Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Kinh tế thị trường

Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới 1.1. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp 1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế 1.2.1. Nguyên nhân thúc đẩy tiến trình đổi mới. 1.2.2. Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng (từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội) - đại hội đánh dấu sự đổi mới. 2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới 2.1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII 2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đai hội IX đến Đại hội X

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9632 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu 1. Cơ chế quản lý kinh tế thời kỳ trước đổi mới 1.1. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp Cơ chế kế hoạch hóa tập trung (kinh tế mệnh lệnh): cơ chế mà theo đó chính quyền trung ương sẽ điều khiển toàn bộ các khu vực kinh tế và đưa ra mọi quyết định về quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ. Nhà chức trách quyết định các loại hàng hóa cần sản xuất, điều hành các cơ quan cấp dưới để sản xuất theo mục tiêu quốc gia và xã hội. Các nền kinh tế kế hoạch hóa quan trọng đã từng xuất hiện như Liên bang Xô-viết (cũ), Trung Quốc trước 1978 và Ấn Độ trước 1991… Ở nước ta, kể từ sau cách mạng và thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa, cả dân tộc trở thành một khối, nhà nước nắm giữ toàn bộ tư liệu sản xuất và đưa ra các kế hoạch lớn cho cả nước như kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985). Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu là: Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương…đều do các cấp thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Lỗ thì nhà nước bù, lãi thì nhà nước thu. Chẳng hạn sau khi giải phóng Sài Gòn, nhà nước tiếp quản Hãng dệt Tái Thành và đổi tên là Dệt Thành Công. Hàng năm, nhà nước sẽ cung cấp nguyên vật liệu và vốn lưu động. Dệt Thành Công được giao chỉ tiêu sản xuất 3 triệu m2 vải/ năm. Năm 1978, giá thành 1m2 vải calicot sản xuất tại xưởng của công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng/m2. Thế nhưng tất cả lượng sản phẩm có được, công ty đều phải bán cho nhà nước với giá 1,2 đồng/m2. Trong khi đó giá ở thị trường tự do thì cao gấp 10-12 lần. Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với sản xuất, kinh doanh. Có thể lấy trường hợp một công ty khai thác than ở Thái Nguyên làm ví dụ. Năm 1979, công ty này được giao chỉ tiêu 150000 tấn trong khi các công ty khách hàng đang gặp khó khăn, không cần nhiều đến than. Kho bãi công ty không thể chứa hết nhưng vẫn phải hoàn thành chỉ tiêu được giao nên công ty đã chọn giải pháp là vừa khai thác vừa đem than đổ đi. Cuối cùng, đơn vị vẫn nhận được bằng khen vì đã hoàn thành chỉ tiêu cấp trên giao. Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp”. Vì vậy rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng, không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý. Một cán bộ hay công nhân vào giai đoạn này 70% thu nhập là tem phiếu, 30% còn lại là lương. Khi công ty không có tiền, công nhân được trả lương bằng sản phẩm: sứ tích điện, cao su, mũ cứng…Hoặc một trường hợp khác, vào năm 1978, An Giang thành lập hợp tác xã Hòa Bình Thạnh, toàn bộ hơn 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới… đều được công hữu hóa. Các xã viên sẽ làm việc cùng nhau. Sau mỗi buổi, cán bộ hợp tác xã ghi điểm từng người. Điểm này sau đó sẽ được quy ra thóc. Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Ví dụ các cửa hàng lương thực, hệ thống tem phiếu và quầy hàng tết, cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, cán bộ trung cấp đến phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên; còn cán bộ, công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau: Bao cấp qua giá: nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Bao cấp qua chế độ tem phiếu: nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với mức giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động. Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “ xin - cho” Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó có thể tránh được những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường như chu kì kinh doanh, khủng hoảng thừa, bong bóng bất động sản… và cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (Liên Xô vào những năm 30 đã giảm GNP của tiêu thụ tư nhân từ 80% xuống còn 50% để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhờ đó, Liên Xô đã xây dựng được nền công nghiệp nặng trong một nền kinh tế kém phát triển mà không cần phải chờ nhiều năm tích lũy tư bản hay dựa vào hỗ trợ tài chính từ bên ngoài) . Tuy nhiên, cơ chế kế hoạch hóa tập trung lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiếu sâu dựa trên cơ sở áp dụng thành tựu cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ khuyết điểm của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. 1.2. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế 1.2.1. Nguyên nhân thúc đẩy tiến trình đổi mới. Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta xuất phát từ nhiều lý do trong đó đáng chú ý nhất là ba cơ sở sau đây: Một là, đòi hỏi bức xúc của cuộc sống (yêu cầu thoát khỏi khủng hoảng kinh tế).   Ở trong nước, sau 10 năm tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đạt được một số thành tựu, song khó khăn còn nhiều và ngày càng găy gắt dẫn đến tình trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội vào những năm 80 (các chỉ tiêu kinh tế không đạt, lạm phát tăng, đời sống nhân dân gặp khó khăn nghiêm trọng…). Những năm kế tiếp lạm phát tiếp tục ở mức ba con số. Đến năm 1989 mới xuống còn hai con số. Năm Lạm phát 1986 774% 1987 323,1% 1988 393% 1989 34.7% Từ sự khó khăn và ngày càng trầm trọng nên đã xuất hiện tình trạng “xé rào” ở một số nơi để nhằm xoay chuyển tình hình cả trong nông nghiệp, công nghiệp và ngoại thương. Hai là, bản thân Đảng đã có những nhận thức mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy trong nhận thức của Đảng đã có những bước đột phá về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhưng chưa triệt để. Về các chủ trương, chính sách đổi mới từng phần từ năm 1976 đến năm 1986 và nhu cầu phải đổi mới triệt để cơ chế kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp cần trung làm nổi rõ mấy mốc sau: Ü Hội nghị Trung ương lần 6 tháng 9–1979: Hội nghị đã quyết định phải khắc phục một bước cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp, kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ thị trường, duy trì ba thành phần kinh tế ở miền Nam, kết hợp ba lợi ích là tập thể, cá nhân và xã hội. Khuyến khích mọi năng lực sản xuất làm cho sản xuất bung ra... Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV là bước đột phá đầu tiên để tìm đường đổi mới. Cuối cùng Hội nghị đã ra nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 20 tháng 9 năm 1979 với tinh thần chính là: Cho phép kết hợp kế hoạch hóa với cơ chế thị trường Sử dụng lại kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước Sửa lại giá lương thực và giá các nông sản khác theo hướng dựa trên thỏa thuận. Cho phép địa phương tiến hành xuất nhập khẩu Tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang, phục hoá được trả thù lao thích đáng và được sử dụng toàn bộ sản phẩm được miễn thuế. Tháng 10-1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xoá bỏ các trạm kiểm soát ngăn sông, cấm chợ, người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường không phải nộp thuế sau khi làm nghĩa vụ đầy đủ cho Nhà nước. Ü  Chỉ thị 100 CT/TW: Ngày 13 tháng 1 năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán 100. Khoán 100 tạo ra hiệu quả kinh tế lớn trong nông nghiệp. Ü  Quyết định 25/CP (21-1-1981): Triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 25-CP ngày 21 tháng 1 năm 1981 về Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định này cho phép áp dụng chế độ 3 kế hoạch. (Chế độ 3 kế hoạch: Ở cấp cơ sở, các cơ sở kinh tế, nhất là trong công nghiệp và giao thông vận tải, trong khi tìm cách giải quyết khó khăn cho cơ sở mình đã tìm cách liên kết với các cơ sở bạn để tìm nguyên liệu và tìm cách tiêu thụ đầu ra. Họ gọi đây là “kế hoạch 2”, trong khi “kế hoạch 1” là kế hoạch do Trung ương giao. Một số cơ sở còn tìm cách sản xuất cho thị trường tự do, gọi đây là “kế hoạch 3”. Kế hoạch 2 từng bị coi là móc ngoặc, còn kế hoạch 3 từng bị coi là làm ăn phi pháp). - Quyết định 25/CP nêu rõ: Cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh doanh có lãi. Quyết định còn cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba phần (phần Nhà nước giao, phần tự làm và phần sản xuất phụ). - Trong điều kiện vật tư thiếu thốn, Quyết định 25-CP đã giúp các cơ sở khôi phục được khả năng sản xuất, giải quyết thêm công ăn việc làm cho công nhân, viên chức, làm cho hoạt động xí nghiệp trở lại bình thường. Ü Quyết định 26-CP: Cùng ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. è Năm 1981, lần đầu tiên sau chiến tranh, sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%. Đây là những kết quả của chủ trương đổi mới từng phần Chỉ thị 100 đến các Quyết định 25 và 26-CP. Ü Trước và sau Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV, tỉnh Long An đã được phép thí điểm việc bù giá vào lương, mua và bán theo giá cao một số mặt hàng sát với giá thị trường. Long An đã thu được một số thành công trong việc lưu thông hàng hoá nhưng còn rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải có chính sách chung của Đảng và Nhà nước. Ü Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6/1985): bàn về cải cách giá-lương-tiền, với nội dung chính như sau: Về giá, phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các mặt hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản xuất. Để tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Còn giá thóc được xác định bình quân là 25 đồng/kg, dựa trên tính toán thực tế của các chuyên gia. Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật tư, như xăng, dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần so với mức giá cũ, giá xi măng tăng 12,5 lần. Về lương, Ban chỉ đạo đề nghị tăng lương thêm 20%. Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương mới, phải in thêm tiền, để tổng tiền trong lưu thống là 120 tỷ đồng. Nhưng thời điểm đó, Việt Nam không tự in được tiền mà phải nhờ nước ngoài in. In nhiều tiền sẽ tốn thời gian. Vì lẽ đó, để in ít tiền mà vẫn có sức mua lớn, Ban chỉ đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Một đồng mới sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như vậy 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương đương 120 tỷ đồng hiện hành. Tuy kế hoạch cải cách giá - lương - tiền không diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải cách với mô hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong thời gian cuối năm 1985 và năm 1986, song chính sự khủng hoảng này đã làm cho các cấp các ngành nhận ra rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mô hình cũ phải bị đoạn tuyệt hoàn toàn. è Tất cả những quyết định trên được thể hiện trên cả 4 lĩnh vực kinh tế nước ta: trong nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và trong phân phối lưu thông, tuy vậy những cải cách còn chưa toàn diện và triệt để. Ba là, những tác động cả về lý luận và thực tiễn của công cuộc cải cách, cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu, đặc biệt là sự trở về với chính sách NEP của Lênin. è Như vậy, từ cuối thập kỷ 70 Đảng ta đã tìm tòi những biện pháp để cải thiện tình hình. Đó là những tiền đề quan trọng để đến Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 6 vào tháng 12 năm 1986, Đảng thông qua nội dung đường lối đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một trong những yêu cầu cấp bách và trọng tâm. Kết luận Như vậy phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu là một nhiệm vụ cần thiết, cấp bách để chuyển từ nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để phục vụ nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh tế hàng hoá không những không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà trái lai thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn. 1.2.2. Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng (từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội) - đại hội đánh dấu sự đổi mới. Đại hội cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu. Đặc trưng của cơ chế ấy là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách nhiệm. Đại hội VI đã khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cớ chế quản lý kinh tế. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa,hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác , kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách. Như vậy, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất. 2. Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới Trong giai đoạn này, tư duy của Đảng về kinh tế thị trường được hình thành và phát triển. Đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc trong nhận thức về kinh tế thị trường so với thời kì trước đổi mới. 2.1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII Từ Đại hội VI đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001), là thời kỳ đổi mới toàn diện cả về cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 10 năm tiến hành đổi mới đất nước, nhất là những đổi mới toàn diện trên lĩnh vực kinh tế, những nhận thức mới, những quan đểm mới về kinh tế thị trường của Đảng từng bước được định hình rõ nét. Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế hàng hóa là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của quá trình dùng để thoả mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi, mua bán. Kinh tế thị trường là phương thức tổ chức,vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường giống nhau về bản chất (đều chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường) và nguồn gốc (xuất phát từ kinh tế tự nhiên và sự phân công lao động xã hội). Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời từ kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô nhỏ bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao. Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường còn ở thời kì manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến người ta nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Tóm lại, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, nó không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại. Hiện nay có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau (kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội). Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Nó là thành tựu chung của văn minh nhân loại, tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Nó vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho công chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. * Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ chế nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh tế này: + Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện. + Thị trường trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. + Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. * Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau: + Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ lãi tự chịu. + Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo. + Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Quy luật giá trị : Quy luật cung cầu: Qua luật cạnh tranh: + Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước Với những đạc điểm trên, nền kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trước đổi mới, thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nhĩa xã hội. Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiêt chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém. 2.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đai hội IX đến Đại hội X Đại hội IX của đảng (4/2001) đã xác định nền kinh tề thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nuớc ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. ð Bước chuyển quan trong từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dực trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Kinh tế thị trường nước ta tuy chịu tác động của quy luật giá trị là quy luật chung của kinh tế thị trường nhưng khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vận hành tuân theo quy luật kinh tế cơ bản là quy luật giá trị thặng dư, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chịu tác động của quy luật kinh tế cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa đó là quy luật quy định mục đích khách quan của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. ð Đây là sự khác biệt về bản chất của kinh tế thị trường nước ta với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa’ thể hiện trên 3 mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, quản lý và phân phối. Đại hội X đã làm sáng tỏ nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện qua 4 tiêu chí: Ø Mục đích phát triển: với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn đã thể hiện mục đích phát triển vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng thành quả của sự phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản. Ø Phương hướng phát triển: phát triển kinh tế với nhiều hình thức sở hưũ: toàn dân, tập thể, tư nhân; nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân, mọi vùng miền…phát huy tối đa mọi nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, vừa hợp tác cùng có lợi, vừa cạnh tranh phát triển trong một chỉnh thể, tạo thành những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Để làm được như vậy, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bắng trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Đại hội X đã khẳng định “kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Mặt khác tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải dựa trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu, khác với chế độ sở hữu lớn của chủ nghĩa tư bản. ØĐịnh hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội thông qua các chính sách lao động và việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội, chính sách phòng chống tệ nạn xã hội. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường như cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận, phân hoá giàu nghèo. Trong phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như: - Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. - Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến - Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác như theo lao động, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. ØQuản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân như thực hiện cơ chế để công nhân tham gia quản lý và giám sát hoạt động của doanh nghiệp, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã họi chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sực khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hai nhân tố này thể hiện tính tự giác, khắc phục tính tự phát của kinh tế thị trường và mặt trái của toàn cầu hóa kinh tế đang do chủ nghĩa tư bản chi phối, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô và thiết lập cơ chế thị trường sao cho các thành phần kinh tế khác nhau vận động theo cùng một hướng tạo thành một hợp lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cụ thể như: - Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. - Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và các chính sách. - Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế. - Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐường lối cách mạng của ĐCS Việt Nam - Kinh tế thị trường.doc
Luận văn liên quan