A. GIỚI THIỆU.
B. LÍ LUẬN.
I. Một số khái niệm.
1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Kinh tế tri thức.
a. Khái niệm.
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức.
c. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kì đổi mới.
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá.
a. Đại hội VI:
b. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ Đại hội VI đến Đại hội X
2. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
3. Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đai hoá.
III. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
1. Vì sao phải kết hợp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức.
2. Nội dung.
3. Định hướng.
a. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
b. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
c. Phát triển kinh tế vùng.
d. Phát triển kinh tế biển.
e. Chuyển dịch cơ cấu lao động,cơ cấu công nghệ
f. Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia,cải thiện môi trường tự
C. VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CNH, HĐH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI CỦA ĐẢNG VÀO NGÀNH THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
I. Thưc trạng vận dụng đường lối đó vào ngành thương mại trong thời kì đổi mới.
II. Giải pháp để vận dụng đường lối trên được hiệu quả.
1. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, chính sách, thể chế, tổ chức quản lý, tạo môi trường kinh doanh sôi động, giải phóng mọi khả năng sáng tạo, mở đường cho kinh tế tri thức phát triển.
2. Cải cách, hiện đại hóa nền giáo dục, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế tri thức
3. Tăng cường năng lực khoa học và côngnghệ quốc gia, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển KTTT.
4. Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội – động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, tiến vào kinh tế tri thức.
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 35614 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIỚI THIỆU.
Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đất nước từng bước tiến lên CNXH, đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện QHSX tiên tiến, chúng ta nhất thiết phải phát triển LLSX với năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Không có LLSX hùng hậu với năng suất lao động xã hội cao thì không thể nói đến CNXH. Mà muốn có LLSX hùng hậu và năng suất lao động cao thì không thể chỉ dựa vào nông nghiệp sử dụng lao động thủ công, trái lại phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức.
B. LÍ LUẬN.
I. Một số khái niệm.
1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển cao của công nghiệp và sự tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao hơn.
Nó bao gồm 2 nội dung:
- Trang bị kĩ thuật – công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp và các ngành khác của nền kinh tế quốc dân.
- Tạo lập cơ cấu kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại.
2. Kinh tế tri thức.
a. Khái niệm.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm năm 1995: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức.
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa từng thấy của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên hiện hữu. - KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
KTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao. Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học.
Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa học – kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ… với nhiều hình thức phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.
c. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
- Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm. Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây. Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành. Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người. - Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa, làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế. Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội. - Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho năng xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội. - Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành, có ảnh hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên giới. - Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70% GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao; hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công nhân tri thức trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người.Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kì đổi mới.
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá.
a. Đại hội VI:
Đánh giá về quá trình CNH từ 1960 đến 1986.
- Sai lầm trong mục tiêu và bước đi: Quá ưu tiên cho công nghiệp nặng.
- Bố trí cơ cấu kinh tế chua đạt hiệu quả và chưa hợp lý.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội V: Vẫn chưa thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ Đại hội VI đến Đại hội X:
Đại hội VI đưa ra 3 chương trình mục tiêu: Lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu.
Đại hội VII: gắn CNH với HĐH.
Đại hội VIII: nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới: Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiệm vụ chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đại hội IX và Đại hội X Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về CNH:
- Con đường CNH: tiến hành CNH rút ngắn, đi tắt đón đầu, học hỏi kinh nghiệm.
- Hướng CNH, HĐH ở nước ta: Phát triển nhanh và hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tiến hành CNH trong nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.
2. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng- an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội X của Đảng xác định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đai hoá.
- Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp hóa. Khi đó công nghiệp hóa được biểu hiện là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay. Ở đại hội Đảng X đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. kinh té tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta không cần thiết phải trải qua tất cả các bước phát triển rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước đi sau. Vì vây, đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế tri thức (theo OECD): kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Ví dụ như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao.
- Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiền hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là công việc của nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi mới phương thức phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, còn ở thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị trường. CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Bởi vì khi đầu tư vào lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và lãng phí thất thoát.
CNH, HĐH nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác thị trường thế giới để tiêu thụ các sản phẩm của nước ta… Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng khó phát triển.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền vững.
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác dụng khi có sự tác động của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận.
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Mục đích của quá trình CNH là nâng cao năng suất lao động, ứng dụng khoa học công nghệ. Để thực hiện được phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực.
Con người là một trong hai yếu tố cần thiết của quá trình CNH. Nếu không có con người thì quá trình CNH không diễn ra.
- Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, năng cao lợi thế cạnh tranhvaf tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩatừ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học công nghệ là tất yếu và bức xúc phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế, kết hợp và phát triển công nghệ nội sinh nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. - Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng CNXH ở Việt Nam thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hất kinh tế phải phát triển nhanh hiệu quả và bền vững. Chỉ có vậy mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng…
Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của con người. Bảo vệ môi trường tự nhiên chính là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
III. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Vì sao phải kết hợp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển cho thấy sự hình thành và xuất hiện nền kinh tế tri thức là một tất yếu lịch sử mang tính khách quan. Cũng như kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức ra đời không phụ thuộc vào ý chí của một nhóm người nào, mà hoàn toàn tuân theo quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử của xã hội loài người.
Nội dung.
- Phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng các nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
3. Định hướng.
a. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân:Một là, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: - Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường.
- Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ: giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Hai là, quy hoạch phát triển nông thôn.
- Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện, đường, trường, trạm…
- Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nền sống văn hóa nâng cao trình độ dân trí.
Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
Chú trọng daỵ nghề, giải quyết việc làm cho nông dân
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.
b. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Đối với công nghiệp và xây dựng:
+ Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp phần mền và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động.
+ Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dung.
+ Khẩn trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào một số dự án quan trọng như về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu…
Đối với dịch vụ: Tạo bước phát triển vượt bậc của ngành dịch vụ, nhất là ngành dịch vụ có chất lượng cao, tiềm năng lơn và sức cạnh tranh, đưa tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
+ Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng một số ngành: vận tải, thương mại, dịch vụ, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông…
+ Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công cộng...
c. Phát triển kinh tế vùng. + Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng.
+ Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này có đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển của đất nước.
d. Phát triển kinh tế biển.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa đất nước ta thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
+ Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển, vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển. Đẩy mạnh ngành công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản.
e. Chuyển dịch cơ cấu lao động,cơ cấu công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực,bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn khỏng 50% lực lượng lao động xã hội.
+ Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ.Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiên đại ơ một số lĩnh vực then chốt.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu,tạo động lực thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa,hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức.
+ Đổi mới cơ bản quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là cơ chế tài chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khao học và công nghệ.
f. Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia,cải thiện môi trường tự nhiên
+ Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài ngyên đất nước, khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường.Tích cực phục hồi môi trường và các hệ sinh thái bị phá hủy.Tiếp tục phủ xanh đất trống đồi núi trọc.
+ Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dư báo khí tượng-thủy văn; chủ động phòng chống thiên tai tìm kiếm, cứu nạn.
+ Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
+Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú lý lĩnh vực.
C. VẬN DỤNG ĐƯỜNG LỐI CNH, HĐH GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC CỦA ĐẢNG VÀO NGÀNH THƯƠNG MẠI TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
I. Thưc trạng vận dụng đường lối đó vào ngành thương mại trong thời kì đổi mới.
Sau 20 năm đổi mới thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy "từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, in-tơ-nét, điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức, Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức".
Căn cứ vào các chỉ số đánh giá về mức phát triển kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới, nếu so sánh nước ta với nhóm các nước công nghiệp phát triển cao (OECD) thì nước ta có một số ít chỉ số đạt khá như tăng trưởng GDP hằng năm, chỉ số phát triển con người (HDI), vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI)... Nhưng nhìn chung vẫn còn thấp kém so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, nhất là chỉ số phát triển nguồn nhân lực, phát triển và đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, tăng sức cạnh tranh, phát triển công nghệ thông tin và truyền thông... Bảng dưới đây trình bày một số chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông trong một số năm qua.
Bảng các chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông (ICT)
Năm
Các chỉ số ICT
2001
2003
2005
2007
(dự kiến)
Tháng 5 năm 2007
Số vi tính/1000 dân
8.9
9.85
>11
...
...
Số điện thoại/100 dân
4.18
9.19
19
43
42
Trong đó số đthdđ/100 dân
0.99
2.34
9.5
32
30
Số TV/100 dân
180
185
190
>200
...
Tỷ lệ số người sử dụng In-ter-net ...
...
4.3
12.9
22.0
18.96
Những số liệu trên đây cho thấy, tuy còn ở trình độ thấp, kinh tế tri thức ở nước ta đã phát triển tương đối khá. Từ cuối 2006 sang 2007 bắt đầu thực hiện đường lối "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức", các thành phần của kinh tế tri thức đã phát triển khá. Theo kết quả đánh giá chỉ số kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới năm 2006 nước ta đạt mức 2.69/10, sang năm 2007 tăng thêm 15% và đạt 3.10/10, nghĩa là nền kinh tế nước ta đã hòa quyện các yếu tố của kinh tế tri thức tới 31%. Với đà phát triển như hiện nay và cao hơn, tới năm 2020 kinh tế tri thức với công nghiệp công nghệ cao hiện đại sẽ trở thành chủ yếu.
Thực hiện thành công đường lối nêu trên của Đại hội X, chúng ta nhanh chóng vượt qua kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiếp cận ngay với công nghiệp có trình độ hiện đại cao của kinh tế tri thức. Như vậy, đã rút ngắn đáng kể được thời gian và bắt kịp nhịp của thời đại.
II. Giải pháp để vận dụng đường lối trên được hiệu quả.
Để mở đường cho kinh tế tri thức phát triển, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần chú trọng các giải pháp sau đây:
1. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, chính sách, thể chế, tổ chức quản lý, tạo môi trường kinh doanh sôi động, giải phóng mọi khả năng sáng tạo, mở đường cho kinh tế tri thức phát triển.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng nhất của sản xuất là tri thức. Sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải phụ thuộc chủ yếu vào việc thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức. Trọng tâm của quản lý kinh tế chuyển sang quản lý tri thức, nhằm khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới, nhân lên vốn tri thức và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến nó thành giá trị. Điều đó đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý, chuyển trọng tâm từ quản lý nguồn lực vật chất, cái hữu hình sang quản lý lực lượng tinh thần, cái vô hình. Quản lý trong thời đại kinh tế tri thức không phải là gò vào một khuôn khổ định sẵn mà chủ yếu phải là khơi dậy các khả năng sáng tạo, giải phóng các năng lực sản xuất. Vai trò của nhà nước chuyển từ chỗ là người chỉ huy nền kinh tế sang người kiến trúc sư nền kinh tế mới, chỉ ra mục tiêu, định hướng phát triển, tạo môi trường kinh doanh, động viên mọi lực lượng tham gia; chăm sóc, vun xới các khả năng, tài năng phát triển, nhân nhanh các nhân tố mới.
Đặc biệt coi trọng quản lý tri thức. Trong mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp cần có người quản lý thông tin (CIO), quản lý tri thức (CKO), chăm lo việc ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao trình độ tri thức, phát triển nguồn nhân lực tài năng.
Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, để cho sự cạnh tranh buộc phải sử dụng tri thức, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả, chất lượng của sản xuất. Phải thấy rằng nhờ có kinh tế thị trường mà khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức trên thế giới phát triển như ngày nay. Sản xuất kinh doanh phải do các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm, theo sự "điều khiển" của thị trường. Vai trò quản lý của Nhà nước là định hướng chiến lược phát triển, tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh, lo xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, sử dụng các công cụ chính sách để hướng dẫn sản xuất, dùng công cụ luật pháp để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kiểm soát và can thiệp vào kinh tế vĩ mô không để cho các lực lượng thuần túy thị trường (nhất là về tài chính tiền tệ) lũng đoạn, làm rối loạn nền kinh tế. Nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ các "nhóm yếu thế", giữ định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa. Các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh (giao thông, năng lượng v.v…) cần có chính sách khuyến khích, thu hút kinh tế tư nhân tham gia đầu tư, họ tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư; giảm hẳn cách làm sử dụng vốn ngân sách nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước rất kém hiệu quả như lâu nay. Kể cả phát triển các dịch vụ công (văn hoá, giáo dục, y tế....) cũng cần có chính sách khuyến khích tư nhân đầu tư, thực hiện chủ trương xã hội hóa kết hợp với sự quản lý và đầu tư của nhà nước.
Nhanh chóng hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường. Phát triển thị trường vốn, thị trường công nghệ, phát triển quĩ đầu tư mạo hiểm, có các định chế tài chính nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo, các quá trình đổi mới.
Đổi mới nhằm tăng tính cạnh tranh và lành mạnh hóa thị trường tài chính - tín dụng, tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận các nguồn vốn vay. Hoàn thiện và mở rộng nhanh hoạt động của thị trường chứng khoán để sớm trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh thị trường lao động. Phát triển mạnh thị trường khoa học và công nghệ. có các định chế tài chính nhằm hỗ trợ cho các hoạt động sáng tạo, các quá trình đổi mới.
Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế tri thức. Theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, cần có sự phân công quyền hạn, trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan, bộ phận trong hệ thống đó. Chú trọng đổi mới thể chế, thực hiện công khai, dân chủ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính nhà nước các cấp; xác định rõ chức năng, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý của bộ máy tổ chức của Đảng, của các cơ quan thuộc hệ thống lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như của các bộ phận khác nằm trong hệ thống chính trị; không để lẫn lộn, chồng chéo, trùng lắp, một việc mà nhiều nơi làm, trách nhiêm không biết thuộc về ai.
Phải thay đổi cách quản lý, chuyển trọng tâm từ quản lý quá trình sang quản lý kết quả và hiệu quả cuối cùng. Khắc phục nạn “chạy dự án” bằng mọi cách, chỉ cần được dự án, mà không quan tâm hiệu quả, vì hiệu quả cuối cùng không được đánh giá, chủ dự án hầu như không chịu trách nhiệm gì. Thủ tục qui trình xét duyệt dù chặt chẽ tới đâu, người ta vẫn có cách để chui lọt qua được; trong các hội đồng tư vấn, thẩm tra tuy có mời nhiều nhà khoa học tham gia, nhưng có nhiều cách để vô hiệu hóa họ, thậm chí còn tình trạng lựa chọn người vào hội đồng để phát biểu “vừa ý”. Sự yếu kém của hệ thống quản lý hiện nay là nguồn gốc sâu xa của nạn tham nhũng, lãng phí, thất thoát rất trầm trọng ở nước ta. Đó là hệ thống quản lý không dựa vào tri thức, làm thui chột mọi khả năng sáng tạo, cản trở sự phát triển kinh tế tri thức.
Cải cách hành chính gắn với tin học hóa, tiến tới chính phủ điện tử để cho bộ máy nhà nước có hiệu lực hơn, nhanh nhạy hơn, có trách nhiệm hơn, dân chủ công khai minh bạch, để cho người dân được biết chính sách chủ trương, được cung cấp các dịch vụ công, được bàn về các chủ trương liên quan đến dân, được làm những gì có thể, và được kiểm tra công việc của chính phủ. Làm được như thế sẽ không còn đất cho các nạn tham ô, phiền nhiễu dân phát triển.
Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong tình hình mới. Đặc biệt cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa để huy động lực lượng lớn trí thức người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao tri thức mới, công nghệ mới phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
2. Cải cách, hiện đại hóa nền giáo dục, chăm lo đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế tri thức
Trong nền kinh tế tri thức vị trí, vai trò của giáo dục thay đổi cơ bản. Trước hết, vốn tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên. Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức đồng thời góp phần quảng bá tri thức. Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa tri thức vào trong các hoạt động xã hội của con người. Giáo dục đào tạo có chức năng tạo ra và nhân lên vốn tri thức
Ngày nay tri thức trở nên lạc hậu rất nhanh chóng, người sinh viên học xong đại học ra trường thì tri thức của những năm đầu đã bắt đầu lạc hậu rồi; nếu sau 1-2 năm không cập nhật tri thức thì sẽ khó đảm đương công việc. Cho nên, người lao động buộc phải luôn nâng cao tri thức, nâng cao kỹ năng, không ngừng bồi dưỡng, đào tạo. Việc làm của họ lại dễ dàng thay đổi, không ổn định lâu dài như trong quá khứ; việc làm cũ mất đi được thay thế bằng việc làm mới; quá trình đổi mới diễn ra rất nhanh chóng.
Trong nền kinh tế tri thức con người phải biết tự đào tạo, tiếp thu tri thức mới, không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng, có năng lực sáng tạo, thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm, luôn thích nghi với sự phát triển. Do đó nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục đào tạo phải thay đổi cơ bản. Phải chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn luyện phương pháp, xây dựng năng lực, phat huy năng lực sáng tạo, thích nghi sự phát triển.
Nhà nước cần có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia", tạo điều kiện làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, quản lý kinh doanh, văn học-nghệ thuật, các nghệ nhân "bàn tay vàng".... Thực hiện việc đánh giá đúng và thù lao xứng đáng với kết quả lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức; có chính sách tích cực để khuyến khích cán bộ khoa học tiến thân bằng những cống hiến bằng năng lực chuyên môn của mình. Xây dựng và thực hiện cơ chế đánh giá, tuyển chọn, sử dụng, sàng lọc hợp lý; thường xuyên giáo dục chính trị, đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ trí thức. Cần thiết lập hệ thống kiểm tra đánh giá trình độ và năng lực trong quá trình sử dụng, có chế độ đãi ngộ tương xứng sự cống hiến. Có sử dụng tốt thì mới có giáo dục tốt. Có trọng dụng người tài thì mới có nhiều người tài. Để khích lệ sự nghiệp giáo dục đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục, cần phải cải cách tổ chức chính sách đối với cán bộ, cần tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch trong một xã hội
Nhiệm vụ cấp bách là tiến hành ngay một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trong giáo dục đào tạo: cải cách triệt để, sâu sắc cả về mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống giáo dục, phương thức tổ chức quản lý giáo dục - đào tạo.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra những con người có đủ khả năng, bản lĩnh thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Kiên quyết khắc phục nạn đi học chỉ cốt để lấy bằng cấp, mà không quan tâm đến xây dựng năng lực.
Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị kiến thức sang bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.
Kiên quyết khắc phục phương pháp giảng dạy cũ kỹ lạc hậu, thầy giảng trò ghi, thụ động, một chiều. Nội dung chương trình phải hiện đại nhưng tinh giản. Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nhất, và giúp người học biết nhân lên vốn tri thức cho mình, hướng dẫn người học phương pháp tiếp thu tri thức mới, bồi dưỡng cho họ những kỹ năng cần thiết, phương pháp tư duy, trí sáng tạo, phương pháp tự đào tạo..., thông qua các trường hợp điển hình để bồi dưỡng phương pháp và năng lực giải quyết vấn đề. Tăng cường sự tương tác giữa thầy giáo và sinh viên, sử dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin trong giảng dạy. Tăng cường dạy công nghệ thông tin trong tất cả các bậc học.
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra kiểm tra, thay đổi cách tổ chức thi cử, tuyển sinh (hiện nay chỉ nặng về kiến thức sách vở), khắc phục tình trạng nặng về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra; kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng. Tăng quyền chủ động cho các trường, kể cả trường công lập cũng như các trường ngoài công lập. Bộ và các sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường chức năng quản lý nhà nước, nhất là thanh tra chất lượng giáo dục đối với tất cả các trường, không làm thay các công việc của trường, xoá bỏ cơ chế xin cho. Hãy để cho các trường chủ động tổ chức thực hiện quá trình đào tạo và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo. Nhà nước vừa chăm lo xây dựng một số trường trọng điểm chất lượng cao, ngang tầm quốc tế; vừa có chính sách phù hợp để đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo, huy động nhiều nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo theo nhu cầu xã hội. Nhà nước thực hiện chính sách công bằng xã hội, tạo điều kiện để cho người nghèo, những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, đều có cơ hội đi học để phát huy hết khả năng của mình.
Mở rộng quan hệ hợp tác giáo dục đào tạo với nước ngoài. Cần mở rộng giao lưu về giáo dục với các nước, tiếp cận với những mô hình giáo dục tiên tiên nhất, và vận dụng sáng tạo vào nước ta. Có chính sách tuyển cử đông đảo giáo viên, sinh viên đi học tập, nghiên cứu và làm việc ở các nước phát triển và thu hút nhiều giáo sư, chuyên gia nước ngoài vào nước ta giảng dạy, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm. Mở rộng các hình thức hợp tác liên kết các đại học của ta với các đại học nước ngoài để đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế; đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các đại học quốc tế ở nước ta nhằm đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế, được các trường có uy tín trên thế giới cấp bằng.
Cải cách giáo dục là một cuộc cách mạng sâu sắc không chỉ trong ngành giáo dục mà là trong xã hội; nó bắt nguôn từ sự đổi mới tư duy về giáo dục.
3. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển KTTT.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống là tạo ra tri thức và sử dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Do đó chính sách quốc gia ưu tiên quan trọng hàng đầu là nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia, nhằm có đủ khả năng truy cập vào kho tri thức toàn cầu, làm chủ các tri thức mới của thời đại và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình, đồng thời có khả năng tạo ra những tri thức mới riêng biệt cần thiết cho sự phát triển đất nước mình. Để làm được điều đó cấn rất quan tâm công tác nghiên cứu cơ bản.
Nhưng chỉ có như thế thì không đủ: Kinh nghiệm lịch sử cho thấy một quốc gia có năng lực khoa học mạnh, có đội ngũ cán bộ khoa học giỏi, có nhiều sáng chế phát minh, chưa hẳn đã là quôc gia mạnh, có trình độ công nghệ cao, có nền kinh tế phát triển nhanh. Vấn đề là phải có hệ thống kinh tế năng động, có cơ chế chính sách buộc phải cạnh tranh dựa trên hiệu quả, khuyến khích và bắt buộc sử dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực của sản xuất và đời sống. Do đó phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lý kinh tế và quản lý khoa học công nghệ; tiến tới thiết lập được một hệ thống đổi mới quốc gia hữu hiệu.
Đối với Việt Nam, để tiến đến một hệ thống đổi mới quốc gia hữu hiệu, cần có những chuyển biến mạnh mẽ trên các mặt sau đây:
Trước hết là đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, chuyển hướng mạnh sang kinh tế thị trường, tạo lập môi trường kinh doanh sôi động, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng dựa vào tri thức và công nghệ và chất lượng con người. Đổi mới nhằm tạo điều kiện cung và cầu cho phát triển tri thức, nâng cao năng lực KH&CN quốc gia, nâng cao hàm lượng tri thức trong các sản phẩm.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế tài chính cho khoa học theo hướng mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro trong hoạt động khoa học và công nghệ. Kết hợp hợp lý cơ chế tuyển chọn thông qua đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ với cơ chế giao nhiệm vụ trực tiếp trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, hiệu quả và chất lượng. Xoá bỏ tận gốc mọi hình thức biến tướng của cơ chế bao cấp trong việc triển khai các dự án, chương trình tiến bộ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách. Phát triển thị trường công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ trở thành hàng hóa.
Phát triển mạnh các dịch vụ tư vấn. Trong hệ thống đổi mới quốc gia, các hoạt động dịch vụ tư vấn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng tri thức cho phát triển, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, thực hiện yêu cầu phát triển bền vững. Hoạt động tư vấn là cầu nối giữa khoa học và sản xuất, làm gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm, giảm tiêu hao vật tư, năng lượng trong sản phẩm. Không có tư vấn, tri thức khoa học chậm được ứng dụng vào sản xuất, khoa học khó phát huy được vai trò động lực của mình. Mặt khác, hoạt động tư vấn qua kiểm nghiệm trong thực tiễn sẽ không ngừng bổ sung tri thức khoa học, góp phần vào phát triển khoa học và công nghệ, phát triển năng lực sáng tạo, thúc đẩy sự đổi mới công nghệ.
Khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ. Doanh nghiệp phải coi hoạt động R&D là nhiệm vụ hàng đầu; tiến hành thường xuyên đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới dịch vụ khách hàng. Khuyến khích doanh nghiệp thành lập các quỹ phát triển KH&CN và các bộ phận nghiên cứu, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Chuyển mạnh các viện nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; Phát triển mạnh các doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ, các trường đại học thành lập các cơ sở sản xuất kinh doanh; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đào tạo nhân lực và giải quyết việc làm, đầu tư nghiên cứu khoa học, gắn khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh. Nhà nước có chính sách khuyến khích và tổ chức các hình thức liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp, các đại học, các viện nghiên cứu theo ngành, hoặc nhóm sản phẩm để nhanh chóng hình thành, phát triển những ngành công nghiệp mới có ý nghĩa chiến lược, dựa trên công nghệ mới.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu công nghệ cao, có chính sách ưu đãi mạnh mẽ hơn để thu hút đầu tư nước ngoài về công nghệ cao; đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu, đào tạo và các doanh nghiệp trong nước cùng hợp tác liên doanh, liên kết để phát triển nhanh các ngành công nghiệp công nghệ cao. Thúc đẩy việc hình thành các “Trung tâm tài năng”.
Tăng cường hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hợp lý, bảo đảm quyền lợi của người sáng tạo, thúc đẩy quá trình giao dịch sản phẩm trí tuệ, phân chia hợp lý lợi ích giữa những người thiết kế, tác giả và những người sử dụng. Thực hiện nghiêm Luật Sở hữu trí tuệ, trừng phạt nghiêm khắc những hành vi vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ; giải quyết kịp thời và hiệu quả đối với các vi phạm và các tranh chấp.
4. Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội – động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới và phát triển, tiến vào kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) xác định rằng việc ứng dụng và phát triển CNTT sẽ góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hữu hiệu quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng, tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện chiến lược tăng tốc, cần đẩy nhanh hơn nữa ứng dụng và phát triển CNTT. Trước mắt, cần tập trung tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả các công việc sau:
Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực để đổi mới và phát triển. Đảm bảo điều kiện cho mọi người sử dụng thông tin như một nguồn tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng sống; phát huy tiềm năng con trí tuệ của người Việt Nam, tạo phong cách làm việc năng động trong nền kinh tế tri thức. Thực hiện sự hài hoà giữa việc kiểm soát với quyền tự do thông tin. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn tính đa văn hoá, đa ngôn ngữ. Có chính sách, biện pháp khắc phục sự cách biệt về thông tin giữa các vùng, các đối tượng dân cư. Cần ưu tiên trợ giúp cho các vùng nông thôn, vùng xa xôi hẻo lánh tiếp xúc với thông tin giá rẻ hoặc miễn phí...
Xây dựng mạng thông tin điện tử quốc gia đường truyền tốc độ cao, kết nôi mạng internet, phủ khắp cả nước, đó là kêt cấu hạ tầng quan trọng nhất; mọi hoạt động đều sử dụng ha tầng đó: chính phủ điện tử, thương mại điện tử, ngân hàng điện tử, làm việc từ xa, học tập từ xa, chữa bệnh từ xa v.v… Mạng có tác dụng xóa khoảng cách địa lý, rút ngắn thời gian, nâng cao năng suất, hiệu suất các hoạt động, giảm đáng kể chi phí, tạo điều kiện để tự động hóa toàn bộ nền sản xuất. Mạng còn là kho tri thức khổng lồ giúp nâng cao tri thức, kỹ năng của con người, phát huy năng lực sáng tạo.
Đẩy nhanh tốc độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin điện tử của Đảng và Nhà nước, xây dựng chính phủ điện tử gắn chặt với cải cách hành chính. Các cơ sở dữ liệu quốc gia được chia sẻ và sử dụng qua mạng diện rộng của Đảng, Nhà nước. Các cơ quan nhà nước từ trung ương đến cấp huyện thực hiện điều hành tác nghiệp trên mạng để đổi mới phương thức làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động. Hệ thống thông tin điện tử của Đảng và Nhà nước hoạt động thông suốt, an toàn, thuận lợi sẽ góp phần to lớn vào công cuộc cải cách hành chính. Các cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố thiết lập các website cung cấp thông tin cho công chúng, tiến tới có các cổng giao dịch điện tử (Portal) tạo điều kiện cho hầu hết các dịch vụ hành chính cơ bản được thực hiện trực tuyến.
Nhanh chóng xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin tiên tiến cho các trường học, đẩy nhanh việc ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo, đây là yếu tố rất quyết định đối với nâng cao chất lượng dạy và học.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đường lối cnh, hđh gắn với phát triển kinh tế tri thức.doc