Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công tác đầu tư tài chính tại các công ty Bảo hiểm Nhân thọ ở Việt Nam

Trang 1 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN MỤC LỤC MỤC LỤC . .1 DANH MỤC BẢNG BIỂU .4 MỞ ĐẦU 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ QUẢN LÝ VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 7 1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM . 7 1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ trên thế giới .7 1.1.2 Đặc điểm của bảo hiểm 11 1.1.2.1 Khái niệm về bảo hiểm 11 1.1.2.2 Sự cần thiết của đầu tư vốn tại các doanh nghiệp bảo hiểm . 12 1.1.3 Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm 14 1.1.3.1 Quy luật số đông 14 1.1.3.2 Phương pháp thống kê . 15 1.1.4 Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm .16 1.1.4.1 Bảo hiểm nhân thọ . 16 1.1.4.2 Bảo hiểm phi nhân thọ . 16 1.1.5 Tính tất yếu khách quan của bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội .17 1.2 TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 18 1.2.1 Tổng quan về quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm 18 1.2.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam . 19 1.2.1.2 Nguyên tắc đầu tư vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm . 19 Trang 2 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN 1.2.2 Danh mục đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm 20 1.2.3 Hoạt động đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm ở một số nước 24 1.2.3.1 Các quy định về pháp lý 24 1.2.3.2 Cơ cấu đầu tư và sự thay đổi cấu trúc đầu tư trên thị trường BHNT 29 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÁC DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 32 2.1 THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM 32 2.1.1 Khái quát sự ra đời vào phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam 32 2.1.2 Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay . .33 2.2 THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 39 2.2.1 Vấn đề tạo lập vốn trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam hiện nay . 39 2.2.1.1 Nguồn gốc hình thành vốn nhàn rỗi trong doanh nghiệp bảo hiểm39 2.2.1.2 Nội dung dự phòng nghiệp vụ đối với doanh nghiệp kinh doanh BHNT 41 2.2.1.3 Một số tồn tại trong quy định về trích lập dự phòng bảo hiểm nhân thọ . 45 2.2.2 Thực trạng đầu tư vốn trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ . 46 2.2.2.1 Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam . 46 2.2.2.2 Thực trạng đầu tư trên thị trường tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua . 48 Trang 3 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN 2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TẠO LẬP VÀ ĐẦU TƯ VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 62 2.3.1 Kết quả của hoạt động tạo lập vốn .62 2.3.1.1 Thực trạng tạo lập vốn từ người tham gia bảo hiểm . 62 2.3.1.2 Thực trạng tạo lập vốn từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm . 63 2.3.2 Những đánh giá chung trong việc quản lý và sử dụng vốn 64 2.3.2.1 Những thành tích . . 64 2.3.2.2 Những tồn tại . . 64 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM .71 3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM . 71 3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế 71 3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam 72 3.1.3 Những cơ hội và thách thức 73 3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM . 76 3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô . .76 3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm .8 3 3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác .89 KẾT LUẬN 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 Trang 4 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN DANH MỤC BẢNG BIỂU CHƯƠNG 1: Bảng 1.1: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Trung Quốc 26 Bảng 1.2: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Indonesia 27 Bảng 1.3: Quy định đầu tư cho các công ty BHNT ở Hồng Kông .28 Bảng 1.4: Cơ cấu đầu tư tài chính của các công ty BHNT ở một số nước .30 CHƯƠNG 2: Bảng 2.1: Tổng hợp các doanh nghiệp hoạt động bảo hiểm trên thị trường VN đến 31/12/2005 .34 Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005 .35 Bảng 2.2: Danh sách các DNBH trên TTBH Việt Nam đến 31/12/2005 (tiếp theo)36 Bảng 2.3: Dự phòng nghiệp vụ BHNT năm 2004-2005 .43 Bảng 2.4: Dự phòng nghiệp vụ BHNT của một số công ty 44 Bảng 2.5: Dự phòng toán học BHNT của một số công ty 44 Bảng 2.6: Doanh thu phí bảo hiểm 1994-2005 toàn thị trường 50 Biểu 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường . 51 Biểu 2.2: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế 51 Bảng 2.7: Tổng số vốn đầu tư trở lại nền kinh tế 52 Bảng 2.8a & 2.8b: Phân tích cơ cấu vốn đầu tư trở lại nền kinh tế DNBH nhân thọ và toàn ngành bảo hiểm 54 Bảng 2.9: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Việt qua các năm .55 Bảng 2.10: Cơ cấu đầu tư vốn của Prudential Việt Nam năm 2004 & 2005 .56 Bảng 2.11: Cơ cấu đầu tư vốn của Bảo Minh CMG năm 2004 & 2005 56 Bảng 2.12: Lợi suất đầu tư tài chính của công ty BHNT Bảo Việt, Công ty bảo hiểm nhân thọ AIA và Công ty bảo hiểm nhân th

pdf93 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2568 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao khả năng tạo lập vốn và hiệu quả công tác đầu tư tài chính tại các công ty Bảo hiểm Nhân thọ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y một mặt buộc các DNBH phải sử dụng hình thức cho vay ủy thác do đó, mất thêm chi phí và làm giảm hiệu quả cho vay. Mặc khác, nó cũng khiến cho cơ sở pháp lý của hoạt động cho vay theo hợp đồng chưa thật Trang 69 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN đầy đủ, rõ ràng mặc dù đây là một hình thức đầu tư không thể thiếu của các doanh nghiệp BHNT tại nhiều nước trên thế giới. - Quy định của Luật Đất đai hạn chế quyền sở hữu và kinh doanh bất động sản, nhận tài sản đảm bảo là bất động sản của các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp của các DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài, trong khi những doanh nghiệp này hiện đang chiếm vị trí quan trọng trên thị trường BHNT xét về số lượng doanh nghiệp cũng như thị phần doanh thu phí bảo hiểm. - Ngoài ra, do hoạt động đầu tư từ số phí bảo hiểm thu được tại Việt Nam của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài vẫn được coi là đầu tư nước ngoài theo quy định hiện hành nên thủ tục đầu tư còn phức tạp, thậm chí trong nhiều trường hợp còn phải xin giấy phép cho các dự án đầu tư như đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, các DNBH có vốn ĐTNN cũng không được hưởng ưu đãi đầu tư theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, đồng thời, phải chịu những khống chế về tỷ lệ đầu tư tối đa không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư. b) Môi trường đầu tư chưa thuận lợi Nhìn chung, môi trường đầu tư của các DNBH tại Việt Nam còn chưa thuận lợi. Các thủ tục và thông tin liên quan đến đầu tư bất động sản còn ít được công khai; số lượng các dự án đầu tư hiệu quả, an toàn và khả thi còn chưa nhiều; những thất thoát và chất lượng yếu kém trong đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục là những yếu tố hạn chế đầu tư trực tiếp của các DNBH vào các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ và TTCK chưa phát triển, số lượng các doanh nghiệp niêm yết còn ít, thiếu các loại trái phiếu chính phủ với thời hạn dài (từ 10 năm trở lên), với lãi suất hợp lý, phương thức thanh toán linh hoạt… cũng cản trở đến sự tham gia của các DNBH trên TTCK Trang 70 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN c) Các DN chưa có sự quan tâm đúng mức đến hoạt động đầu tư Có một thực tế là phần lớn các DNBH hoạt động trên thị trường đều có lãi từ hoạt động khai thác bảo hiểm. Do đó, các doanh nghiệp chưa có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động đầu tư, thể hiện ở cơ cấu tổ chức đầu tư đơn giản, phân tán và chưa được chuyên môn hóa. Trong suốt một thời gian dài, bên cạnh hoạt động khai thác bảo hiểm được tập trung phát triển, số lượng sản phẩm mới liên tục gia tăng, đến nay đã có trên 700 sản phẩm, số lượng đại lý cũng liên tục tăng thì thị trường đầu tư lại chưa có sự phát triển tương xứng, DMĐT vẫn đơn điệu, cán bộ làm công tác đầu tư chưa theo kịp yêu cầu của thị trường, còn thiếu các chuyên gia đầu tư có trình độ và kinh nghiệm; việc ra quyết định đầu tư, thực hiện quy chế đầu tư còn buông lỏng… Kết luận chương 2: Nhìn chung, hoạt động đầu tư của các DNBH trong thời gian qua về cơ bản đã đáp ứng các yêu cầu an toàn, đúng pháp luật, đảm bảo tính thanh khoản, nguồn vốn đầu tư tăng trưởng đều và ổn định và qua đó, đã hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động bảo hiểm gốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được thì hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn thấp nguyên nhân là do thị trường tài chính ở Việt Nam còn trong giai đoạn đầu phát triển, môi trường đầu tư chưa hoàn thiện. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nói riêng là một vấn đề đáng quan tâm. Trang 71 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 3.1 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM 3.1.1 Theo xu hướng tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và hội nhập hứa hẹn nhiều cơ hội tiềm năng cho ngành bảo hiểm. Để tận dụng cơ hội này, ngành bảo hiểm xác định xu thế phát triển TTBH theo quan điểm hội nhập là một xu hướng tất yếu. Thứ nhất, Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở cửa bắt đầu từ năm 1986. Gần đây, xu thế này ngày càng được khẳng định khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) và Qui chế Thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) cũng đã được Quốc hội Mỹ thông qua. Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam, cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ (định phí, tư vấn...). Cho phép các tổ chức, cá nhân Việt Nam khi đi ra nước ngoài được sử dụng dịch vụ bảo hiểm nước ngoài. Và không còn bất cứ hạn chế nào đối việc thành lập pháp nhân của công ty bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ kinh doanh dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ được mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào đầu năm 2008. Thứ hai, do nguyên tắc phân tán, chia sẽ rủi ro lẫn nhau trong bảo hiểm dẫn đến bất kỳ một TTBH của bất cứ quốc gia nào đều có mối quan hệ tái bảo hiểm với TTBH quốc tế. Do đó, hoạt động của các TTBH trên thế giới gắn kết nhau, liên kết Trang 72 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN và hợp tác với nhau để duy trì sự ổn định của toàn hệ thống TTBH thế giới. Một TTBH phát triển sẽ có mối quan hệ với rất nhiều TTBH trên thế giới là điều tất nhiên. 3.1.2 Theo mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam Phát triển TTBH toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; đảm bảo cho các tổ chức cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Bằng quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ra ngày 29 tháng 8 năm 2003, Chính phủ đã đưa ra chiến lược phát triển TTBH Việt Nam đến năm 2010. Chiến lược phát triển này có thể lượng hóa bằng tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và BHNT tăng khoảng 28%/năm.Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm chiếm 2,5% GDP năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm 2010 tổng dự phòng nghiệp vụ của các DNBH tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002. Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân sách Nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân 20%/năm. Trong điều kiện hội nhập tất yếu đã và đang tiếp tục diễn ra, để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên đây đòi hỏi phải có môi trường tài chính tốt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải phát triển, các DNBH phải nâng cao được hiệu quả tạo lập và đầu tư vốn. Trang 73 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN 3.1.3 Những cơ hội và thách thức Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đem đến cho toàn bộ nền kinh tế nước ta nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng những cơ hội và thách thức mới. Thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, TTBH Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung. Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa TTBH trong việc Việt Nam cam kết gia nhập WTO có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích cực và tiêu cực. Về tác động tích cực của cam kết đối với hoạt động của thị trường, về cơ bản sẽ có tác động tích cực đối với cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước thể hiện qua các điểm như: ƒ Việc tham gia thị trường của những công ty bảo hiểm mới, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ đa dạng hóa và khiến thị trường sôi động hơn. Sự tham gia của công ty có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thức tỉnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước; đồng thời, phá vỡ thế độc quyền bằng việc gia tăng nhanh chóng số lượng nhà cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ không còn nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, đẩy thị trường bảo hiểm tiến gần hơn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh; kích thích việc mở rộng danh mục sản phẩm, giúp ngành bảo hiểm thực hiện tốt hơn chức năng huy động vốn và bảo vệ các đối tượng trong nền kinh tế trước rủi ro. ƒ Mở cửa thị trường tạo điều kiện tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước. Các công ty bảo hiểm trong nước có điều kiện tiếp thu ở một mức độ nhất định những kiến thức và kỹ năng chuyên ngành của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh lớn hơn buộc các công ty bảo hiểm trong nước phải chủ động điều chỉnh mô hình và chính sách quản lý, đào tạo nhân viên, Trang 74 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo được lợi thế với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Tuy nhiên, việc tham gia của các công ty nước ngoài vào thị trường bảo hiểm cũng có những tác động bất lợi đối với công ty bảo hiểm trong nước và khả năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, thể hiện rõ nét ở những điểm sau: ƒ Các công ty trong nước bị chia sẻ thị trường là tác động rõ ràng nhất ở mọi nước bắt đầu tiến hành mở cửa thị trường. ƒ Biến động về nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Một thực tế đã diễn ra khi sự gia tăng của số lượng doanh nghiệp bảo hiểm nhanh hơn gia tăng nguồn nhân lực trong ngành đã dẫn đến sự di chuyển nhân sự giữa các công ty bảo hiểm. Do đó, nếu các công ty bảo hiểm trong nước không có những điều chỉnh liên quan đến chính sách nhân sự trong thời gian tới, sẽ bị mất lợi thế quan trọng trước các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. ƒ Thị trường phát triển nhanh về qui mô, đa dạng về sản phẩm là sức ép đối với các nhà quản lý trong lĩnh vực này, bao gồm yêu cầu phải đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng; khả năng giải quyết tranh chấp; thị trường bị chia cắt manh mún và vấn đề rất quan trọng là ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống. Bên cạnh những cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO, vẫn còn những khó khăn nhất định mà ngành bảo hiểm Việt Nam đang phải đối mặt: ƒ Vị trí của ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn chiếm thứ hạng khá khiêm tốn trong khu vực và thế giới (đứng thứ 55/88 thế giới và 16/25 khu vực Châu Á về doanh thu phí bảo hiểm – theo thống kê của sigma số 2/2006). Công nghệ của bảo hiểm các nước trong khu vực đang trên đà phát triển nhanh, nhiều nước đã triển khai được kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng và thu được kết quả khả quan như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái Lan, Philipines…Trong khi đó, việc triển khai kênh phân phối sản phẩm qua ngân hàng ở Việt Nam được xếp dưới các nước kể trên trong bảng xếp hạng. Trang 75 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN ƒ Các ngân hàng thương mại vẫn tiếp tục chiến dịch thu hút tiền gửi tiết kiệm thông qua tăng lãi suất và khuyến mại sẽ gây khó khăn không nhỏ cho BHNT. Các hợp đồng khai thác mới sẽ tăng chậm lại và rất có thể tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm khai thác mới sẽ tiếp tục giảm đi. Trong năm 2005, mặc dù tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới tăng 3,27% so với năm 2004 song tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm khai thác mới giảm 5,73% so với năm 2004. Tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới đạt 820.000 hợp đồng, tăng 26.000 hợp đồng so với năm 2004 trong khi tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng khai thác mới này chỉ đạt 20.626 tỷ đồng, giảm 1.253 tỷ đồng so với năm 2004. Bình quân số tiền bảo hiểm của hợp đồng khai thác mới trong năm 2005 cũng giảm 2,4 triệu đồng tương ứng mức giảm 8,7% so với năm 2004. Bên cạnh đó, bảo hiểm y tế tự nguyện đang được phép triển khai rộng rãi, các đơn vị bảo hiểm y tế đang đào tạo đại lý và bán bảo hiểm từ đầu năm 2006. Theo nhận định của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, đây là lực lượng cạnh tranh quyết liệt với BHNT và nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn con người. ƒ Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy, điều kiện và cơ hội lưu chuyển vốn đầu tư của các DNBH nói chung và của BHNT nói riêng chưa có hiệu quả, phạm vi đầu tư còn hẹp, cơ hội đầu tư còn quá ít. Hiện trạng chậm phát triển và tình hình ảm đạm trên TTCK những năm trước và sự phát triển theo xu thế đám đông của TTCK trong năm nay vẫn chưa thể là một kênh đầu tư vốn hấp dẫn đối với các DNBH. Thêm vào đó, số dự án kêu gọi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh đảm bảo mức độ an toàn và khả năng sinh lời hợp lý không nhiều. Trong khi đó, về phía các DNBH thì số lượng các sản phẩm đầu tư hoàn thiện, phù hợp với đặc thù kinh doanh bảo hiểm vẫn còn hạn chế. Chính vì vậy, hình thức đầu tư chủ yếu của các DNBH hiện nay vẫn là gửi tiền ngân hàng có kỳ hạn và mua trái phiếu Chính phủ. Điều này đã hạn chế hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm. Trang 76 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN Song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường. 3.2 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG TẠO LẬP VỐN VÀ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 3.2.1 Các giải pháp ở tầm vĩ mô Thứ nhất, về khuôn khổ pháp luật và công tác quản lý nhà nước để đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường, một số yêu cầu đặt ra về hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp luật, bao gồm: ƒ Bổ sung, sửa đổi một số qui định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập WTO. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm tra việc cho vay theo hợp đồng BHNT, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, tránh thất thoát tài sản… Mặc khác, cần nghiên cứu để tiến tới áp dụng quy định về định giá DMĐT nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất lượng đầu tư với khả năng thanh toán của DNBH. Các qui định này giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro, đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng. ƒ Thống nhất quan điểm là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư vốn chủ sở hữu, quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm gắn bó mật thiết với nhau trong hoạt động của DNBH. Vì vậy, DNBH bị chi phối bởi Luật kinh doanh bảo hiểm, chịu sự giám sát của Bộ tài chính (cơ quan quản lý trực tiếp) hay bị chi phối bởi nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nếu như họ kinh doanh chứng khoán, đầu tư bất động sản, cho vay…Cũng cần sớm ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư từ nguồn vốn Trang 77 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN chủ sỡ hữu nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán của DNBH. ƒ Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết cho các DNBH trong hoạt động đầu tư về mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền ngân hàng, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua ngân hàng. Các văn bản đảm bảo tính rõ ràng minh bạch để doanh nghiệp biết mình được làm và phải làm những gì, các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng kiểm tra giám sát và đỡ có sự chồng chéo, hiểu lầm giữa các cơ quan tài chính, chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, thuế vụ. ƒ Cần thay đổi và hoàn thiện những quy định về đầu tư vốn của các DNBH. Hiện nay, Bộ tài chính chưa có hướng dẫn cụ thể về giới hạn an toàn hoạt động đầu tư vào từng loại hình như: tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu không bảo lãnh, đầu tư vào cổ phiếu đã được niêm yết, chưa niêm yết; tỷ lệ ủy thác cho vay các doanh nghiệp trong cùng một ngành; tỷ lệ đầu tư kinh doanh bất động sản… Có thể nói qui định đầu tư hiện nay của Chính phủ cho phép doanh nghiệp BHNT được phép đầu tư tối đa 50% dự phòng kỹ thuật vào cổ phiếu và 40% vào bất động sản. Những quy định này là quá mạo hiểm, không đáp ứng nguyên tắc an toàn và trong giai đoạn này là phi thực tế. Trong giai đoạn trước mắt cần quy định cụ thể: không nên cho phép các DNBH được đầu tư quá 5% tổng giá trị quỹ dự phòng vào một loại chứng khoán được niêm yết và 1% chứng khoán không được niêm yết do một tổ chức phát hành. Đồng thời nên khống chế tỷ lệ đầu tư vốn vào bất động sản: không quá 20% vốn đầu tư và mỗi bất động sản không chiếm quá 1% giá trị vốn đầu tư. Sỡ dĩ phải khống chế ở mức thấp tỷ lệ đầu tư vốn của các DNBH vào hai loại hình này vì hiện nay thị trường cổ phiếu và thị trường bất động sản có nhiều biến động nên mức rủi ro khá cao. Ngoài ra, luật kinh doanh bảo hiểm và các Nghị định hướng dẫn chỉ quy định đến tỷ lệ đầu tư tối đa trên nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, sẽ khó khăn trong tính toán. Nên có qui định cụ thể tỷ lệ từng DMĐT trong tổng nguồn Trang 78 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN vốn đầu tư, vì ngoài vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ các DNBH còn sử dụng các nguồn vốn khác để đầu tư. ƒ Nhanh chóng phối hợp với các cơ quan chức năng như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư… để xây dựng, sớm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định hướng dẫn về hoạt động cho vay của các tổ chức tính dụng phi ngân hàng; đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư bất động sản; nâng dần và đi tới xóa bỏ các hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ góp vốn của các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước. ƒ Về phía Ngân hàng Nhà nước nên áp dụng một chính sách ngoại hối linh hoạt cho các công ty bảo hiểm nước ngoài như: cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài mua lại số ngoại tệ gốc đã bán cho các ngân hàng thương mại để bảo toàn nguồn vốn ngoại tệ ban đầu; không áp dụng lãi suất trần đối với tiền gửi ngân hàng USD; cho phép các công ty bảo hiểm được tham gia mua các loại trái phiếu chính phủ và chứng khoán khác bằng ngoại tệ. ƒ Cho phép những DNBH lớn thành lập Ngân hàng thương mại và các Ngân hàng thương mại thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành tập đoàn tài chính mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới. ƒ Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý, môi giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm. ƒ Để thực hiện các cam kết gia nhập WTO, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các qui định mang tính Trang 79 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng, các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể. Thứ hai, phát triển TTCK, tạo môi trường thu hút đầu tư quỹ bảo hiểm. ƒ Tăng cường số lượng và chất lượng các loại chứng khoán niêm yết trên thị trường. Số lượng các chứng khoán quá ít ỏi trên thị trường cũng khiến các nhà đầu tư trong nước chưa có được nhiều sự lựa chọn để thay thế cho hình thức đầu tư vào tiền gửi truyền thống. TTCK cũng cần có thêm nhiều loại trái phiếu Chính phủ với nhiều kỳ hạn để DNBH dễ dàng lựa chọn. Vì vậy, để gia tăng số lượng chứng khoán niêm yết trên thị trường Chính phủ cần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, tổng công ty, ngân hàng; rút ngắn thời gian cổ phẩn hóa và việc niêm yết trên TTCK. Đẩy mạnh và khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình… ƒ Thành lập và phát triển thị trường giao dịch phi tập trung OTC (Over The Counter). Đối với loại cổ phiếu của các công ty cổ phần chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết sẽ được giao dịch trên thị trường riêng OTC. Đây là thị trường mua bán trực tiếp giữa các nhà đầu tư hoặc thông qua môi giới bên ngoài sàn giao dịch. Chúng ta có thể cho phép tiến hành giao dịch trong những ngày nhất định nhằm đa dạng hóa các loại cổ phiếu trên TTCK. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay hình thức hoạt động này vẫn đang diễn ra nhưng chưa được công nhận. ƒ Ngoài việc qui định các ngân hàng thương mại được cầm cố và thế chấp những giấy tờ có giá thì Ngân hàng trung ương cũng cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể trong việc thực hiện, thanh lý, chuyển nhượng các giấy tờ có giá khác (bao gồm cổ phiếu niêm yết và cổ phiếu chưa niêm yết trên thị trường OTC) để các ngân hàng này không còn e dè và quan tâm nhiều hơn đến loại tài sản đặc biệt này. Điều này sẽ góp phần không nhỏ trong việc tạo thêm sự sôi động của TTCK. Trang 80 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN Thứ ba, thành lập các tổ chức đánh giá tín nhiệm công ty và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. Để đảm bảo hàng hóa trên TTCK Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cần phải có sự tham gia của các tổ chức định mức tín nhiệm để đánh giá và xếp hạng tín nhiệm cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường, từng bước hòa nhập TTCK Việt Nam theo thông lệ quốc tế, trên cơ sở đó giúp cho các DNBH có cơ sở đưa ra quyết định đầu tư vào các chứng khoán trong DMĐT của mình. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm là một định chế trung gian độc lập, là một công cụ tài chính quan trọng trong việc phát triển thị trường tài chính. Hệ số tín nhiệm là đánh giá hiện thời về khả năng và tính sẵn sàng của người đi vay về việc hoàn trả đúng hạn gốc và lãi của một khoản nợ nhất định, nó là kết quả của sự tổng hợp các rủi ro hệ thống và không hệ thống của nhà phát hành trong thời hạn thanh toán món nợ. Như vậy, nếu nhà phát hành có hệ số tín nhiệm càng cao sẽ tạo được sự tin tưởng cao của các nhà đầu tư và thu hút được nhiều nhà đầu tư mua trái phiếu của mình. Hệ số tín nhiệm còn cho phép nhà phát hành xác định mức lãi suất trái phiếu hợp lý, vừa đảm bảo phản ánh mức độ rủi ro vừa đảm bảo khả năng thanh toán của nhà phát hành. Hệ số tín nhiệm càng cao thì tỷ lệ lãi suất càng giảm, có lợi cho nhà phát hành. Định mức tín nhiệm và công ty định mức tín nhiệm là một khái niệm và một mô hình còn mới ở Việt Nam nhưng trong quá trình phát triển TTCK nói riêng rất cần đến vai trò của hệ thống trung gian này. Vì vậy, Chính phủ ngay từ bây giờ nên quan tâm và tạo điều kiện để tổ chức ngày sớm ra đời và hoạt động. Thứ tư, xây dựng và tính toán hệ số beta (β) cho các công ty niêm yết nhằm đo lường rủi ro trong quản lý DMĐT của các DNBH. Tại các quốc gia phát triển việc đo lường rủi ro của danh mục các chứng khoán căn cứ vào hệ số beta của từng chứng khoán trong danh mục đó khi áp dụng các mô hình định giá tài sản vốn CAPM, mô hình kinh doanh chênh lệch giá APT. Vì vậy, để từng bước đưa thị trường tài chính Việt Nam dần hội nhập vào thị trường tài chính thế giới, thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần đưa khái niệm và cách tính Trang 81 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN toán hệ số beta cho các đối tượng khi tham gia vào TTCK để các đối tượng này nhận định được rủi ro của từng chứng khoán khi đưa ra quyết định đầu tư. Đặc biệt, cần qui định trong báo các tài chính cần đưa thêm chỉ tiêu hệ số betaβ như là một trong những chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Mỗi chứng khoán đều có một mức rủi ro nhất định và như thế rủi ro của từng chứng khoán có một tác động nhất định vào rủi ro của một danh mục đã được đa dạng hóa. Điều này có nghĩa là cần thiết phải đo lường rủi ro thị trường của chứng khoán đó bằng cách đo lường độ nhạy cảm của chứng khoán đó đối với các biến động thị trường. Độ nhạy cảm này gọi là betaβ. Ở Việt Nam, để tính toán được hệ số betaβ của từng cổ phiếu niêm yết, cần thiết phải xác định được phương sai của danh mục thị trường. Hiện nay, trên TTCK số cổ phiếu được niêm yết còn ít với hầu hết các công ty này thuộc qui mô vừa và nhỏ, chỉ hoạt động trong một vài lĩnh vực của nền kinh tế, với số chứng khoán ít, qui mô vốn nhỏ và lĩnh vực hoạt động đơn điệu như vậy có thể sẽ không phản ánh được rủi ro chung của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ cần thiết nhanh chóng đưa các doanh nghiệp có qui mô lớn thuộc đa ngành với lĩnh vực hoạt động khác nhau cổ phần hoá và niêm yết trên TTCK để tính toán hệ số beta của từng chứng khoán riêng lẻ mới phản ánh chính xác rủi ro của nó với sự thay đổi của thị trường, giúp cho việc quản lý DMĐT tốt hơn. Thứ năm, xây dựng và phát triển các loại chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là một loại tài sản tài chính có dòng tiền trong tương lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số tài sản khác (gọi là tài sản cơ sở). Từ khi ra đời và hoạt động, thị trường Việt Nam mặc dù đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng một trong những nhược điểm lớn nhất của nó là hàng hóa trao đổi trên thị trường còn chưa đa dạng và tuyệt nhiên chưa có một chứng khoán phái sinh nào được giao dịch thứ cấp trên TTCK cho dù đã có những giao dịch sơ Trang 82 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN cấp đã ký kết. Vì vậy, trong giai đoạn sắp tới, Chính phủ cần tạo điều kiện để sớm hình thành và đưa các loại chứng khoán phái sinh vào giao dịch. Thứ sáu, hoàn thiện qui định pháp lý về trích lập dự phòng nghiệp vụ BHNT Về lãi suất kỹ thuật, theo qui định hiện hành lãi suất kỹ thuật tối đa là 80% lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất trước thời điểm xin phê chuẩn phương pháp và cơ sở trích lập dự phòng cho tất cả các sản phẩm BHNT là không phù hợp như đã phân tích ở phần 2.2. Vì vậy, Bộ tài chính cần xem xét đưa ra nhiều mức giới hạn hơn về lãi suất kỹ thuật tương ứng với từng thời hạn của hợp đồng BHNT. Ví dụ: hợp đồng BHNT có thời hạn từ 5 đến 10 năm, lãi suất kỹ thuật tối đa là 70% lãi suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm; hợp đồng BHNT có thời hạn trên 10 năm đến 15 năm thì lãi suất kỹ thuật tối đa là 85% lãi suất trái phiếu chính phủ có thời hạn 10 năm… Có như vậy mới phân biệt được quyền lợi của chủ hợp đồng khi tham gia các hợp đồng BHNT với nhiều thời hạn khác nhau, khi chủ hợp đồng tham gia với thời hạn càng dài thì càng có lợi. Về bảng tỷ lệ tử vong: cơ quan quản lý cần nghiên cứu và đưa ra bảng tỷ lệ tử vong chuẩn dựa trên cơ sở thống kê của dân số Việt Nam. Trên cơ sở bảng tỷ lệ tử vong này, các công ty BHNT sẽ điều chỉnh theo kinh nghiệm của từng công ty mình. Về dự phòng chia lãi: các công ty bảo hiểm khi tính phí đã chọn mức lãi suất kỹ thuật rất thấp để đảm bảo nguyên tắc thận trọng và nếu lãi suất đầu tư thực tế lớn hơn lãi suất kỹ thuật thì khoản chênh lệch này hình thành nên lợi nhuận của các công ty BHNT được gọi là lãi tài chính. Các công ty bảo hiểm phải chia lại một phần lãi này cho chủ hợp đồng. Hiện nay, ở hầu hết các công ty bảo hiểm nhân thọ, đến ngày kỷ niệm hợp đồng, khách hàng được nhận một thông báo lãi chia tích lũy cho đến thời điểm đó, nhưng chưa được biết con số chính xác được chia và với tỷ lệ bao nhiêu. Vì vậy cơ quan quản lý cần qui định trên thông báo kỷ niệm hợp đồng cần nêu rõ những nội dung: lãi suất kỹ thuật, lãi suất đầu tư thực tế, lãi tài chính Trang 83 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN (chênh lệch giữa lãi suất đầu tư tài chính với lãi suất kỹ thuật), tỷ lệ chia lãi tài chính. Có như vậy thì người được bảo hiểm mới hiểu được quyền lợi của mình như thế nào, đã thoả đáng chưa. Từ đó, có sự so sánh giữa các công ty BHNT và đây cũng chính là một trong những phương thức cạnh tranh mới trong thời điểm thị trường BHNT ở Việt Nam hiện nay 3.2.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm Thứ nhất, chuyên môn hóa hoạt động đầu tư bằng cách thành lập công ty đầu tư chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đầu tư Bảo hiểm có vai trò là một định chế tài chính trung gian, tham gia vào thị trường tài chính với tư cách là một nhà đầu tư lớn và có tổ chức. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua vai trò này của bảo hiểm lại khá mờ nhạt bởi vì việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi từ ngành bảo hiểm trở lại nền kinh tế qua các hình thức cổ phiếu, trái phiếu chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu đầu tư của các công ty bảo hiểm trong khi đó tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gởi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu. Như vậy, vô hình chung, vai trò trung gian tài chính của ngành bảo hiểm được chuyển giao cho ngân hàng. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là trong thời gian qua, các DNBH chưa thực sự chú trọng đến công tác đầu tư và chưa chuyên môn hóa trong hoạt động đầu tư. Trong năm 2004, với sự ra đời của Quyết định 73 về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán và Công ty quản lý quỹ, đây là cơ sở pháp lý cho phép các công ty bảo hiểm có thể chuyên môn hoá hoạt động đầu tư của mình bằng cách lập quy đầu tư và công ty quản lý quỹ. Do đó, các DNBH có đủ điều kiện về vốn, qui mô dự phòng lớn thì nên thành lập các Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ để chuyên môn hóa hơn nữa hoạt động đầu tư và tham gia vào TTCK một cách tích cực hơn. Sự hình thành các quỹ đầu tư độc lập của các DNBH một mặt sẽ góp phần tạo nên các trung tâm thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư nhỏ thuộc các thành phần kinh tế của các Trang 84 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN tầng lớp dân cư thành nguồn vốn lớn, ổn định để tham gia các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế. Hơn nữa, công cụ đầu tư chủ yếu của quỹ đầu tư là chứng khoán, vì vậy các quỹ đầu tư của DNBH còn có vai trò thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Thứ hai, các DNBH có quy mô vừa và nhỏ nên chọn dịch vụ ủy thác đầu tư để quản lý nguồn vốn Đối với các công ty bảo hiểm có quy mô nhỏ chưa để điều kiện để thành lập Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ thì có thể sử dụng dịch vụ ủy thác đầu tư vốn. Hiện nay, trên thị trường đã xuất hiện hàng loạt các công ty đầu tư chứng khoán ngoài việc thực hiện chức năng đầu tư vốn cho chính mình vào TTCK, các công ty này còn cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới và đầu tư tín thác. Đặc trưng của đầu tư ủy thác là người đầu tư một cách gián tiếp thông qua một công ty hoặc một quỹ đầu tư chuyên nghiệp được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư. Sau khi người đầu tư giao vốn cho người đầu tư ủy thác, họ mất quyền ra các quyết định đầu tư. Còn người đầu tư ủy thác sẽ toàn quyền ra các quyết định đầu tư để mang lại lợi nhuận. Lợi nhuận thu được của người đầu tư là thu nhập sau khi trừ đi phí ủy thác và các khoản chi phí khác. Thứ ba, xây dựng DMĐT tối ưu cho các DNBH Mục tiêu của đầu tư là sinh lợi. Việc sinh lợi là kỳ vọng gắn liền với đầu tư. Mặt khác, lợi nhuận cũng đi liền với rủi ro trong đầu tư. Trên thị trường mỗi khi nhà đầu tư muốn tăng thêm lợi suất kỳ vọng phải trả giá bằng khả năng mức độ rủi ro tăng theo. Các tài sản tài chính nhất là các cổ phiếu thường hàm chứa nhiều loại rủi ro, nhà đầu tư không thể xét đoán một cách đơn giản để lựa chọn chúng. Đối với DNBH việc sử dụng các quỹ dự phòng kỹ thuật trước hết phải tuân thủ theo nguyên tắc an toàn vốn, đồng thời phải sinh lời và đáp ứng khả năng thanh toán thường xuyên. Các nguyên tắc này đặt ra một bài toán về sự lựa chọn danh mục tài sản đầu tư với yêu cầu tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro thấp nhất. Phải cân nhắc tính toán Trang 85 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN kỹ khi sử dụng nguồn vốn đem đầu tư các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào loại tài sản nào? Với tỷ trọng vốn vào từng loại tài sản bao nhiêu? Trên thị trường tài chính không thể có loại tài sản nào có một mức rủi ro rất nhỏ mà lợi suất lại cực đại. Mọi sự lựa chọn đều có một cái giá về sự chấp nhận rủi ro. Vì vậy, từng doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược đầu tư thích hợp và gắn với chiến lược kinh doanh. Xét về lâu dài, lĩnh vực đầu tư chủ yếu của các DNBH sẽ là cổ phiếu và trái phiếu. Trong thị trường tài chính ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, lạm phát có xu hướng tăng như hiện nay thì đầu tư vào trái phiếu Chính phủ còn có nhiều hạn chế. Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, khung pháp lý chưa hoàn thiện, hàng hóa chưa đa dạng để đảm bảo thị trường sôi động. Trong điều kiện đó, lĩnh vực đầu tư bất động sản có nhiều tiềm năng phát triển. Thị trường tín dụng ngân hàng luôn sôi động, với vai trò là kênh chính thức duy nhất cung cấp vốn cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện kinh tế liên tục phát triển, nhiều dự án hiệu quả nhưng lại thiếu vốn nên tín dụng ngân hàng có nhiều sự lựa chọn đầu tư. Do đó, bên cạnh việc xác định xu hướng đầu tư lâu dài vào trái phiếu và cổ phiếu thì đầu tư vào bất động sản và cho vay có thể là những lĩnh vực có nhiều cơ hội trước mắt phù hợp với nguồn vốn đầu tư của các DNBH. Tuy nhiên, việc đầu tư vào hai lĩnh vực này cần nhiều kinh nghiệm, kỹ năng về định giá bất động sản, thủ tục hồ sơ trong xây dựng, quy hoạch cũng như khả năng thẩm định, đánh giá hiệu quả phương án… Đây vẫn là những điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của DNBH nói riêng. Thứ tư, phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng Nền kinh tế càng phát triển thì sự chuyên môn hóa càng thể hiện rõ rệt trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Công ty có thể tận dụng hiệu quả sự hợp tác với ngân hàng trong một số lĩnh vực liên quan mà ngân hàng có trình độ chuyên môn hơn để có ảnh hưởng tốt đến công tác tạo lập và đầu tư vốn như: ƒ Sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng Trang 86 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN Trên cơ sở có sự thỏa thuận thống nhất giữa Công ty Bảo hiểm và ngân hàng về thời gian, địa điểm thu phí, các mẫu biểu thanh quyết toán… ngân hàng có thể giúp công ty đi thu tiền định kỳ tại các điểm và nộp trực tiếp vào ngân hàng. Nếu làm tốt việc này, tuy đơn vị phải chi thêm một khoản lệ phí nhất định, nhưng quản lý được thời gian phát sinh trách nhiệm bảo hiểm kịp thời, tránh việc trục lợi do công tác thanh quyết toán chậm trễ, giảm được chi phí và thời gian của các khai thác viên khi đi quyết toán và thu tiền về, do từng khai thác viên chỉ đi thu phí của những đại lý do mình quản lý mà không có sự phối hợp thu tiền của các đại lý khác. Về phía công ty có thể sử dụng được kịp thời khoản tiền này phục vụ công tác đầu tư. ƒ Sự gia tăng các tiện ích của các loại thẻ thanh toán, thẻ ATM so với các tiện ích hiện nay của chúng đối với người chủ thẻ, trong đó chú ý đến các sản phẩm kết hợp giữa bảo hiểm và ngân hàng. ƒ Các DNBH sử dụng số tiền huy động được để gửi tiết kiệm ngân hàng, mua trái phiếu, tính phiếu chính phủ… Đây là hoạt động đầu tư phổ biến của các DNBH hiện nay. ƒ Trong các kênh phân phối bảo hiểm, kênh phân phối bảo hiểm qua ngân hàng là kênh có khả năng phát triển mạnh thông qua mạng lưới rộng lớn của hệ thống ngân hàng. Vì thế, cần tận dụng hơn nữa kênh phân phối này. Thứ năm, các DNBH cần nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý tiền mặt tối ưu Quản lý ngân quỹ của một Công ty bảo hiểm trước hết là sự quản lý các luồng tiền hiện tại và tương lai: luồng nhập quỹ phí bảo hiểm hoặc thanh toán tổn thất; luồng đầu tư hoặc thu hồi đầu tư. Theo quy định của cơ quan quản lý đã yêu cầu các DNBH phải dự trữ tiền mặt ở trạng thái tĩnh với tỷ lệ khá cao (không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm đối với DNBH phi nhân thọ và 5% tổng dự phòng kỹ thuật đối với doanh nghiệp BHNT). Điều này đã làm giảm hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp, cho nên các DNBH cần nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ Trang 87 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN nhàn rỗi của mình bằng cách triệt để đưa những nguồn tài chính hiện có vào đầu tư nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của các DNBH. Các DNBH cần căn cứ vào đặc thù của doanh nghiệp mình để chọn ra phương pháp dự trữ tiền mặt tối ưu. Theo nghiên cứu chúng ta có thể đi đến quan điểm sử dụng nguồn vốn ngân quỹ công ty bảo hiểm một cách tối ưu như sau: Đối với nguồn thu phí bảo hiểm, các DNBH cần xác định một lượng tiền mặt nhất định cho giao dịch được gửi vào ngân hàng để hưởng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Giải pháp tốt nhất là các DNBH phải thực hiện lập kế hoạch ngân quỹ cho từng tháng thông qua việc thống kê lượng tiền mặt trung bình có tính đến sự tăng trưởng. Lượng tiền còn lại DNBH có thể đầu tư vào các tài sản tài chính như mua các loại tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu … để mang lại lợi ích cao hơn từ việc quản lý ngân quỹ. DNBH có thể sử dụng toàn bộ quỹ dự phòng kỹ thuật để đầu tư vào các lĩnh vực lựa chọn. Công thức xác định nguồn vốn đầu tư trong năm của DNBH là: V = P + P’ với V là nguồn vốn đầu tư trong năm, P là dự phòng kỹ thuật được lập ở cuối niên độ trước, P’ là một phần phí bảo hiểm thu trong năm. Sử dụng kịp thời các khoản phí thu trong năm là hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp BHNT. Bởi vì, trong kỹ thuật BHNT, DNBH sẽ bắt đầu phải tính lãi suất trên khoản phí tiết kiệm kể từ thời điểm người được bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm. Nếu để cuối năm lập dự phòng rồi DNBH mới tiến hành đầu tư thì đã làm “chết” nguồn vốn nhàn rỗi từ thời điểm thu phí đến cuối năm tài chính. Điều này có thể làm cho giá trị tài sản không lớn kịp giá trị cam kết bảo hiểm, và có thể dẫn đến nguy cơ phá vỡ sự cân bằnng tài chính trong dài hạn cho các doanh nghiệp BHNT Lưu ý: Cách tính trên chỉ đề cập đến hoạt động của quỹ chủ hợp đồng chứ chưa xem xét đến hoạt động đầu tư của quỹ chủ sở hữu. Trang 88 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN Thứ sáu, mở rộng hình thức cho vay đối với chủ hợp đồng BHNT Trong kỹ thuật BHNT, hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nộp phí sẽ có dự phòng toán học, tức là các khoản tiết kiệm tích lũy. Về bản chất khoản tiền này là thuộc quyền sở hữu của chủ hợp đồng. Nếu DNBH cho chủ hợp đồng vay thì khoản tiền dự phòng này được xem như là tài sản thế chấp. Như vậy, đây sẽ là khoản cho vay ít rủi ro nhất của DNBH. Hình thức cho vay này sẽ rất hiệu quả, vừa đảm bảo cho DNBH thu được lãi suất cao hơn lãi suất kỹ thuật, vừa giúp được các chủ hợp đồng vay vốn trong thời điểm khó khăn, điều nay sẽ tăng khả năng duy trì hợp đồng của BHNT. Thứ bảy, nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh của bản thân doanh nghiệp Trong quá trình hội nhập quốc tế, ngoài khả năng và tiềm lực tài chính là yếu tố quan trọng trong việc phát triển quy mô hoạt động và hiệu quả đầu tư, nâng cao năng lực kinh doanh và phát triển yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải tiếp tục trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ứng dụng được thương mại điện tử. Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức. Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường bảo hiểm được dễ dàng và thuận tiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, phải sắp xếp lại bộ máy tổ chức hoạt động kinh doanh thật gọn nhẹ, tính chuyên nghiệp cao, có sự liên kết và mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Đồng thời phát triển mạnh việc bán bảo hiểm qua khâu trung gian như: môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, ngân hàng thương mại... Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ bảo hiểm và đại lý bảo hiểm trong đó có trang bị kiến thức bảo hiểm cho các cán bộ bảo hiểm đã tốt nghiệp cử nhân, kỹ Trang 89 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN sư từ các chuyên ngành khác. Nâng cao trình độ quản lý rủi ro, giám định tổn thất, tính phí bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp. Thứ tám, phát triển các loại hình sản phẩm mới của BHNT để thu hút vốn đầu tư dài hạn Tạo sự gắn kết giữa hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là trong khâu thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả đầu tư nói riêng. Theo hướng đi này, trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu phát triển thêm các loại sản phẩm bảo hiểm mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân Việt Nam, đặc biệt là hình thức bảo hiểm kết hợp với đầu tư (investment-linked units). Đây là sản phẩm bảo hiểm thế hệ mới, đã được triển khai rộng rãi và rất thành công ở nhiều nước trên thế giới, kể cả một số thị trường mới nổi như Trung Quốc. Đặc trưng nổi bật của loại sản phẩm này là người tham gia bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp BHNT đầu tư số phí bảo hiểm của họ vào các quỹ đầu tư khác nhau (chủ yếu là các quỹ chứng khoán) thông qua công ty quản lý quỹ đầu tư theo tỷ lệ họ tự chọn. Nhờ kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu về hoạt động đầu tư, công ty quản lý quỹ có thể tư vấn cho người tham gia bảo hiểm lựa chọn phương án đầu tư phù hợp với nhu cầu tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của họ nhằm đạt hiệu quả đầu tư tối ưu. Ngược lại, người tham gian bảo hiểm sẽ tự mình gánh chịu các rủi ro liên quan tới việc đầu tư số phí bảo hiểm của họ. Có thể nói, sản phẩm bảo hiểm kết hợp với đầu tư là một kênh huy động vốn trực tiếp của DNBH vào thị trường vốn. 3.2.3 Các giải pháp hỗ trợ khác Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội ổn định, tạo nền tảng vững chắc cho việc phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường BHNT nói riêng Thị trường tài chính nói chung, thị trường BHNT nói riêng có phát triển bền vững ổn định hay không phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển ổn định vững chắc của nền kinh tế xã hội, vì vậy chính phủ bằng các công cụ tài chính của mình như: thuế, ngân sách… tác động, hỗ trợ tạo động lực để tất cả các thành phần kinh tế tham gia Trang 90 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Khi kinh tế phát triển, thu nhập người dân được nâng lên, có tích lũy, họ sẽ tiến hành đầu tư sinh lợi, nhu cầu đảm bảo an toàn về đời sống và tài chính gia tăng, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính, TTBH. Và khi hai thị trường này phát triển thì sẽ hỗ trợ rất lớn đến sự phát triển kinh tế đất nước. Thứ hai, trang bị cao hơn kiến thức bảo hiểm cho người dân Sự cần thiết của người khách hàng Việt Nam là được trang bị cao hơn kiến thức bảo hiểm nói chung và kiến thức đầu tư cơ bản để họ có thể đưa ra các quyết định thấu đáo về hoạt động đầu tư của mình vì trong tương lai loại sản phẩm liên kết bảo hiểm và đầu tư sẽ chiếm phần lớn trong thị phần của bảo hiểm. Ngoài những hiểu biết về các sản phẩm truyền thống, người tham gia vào các loại hình sản phẩm mang tính đầu tư phải được cung cấp hoặc phải có kiến thức thích hợp về những khái niệm và nguyên tắc trong đầu tư như sau: ƒ Sự lựa chọn giữa các cân thu nhập và rủi ro trong đầu tư; ƒ Sự đa dạng hóa rủi ro đầu tư thông qua việc hình thành danh mục đầu tư đa kết cấu; và ƒ Nhu cầu về vốn để đầu tư dài hạn và bỏ qua sự không ổn định của kết quả đầu tư ngắn hạn. Kết luận chương 3: Như vậy, trong tình hình hiện nay, về phía quản lý Nhà nước cần có những đòn bẩy hỗ trợ là các cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý… cho hoạt động đầu tư tài chính của các DNBH. Còn liên quan đến môi trường đầu tư, các DNBH nên hy vọng về một tương lai tiến triển theo chiều thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ vì biến chuyển của môi trường đầu tư không phải trong ngày một ngày hai. Tuy nhiên, việc thu hẹp, xóa bỏ khoảng cách giữa kỳ vọng sinh lời của người mua bảo hiểm và khả năng đầu tư thực tế của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ lại phụ thuộc vào chính các doanh nghiệp bảo hiểm. Trang 91 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN KẾT LUẬN Ở Việt Nam, việc tạo lập và nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn vốn trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị vì lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính cũng đã phần nào khắc phục khó khăn và nâng cao năng lực tài chính của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đồng thời góp phần thúc đẩy TTBH Việt Nam phát triển. Để công tác đầu tư trong các công ty bảo hiểm nhân thọ mang lại hiệu quả, an toàn và đáp ứng được yêu cầu thanh toán, xứng đáng là “chỗ dựa” vững chắc cho hoạt động kinh doanh của các công ty bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư vốn cần phải được hành lang pháp lý bảo vệ. Khi có được các Thông tư hướng dẫn cụ thể, chắc chắn các công ty bảo hiểm sẽ mạnh dạn hơn trong quyết định đầu tư của mình. Từ đó, danh mục đầu tư của bảo hiểm sẽ không còn đơn điệu trong một số lĩnh vực như tiền gửi, mua trái phiếu chính phủ nữa mà chắc chắn sẽ đa dạng hơn, hiệu quả hơn. Khi các chính sách khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp được tháo gỡ, đối với nền kinh tế các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ sẽ đầu tư trực tiếp nhiều hơn, tham gia vào các dự án trung và dài hạn để có được nguồn lợi nhuận cao, ổn định; tình hình tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ càng vững mạnh hứa hẹn một xu hướng phát triển tốt đẹp cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong tương lai nói chung. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam không chỉ cần có sự hỗ trợ rất lớn từ phía Chính phủ mà còn cần có sự nổ lực từ chính bản thân của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Hy vọng qua các phần trình bày trên có thể đóng góp một số ý kiến vào việc phát triển công tác đầu tư tài chính ở các công ty bảo hiểm Nhân Thọ tại Việt Nam. Rất mong nhận được sự đóng góp và chân thành cảm ơn các ý kiến quý báu của Qúy Thầy Cô, các chuyên gia tài chính, bảo hiểm, cũng như bạn bè đồng nghiệp, cùng những người quan tâm đến lĩnh vực này. Trang 92 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dr. David Bland, Học Viện Bảo hiểm Hoàng Gia Anh (1998), Bảo Hiểm Nguyên tắc và Thực hành, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 2. TS. Nguyễn Ngọc Định, (1999), Lý thuyết bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính, TPHCM. 3. TS. Nguyễn Văn Định, (2004), Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 4. Th.S. Nguyễn Tiến Hùng, (2005), Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội. 5. TS. Phan Thị Bích Nguyệt, (2006), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản Thống kê. 6. PGS-TS. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản Thống kê. 7. Bản tin theo quý của Hiệp hội Bảo Hiểm Việt Nam, Hà Nội. 8. Báo cáo tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ qua các năm. 9. Bộ Tài Chính, (2006), TTBH Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 10. Bộ Tài Chính (1999), Luật bảo hiểm ở một số nước, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội. 11. Bộ Tài Chính, Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm. 12. Bộ Tài Chính, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001, quy định chế độ tài chính đối vói các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. 13. Bộ Tài Chính, Thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định số 42/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001. Trang 93 Hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN TẤN HOÀNG Thực hiện: PHẠM THỊ NHƯ YẾN 14. Bộ Tài Chính, Thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001 hướng dẫn thi hành Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001. 15. Bộ Tài Chính, Thông tư số 98/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế thông tư số 71/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001. 16. Bộ Tài Chính, Thông tư số 99/2004/TT-BTC ngày 19/10/2004 thay thế thông tư số 72/2001/TT-BTC ngày 28/08/2001. 17. Hiệp hội bảo hiểm, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà nội tháng 8 năm 2005 18. Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/8/2003 của Chính phủ, Về phê duyệt “ Chiến lược phát triển TTBH Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2010”, Hà Nội. 19. Tạp chí lập pháp, Văn phòng Quốc hội. 20. Một số tài liệu trên Interner ở các trang: và một số trang khác. 21. Và các tài liệu khác. -------------------------------oOo-------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45786[1].pdf
Luận văn liên quan