc phục,vấn đề cũng được ghi rõ tại điều 109 luật lao động:
- Nhà nước có chính sách và biện pháp từng bước mở mang việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
- Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ.
Nhằm tạo điều kiện cho lao động nữ được tự do lưa chọ công việc phù hợp với điều kiện sức khỏe và sinh lý của mình nhà nước ta đã có chính sách mở mang nhiều loại hình đào tạo nghề nghiệp khác nhau để phụ nữ có thể lựa chọn và tham gia học tập.Đồng thời tao cơ hội cho lao động nữ có thể làm nhiều nghành nghề khác nhau để tăng thu nhập cho gia đình và có điều kiện vừa làm việc vừa chăm lo cho con cái Đây là một trong những chính sách của nhà nước ta được thể hiện tại điều 110 bộ luật lao động.
Tạo cơ hội cho lao động nữ có quyền thăng tiến và có quyền tham gia vào tất cả các hoạt động tuyển dụng lao động,điều 111 luật lao động gi rõ:
- Nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm danh dự và nhân phẩm phụ nữ.
Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động.
- Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần.
Với những quy định này lao động nữ được bình đẳng như nam giới trong quá trình kí kết hợp đồng lao động cũng như tham gia tuyển dụng lao động.người sử dụng lao động bắt buộc phải tuân theo nguyên tắc này để bảm bảo lợi ích cho cả hai bên giữa người sử dung lao động và lao động nữ.Quy định này cũng bảo vệ lao động nữ khi vi pham hợp đồng để tránh tình trạng người sử dụng lao động có những hình phạt quá khắt khe xúc phạm tới nhân phẩm của người phụ nữ hoặc đánh đập lao động nư.
Chức năng làm mẹ là chức năng được “thiên phú” của người phụ nữ vì vậy trong suốt quá trình lao động ít nhất người lao động nữ cũng có một lần làm mẹ,đó là điều hiển nhiên.người sử dụng lao động không được lấy những lý do như kết hôn,mang thai,sinh con …để chấm dứt hợp đồng lao động:
- Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Trong suốt quá trình mang thai khi cảm thấy sức khỏe không đảm bảo cho sự phát triển bình thường của thai nhi thì lao động nữ có quyền chấm dứt hợp đồng lao động để có điều kiện chăm sóc thai nhi.tuy nhiên trước khi nghỉ lao động nữ cần phải báo trước cho người sử dụng lao động để họ sắp xếp lại công việc,và quan trọng hơn lao động nữ phải co giấy chứng nhận của bác sĩ về tình trạng sức khỏe của mình:
Người lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật này, nếu có giấy của thầy thuốc chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Trong trường hợp này, thời hạn mà người lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào thời hạn do thầy thuốc chỉ định.(điều 112 bộ luật lao động Việt Nam).
Bảo vệ sức khỏe sinh sản cho lao động nữ là rất cần thiết.một người phụ nữ vì một lý do nào đó mà mất đi chức năng sinh sản thì điều đó cũng có nghĩa họ đã đánh mất đi nửa cuộc đời mình.Vì vậy trong quá trình sử dụng lao động người sử dụng lao động cũng phải nhận biết được tầm quan trọng đó và không vi phạm vào quy định của nhà nước trong việc bảo vệ sức khỏe sinh sản của lao động nữ trong công ty,xí nghiệp của mình(điều 113 bộ luật lao động Việt Nam quy định).mọi cơ quan ,doanh nghiệp đều phải tuân thủ theo điều lệ này,nếu phát hiện người sử dụng lao động vi pham,lao động có quyền tố cáo với các cơ quan công an.
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên phải có kế hoạch đào tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang công việc khác phù hợp, tăng cường các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, cải thiện điều kiện lao động hoặc giảm bớt thời giờ làm việc.
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ bất kỳ độ tuổi nào làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ hoặc ngâm mình dưới nước.
Sau quá trình mang thai đến giai đoạn chuẩn bị sinh và sau khi sinh phụ nữ rất cần thời gian để nghỉ ngơi để lấy lại sức lực và chăm sóc con cái.về chế độ nghỉ sinh luật lao động Việt Nam cũng có những quy định tạo điều kiện cho chị em phụ nữ có điều kiện hồi phục sức khỏe và chăm sóc con cái(điều 114):
- Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con, cộng lại từ bốn đến sáu tháng do Chính phủ quy định, tuỳ theo điều kiện lao động, tính chất công việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Quyền lợi của người lao động nữ trong thời gian nghỉ thai sản được quy định tại Điều 141 và Điều 144 của Bộ luật này.
- Hết thời gian nghỉ thai sản quy định tại khoản 1 Điều này, nếu có nhu cầu, người lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động. Người lao động nữ có thể đi làm việc trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ ít nhất được hai tháng sau khi sinh và có giấy của thầy thuốc chứng nhận việc trở lại làm việc sớm không có hại cho sức khoẻ và phải báo cho người sử dụng lao động biết trước. Trong trường hợp này, người lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản, ngoài tiền lương của những ngày làm việc.
Với quy định này lao động nữ có thể tự quyết định trong việc nghỉ ngơi sau khi sinh con mà không bị ép buộc của ng ười sử dụng lao động trong quá trình nghỉ sản.
Bảo vệ lao động đang mang thai cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ thai nhi ,thế hệ tương lai của đất nước.trong suốt quá trình mang thai ngưỡi mẹ phải hết sức cẩn trọng trong mọi hành động.Để bảo vệ lao động nữ trong quá trình mang thai điều 115 bộ luật lao động gi rõ:
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ có thai từ tháng thứ bảy hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và đi công tác xa.
- Người lao động nữ làm công việc nặng nhọc, khi có thai đến tháng thứ bảy, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt một giờ làm việc hàng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
- Người lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc, mà vẫn hưởng đủ lương.
Trong quá trình sử dụng lao động người sử dụng lao động cần phải tôn trọng những điều khoản mà pháp luật quy định cho lao động nữ và các cơ quan doanh nghiệp có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh.
Muốn lao động yên tâm làm việc nhà nước và các cơ quan các doanh nghiệp cần chú ý thêm về vấn đề sinh hoạt cá nhân của lao động nữ,đảm bảo các điều kiện sinh hoạt hàng ngày cho lao động nữ.tại điều 116 bộ luật lao động quy định :
- Nơi có sử dụng lao động nữ, phải có chỗ thay quần áo, buồng tắm và buồng vệ sinh nữ.
- ở những nơi sử dụng nhiều lao động nữ, người sử dụng lao động có trách nhiệm giúp đỡ tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí cho lao động nữ có con ở lứa tuổi gửi trẻ, mẫu giáo.
Quy định này hướng tới việc khuyến khích các cơ quan,người sử dụng lao động cần quan tâ hơn nữa tới cuộc soogns hàng ngày của lao động nữ,giúp họ có những điều kiện tốt để ổn định cuộc sống gia đình nhất là trong việc đảm bảo điều kiện làm việc của trẻ em, là con lao động nữ để chúng có điều kiện sống và học tập tốt.
KẾT LUẬN
1.Một vài nhận định từ kết quả nghiên cứu:
Quá trình thực hiện đề tài đã đem lại nhiều hiểu biết cho người nghiên cứu về thực trạng cuộc sống của công nhân ,nhất là công nhân nhập cư đang làm việc và sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.
Vấn đề nổi cộm lên đầu tiên khi tìm hiểu đó là nạn di dân vẫn đang diên xbieens hết sức phức tạp trên phạm vi cả nước.Quá trình di dân đã ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đén sự phát triển của kinh tế-xã hội,gây sức ép nặng nề lên các mặt như việc làm,môi trường,nhà ở,phúc lợi xã hội…Đây thực sự là bài toán khó cho những cơ quan ban nghành ,các tổ chức xã hội và cả bản thân người lao động.
Lượng dân nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh ngày càng đông,diễn biến hết sức phức tạp,số lượng người dân không được đăng kí hộ khẩu khá đông,đời sống của người nhập cư vô cùng vất vả, khó khăn về nhà ở,điện, nước sinh hoạt…Trong đó có cả một bộ phận lớn lao động nhập cư đang phải sống trong cảnh “màn trời,chiếu đất”.
Điều kiện sống đã vô cùng cơ cực,những người lao động nhập cư này lại phải chịu những điều kiện làm việc không được đảm bảo.Khi tìm hiểu sâu hơn về quá trình làm việc của lao động nữ nghành dệt may cho thấy :những nữ công nhân nghành may mặc luôn phải làm việc trong tình trạng không gian chật hẹp,thiếu ánh sáng,không khí,bụi công nghiệp cộng thêm sự nóng bức ngột ngạt do lượng nhiệt tỏa ra từ máy móc trong khi hoạt động,và tiếng kêu inh ỏi suốt cả một ngày khiến cho công nhân bị áp lực hết sức nặng nề.
Từ thực tế về cuộc sống và điều kiện làm việc như vậy dẫn tới những sức ép vô cùng lớn tới tâm sinh lý của người lao động.Điều tra về sức khỏe của công nhân nữ nghành dệt may theo định kì cho thấy rằng :đa số các nữ công nhân bị suy giảm sức lao động,luôn ở trong tình trạng mệt mỏi,strees nặng,nhất là công nhân nữ nhập cư khi họ vưa chịu áp lực công việc vừa chịu áp lực kiếm tiền nuôi gia đình.Đa số công nhân nữ nghành may mặc đều mắc các bênh như đau khắp người,giảm thị lực và nguy cơ điếc là rất lớn.,tuổi thọ hầu như bị suy giảm nặng nề.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress nặng của công nhân nữ nhập cư ngoài áp lực công việc gia đình còn do một nguyên nhân nữa là do họ không thường xuyên tham gia vào các hoạt động giao lưu, vui chơi,giải trí,thể dục,thể thao và không được tiếp xúc thường xuyên với các phương tiện truyền thông đại chúng…
Sụ “nghèo”về đời sống tinh thần xuất phát từ quỹ thời gian lao động quá căng thẳng,cùng với đồng lương hạn chế nên chị em công nhân nữ không có điều kiện để tham gia vào các hoạt động này.Đây là một vấn đề nhức nhối cần được sự quan tâm hơn nưa của các cơ quan các tổ chức xã hội.
Điều khiến cho chị em công nhân nữ phải suy nghĩ đó là vấn đề về tình yêu,hôn nhân gia đinh.Phần lớn chị em nữ công nhân đang ở trong tình trạng “quá lứa lỡ thì”,một số khác thì chấp nhận nuôi con một mình.Nồi đau về tinh thần là những vết thương không thể lành lặn trong sâu thẳm đáy lòng người nữ công nhân nhập cư.
Một vấn đề nữa cũng hết sức quan trọng đó là tình trạng chị em công nhân nữ bị lôi kéo vào các tệ nạ xã hội như trộm cắp,mại dâm,hoặc bị lợi dụng vào các mục đíc xấu của bọn tội phạm…Đây là vấn đề nhức nhối và không thể làm ngỏ đối với toàn xã hội.
Tình trạng sống thử trong giới công nhân cũng đang diễn biến phức tạp,những diễn biến này gây hậu quả nghiêm trọng đến tinh thần của công nhân nữ và nó ảnh hưởng cả về cuộc sống sau này của họ.
Nói tóm lại cuộc sống của dân nhập cư nói chung và công nhân nữ nhập cư nói riêng đang hết sức khó khăn và phức tạp không kém,nó đang là gánh nặng cho toàn xã hội và đặc biệt là nền kinh tế thành phố.Vấn đề mang lại cho những lao động nữ nhập cư một niềm vui,sự tin yêu vào cuộc sống đang là sự thách đố cho những nhà hoạt động xã hội .
2 .Những biện pháp khắc phục:
Để giải quyết sức ép của nạn di dân lên nền kinh tế- xã hội nhà nước ta cần phải có những chính sách nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở các địa phương,nhất là ở các vùng nông thôn,đầu tư vào kinh tế nông nghiệp,tăng cường cho nông dân vay vốn đẻ phát triển kinh tế gia đình.
Trong tình hình giá cả thị trường biến động hết sức phức tạp,với sự tăng vọt giá cả các mặt hàng khiến cho đời sống của công nhân nữ nhập cư lâm vào tình trạng lao đao bởi đồng lương nhận được hàng tháng không đủ để chi trả cho chi phí sinh hoạt hàng ngày.Vấn đề tăng lương và giảm giờ làm cho công nhân luôn là vấn đề thường trực và cho đến nay chưa được giải quyết.Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội,các cơ quan ban nghành cần phải tìm ra những hướng khắc phục tốt nhất để đảm bảo cuộc sống ổn định cho công nhân.Đồng thời có chính sách kiềm chế lạm phát nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Để đảm bảo chỗ nghỉ ngơi,cư trú cho công nhân,các công ty cân phải có chính sách xây các khu kí túc xá cho công nhân để họ yên tâm hơn trong vấn đề nhà ở,đồng thời đảm bảo an ninh trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của công nhân.Đảm bảo cho công nhân những vấn đề về phương diện sinh hoạt hàng ngày như :phòng tắm,phòng thay đồ,nhà vệ sinh…điện nước sinh hoạt hàng ngày.
Các xí nghiệp,cơ quan,những người lãnh đạo công ty cần quan tâm hơn nữa tới đời sống tinh thần của công nhân bằng cách tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ cuối tuần,hoặc tổ chức các hội thao để lôi kéo công nhân vào hoạt động vui chơi giải trí,quên đi những mệt nhọc sau một tuần làm việc căng thẳng và tăng mối quan hệ giữa những người công nhân với nhau nói chung và giữa nam và nữ công nhân nói riêng .
Khó khăn về vật chất,thiếu thốn về tinh thần đã khiến nhiều chị em công nhân bị lợi dụng và lôi kéo vào con đường tội lỗi nhất là mại dâm.Lãnh đạo công ty cần phối hợp với các tổ chức công tác xã hội để lên kế hoạch kịp thời truyền thông cho chị em công nhân nhận thức được mức dộ nguy hiểm của những “cạm bẫy” ấy để chị em đề phòng,đồng thời có những buổi tư vấn tâm lý để động viên chị em và giúp chị em giải quyết những thắc mắc trong cuộc sống nhất là về mặt tinh thần
Các tổ chức hoạt động xã hội cần có những kế hoạch cụ thể để ổn định được tâm lý cho công nhân,đặc biệt là công nhân nữ nhập cư.thường xuyên tham hỏi và an ủi chị em,giúp chị em có được một cuộc sống vui vẻ hơn ,thoải mái hơn,giảm tình trạng stress nặng ở các chị,giúp các chị tạm thời quên đi nỗi nhớ gia đình .
Đối với một số chị em do bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội nên có thái độ mặc cảm với mọi người xung quanh nên sống thu mình,hạn chế tiếp xúc với mọi người xung quanh,với những người này các tổ chức xã hội,nhất là các cán sự xã hội cần phải có biện pháp để hạn chế sự kì thị của mọi người xung quanh với chị em và đưa chị em hòa nhập vào cộng đồng xã hội để họ lấy lại được niềm tin vào cuộc sống.
Các tổ chức bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em cần phải quan tâm sâu sắc tới những khó khăn của công nhân nữ nhập cư từ đó phối hợp với các cơ quan lãnh đạo công ty và các tổ chức xã hội khác có những nguồn quỹ cho vay để hỗ trợ chị em trong những lúc khó khăn,ốm đau,bệnh tật.
Các cán sự xã hội trong tương lai cần có những nhận thức rõ về sự cần thiết của việc đưa công nhân nữ nhập cư hòa nhập vào cuộc sống là điều hết sức quan trọng và cấp bách,từ đó xây dựng cho mình nhưng hướng đi để làm sao đó phối hợp với các tổ chức xã họi lên kế hoạch và đi vào quấ trình công tác xã hội trong đời sống tinh thần công nhân nữ nhập cư.
& TÀI LIỆU THAM KHẢO:
♠Đỗ Vĩnh Thái.Tìm hiểu đời sống nữ nhập cư tại khu phố 1 phường 15 Quận Bình Thạnh.Tiểu luận tốt nghiệp khoá 1992-1996,khoa Phụ nữ học,ĐH Mở Bán Công TPHCM.
♠Vũ Thị Khương.Việc thực hiện luật lao động đối với nữ công nhân ở một vài doanh nghiệp nhà nước tại TP.Hồ Chí Minh.Tiểu luận tốt nghiệp khóa 1992-1996,khoa Phụ nữ học,ĐH Mở Bán Công TPHCM.
♠Nguyễn Thị Ngọc.Khảo sát đời sống và điều kiện làm việc của lao động nữ nghành dệt may.tiểu luận tốt nghiệp khóa 1997-2001,khoa Phụ nữ học,ĐH Mở Bán Công TPHCM.
♠Trần Thị Hồng Châu.Tìm hiểu cuộc sống nữ công nhân nhập cư tại công ty may Việt Tiến.Tiểu luận tốt nghiệp khóa 1998-2002,khoa Phụ nữ học,ĐH Mở Bán Công TPHCM.
♠Hà Thị Phương Tiến-hà Quang Ngọc.Lao động nữ di cư tự do nông thôn-thành thị.,NXB Phụ nữ,Hà Nội-2000
Tạp chí khoa học về phụ nữ:
♠Nguyễn Tín Nhiệm.Điều kiện lao động của nữ công nhân.Số 2/1998.
♠Lê Trọng và Nguyễn Minh Ngọc.Lao động nư ra thành phố cư trú tự do tìm việc làm:thực trạng và giải pháp.Số 2/2001,tr44.
♠Bùi Thị Thanh Hà.Sự gắn kết của nữ công nhân với công việc và doanh nghiệp.Số 2/2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đời sống tinh thần công nhân nữ nhập cư tại TpHCM.doc