- Thường xuyên kết hợp với Sở tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị,
nghiên cứu khoa học để vừa nắm được thông tin về tình hình hoạt động của
ngân hàng vừa cung cấp thêm những kinh nghiệm quý báu cho Sở trong
quá trình hoạt động.
- Hỗ trợ Sở giao dịch về kinh phí và kỹ thuật trong công tác đào tạo
cán bộ (ngắn hạn, dài hạn, trong và ngoài nước) nhằm nâng cao trình độ,
nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động trong cơ chế thị trường.
80 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả và tích cực
hành động bảo vệ lợi ích cũng như uy tín của mình trên thị trường.
2.2.5. Nợ có tài sản đảm bảo
Nếu như trước đây, việc cho vay chủ yếu dựa vào tín chấp thì đến
nay, đứng trước những thay đổi của các quy định về tài sản đảm bảo, theo
Nghị định 178 và Nghị định 85 của Chính phủ cũng như những chỉ đạo sát
sao của Ban lãnh đạo Sở giao dịch về tuân thủ tỷ lệ cho vay có tài sản đảm
bảo theo QĐ 5645, việc tăng tỷ lệ nợ vay có tài sản đảm bảo là một trong
những yêu cầu tất yếu đối với Sở trong quá trình hội nhập và an toàn tín
53
dụng. Đối tượng khách hàng chủ yếu của NHĐT&PT VN nói chung và Sở
giao dịch nói riêng là các doanh nghiệp Nhà nước. Những khách hàng này
có chung một đặc điểm là vốn tự có thấp (chỉ từ 10-15% tổng nguồn vốn)
nên càng đòi hỏi Sở phải chú trọng đến tài sản đảm bảo trong cho vay, nhất
là cho vay trung và dài hạn (vì trong cho vay trung và dài hạn có đến hơn
80% là doanh nghiệp Nhà nước). Năm 2000 dư nợ có tài sản đảm bảo là
234 tỷ đồng, chỉ chiếm vẻn vẹn 5% tổng dư nợ, nhưng đến năm 2003 dư nợ
vay có tài sản đảm bảo đạt 1.101 tỷ đồng, chiếm 21% tổng dư nợ của Sở.
Và đến năm 2004 con số này đã lên đến 2.742 tỷ, tăng gấp 2,5 lần năm
2003 và chiếm 54,22% tổng dư nợ. Cùng với việc gia tăng tài sản đảm bảo
trong hoạt động tín dụng nói chung thì nợ vay trung và dài hạn có tài sản
đảm bảo cũng tăng lên.
Sở đã đạt được thành công như vậy xuất phát từ việc nhận thức được
"yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản bảo đảm là một trong những điều
kiện bắt buộc". Sở đã mở rộng các loại hình đảm bảo cũng như áp dụng
tổng hợp các biện pháp, trong đó có biện pháp mới như: tiến hành việc cầm
cố khối lượng xây lắp hình thành, cầm cố quyền đòi nợ phát sinh từ các
khoản phải thu, tiến hành thí điểm việc cầm cố vốn góp của các doanh
nghiệp Nhà nướctrong các liên doanh, rà soát tính pháp lý toàn bộ hồ sơ
bảo đảm, ký loại các hợp đồng cũ nếu chưa hoàn thiện về mặt pháp lý và
thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo đối với các tài sản đủ đảm bảo.
2.2.6. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi
* Vòng quay vốn trung và dài hạn
Vòng quay vốn trung và dài hạn được thể hiện qua bảng số liệu dưới
đây:
Bảng 11: Vòng quay vốn trung và dài hạn
Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
54
Doanh số thu nợ TDH (1) 2.691,978 1.971,235 2.656,987
Dư nợ TDH bình quân (2) 3.323,429 4.106,739 3.888,940
Vòng quay vốn TDH (1)/(2)
(vòng)
0,81 0,48 0,68
(Nguồn: Phòng tín dụng Sở giao dịch NHĐT&PT VN)
Vòng quay vốn thể hiện vòng quay của vốn huy động được hay nói
cách khác là số lần một đồng vốn huy động được đem cho vay. Như vậy
chỉ với một đồng vốn nhưng nếu cho vay càng quay vòng nhiều lần càng
tốt. Tại Sở giao dịch NHĐT&PT VN, vòng quay vốn trung và dài hạn còn
thấp, đều nhỏ hơn 1. Năm 2002, chỉ tiêu này đạt 0,8 vòng nhưng năm 2003
giảm đáng kể, chỉ còn 0,48 vòng do doanh số thu nợ trong năm giảm nhiều.
Đến năm 2004, số vòng quay đã tăng lên là 0,68 vòng. Các chỉ số này thấp
hơn 1 cho thấy tuy dư nợ tín dụng trung và dài hạn tại Sở cao so với tổng
dư nợ nhưng nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn chưa được quay vòng
nhiều. Điều này có thể giải thích là do đa phần các dự án tín dụng trung và
dài hạn mới đi vào hoạt động, chưa đến hạn trả nợ nên doanh số thu nợ
trung và dài hạn tại Sở còn thấp.
* Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận mà Sở thu được từ hoạt động cho vay trung và dài hạn
chiếm chủ yếu trong tổng lợi nhuận của Ngân hàng. Trong năm 2004 có sự
giảm sút về doanh số cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói
riêng nhưng lợi nhuận mà Sở thu được từ hoạt động tín dụng vẫn đạt cao là
112 tỷ, chiếm 87,25% lợi nhuận chung của Sở (lợi nhuận chung là 128,36
tỷ). Trong đó lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn là 83 tỷ,
chiếm 74% so với lợi nhuận từ hoạt động tín dụng và 64,66% so với tổng
lợi nhuận. Với tỷ trọng lợi nhuận của hoạt động tín dụng trung và dài hạn
chiếm cao như vậy trong tổng lợi nhuận cũng như trong lợi nhuận của hoạt
55
động tín dụng có thể thấy hoạt động tín dụng trung và dài hạn là hoạt động
chính của Sở giao dịch NHĐT&PT Việt Nam, nó có một vai trò, vị trí quan
trọng trong việc tạo ra lợi nhuận đối với toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Lợi nhuận của hoạt động này cao chứng tỏ các khoản vay không những thu
hồi được mà còn thu được lãi, đồng vốn cho vay được đảm bảo và cũng
góp phần khẳng định chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở là tốt.
2.3. Đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
Sở giao dịch NHĐT&PT VN
2.3.1. Những kết quả đạt được
Hệ thống NHĐT&PT VN hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư
và phát triển, hoạt động của Sở giao dịch NHĐT&PT VN cũng không
ngoài lĩnh vực ấy. Nhìn nhận được vai trò của hoạt động chủ yếu - tín dụng
trung và dài hạn đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội nên Sở đã
không ngừng nâng cao chất lượng của hoạt động này. Qua những phân tích
ở trên đã cho chúng ta thấy được chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
Sở trong mấy năm qua là rất tốt và đạt được nhiều kết quả nổi bật.
- Hệ thống ngân hàng đầu tư rất quan tâm đến nhu cầu của khách
hàng nên đã đưa nguyên tắc "tìm hiểu nhu cầu để đảm bảo việc cho vay
trung và dài hạn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng" lên hàng đầu.
Trên cơ sở định hướng đó, Sở giao dịch luôn chú trọng đến công tác khách
hàng, cán bộ thường xuyên nắm bắt nhu cầu, định hướng phát triển của
doanh nghiệp, mở rộng dịch vụ tiện ích đến những khách hàng tốt, chủ
động tiếp cận khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn một cách
thuận lợi nhanh chóng nhất, phát huy được thế mạnh về phong cách, thái độ
đón tiếp nhiệt tình, lịch sự, phục vụ khách hàng một cách ân cần. Hằng năm
tiến hành lấy ý kiến khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ qua đó có
những điều chỉnh nhất định theo yêu cầu của khách hàng.
56
- Sở luôn coi trọng công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng, để
tìm ra những rủi ro tiềm ẩn, loại trừ những dự án kém hiệu quả, đặc biệt
trong tín dụng trung và dài hạn, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng,
bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng thực sự tập trung
trong nghiên cứu, báo cáo, phân tích đánh giá khách hàng, dự án, đã xây
dựng hạn mức tín dụng cho doanh nghiệp một cách hợp lý, phù hợp với
từng khách hàng. Thực hiện tốt công tác kiểm tra trước và thường xuyên
tiến hành kiểm tra tình hình hoạt động doanh nghiệp cũng như việc sử
dụng vốn tại doanh nghiệp. Thực hiện đánh giá toàn diện tình hình các
doanh nghiệp vay vốn, triển khai các phương thức quản lý tín dụng mới
theo ngành nghề, loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là đơn vị xây lắp. Vì vậy
chất lượng tín dụng trung và dài hạn trong những năm qua không ngừng
được nâng cao.
- Trong những năm gần đây doanh số cho vay trung và dài hạn có xu
hướng giảm nhưng điều này đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lại
cho vay để đạt được sự cân đối giữa nguồn vốn và cho vay trung và dài
hạn. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2004 chiếm 77,87% tổng dư nợ,
đạt được kế hoạch đề ra là tối đa 79%. Việc mở rộng cho vay trung và dài
hạn đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng đã được chú
trọng, thể hiện qua việc dư nợ tín dụng trung và dài hạn các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tăng đáng kể (năm 2004 tăng 11% so với năm 2003). Dư
nợ tín dụng trung và dài hạn theo kế hoạch Nhà nướcvà chỉ định giảm đi rõ
rệt, điều này chứng tỏ Sở có sự độc lập tự chủ hơn trong cho vay trung và dài hạn.
- Năm 2004 tỷ lệ nợ quá hạn của Sở giao dịch đã giảm xuống, trong
đó nợ quá hạn trung và dài hạn giảm từ 0,77% năm 2003 xuống 0,62%. Tỷ
lệ quá hạn này là thấp và vẫn trong giới hạn cho phép, hơn nữa nợ khó đòi
chỉ tập trung ở khoản cho vay chỉ định còn nợ quá hạn của khoản cho vay
thương mại và kế hoạch Nhà nướclà nợ quá hạn thông thường. Quỹ dự
57
phòng rủi ro của Sở được trích lập hàng năm đủ để Sở đứng vững trước
những rủi ro xảy ra do nợ quá hạn hoặc khó đòi. Sở giao dịch NHĐT&PT
VN cũng đã chú trọng đến an toàn tín dụng, thể hiện qua việc dư nợ có tài
sản đảm bảo liên tục tăng qua các năm.
- Việc huy động vốn trung và dài hạn cũng được coi là một chính
sách quan trọng trong chiến lược phát triển của Ngân hàng. Quy mô vốn
trung và dài hạn đạt tỷ lệ tăng trưởng khá và chiếm tỷ trọng cao trong tổng
nguồn huy động tại Sở. Với nguồn vốn trung và dài hạn này đã giúp cho Sở
cho vay trung và dài hạn với độ an toàn cao và đáp ứng thoả mãn nhu cầu
khách hàng, phục vụ tốt hơn nhu cầu tín dụng trung và dài hạn ngày càng
cao trong nền kinh tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu đổi mới phát triển của đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
- Trong những năm qua, Sở không chỉ đáp ứng được nhu cầu tín
dụng trung và dài hạn ngày càng đa dạng mà còn cho vay có hiệu quả. Có
nhiều dự án được cho vay đã và đang hoạt động tốt, hiệu quả, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tham gia phần
lớn vào công cuộc thay đổi hình ảnh thủ đô và đất nước, tạo điều kiện
thuận lợi cho nước ta hội nhập quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó, cho vay
trung và dài hạn đối với các dự án, phương án hiệu quả còn góp phần tạo
công ăn việc làm lâu dài cho người lao động, từ đó xoá đói giảm nghèo,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội... giúp nâng cao đời sống của nhân
dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên thì chất lượng tín dụng trung
và dài hạn của Sở giao dịch vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục.
2.3.2. Những hạn chế trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn
Đối tượng khách hàng vay vốn trung và dài hạn chủ yếu là các doanh
nghiệp Nhà nước. Mặc dù Sở giao dịch đã tiến hành mở rộng cho vay đối
với thành phần ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy nhiên
58
dư nợ ngoài quốc doanh còn hạn chế so với tiềm năng thực tế của thành
phần này trên thị trường hiện nay. Điều này gây khó khăn cho Sở, nhất là
trong giai đoạn hiện nay khi Nhà nướcđang đẩy mạnh việc tiến hành cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, khi hiệp định thương
mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực, sau này Việt nam gia nhập WTO, gần hơn là
gia nhập AFTA, các doanh nghiệp Nhà nướcsẽ gặp nhiều khó khăn trong
cạnh tranh với hàng hoá của nước ngoài, điều này cũng đồng nghĩa với việc
Ngân hàng gặp khó khăn.
Tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn chiếm cao, tỷ lệ này không tương ứng
với nguồn vốn huy động trung và dài hạn. Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm
bảo tuy đã có nhiều cải thiện nhưng còn chiếm tỷ trọng thấp, ảnh hưởng an
toàn trong hoạt động tín dụng cũng như lộ trình cơ cấu chung của toàn ngành.
Nợ quá hạn trung và dài hạn tuy có giảm nhưng vẫn chưa giải quyết
được dứt điểm, chưa hạn chế được nợ phát sinh. Những khoản nợ quá hạn
từ giai đoạn trước để lại còn rất lớn. Nợ quá hạn phần lớn thuộc về doanh
nghiệp Nhà nước, việc xử lý nợ quá hạn còn gặp nhiều khó khăn...
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Trên đây là những hạn chế của hoạt động tín dụng trung và dài hạn
tại Sở giao dịch, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó, có cả
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
- Hoạt động tín dụng trung và dài hạn chưa rộng, còn tập trung vào
một số ngành, lĩnh vực, một số khách hàng lớn như khối xây lắp (26% tổng
dư nợ), khối điện lực(23%), khối xăng dầu(23%) do đó chỉ cần có những
biến động trên thị trường trong nước hay quốc tế, dù nhỏ hay lớn cũng ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của khách hàng dẫn đến việc thu nợ của
Sở gặp khó khăn (như tình trạng thất thoát trong xây dựng cơ bản ảnh
59
hưởng đến hoạt động của khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp xây lắp).
Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp xúc với
vốn tín dụng của Sở gặp khó khăn do Sở yêu cầu các điều kiện chặt chẽ,
trong khi các tổ chức tín dụng khác có sự thông thoáng hơn.
- Mặc dù thủ tục cho vay trung và dài hạn đã được giản lược đi nhiều
nhưng đối với các khoản vay trung và dài hạn có đặc điểm là thời gian dài
và quy mô vốn vay lớn nên càng đòi hỏi thủ tục vay phải chặt chẽ hơn, cẩn
thận hơn nên đôi khi thủ tục còn rườm rà, khách hàng phải xuất trình nhiều
giấy tờ. Cán bộ tín dụng của Sở giao dịch đa số là cán bộ trẻ, chiếm tỷ
trọng cao (45%) nên chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, trong khi đó cơ
chế chính sách luôn luôn thay đổi cùng với sự biến động của nền kinh tế thị
trường càng làm tăng thêm khó khăn cho các cán bộ tín dụng, nhất là trong
công tác thẩm định tín dụng.
- Cán bộ tín dụng luôn thiếu thông tin tín dụng vì thông tin chủ yếu
mà Ngân hàng có được thường từ phía khách hàng nhưng thông tin thật sự
từ nguồn này thường bị che dấu dưới nhiều hình thức khác nhau nên người
cán bộ phải mất nhiều thời gian để kiểm tra cũng như tìm kiếm thêm các
thông tin khác đáng tin cậy hơn.
- Sở giao dịch chưa quan tâm đúng mực đến hoạt động Marketing
ngân hàng, nên mặc dù đã chủ động tìm đến khách hàng nhưng hiệu quả
chưa cao như mong đợi.
- Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ chưa cao do một số
tài sản thuộc nhóm tài sản các công trình trên đất chưa được đăng ký giao
dịch đảm bảo do chưa có các văn bản hướng dẫn cụ thể nên chưa được các
cơ quan chức năng thực hiện.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
60
- Khả năng của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trong việc đáp ứng các yêu cầu tín dụng trung và dài hạn của Sở giao
dịch là rất thấp. Những vướng mắc chủ yếu là các doanh nghiệp không có
đủ vốn tự có theo yêu cầu, không đủ tài sản thế chấp, không có dự án khả
thi... Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn nhiều
yếu kém. Điều này cũng một phần là do sự hạn chế về trình độ quản lý, hạn
chế về vốn và khả năng lập dự án. Vốn nhỏ kéo theo trình độ trang thiết bị,
công nghệ lạc hậu do không có khả năng thay đổi mới thường xuyên làm
giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và khả năng
tiếp cận vốn của Ngân hàng.
- Khả năng hạch toán kế toán của các doanh nghiệp còn hạn chế. Bên
cạnh đó, vì muốn vay được vốn nên các số liệu khi trình trước Ngân hàng
thường không sát thực, do vậy khả năng đem lại rủi ro cho Ngân hàng tăng.
Vì vậy mà Sở giao dịch thường e ngại khi cho vay đối với các doanh
nghiệp và khi cho vay thường phải đưa ra các điều kiện đối với doanh
nghiệp nhằm hạn chế rủi ro cho khoản tín dụng trung và dài hạn của mình.
- Tình hình kinh tế xã hội có nhiều biến động lớn về chỉ số giá, giá
cả các mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu tăng cao, đặc biệt là tình trạng
tăng giá thép đột biến. Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản trở thành vấn
đề nổi cộm, đẩy các doanh ngiệp xây lắp vào tình trạng khó khăn về tài
chính, chậm trả nợ cho ngân hàng. Các cơ chế chính sách quản lý vĩ mô
của Nhà nướclại thường xuyên điều chỉnh, đổi mới. Việc thay đổi chính
sách, các quy định không đồng bộ ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh
nghiệp
- Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đầy dủ, đồng bộ.
Nhiều văn bản liên quan đến tài sản đảm bảo vốn vay của ngân hàng còn
nhiều thiếu sót, văn bản ban hành chồng chéo tạo kẽ hở để các doanh
nghiệp lợi dụng, gây tổn thất cho các ngân hàng. Các văn bản hướng dẫn
61
còn nhiều chậm trễ hoặc hướng dẫn chưa phù hợp dẫn đến hiểu sai, hiểu
không chính xác làm cho quá trình đưa vào thực tiễn gặp nhiều khó khăn.
62
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI SỞ
GIAO DỊCH NHĐT&PT VN
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Sở
Với kết quả đạt được đáng khích lệ như trên, Sở giao dịch đã tiếp tục
khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong hệ thống NHĐT&PT. Đó là
kết quả của sự chỉ đạo, điều hành của ban lãnh đạo Sở, của sự phấn đấu nỗ
lực của toàn thể cán bộ nhân viên Sở giao dịch quyết tâm thực hiện bằng
được các chỉ tiêu kinh doanh đã đề ra. Phát huy kết quả đạt được năm 2004,
Sở giao dịch tiếp tục phát huy năng lực hiện có, phát huy truyền thống của
ngành, vượt qua mọi khó khăn thách thức quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm
vụ kinh doanh năm 2005 cùng với khẩu hiệu " Hoạt động hiệu quả, quản
lý, kiểm soát rủi ro trong giới hạn, phát triển hợp lý và bền vững đa lĩnh
vực - đa sản phẩm, dịch vụ, tiện ích có chất lượng và ngày càng được đổi mới, cải
thiện".
Các mục tiêu hoạt động kinh doanh năm 2005:
- Huy động vốn bình quân là 10.280 tỷ VNĐ; huy động vốn cuối kỳ
là 10.280 tỷ VNĐ.
- Giới hạn dư nợ cao nhất là 5.800 tỷ VNĐ; dư nợ tín dụng bình
quân 5.550 tỷ.
- Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn/ tổng dư nợ là 76%; Tỷ trọng dư
nợ ngoài quốc doanh/ tổng dư nợ là 18%.
- Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo/ tổng dư nợ là 55%; Tỷ lệ nợ
quá hạn 2,50%.
- Lợi nhuận trước thuế là 137 tỷ VNĐ; lợi nhuận sau thuế bình quân
đầu người là 0,334 tỷ VNĐ/ người; thu dịch vụ ròng 30 tỷ.
63
Dựa trên các mục tiêu hoạt động kinh doanh chung của mình, Sở
giao dịch có chủ trương chính sách đối với hoạt động tín dụng trung và dài
hạn trên cơ sở đề cao phương châm" Chất lượng - An toàn - Hiệu quả".
Chiến lược chỉ đạo được đặt ra là phải đảm bảo về chất lượng hoạt động tín
dụng trung và dài hạn, lấy chất lượng tín dụng làm trọng. Các chủ trương
đó là:
- Sở vẫn xác định tín dụng và dài hạn là hoạt động truyền thống của
mình, cần được giữ vững và tăng trưởng.
- Tăng cường thu nợ trung và dài hạn, giảm bớt cho vay trung và dài
hạn đối với các dự án mới, chỉ cho vay các dự án có hiệu quả, thời gian thu
hồi vốn nhanh.
- Tăng cường công tác tiếp thị để mở rộng và đa dạng hoá danh mục
khách hàng, ngành nghề kinh doanh trong cho vay trung và dài hạn. Tập
trung vào đối tượng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp
nhỏ và vừa hoạt động có hiệu quả, sản phẩm có thương hiệu và có sức cạnh
tranh lớn, có tài sản đảm bảo, các doanh nghiệp Nhà nướcthuộc khối sản
xuất kinh doanh có hiệu quả.
- Tiếp tục đối chiếu, phân loại khách hàng đầu kỳ để có chính sách
khách hàng hợp lý cho từng thời điểm. Kiên quyết thu hẹp dần tín dụng đối
với doanh nghiệp xây lắp hoạt động kém hiệu quả, không mở rộng cho vay
đối với khối xây lắp - đây là những khách hàng lớn trong quan hệ tín dụng
trung và dài hạn nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hoạt động này.
- Nâng cao vai trò công tác thẩm định dự án và tư vấn khách hàng,
đảm bảo an toàn chất lượng trong công tác tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn. Khai thác tối đa tài sản đảm bảo của khách hàng.
-Thường xuyên rà soát, đôn đốc, theo dõi khoản vay, đảm bảo sử
dụng vốn đúng mục đích vay, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra. Tiếp tục
64
theo dõi, xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng, nợ quá hạn thông thường có dấu hiệu
khó khăn trong thu nợ. Tích cực khai thác tối đa tài sản đảm bảo của khách
hàng. Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng theo đúng thực tế hoạt động
tín dụng, quy định của Ngân hàng Nhà nướcvà hướng dẫn của Hội sở chính.
- Với những dự án có mức đầu tư lớn thì Sở mời các ngân hàng trên
địa bàn tham gia đồng tài trợ để giảm thiểu rủi ro và giảm gánh nặng vốn
cho ngân hàng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nâng cao ý thức
chấp hành cơ chế, chính sách, chế độ của Ngân hàng Nhà nướcvà
NHĐT&PT VN đảm bảo kinh doanh an toàn đúng quy chế.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
Sở giao dịch NHĐT&PT VN
Trong thời gian tới nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày càng lớn
do những đòi hỏi cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội nên tỷ trọng tín
dụng trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại sẽ tăng rất nhanh và
đòi hỏi tất cả các ngân hàng phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn chứ không chỉ riêng Sở giao dịch NHĐT&PT VN.
Trong thời gian thực tập, được tiếp xúc với thực tế hoạt động này của Sở,
em có một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
tại Sở giao dịch NHĐT&PT VN.
3.2.1. Đa dạng hoá lĩnh vực cho vay trung và dài hạn
Với thế mạnh là một ngân hàng chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát
triển, Sở giao dịch NHĐT&PT VN có rất nhiều lợi thế trong việc cho vay
các dự án đầu tư xây dựng, sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, Sở mới chỉ tập
trung cho vay đối với các doanh nghiệp xây dựng mà ít quan tâm đến các
doanh nghiệp thương mại. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển với tốc độ
nhanh và đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh
65
nghiệp thương mại cũng cần nhiều vốn trung và dài hạn để mở rộng đổi
mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với
sản phẩm của các nước. Vì vậy Sở nên mở rộng hoạt động tín dụng trung
và dài hạn đối với loại hình doanh nghiệp này.
Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch
NHĐT&PT VN, doanh nghiệp Nhà nướcvẫn là nhóm khách hàng có tỷ
trọng dư nợ lớn nhất bởi đây là những doanh nghiệp có vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế, nắm giữ các vị trí then chốt. Tuy nhiên nợ tồn đọng lớn
và hiệu quả kinh doanh thấp đang là hạn chế lớn nhất của loại hình doanh
nghiệp này. Cùng với quá trình đẩy mạnh xắp xếp lại, cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước, Sở giao dịch cũng phải tiến hành cơ cấu lại dư nợ trung
và dài hạn đối với những doanh nghiệp này. Một mặt cần dành lượng vốn
thoả đáng cho những doanh nghiệp Nhà nướchoạt động thực sự có hiệu
quả. Mặt khác kiên quyết giảm dần và chấm dứt quan hệ tín dụng với
những doanh nghiệp Nhà nướclàm ăn yếu kém. Bên cạnh đó không thể
không kể đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - thành phần đang chiếm
tỷ trọng lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh được thành lập ngày càng nhiều, họ hoạt động trong mọi lĩnh vực
của nền kinh tế, rất năng động và nhạy bén với cơ chế thị trường. Tuy
nhiên tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đối với thành phần kinh tế này tại
Sở chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh vay vốn bao giờ cũng khó hơn các doanh nghiệp Nhà
nước. Trên thực tế, nhu cầu tín dụng trung và dài hạn của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh là rất lớn vì nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp này
rất hạn chế và không đủ điều kiện về tài sản đảm bảo khi đi vay. Có thể nói
tài sản đảm bảo tuy quan trọng nhưng không nên tuyệt đối hoá nó, mà chỉ
nên coi nó như một yếu tố để đảm bảo cho khoản vay an toàn mà thôi. Nên
chăng, đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh là khách hàng quen
thuộc, làm ăn có hiệu quả và ổn định thì Sở giảm bớt điều kiện tín dụng
66
cho doanh nghiệp, mà coi trọng năng lực tài chính của doanh nghiệp, tính
khả thi của dự án... Việc đa dạng hoá lĩnh vực cho vay trung và dài hạn là
một hoạt động hết sức cần thiết đối với Sở giao dịch vì thông qua hoạt
động này Sở sẽ phân tán được rủi ro, nâng cao được hiệu quả hoạt động.
3.2.2. Nâng cao chất lượng các bước trong quy trình tín dụng
trung và dài hạn
Quy trình tín dụng trung và dài hạn là một bản hướng dẫn người cán
bộ tín dụng trong công tác cho vay, từ bước khởi đầu là hướng dẫn nộp hồ
sơ đến bước thu nợ và kết thúc hợp đồng. Tại Sở giao dịch một cán bộ tín
dụng đảm đương toàn bộ quá trình này của một dự án từ đầu đến cuối, nên
mỗi cán bộ cần nắm vững và thực hiện tốt các bước của quy trình này nhằm
nâng cao chất lượng tín dụng
Đơn giản hoá thủ tục vay
Một tiêu chuẩn chất lượng tín dụng mà NHĐT&PT đặt ra cho toàn
hệ thống là thủ tục vay phải đơn giản, phục vụ nhanh nhất cho khách hàng.
Việc đầy đủ các thủ tục pháp lý là yêu cầu hết sức cần thiết và nó góp phần
đảm bảo an toàn hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Song khách hàng đi vay
vốn bao giờ cũng ngại những thủ tục xét duyệt rườm rà, mất nhiều thời
gian của khách hàng đến giao dịch, đặc biệt khách hàng đang cần vốn gấp
không thì sẽ bỏ lỡ những cơ hội lớn.
Chính vì vậy, Sở cần đơn giản hoá hơn nữa hồ sơ xin vay, thống
nhất các biểu mẫu và thực hiện nhanh chóng các thủ tục này. Cán bộ tín
dụng cần có thái độ đón tiếp ân cần, hoà nhã, tận tình giúp đỡ khách hàng
hoàn thành bộ hồ sơ đúng như quy định. Đối với những bộ hồ sơ nào trùng
lặp, không cần thiết có thể bớt đi như đối với khách hàng quen thuộc đã
từng vay vốn nhiều lần thì bên cạnh những hồ sơ mới, có thể sử dụng
những hồ sơ sẵn có mà không cần yêu cầu khách hàng nộp lại. Sở cũng nên
phối hợp với phòng công chứng Nhà nướcđể có thể giúp khách hàng chứng
67
thực các loại giấy tờ nhanh chóng, chi phí thấp. Tuy nhiên, việc khách hàng
cung cấp thông tin một cách trung thực cũng rất quan trọng. Vì với bộ hồ
sơ đầy đủ, rõ ràng, chính xác thì cán bộ tín dụng sẽ tốn ít thời gian cho việc
xác minh lại cũng như thu thập thêm thông tin, tạo điều kiện cho các cán bộ
tín dụng thực hiện công tác thẩm định, kiểm tra dễ dàng và nhanh hơn. Với
việc phục vụ nhanh chóng và thái độ tiếp đón lịch sự sẽ tạo một tâm lý
thoải mái cho khách hàng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Xét trên quan điểm của hoạt động tín dụng trung và dài hạn, thẩm
định tín dụng là khâu quan trọng nhất. Bởi trên cả lý thuyết và thực tế đều
cho thấy khi công tác thẩm định được thực hiện tốt thì chất lượng của
khoản tín dụng được nâng lên rất nhiều. Một trong những yếu tố góp phần
nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng là phải có đầy đủ thông tin về
doanh nghiệp và dự án vay vốn. Kết quả thẩm định sẽ không có ý nghĩa
nếu các thông tin sử dụng để phân tích bị sai lệch, không cập nhật. Trong
thời đại công nghệ thông tin, để biết được thông tin không khó nhưng vấn
đề là ở chỗ làm sao đảm bảo được mức độ chính xác của thông tin.
Thông tin tín dụng chủ yếu do doanh nghiệp cung cấp nhưng nguồn
này không phải lúc nào cũng chính xác. Do vậy để đảm bảo công tác thẩm
định có hiệu quả, Sở giao dịch cần đẩy mạnh khai thác thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau bằng nhiều biện pháp:
- Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các tài liệu cân đối kế
toán, kết quả hoạt động tài chính của các đơn vị xin vay vốn.
- Các cán bộ tín dụng có thể phỏng vấn trực tiếp người xin vay và
điều tra trực tiếp cơ sở sản xuất. Trong khi điều tra trực tiếp có thể biết
được nhịp độ sản xuất của doanh nghiệp, quan hệ với bạn hàng ra sao, cách
thức tổ chức quản lý doanh nghiệp... Với khả năng nắm bắt tâm lý khách
68
hàng, người cán bộ còn có thể đánh giá được tư cách đạo đức của người xin
vay để phòng tránh bị lừa đảo, gây mất vốn cho ngân hàng.
- Bên cạnh đó các cán bộ của Sở cũng cần thu thập thông tin từ các
ngân hàng khác mà trước kia khách hàng có mối quan hệ xin vay để xem
khách hàng đã từng vay bao nhiêu lần, quy mô vay, tình hình trả nợ và hiệu
quả vay vốn... để đưa ra quyết định cho vay đúng đắn. Tuy nhiên trên thực
tế, các ngân hàng có xu hướng giấu kín thông tin về khách hàng của mình
để đảm bảo quyền lợi của mình trong điều kiện cạnh tranh, nhưng cũng
chính vì không có sự phối hợp giữa các ngân hàng nên doanh nghiệp đã lợi
dụng kẽ hở này để đưa ra các thông tin không chính xác. Do đó Sở cần giữ
quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng bạn để cùng phối hợp trong hoạt động,
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Sở cũng cần thu thập thông tin từ
những người bạn hàng của doanh nghiệp.
- Sự ra đời và phát triển của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) đã
phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho
vay của các ngân hàng thương mại. Đây cũng là một nguồn cung cấp thông
tin đáng tin cậy cho Sở nên Sở cũng cần đẩy mạnh khai thác thông tin từ tổ
chức này.
- Sở giao dịch có thể thành lập một bộ phận chuyên về thông tin
khách hàng, thông tin thị trường để cung cấp cho cán bộ tín dụng khi cần.
Hay có thể xây dựng trang Web cung cấp thông tin tín dụng điện tử trực
tuyến cho toàn Sở bao gồm thông tin kinh tế, thông tin tổng hợp định kỳ,
thông tin hoạt động tín dụng của khách hàng bất kỳ, thông tin xếp hạng tín
dụng, thông tin hạn mức tín dụng. Điều này cũng giúp cho công tác thẩm
định được nhanh hơn vì khi khách hàng trình dự án xin vay, Sở mới đi tìm
hiểu, thu thập thông tin về khách hàng sẽ làm mất nhiều thời gian và thông
tin thu thập được có thể không khách quan, chính xác.
Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng trung và dài hạn
69
Với một hệ thống các thông tin tín dụng đã thu thập, Sở bắt đầu tiến
hành thẩm định. Với hoạt động tín dụng trung và dài hạn đòi hỏi cán bộ
càng phải thẩm định chi tiết, cẩn thận hơn để tránh những rủi ro lớn cho
ngân hàng. Công tác thẩm định giúp Sở biết được doanh nghiệp đó là ai,
tình hình sản xuất kinh doanh như thế nào, năng lực tài chính của doanh
nghiệp đó ra sao... để từ đó đưa ra mức độ tín nhiệm của mình đối với
khách hàng.
Tại Sở, một cán bộ tín dụng đảm nhận tất cả các khâu của quy trình
cho vay trung và dài hạn, từ xem xét kiểm tra toàn diện, chính xác và khách
quan từ khâu lập hồ sơ, nhận xét năng lực quản lý điều hành của doanh
nghiệp, tính khả thi của phương án, giám sát khoản vay... nên sẽ không
tránh khỏi những sai sót do trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của mỗi cán
bộ khác nhau. Vì vậy, Sở giao dịch nên chia phòng tín dụng thành hai bộ
phận: Bộ phận quản lý doanh nghiệp và bộ phận thẩm định dự án. Bộ phận
quản lý doanh nghiệp bao gồm các cán bộ tín dụng chuyên quản các doanh
nghiệp. Cán bộ của bộ phận này đại diện cho Sở tại doanh nghiệp, thường
xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, tài sản thế chấp, kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, những khó khăn và thuận lợi
của doanh nghiệp, đề xuất ý kiến giải quyết khó khăn và ý kiến đối với
từng phương án xin vay vốn. Bộ phận này kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất
doanh nghiệp và báo cáo gửi lên lãnh đạo và bộ phận thẩm định theo dõi
chỉ đạo. Bộ phận thẩm định dự án chủ yếu làm việc tại Sở, có nhiệm vụ
thẩm định khách hàng, phương án vay vốn, tài sản thế chấp... và căn cứ vào
ý kiến đề xuất của bộ phận quản lý để đưa ra phương án xử lý trình lãnh
đạo giải quyết các việc liên quan đến vốn vay.
Sở phải tiến hành tổng kết và hoàn thiện các công cụ, phương pháp
phân tích thẩm định dự án, đánh giá các thông tin pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng tín dụng, Sở cần hoàn thiện hơn nữa
70
và hướng dẫn các báo cáo về phương pháp dự báo dòng tiền và mô hình
cảnh báo rủi ro tín dụng, đánh giá lợi thế cạnh tranh của khách hàng theo
mô hình SWOT, mô hình PORTER tới các cán bộ tín dụng, đặc biệt là
những cán bộ mới để họ áp dụng một cách hiệu quả trong phân tích, đánh
giá khách hàng, không chỉ với các dự án mới mà cả với các khách hàng
đang có dư nợ tín dụng.
Tuy nhiên các cán bộ tín dụng có chuyên môn chính thuộc về lĩnh
vực kinh tế, tài chính nên việc thẩm định của họ sẽ gặp khó khăn khi các
doanh nghiệp xin vay vốn lại thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như công
trình xây dựng, vận tải, đặc biệt các dự án có sự tham gia của đối tác nước
ngoài... Khi thẩm định các lĩnh vực này cán bộ tín dụng sẽ dễ tính toán sai
lệch, gây ra sự thiếu chính xác trong kết quả thẩm định. Do vậy để đảm bảo
công việc thẩm định đạt được hiệu quả cao thì Sở giao dịch nên thuê các
chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực mà cán bộ mình còn hạn chế để
giúp họ trong khâu thẩm định này.
Tăng cường kiểm tra, giám sát các khoản tín dụng
Kiểm tra, giám sát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất
lượng tín dụng, đặc biệt với một đơn vị mà tín dụng trung và dài hạn chiếm
tỷ trọng lớn trong hoạt động tín dụng như Sở giao dịch NHĐT&PT VN.
Việc kiểm tra thường xuyên sẽ giúp Sở đánh giá mức độ tín nhiệm của
khách hàng. Điều này là rất cần thiết bởi trong quá trình sử dụng vốn vay,
khách hàng còn có thể qua nhiều thời gian mới bộc lộ khuyết điểm của
mình. Vì thế vai trò của công tác kiểm tra, giám sát tín dụng cần phải được
nâng lên ở mức tương xứng để tránh rủi ro mất vốn của Sở.
Sở phải luôn đảm bảo giải ngân đúng tiến độ và đủ cho khách hàng,
để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục. Khi giải ngân
vốn, cán bộ tín dụng phải lưu ý vốn có được sử dụng đúng mục đích không,
phát hiện sớm và phòng ngừa những tiêu cực dẫn đến rủi ro - đây là một
71
nguyên tắc quan trọng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Phải bám
sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp có
khoản vay vốn lớn, rút vốn một lần. Mọi vi phạm được phát hiện trong quá
trình cung ứng vốn vay phải được phản ánh nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời
với lãnh đạo và phải được xử lý kịp thời theo các cơ chế, thể lệ tín dụng kể
cả việc đình chỉ cho vay, thu hồi nợ trước hạn hoặc cao hơn là đề nghị pháp
luật can thiệp nếu vi phạm là nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc giám sát vốn
vay rất khó nhất là trong điều kiện hiện nay số liệu của khách hàng thường
có độ tin cậy thấp, ngoài tầm kiểm soát của Sở. Hơn nữa chưa có những
văn bản nào quy định cụ thể về việc xử lý sai phạm đối với những khách
hàng báo cáo sai sự thật và những văn bản buộc doanh nghiệp phải chấp
hành đúng luật kế toán và thực hiện kiểm toán hàng năm. Điều này đòi hỏi
cán bộ tín dụng phải có trình độ, năng lực để đưa ra các kết luận, giải pháp,
kiến nghị nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra với ngân hàng
mình.
Trong quy trình tín dụng trung và dài hạn có những công việc được
cụ thể hoá như thẩm định, thu nợ... nhưng việc giám sát, kiểm tra tín dụng
lại không được quy định rõ ràng. Cán bộ tín dụng phải giám sát như thế nào
là một câu hỏi chưa được quy định mà các cán bộ phải tự thực hiện và kết
luận dựa trên chủ quan của mình. Chính vì vậy, cần phải xây dựng hệ thống
các chỉ tiêu, biện pháp để cán bộ đánh giá như đánh giá tài sản thế chấp,
tình hình sử dụng vốn...Có thể nên chia kỳ hạn cho vay thành những giai
đoạn nhỏ rõ ràng và ở mỗi giai đoạn đó cán bộ tín dụng tiến hành kiểm tra,
giám sát (nên kiểm tra đột xuất) và đánh giá được rủi ro của khoản vay.
Hoàn thiện khâu này trong quy trình tín dụng thì chất lượng tín dụng trung
và dài hạn tại Sở sẽ được nâng lên rất nhiều.
Chỉ khi nào khoản vay được thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi thì khi đó
mới nói rằng khoản vay đã hoàn tất, có hiệu quả và không bị rủi ro. Việc
72
thu hồi nợ, lãi là một yêu cầu bắt buộc, cán bộ tín dụng phải đôn đốc khách
hàng thực hiện theo đúng quy trình đã quy định.
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Chất lượng của khoản tín dụng phụ thuộc trước tiên bởi người cán bộ
tín dụng. Cán bộ tín dụng phải là người có trình độ chuyên môn cao; có khả
năng phân tích đánh giá khách hàng, đánh giá khả năng thanh toán của
khách hàng hiện tại, dự đoán được tiềm năng phát triển và những biến động
trong tương lai; có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Trong
hoạt động của ngân hàng, cần phải coi đây là đội ngũ tinh nhuệ nhất luôn
phải đối mặt với sự phức tạp của nền kinh tế thị trường, là những người tạo
ra thu nhập và lợi nhuận chính cho ngân hàng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh
hưởng của những biến động trong nước mà còn cả những biến động trên
thế giới. Điều này đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải hiểu biết về rất nhiều
lĩnh vực, mà đôi khi là quá sức với họ. Một cán bộ không thể vừa quản lý
cho vay thương mại, vừa cho vay xây dựng, chế biến, vận tải... vì như vậy
các cán bộ tín dụng sẽ rất khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin
tín dụng. Giải pháp đặt ra là Sở nên thực hiện chuyên môn hoá đối với từng
cán bộ tín dụng bằng cách chia khách hàng thành từng nhóm có đặc điểm
riêng. Trên cơ sở đó, căn cứ vào năng lực, sở trường và kinh nghiệm
chuyên môn của từng cán bộ tín dụng hay nhóm cán bộ tín dụng để phân
công thực hiện cho vay đối với một loại khách hàng nhất định. Việc chuyên
môn hoá này vẫn phù hợp với định hướng đa dạng hoá tín dụng, làm tăng
chất lượng và độ tin cậy của các thông tin tín dụng, tạo cơ sở cho việc xây
dựng các mối quan hệ lâu dài, đồng thời giảm thiểu chi phí trong công tác
điều tra tìm hiểu khách hàng, thẩm định và phân tích tín dụng, giám sát
khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay.
73
Bên cạnh việc chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ tín dụng, Sở cần quan
tâm đến công tác lựa chọn cán bộ tín dụng đủ kiến thức và đạo đức nghề
nghiệp và đào tạo cán bộ tín dụng. Thường xuyên đào tạo nghiệp vụ cả
trong nước và nước ngoài nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn,
đặc biệt về khả năng phân tích, thẩm định kết quả kinh doanh và tình hình
sử dụng vốn vay trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Sở có thể tạo
điều kiện về thời gian, học phí để cho các cán bộ yên tâm tham gia các lớp
đào tạo. Cùng với đó, cán bộ tín dụng tại Sở cũng cần phải thường xuyên
được trang bị kiến thức về kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật, pháp luật,
phải chấn chỉnh về đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm nhằm nâng
cao sự hiểu biết của mình, phục vụ nhu cầu khách hàng tốt hơn. Các cán bộ
tín dụng cũng phải chú ý rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ để có
thể tiếp cận nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Sở giao dịch
NHĐT&PT VN với đội ngũ cán bộ trẻ năng động, sáng tạo, có trình độ
nghiệp vụ nhưng kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên Sở cần mở các lớp
tập huấn phổ biến cơ chế chính sách, các văn bản pháp quy, các quy định
của ngành, liên ngành, phổ biến đường lối phát triển của địa phương, của
Đảng và nhà nước. Một biện pháp rất quan trọng trong công tác tín dụng,
đó là Sở cần tổ chức cho cán bộ tín dụng học cách giao tiếp và nắm bắt tâm
lý khách hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, ngăn chặn
kịp thời được những ý đồ xấu của khách hàng, góp phần nâng cao chất
lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
3.2.4. Áp dụng chế độ đãi ngộ, thưởng phạt phân minh
Một biện pháp nữa mà Sở cũng cần quan tâm là phải áp dụng chế độ
thưởng phạt phân minh. Đối với những cán bộ giỏi có năng lực cần tạo điều
kiện, cơ hội cho họ thăng tiến và cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng nhằm tạo
động lực thúc đẩy cho mỗi cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Một chế độ
tiền lương hợp lý có thể là cách nâng cao năng suất chất lượng công việc,
74
khuyến khích cán bộ gắn bó với ngân hàng, tránh tình trạng "chảy máu chất
xám". Đối với những cán bộ đảm nhận những công việc phức tạp, những
dự án lớn thì có thể có thu nhập cao hơn, hàng kỳ nên tổ chức đánh giá cán
bộ để có những khen thưởng kịp thời. Có thể thấy cường độ làm việc của
các cán bộ tín dụng tại Sở trong thời gian qua là quá căng thẳng, tình trạng
phải làm thêm ngoài giờ và ngày nghỉ là phổ biến, sức ép trách nhiệm cao...
nên Sở cũng cần quan tâm đến đời sống tinh thần cho cán bộ tín dụng, tạo
động lực cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
3.2.5. Triển khai biện pháp đánh giá chất lượng tín dụng theo mức
độ rủi ro
Hiện nay, để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của mình, các
Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch NHĐT&PT
VN nói riêng đều dựa vào chỉ tiêu nợ quá hạn. Với quan điểm này, một
khoản vay trong hạn là khoản vay có hiệu quả còn nợ quá hạn càng nhiều
thể hiện chất lượng tín dụng càng xấu. Theo quyết định mới_ Quyết
định127/2005/QĐ-NHNN có quy định: nếu khoản nợ vay không trả nợ
đúng hạn, dù tổ chức tín dụng chấp thuận cho cơ cấu lại thời gian trả nợ
hay không thì số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó vẫn bị coi là nợ quá
hạn. Mặc dù đây là sự thay đổi tích cực nhưng đối với khoản vay trung và
dài hạn, kỳ hạn trả nợ của nó (được xác định dựa trên đặc điểm luồng tiền
mặt các thời kỳ trước và các dự báo về luồng tiền mặt trong tương lai)
thường dài, có khi là quý hay bán niên, đặc biệt đối với các dự án đang xây
dựng thì có khi phải sau thời gian ân hạn là mấy năm ngân hàng mới bắt
đầu thu nợ. Trong thời gian dài như vậy sẽ có nhiều biến cố xảy ra, gây rủi
ro cho ngân hàng. Từ đó sẽ tồn tại khoản cho vay trong hạn có nguy cơ
tiềm ẩn rủi ro mất vốn nhưng vẫn không phải trích dự phòng tương đương
với mức độ rủi ro của khoản tín dụng.
75
Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu nợ quá hạn thì dễ dàng che đậy
rủi ro tín dụng, phóng đại chất lượng tín dụng và công tác kiểm toán cũng
gặp khó khăn hơn để xác định mức dộ rủi ro của ngân hàng. Bên cạnh đó
nó còn thể hiện những nhược điểm như không nâng cao trách nhiệm của
nhân viên tín dụng trong việc đánh giá rủi ro của khoản vay; không cung
cấp được thông tin cho nhà quản lý mức độ rủi ro của danh mục đầu tư để
quyết định mức độ rủi ro tăng thêm là bao nhiêu có thể chấp nhận được,
không đưa ra được giải pháp định lượng khoản cho vay tăng thêm sẽ ảnh
hưởng như thế nào đến rủi ro tín dụng, không đánh giá được việc phân bổ
vốn có hiệu quả hay không, trích dự phòng không phản ánh đúng chất
lượng tín dụng của ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng trung và dài
hạn, Sở giao dịch có thể nghiên cứu, triển khai biện pháp đánh giá chất
lượng tín dụng dựa theo mức độ rủi ro. Theo cách này, một khoản cho vay
được chia thành hai loại chính: khoản cho vay ở mức độ chấp nhận được
gọi chung là khoản vay có hiệu quả, được trích dự phòng ở tỷ lệ chung và
khoản cho vay được liệt vào danh sách theo dõi. Khoản cho vay được liệt
vào danh sách theo dõi gồm khoản cho vay có dấu hiệu rủi ro (thể hiện qua
tiêu thức khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp không hợp lý, trì hoãn trả
nợ...), ở mức độ rủi ro hơn khi nó bị nghi ngờ khó thu hồi (khi các tiêu thức
trên có xu hướng xấu đi), cuối cùng là khoản vay khó thu hồi và có khả
năng phải xoá nợ. Để xếp hạng tín dụng ở đúng mức rủi ro của nó thì Sở
cần dựa vào một số chỉ tiêu:
- Lịch sử quan hệ tín dụng giữa khách hàng với Sở thông qua các
thông số trì hoãn trả nợ, gia hạn nợ, trả nợ đúng hạn, sử dụng vốn đúng
mục đích...
76
- Chất lượng quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Tiêu thức
này sẽ đo lường mức độ rủi ro tiềm ẩn, sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
- Luồng tiền và dư nợ hiện tại của khách hàng tại Sở gồm số lượng
tiền mặt thu được bình quân ngày, tháng so với dư nợ vay ngân hàng. Chỉ
tiêu này sẽ giúp Sở biết được khả năng doanh nghiệp có thể trả nợ ngay lập
tức là bao nhiêu. Qua đó, nhân viên tín dụng cũng biết được khoảng thời
gian nào khách hàng không có nguồn tiền lớn để cân đối thời hạn trả nợ
cho hợp lý.
- Tài sản thế chấp và tính thanh khoản của nó phản ánh khả năng chi
trả của doanh nghiệp trong trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ.
Tài sản có tính thanh khoản càng cao thì rủi ro càng thấp.
- Bảo lãnh của bên thứ ba là tiêu thức đánh giá khoản tín dụng ở mức
độ rủi ro bao nhiêu phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng trả nợ thay của người
bảo lãnh khi khoản vay bị trì hoãn hoàn trả.
- Ngoài các chỉ tiêu trên, các thông số như xu hướng của mặt hàng
kinh doanh, chính sách của Nhà nước, thuế, mức độ cạnh tranh... cũng đánh
giá một phần mức độ rủi ro tiềm ẩn của khoản tín dụng đầu tư.
Việc áp dụng nội bộ song song cả hai biện pháp trên sẽ giúp Sở giao
dịch ràng buộc được trách nhiệm, nâng cao ý thức theo dõi chặt chẽ chất
lượng của từng khoản tín dụng.
3.2.6. Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu thì hoạt động
Marketing trở nên rất quan trọng trong sự quyết định thành công của mỗi
ngân hàng. Tuy nhiên các Ngân hàng thương mại Việt Nam lại chưa nhận
thức được đầy đủ tầm quan trọng của Marketing nên chưa quan tâm nhiều
đến lĩnh vực này. Các hoạt động Marketing mà các ngân hàng đang thực
77
hiện hiện nay như quảng cáo, khuếch trương, khuyến mại mới chỉ là hoạt
động bề nổi, còn hoạt động hướng tới sự thành công thực sự cho ngân hàng
là việc nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, định vị thị
trường, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng thì còn ít được quan tâm.
Đối với Sở giao dịch NHĐT&PT VN, hoạt động trong một môi
trường mang tính cạnh tranh gay gắt như Hà Nội thì việc đưa Marketing
xâm nhập vào ngân hàng và phát huy tác dụng của nó càng trở nên cần
thiết. Do đó, Sở cần thành lập một phòng Marketing thực hiện việc hoạch
định các chiến lược, hướng dẫn phối hợp các chức năng hoạt động của Sở
để đạt mục tiêu chung. Đối với riêng hoạt động tín dụng trung và dài hạn,
Sở cần nghiên cứu xây dựng mục tiêu kế hoạch đầu tư trung và dài hạn
theo chiến lược khách hàng. Tăng cường công tác tiếp thị, tìm hiểu các tổ
chức kinh tế và cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn, đồng
thời thực hiện tư vấn đầu tư để chủ động trong quan hệ tín dụng và khai
thác khách hàng, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu vốn trung và dài hạn.
Để nâng cao chất lượng tín dụng chúng ta không thể coi trọng giải
pháp này mà xem nhẹ giải pháp khác. Việc thực hiện đồng bộ và tích cực
các giải pháp trên sẽ đem lại hiệu quả lâu dài, tạo điều kiện giúp Sở giao
dịch hoạt động ngày càng mở rộng, an toàn và hiệu quả, tạo những bước
tiến vững chắc trên con đường phát triển và hội nhập của mình.
3.3. Một số kiến nghị với các cơ quan hữu quan
3.3.1. Kiến nghị với NHĐT&PT VN
NHĐT&PT VN là cơ quan chỉ đạo điều hành chính sách của Sở giao
dịch nên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Sở. Để Sở giao dịch phát
huy được thế mạnh của mình cần có sự hỗ trợ của NHĐT&PT VN:
78
- Cần có những văn bản hướng dẫn chỉ đạo các chính sách rõ ràng
hơn để Sở giao dịch có thể linh hoạt với từng điều kiện cụ thể, phù hợp với
quy định của pháp luật và điều kiện kinh tế xã hội.
- Thường xuyên kết hợp với Sở tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị,
nghiên cứu khoa học để vừa nắm được thông tin về tình hình hoạt động của
ngân hàng vừa cung cấp thêm những kinh nghiệm quý báu cho Sở trong
quá trình hoạt động.
- Hỗ trợ Sở giao dịch về kinh phí và kỹ thuật trong công tác đào tạo
cán bộ (ngắn hạn, dài hạn, trong và ngoài nước) nhằm nâng cao trình độ,
nghiệp vụ, kỹ năng hoạt động trong cơ chế thị trường.
- Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nướcđể tổ chức các chương
trình thông tin rủi ro nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
- Do tính chất phức tạp của công tác tín dụng nói chung và tín dụng
trung và dài hạn nói riêng, NHĐT&PT VN cần sớm ban hành cơ chế, chính
sách, thể lệ làm việc, nghĩa vụ và quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng. Có
chính sách khen thưởng, chính sách ưu đãi với cán bộ tín dụng về thu nhập,
phương tiện đi lại... tạo điều kiện cho họ không ngừng phấn đấu, nâng cao
chất lượng khoản vay.
- NHĐT&PT VN cho phép các chi nhánh được chủ động mời các
chuyên gia tư vấn, luật sư thường xuyên để đảm bảo lợi ích cho ngân hàng.
Đề nghị Hội sở chính hỗ trợ nguồn vốn với lãi suất hợp lý trong các dự án
lớn nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của Sở giao dịch.
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
- Cần ban hành các văn bản, chế độ hướng dẫn phải có sự thống nhất
giữa các văn bản và phù hợp với thực tế. Ví dụ hoạt động tín dụng trung và
dài hạn tiềm ẩn rủi ro rất lớn nên các ngân hàng thường cho vay đồng tài
79
trợ trong khi đó các văn bản hướng dẫn cho hoạt động này còn ít, nhiều khi
không phù hợp với tình hình thực tế.
- Hiện nay công tác thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nướcchưa
được thực hiện tốt. Thực tế cho thấy sau khi các đoàn thanh tra kiểm tra
hoạt động tại một số chi nhánh mới phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng.
Vì vậy để công tác thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nướchiệu quả
cần phải: chấn chỉnh lại bộ máy hoạt động thanh tra, kiểm tra, phải lựa
chọn những cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm, có trách nhiệm; thường
xuyên kiểm tra hoạt động của chi nhánh, tránh tình trạng có dấu hiệu vi
phạm mới tiến hành thanh tra...
- Ngân hàng Nhà nướchoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động của trung tâm thông tin tín dụng. Ngân hàng Nhà nướccần rút kinh
nghiệm và tiếp tục hoàn thiện quy chế hoạt động của trung tâm. Hoạt động
của tổ chức này cần phải phù hợp với thực tế và có hiệu quả tích cực ở các
mặt như tổ chức thu thập thông tin, phân tích đánh giá xếp loại doanh
nghiệp và lưu trữ thông tin; cung cấp chính xác và kịp thời thông tin khi
các ngân hàng thương mại có nhu cầu. Trung tâm cần phải cung cấp thông
tin một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác đồng thời bảo mật tuyệt đối mọi
thông tin theo đúng quy định của ngân hàng nhà nước.
80
KẾT LUẬN
Mặc dù trong nền kinh tế, Ngân hàng đang gặp phải sự cạnh tranh
gay gắt của các tổ chức như Quỹ bảo hiểm, Quỹ đầu tư... nhưng tín dụng
ngân hàng vẫn giữ một vai trò quan trọng không thể thay thế được, đặc biệt
là vai trò của tín dụng trung và dài hạn trong sự nghiệp xây dựng đất nước
hiện nay. Nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một đề tài mới mẻ
mà nó luôn được sự quan tâm, chú trọng của hệ thống Ngân hàng thương
mại vì chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả
hoạt động và thể hiện tiềm lực kinh tế cũng như uy tín của một Ngân hàng
thương mại trên thương trường.
Trong quá trình hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung và
dài hạn nói riêng, Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam
luôn tự đổi mới và hoàn thiện, không ngừng vươn lên. Tuy nhiên hoạt động
tín dụng trung và dài hạn của Sở vẫn còn nhiều hạn chế tồn tại. Khó khăn là
không bao giờ hết nhưng chúng ta tin rằng với sự nỗ lực của toàn thể chi
nhánh kết hợp với tư duy sáng suốt, việc chỉ đạo điều hành kiên quyết và
sáng tạo, Sở giao dịch sẽ vượt qua được trở ngại để hoàn thành mọi nhiệm
vụ đề ra.
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một vấn đề phức tạp mà để
nâng cao thì cần phải có một quá trình áp dụng nhiều giải pháp. Trong
phạm vi bài chuyên đề này, em đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất
lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát
triển Việt Nam. Tuy nhiên những giải pháp này mới chỉ dừng lại ở nghiên
cứu lý luận là chủ yếu, thực tế còn nhiều hạn chế, có thể chưa đem lại hiệu
quả nên bản chuyên đề này không tránh khỏi những sơ suất, em rất mong
nhận được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để chuyên đề của em được
hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Sở giao dịch ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.pdf