Lời mở đầu
Đói nghèo đang là một thách thức đối với sự phát triển của toàn thế giới kể cả với các nước công nghiệp phát triển, tấn công vào nghèo đói, thực hiện xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu phát triển của xã hội. Vì vậy đây là vấn đề các chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi toàn cầu. Bước vào thế kỉ 21, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của nhân loại. XĐGN được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu phát triển của thế giới hiện đại. Chính vì vậy, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhaghen (Đan Mạch) tháng 3 năm 1995 đã xác định: “XĐGN là một trong ba vấn đề trọng tâm được các nước cam kết thực hiện, coi đây là đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của cả nhân loại”. Và tại cuộc họp đặc biệt của Đại hội đồng liên hợp quốc và phát triển xã hội 6/2000 ở Giơnevơ (Thụy Sỹ), cộng đồng quốc tế tích cực cam kết thực hiện XĐGN, phấn đấu đến năm 2005 giảm ½ số người nghèo trên thế giới.
Đối với Việt Nam, vấn đề XĐGN ngày càng trở nên quan trọng và là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng toàn dân ta trong thời kỳ mới. Chính phủ Việt Nam luôn coi vấn đề XĐGN là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngay từ khi Việt Nam giành độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đói nghèo là một thứ “giặc” cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để đưa nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi ngưòi có công ăn việc làm, có đời sống ấm no, hạnh phúc.
XĐGN không chỉ là một trong những chính sách cơ bản được nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm mà XĐGN còn là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao và bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát nghèo. Do đó, XĐGN được coi là một bộ phận cấu thành nên chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010) và kế hoạch 5 năm của cả nước, các ngành và địa phương.
Đối với Hà Nội, sau khi mở rộng địa giới hành chính, kinh tế chính trị xã hội đã có sự thay đổi lớn. Và để kinh tế xã hội ổn định phát triển đi lên và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân thủ đô là một thách thức khá lớn vì hiện nay tỉ lệ người dân mù chữ và tỉ lệ đói nghèo còn khá cao. Giảm bớt những tỉ lệ này là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của thủ đô trong giai đoạn 2009-2010.
Do vậy tôi chọn để tài “Giải pháp tài chính cho XĐGN ở Hà Nội giai đoạn 2009-2010”. Tuy nhiên các giải pháp tài chính cho XĐGN là rộng, phức tạp bao gồm tài chính vi mô, tài chính vĩ mô với các hình thức thực hiện khác nhau, nên trong khuôn khổ của một chuyên đề thực tập tôi chỉ xin nghiên cứu một số công cụ tài chính chủ yếu như đầu tư, thuế, tín dụng, bảo hiểm nhằm hai hướng. Một là giảm bớt gánh nặng tài chính cho người nghèo, hai là hỗ trợ để tăng cơ hội và khả năng của người nghèo. Mặc dầu đã có nhiều cố gắng nhưng do vấn đề đặt ra khó khăn và phức tạp, cùng với trình độ và năng lực có hạn nên bài viết của tôi không tránh khỏi sai sót, kính mong sự đóng góp của các thầy, cô.
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 3
CHƯƠNG I 5
Cơ sở lý luận chung về đói nghèo 5
và xoá đói giảm nghèo 5
1/ Tổng quan về đói 5
1.1/ Khái niệm 5
1.1.1/ Đói nghèo 5
1.1.2/ Chuẩn nghèo 7
1.2/ Tiêu chí đánh giá đói nghèo trên thế giới và Việt Nam 10
1.2.1/ Tiêu chí đánh giá trên thế giới 10
1.2.2/ Tiêu chí đánh giá của Việt Nam 12
1.3/ Nguyên nhân của đói nghèo 13
1.3.1/ Khách quan 13
1.3.2/ Chủ quan 14
2/ Nội dung giải pháp tài chính cho xoá đói giảm nghèo 15
2.1/ Khái niệm 15
2.2/ Các công cụ tài chính 15
2.2.1/ Đầu tư 15
2.2.2/ Tín dụng 17
2.2.3/ Thuế 20
2.2.4/ Bảo hiểm 22
3/ Sự cần thiết tăng cường các giải pháp tài chính ở địa bàn Hà Nội 24
3.1/ Những tác động của nghèo đói đối với sự phát triển kinh tế 24
3.1.1/ Về mặt kinh tế 24
3.1.2/ Về mặt xã hội 25
3.2/ Hiệu quả của việc xoá đói giảm nghèo 26
3.2.1/ XĐGN tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội 26
3.2.2/ XĐGN góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội và là cơ sở để bảo vệ môi trường sinh thái 27
3.2.3/ XĐGN góp phần thực hiện công bằng xã hội 27
3.3/ Sự cần thiết và tác dụng của các công cụ tài chính đối với công tác xoá đói giảm nghèo 28
CHƯƠNG II 30
Đánh giá thực trạng về xoá đói giảm nghèo ở Hà Nội 30
1/ Đặc điểm của Hà Nội 30
1.1/ Điều kiện tự nhiên 30
1.1.1/ Vị trí địa lý 30
1.1.2/ Khí hậu, địa hình 30
1.2/ Kinh tế xã hội 32
1.2.1/ Dân số 32
1.2.2/ Cơ sở hạ tầng 34
1.2.3/ Giáo dục, y tế 35
2/ Thực trạng của đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở Hà Nội 41
2.1/ Thực trạng đói nghèo ở Hà Nội trước và sau mở rộng địa giới 41
2.1.1/ Trước khi mở rộng địa giới hành chính 41
2.1.2/ Sau khi mở rộng địa giới hành chính 41
2.2/ Thực trạng đói nghèo của Hà Nội (mở rộng) so với các vùng, tỉnh và thành phố khác 42
2.2.1/ Quy mô nghèo đói (tỷ lệ nghèo) 42
2.2.2/ Khoảng cách giàu nghèo 43
2.2/ Nguyên nhân 43
3/ Thực trạng của việc sử dụng các công cụ tài chính để xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua ở Hà Nội 44
3.1/ Hỗ trợ đầu tư 44
3.1.1/ Xây dựng cơ sở hạ tầng 44
3.1.2/ Hướng dẫn người dân làm ăn 46
3.2/ Hỗ trợ tín dụng 46
3.3/ Hỗ trợ về thuế 47
3.4/ Hỗ trợ về công cụ bảo hiểm 49
3.5/ Hỗ trợ tài chính khác 50
CHƯƠNG III 54
Tăng cường hoàn thiện các giải pháp tài chính 54
để xoá đói giảm nghèo 54
1/ Bối cảnh của Thủ đô trong giai đoạn tới 54
1.1/ Các chỉ số kinh tế xã hội của Hà Nội trong quý I năm 2009 (theo tài liệu của UBND thành phố) 54
1.2/ Cơ hội và thách thức trong công tác XĐGN ở Hà Nội trong giai đoạn tới 56
1.2.1/ Thách thức 56
1.2.2/ Cơ hội 57
Bên cạnh những thách thức, khó khăn đó thì thủ đô vẫn có những cơ hội mới khi mở rộng địa giới hành chính. Nếu thành phố biết tận dụng các cơ hội đó thì thành phố sẽ nhanh chóng thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo của mình. 57
2/ Mục tiêu phương hướng xoá đói giảm nghèo đến năm 2010 ở Hà Nội 60
2.1/ Mục tiêu tổng quát 60
2.2/ Mục tiêu cụ thể 60
3/ Tăng cường giải pháp tài chính cho xoá đói giảm nghèo 61
3.1/ Hỗ trợ đầu tư 61
3.2/ Hỗ trợ tín dụng 63
3.3/ Hỗ trợ về thuế 65
3.4/ Công cụ bảo hiểm 65
3.5/ Hỗ trợ tài chính khác 66
3.5.1/ Hỗ trợ tư liệu sản xuất cho người nghèo 66
3.5.2/ Hỗ trợ về y tế, giáo dục 67
4/ Kết luận và kiến nghị 69
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp tài chính cho xóa đói giảm nghèo ở Hà Nội giai đoạn 2009 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách các huyện có nhiều hộ nghèo nhất là Mỹ Đức (chiếm 22,65%), kế đó là Ba Vì (19,64%), Sóc Sơn (17,7%), ứng Hòa (16,6%), Chương Mỹ (16,3%)... Toàn thành phố có 43 xã, phường có tỷ lệ hộ nghèo vượt 25%. Trong đó, xã An Phú (Mỹ Đức) và 5 thôn thuộc các huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai còn nằm trong danh sách đơn vị khó khăn thuộc chương trình 135.
Theo thống kê của UBND TP, các quận nội thành Thanh Xuân, Cầu Giấy có số lượng hộ nghèo thấp nhất (236 hộ), kế đó là quận Tây Hồ (260), Long Biên (772). Trong khi đó, các quận trung tâm như Hoàn Kiếm lại có tới 1.375 hộ nghèo, Ba Đình có 1.011 hộ, Hai Bà Trưng 1.022 hộ, Đống Đa 1.110 hộ...
Theo số liệu thống kê tại thời điểm tháng 1/2009, trên toàn địa bàn Hà Nội có 3.500 hộ nghèo có nhà hỏng nặng, cần sửa chữa hoặc xây dựng lại nhưng người dân không có khả năng trong khi trước mở rộng Hà Nội đã xoá bỏ được hoàn toàn những căn nhà tranh tre dột nát.
Với gần 235.000 người, Hà Nội hiện là địa phương có số người mù chữ nhiều nhất nước. Tuy nhiên, riêng Hà Tây cũ đã chiếm tới hơn 220.000 người.
2.2/ Thực trạng đói nghèo của Hà Nội (mở rộng) so với các vùng, tỉnh và thành phố khác
2.2.1/ Quy mô nghèo đói (tỷ lệ nghèo)
Bảng: Tỉ lệ hộ nghèo chung theo vùng và tỉnh/thành phố
2004
2006
2008
Cả nước
18.1
15.5
14.7
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
12.9
10.1
9.6
Đông Bắc Bộ
23.2
22.2
21.1
Tây Bắc Bộ
46.1
39.4
37.5
Bắc Trung Bộ
29.4
26.6
25.5
Duyên hải Nam Trung Bộ
21.3
17.2
16.3
Tây Nguyên
29.2
24
22.9
Đông Nam Bộ
6.1
4.6
4.3
Đồng bằng sông Cưu Long
15.3
13
12.4
Tỉnh
Hà Nội
8.9
8.6
Hải Phòng
7.8
7.4
Đà Nẵng
4
3.8
Thành phố Hồ Chí Minh
0.5
0.5
Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2008
Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính thì tỉ lệ hộ nghèo cũng tăng khá cao, tuy là thủ đô nhưng tỉ lệ hộ nghèo của Hà Nội còn cao hơn cả Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Nên nhiệm vụ XĐGN trong thời kỳ tới của Hà Nội sẽ gặp rất nhiều khó khăn và thách thức.
Còn nếu xem xét tỉ lệ đói nghèo giữa thành thì và nông thôn thì thực tế ở nước ta, tỷ lệ đói-nghèo thành thị đã giảm nhanh hơn khu vực nông thôn, nhưng lại không ổn định, năm 1998 là 9,2%, năm 2002 là 6,6% nhưng năm 2004 lại tăng lên 10,8%. Trong khi đó ở khu vực nông thôn tỷ lệ đói nghèo giảm chậm hơn nhưng tương đối ổn định từ 45,5% năm 1998 xuống 35,6% năm 2002 và còn 27,5% vào năm 2004. Khu vực đồng bào dân tộc tốc độ giảm nghèo chậm và còn rất cao, từ 75,2% xuống 69,3%, cho thấy công tác XĐGN ở các vùng đồng bào dân tộc khó khăn hơn nhiều so với vùng dân cư người kinh.
2.2.2/ Khoảng cách giàu nghèo
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết thì khoảng cách giữa mức thu nhập của các nhóm lao động đang ngày càng có sự chênh lệch rõ nét, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Tại Hà Nội, chênh lệch giữa người có tiền lương cao nhất so với mức trung bình là 42 lần (75,2 triệu đồng/tháng so với mức bình quân 1,8 triệu đồng/tháng). Đó là do nguyên nhân nền kinh tế hiện này là nền kinh tế thị trường tự do, ai có năng lực làm việc thì có thể thu được mức lương cao. Nên người nghèo không có điều kiện học tập, không có cơ hội tìm cho mình một công việc tốt và chỉ có thể làm lao động phổ thông với mức lương trung bình từ 1,2 đến 1,4 triệu đồng một tháng. Do vậy mà người giàu càng giàu người nghèo vẫn nghèo.
2.2/ Nguyên nhân
Tuy Hà Nội đã áp dụng khá tốt các chính sách của chính phủ cho nhiệm vụ XĐGN nhưng do một số cá nhân thân làm lãnh đạo nhưng đã vì đồng tiền làm mờ mắt, đã tham nhũng “ăn chặn” tiền của nhà nước đầu tư cho chương trình XĐGN. Lãnh đạo một số địa phương, nhất là miền núi còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nguồn hỗ trợ của Nhà nước, chưa huy động và khai thác được nội lực để thực hiện chương trình XĐGN tại địa phương.
Chưa nắm được tình hình của các hộ nghèo, cũng như nguyên nhân nghèo và tâm tư nguyện vọng mong muốn của hộ nghèo để có biện pháp hỗ trợ hiệu quả nhất. Một số chính sách hỗ trợ xã nghèo, hộ nghèo chưa có tác dụng khuyến khích hộ nghèo xã nghèo phấn đấu vượt nghèo, tư tưởng không muốn ra khởi danh sách xã nghèo, hộ nghèo còn nặng trong một số bộ phận nhân dân và cán bộ cơ sở.
Công tác điều tra, quản lý đối tượng hộ nghèo, xã nghèo, xây dựng chương trình kế hoạch còn nhiều bất cập, chưa được đầu tư nguồn lực để thực hiện trong từng cấp, chưa thu hút được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp.
Tỉ lệ tái nghèo gia tăng do XĐNG chưa bền vững: do thời gian vừa qua, thời tiết xấu, lũ lụt hạn hán, thiên tai xẩy ra khá nhiều và vì một số hộ đã thoát nghèo nhưng vẫn phải sống trong những vùng không thuận lợi về điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu. Tốc độ giảm nghèo không đồng đều trong từng huyện và giữa các huyện các vùng có điều kiện giống nhau.
3/ Thực trạng của việc sử dụng các công cụ tài chính để xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua ở Hà Nội
3.1/ Hỗ trợ đầu tư
3.1.1/ Xây dựng cơ sở hạ tầng
Tại tất cả các quận huyện trên địa bàn thành phố đã tham gia phong trào xây dựng nhà Đại đoàn kết để cải thiện đời sống của người nghèo, giúp các gia đình dễ dàng thoát nghèo. Theo Đề án hỗ trợ hộ nghèo khó khăn về nhà ở giai đoạn 2009 - 2013, ngân sách Thành phố Hà Nội sẽ chi 15 triệu đồng/hộ để xóa nhà cũ nát, Quỹ Vì người nghèo hỗ trợ thêm 5 triệu đồng/hộ và gia đình dòng họ 5 triệu đồng/hộ. Ngoài ra, Thành phố đã vận động các ngành, các cấp ủng hộ Quỹ Vì người nghèo được tổng cộng 7,5 tỉ đồng để ủng hộ các hộ nghèo xây, sửa nhà cửa.
Trong 5 năm gần đây 3276 căn nhà ở cho hộ nghèo, bể nước gia đình cho 2.707 hộ; xây dựng 56 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội xây dựng và giao cho người nghèo thông qua cuộc vận động ngày Vì người nghèo. Như Quận Hai Bà Trưng - một trong những địa phương đi đầu trong phong trào xoá nhà tạm đã hỗ trợ và giúp đỡ rất nhiều các hộ gia đình nghèo ổn định chỗ ở. Trong 5 năm từ năm 2001 – 2006, 200 căn nhà đại đoàn kết đã được triển khai xây dựng và hoàn thành trên địa bàn toàn quận Hai Bà Trưng. Những căn nhà Đại đoàn kết mọc lên thay thế hoàn toàn cho những ngôi nhà lụp xụp trong những ngõ ngách chật hẹp của quận Hai Bà Trưng. Quận đã trở thành một điển hình trong phong trào xoá nhà tạm của thành phố. Vào năm 2006, Huyện Gia Lâm đã vận động quyên góp và thu được số tiền khá lớn, gần 1 tỷ đồng và tập trung vào xây mới 44 ngôi nhà đại đoàn kết với giá trị mỗi nhà 14 triệu 500 ngàn. (Số liệu được tổng hợp từ sở lao động thương binh và xã hội Hà Nội).
Hà Nội vào đầu năm 2009 đã có 11 dự án nhà ở xã hội được đăng ký với qui mô 24,44ha đất kỳ vọng cung cấp cho khoảng 8224 hộ dân. (Số liệu được lấy từ website của bộ xây dựng).
Xây dựng các nhà văn hoá thông tin cho các đồng bào miền núi để đồng bào có khả năng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin lành mạnh, tránh bị bọn xấu lợi dụng lôi kéo.
Xây dựng các lớp học mới cho người nghèo ở miền núi, xoá bỏ dần các lớp học tạm, tổ chức các phong trào sách giáo khoa cũ tặng các học sinh vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, tạo điều kiện cho các em được cắp sách đến trường như bao bạn nhỏ cùng trang lứa.
3.1.2/ Hướng dẫn người dân làm ăn
Hà Nội thực thi quyết định số 734-TTg ra ngày 6-9-1997 về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách, để họ có kiến thức tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật, không bị thiệt thòi. Đến quý I năm 2009 đã đào tạo nghề hướng dẫn cách làm ăn, phổ biến kiến thức, kỹ năng xây dựng kế hoạch sản xuất, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh... cho 57500 lượt người nghèo (đạt 49.1 % kế hoạch). Tổ chức dạy nghề ngắn hạn cho 1.200 người nghèo và người khuyết tật.
3.2/ Hỗ trợ tín dụng
Thành phố Hà Nội ngoài việc thực hiện các quyết định mà chính phủ đưa ra để hỗ trợ tín dụng cho người nghèo như nghị định số 78/2002/NĐ-CP ra ngày 4/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác thì người nghèo khi vay vốn không phải thế chấp tài sản mà còn được miễn phí khi làm thủ tục hành chính vay vốn. Đặc biệt là được hưởng lãi suất cho vay ưu đãi do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng thời kì theo đề nghị của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội, thống nhất một mức trong phạm vi cả nước. Nếu nợ quá hạn thì lãi suất được tính bằng 130% lãi suất cho vay, trong khi các đối tượng khác là 150%.
Thành phố Hà Nội còn thực hiện một số chính sách riêng như việc chuyển đổi từ phương thức "cấp không, cho không" sang "vay, trả" là một kết quả đáng ghi nhận của chương trình ủy thác và nhận ủy thác nguồn vốn cho vay từ “Quỹ vì người nghèo”. MTTQ TP Hà Nội là đơn vị đầu tiên của cả nước triển khai hình thức trích “Quỹ vì người nghèo” ủy thác sang Ngân hàng chính sách xã hội để cho vay hỗ trợ. Sau 1 năm MTTQ TP triển khai cho hộ nghèo vay vốn trên địa bàn thành phố từ nguồn vốn “Quỹ vì người nghèo” đã phát huy hiệu quả một cách rõ rệt. UBMTTQ TP Hà Nội khẳng định việc chuyển đổi phương thức hỗ trợ hộ nghèo từ “cấp không, cho không” sang phương thức “vay, trả” chính là phương thức làm mới để đạt được hiệu quả cao nhất. Được sự ủy thác của MTTQ TP và các quận, huyện, Ngân hàng Chính sách Hà Nội đã giải ngân được 4,44 tỷ đồng, đạt 90,6% tổng nguồn vốn ủy thác (nguồn vốn được ủy thác là 4,9 tỷ đồng). Nguồn vốn được giải ngân trên 67 địa bàn hành chính xã với 829 hộ dân được vay để thoát nghèo. Trong đó, nguồn vốn tập trung chủ yếu ở hai huyện Đông Anh và Sóc Sơn, chiếm 47% tổng nguồn vốn ủy thác. Từ nguồn vốn này, đã có rất nhiều hộ vươn lên thoát nghèo. Trong năm 2009, MTTQ TP Hà Nội sẽ tiếp tục bổ sung nguồn vốn ủy thác cho vay từ “Quỹ vì người nghèo” để đáp ứng nhu cầu của người nghèo trên địa bàn. Bắt đầu từ năm 2009 và các năm tiếp theo, UBTMTQ sẽ dành phần lớn nguồn vốn để hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng thông qua việc ủy thác cho Ngân hàng Chính sách Xã hội để cho vay. Đặc biệt, sẽ tập trung ưu tiên cho các hộ nghèo thuộc diện chính sách. Mức cho vay bình quân đối với 1 hộ nghèo dự kiến cũng có thể sẽ được tăng lên, từ 7- 10 triệu đồng, trên cơ sở đáp ứng nhu cầu vốn thực tế của hộ vay, đảm bảo giảm nghèo bền vững, tránh tái nghèo. (Số liệu được lấy từ website của uỷ ban mặt trận tổ quốc thành phố Hà Nội)
3.3/ Hỗ trợ về thuế
Hà Nội cũng như các tỉnh và địa phương khác trong cả nước đều thực hiện tốt và đầy đủ các chính sách của chính phủ về hỗ trợ thuế cho người nghèo như thực hiện nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về việc Giảm tiền sử dụng đất, theo điều 13 giảm 50% tiền sử dụng đất đối với đất trong hạn mức đất ở được giao của hộ gia đình nghèo. Việc xác định hộ gia đình nghèo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định.
Nghị định của Chính Phủ số 164/2003/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2003 quy định chi tiết thi hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều 41. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hợp tác xã có mức thu nhập bình quân tháng trong năm của mỗi lao động dưới mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước.
Điều 42. Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hộ cá thể sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập bình quân tháng trong năm của mỗi lao động dưới mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với công chức Nhà nước.
Thông tư số 120/2003/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, thì đối tượng không chịu thuế GTGT là hành hoá dịch vụ sau:
a- Sản phẩm trồng trọt (bao gồm cả sản phẩm rừng trồng), chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc mới sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất, trực tiếp đánh bắt bán ra.
Các sản phẩm mới qua sơ chế thông thường quy định tại điểm này là các sản phẩm mới được phơi, sấy khô, ướp đông, làm sạch, bóc vỏ, mà chưa được chế biến ở mức độ cao hơn hoặc chế biến thành các sản phẩm hàng hóa khác.
Ví dụ: phơi, sấy khô, bóc vỏ, tách hạt các sản phẩm nông nghiệp; ướp đá, ướp muối, phơi khô cá, tôm và các sản phẩm thuỷ sản, hải sản nuôi trồng, đánh bắt khác.
b- Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, như: trứng giống, con giống, cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền ở các khâu nuôi trồng, nhập khẩu và kinh doanh thương mại. Sản phẩm giống vật nuôi, cây trồng thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT là sản phẩm do các cơ sở nhập khẩu, kinh doanh thương mại có giấy đăng ký kinh doanh giống vật nuôi, cây trồng do cơ quan quản lý nhà nước cấp. Đối với sản phẩm là giống vật nuôi, cây trồng thuộc loại nhà nước ban hành tiêu chuẩn, chất lượng phải đáp ứng các điều kiện do nhà nước quy định.
c- Sản phẩm muối bao gồm: muối sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-ốt.
Mà sản phẩm này chủ yếu là của người nông dân, người nghèo, nên chính sách này được đề ra nhà nước chủ yếu muốn trợ giúp cho người nghèo bớt một khoản chi phí để hàng hoá của họ có sức cạnh tranh hơn trên thị trường.
Thực tế theo Cục thuế Hà Nội thì kết quả đạt được là năm 2008 đã giảm và giãm thuế được 5.000 tỷ đồng và dựa kiến năm 2009 giảm được 7.500 tỷ đồng thông qua tác động của việc thực hiện các cơ chế giảm, giãn, gia hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp. Số doanh nghiệp được miễn thuế chiếm khoảng 10% số doanh nghiệp trên toàn thành phố, và số doanh nghiệp được giãn thuế theo ngành nghề quy định chiếm tỷ trọng khá cao trên 80%.
3.4/ Hỗ trợ về công cụ bảo hiểm
Bảo hiểm có rất nhiều loại nhưng bảo hiểm cho người nghèo thì chủ yếu là bảo hiểm y tế và bảo hiểm nông nghiệp.Về bảo hiểm y tế, để giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho hộ nghèo, Hà Nội cũng đặt yêu cầu cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho 480.000 người nghèo, chữa bệnh miễn phí cho các em nhỏ dưới 6 tuổi, tư vấn y tế cho hàng nghìn lượt người nghèo.
Bảo hiểm nông nghiệp cũng cần phải được thực hiện vì sản phẩm sản xuất được của người nghèo chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp mà các sản phẩm này lại có mức rủi ro rất cao. Chỉ cần một lần gặp rủi ro thì người nông dân có khi mất trắng. Song bảo hiểm nông nghiệp lại chưa được sử dụng rộng rãi và mới chỉ được thực hiện thí điểm ở các tỉnh miền Nam. Chính phủ Việt Nam vừa kết hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) triển khai dự án phát triển bảo hiểm nông nghiệp nhằm đưa ra phương pháp tiếp cận mới là bảo hiểm theo chỉ số. Đó là việc lấy chỉ số khách quan của từng đối tượng bảo hiểm (ví dụ đối với cây trồng chỉ số bảo hiểm là thời tiết) làm căn cứ xét bồi thường. Bảo hiểm chỉ số mới được áp dụng thí điểm tại ĐBSCL, cụ thể là Đồng Tháp, 3 năm qua. Chỉ số bảo hiểm ở đây dựa trên mực nước lũ sớm, chẳng hạn như nếu vượt quá 270cm ở đập Tân Châu, bà con ở huyện Hồng Ngự và Tam Nông lúa bị ngập do không kịp thu hoạch thì cứ việc đến công ty bảo hiểm đòi tiền.
3.5/ Hỗ trợ tài chính khác
Thực hiện Quyết định số 81/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thành phố Hà Nội đã trích từ ngân sách thành phố hỗ trợ mỗi hộ nghèo 200.000 đồng/hộ với tổng số tiền hơn 11 tỷ đồng để ăn tết. MTTQ thành phố đã trích từ Quỹ Vì người nghèo hỗ trợ cho 29 quận huyện để trợ giúp người nghèo, các gia đình chính sách trong dịp Tết Kỷ Sửu, cụ thể: Hỗ trợ 18 huyện mỗi đơn vị 100 triệu đồng; quận Hoàng Mai, thành phố Sơn Tây, thành phố Hà Đông mỗi đơn vị 70 triệu đồng; 8 quận còn lại mỗi đơn vị 50 triệu đồng. Ngoài ra còn rất nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, ngân hàng trực tiếp hỗ trợ các hộ nghèo trên địa bàn các quận, huyện của thành phố góp phần giúp người nghèo đón Tết.
Thực hiện sự chỉ đạo của MTTQ Thành phố, MTTQ Quận Thanh Xuân đã xây dựng Kế hoạch tổ chức các hoạt động Tết Nguyên đán và triển khai tới từng khu dân cư. Thường trực MTTQ quận phối hợp với UBND quận tặng quà cho 22 gia đình có công với cách mạng, 620 đối tượng cứu trợ xã hội, 220 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ liệt sĩ tiêu biểu, các cựu TNXP có hoàn cảnh khó khăn... Tổng số đối tượng được tặng quà là 1174 người. Ngoài ra MTTQ quận còn phối hợp với ngân hàng Đầu tư và phát triển chi nhánh quận Thanh Xuân tặng 100 suất quà cho người nghèo, mỗi suất là 300.000 nghìn đồng.
MTTQ quận Ba Đình chỉ đạo MTTQ các phường phối hợp với UBND phường tổ chức thăm hỏi tặng quà cho 3822 gia đình đối tượng chính sách xã hội; các hội, đoàn thể tặng quà cho 938 đối tượng chính sách. MTTQ quận trích từ “quỹ Vì người nghèo” 60 triệu đồng tặng quà và trợ cấp cho 300 hộ nghèo trên địa bàn quận, thăm hỏi, tặng quà hội viên Hội người mù, Hội người khuyết tật, các trung tâm nuôi dưỡng: người già, cô đơn, người tàn tật và trẻ mồ côi...Kết luận
Các công cụ tài chính đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội sử dụng nhưng tác dụng của nó đối với công tác XĐGN còn nhiều tồn tại và hạn chế còn cần tiếp tục giải quyết và đưa ra các giải pháp thích đáng.
Bảo hiểm nông nghiệp đã xuất hiện ở nước ta nhưng chưa được khai thác triệt để vì những vùng triển khai bảo hiểm nông nghiệp là những vùng cần làm nhiều thiên tai lũ lụt thì không làm được. Đơn giản vì doanh nghiệp không đủ sức triển khai và người dân cũng không có điều kiện tham gia. Đối với các công ty bảo hiểm, họ là doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, không thể bắt doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ không có lãi nếu không có sự bù lỗ. Nhà nước phải có chính sách bù lỗ hay hỗ trợ rõ ràng thì doanh nghiệp mới dám làm. Vì vậy muốn bảo hiểm được một sản phẩm thì nhà bảo hiểm phải quản lý được rủi ro. Đối với vật nuôi, cây trồng, ngoài việc tác động của thời tiết thì phụ thuộc rất nhiều ở người chăn nuôi, trồng trọt. Cụ thể, nuôi trâu bò phải có quy mô và theo các quy trình khoa học, được tiêm phòng. Trong khi đó, nông dân Việt Nam chăn nuôi không theo một quy trình nào cả, thả rông trên núi, không có chuồng trại, không có chế độ cho ăn uống theo định lượng… theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ... thì doanh nghiệp không thể quản lý được. Như vậy, với cách chăn nuôi và trồng trọt manh mún hiện nay thì doanh nghiệp rõ ràng là không mặn mà với bảo hiểm nông nghiệp. Ngược lại, đã có một số sản phẩm bảo hiểm thì người dân cũng không đủ điều kiện để tham gia. Đấy là chưa nói đến do tính rủi ro cao, quản lý khó nên phí bảo hiểm nông nghiệp thường rất cao mà với mức sống hiện nay của nông dân Việt Nam khó mà kham nổi. Ví dụ, con trâu trị giá 10 triệu đồng nhưng phí bảo hiểm hàng năm phải đóng là 2 triệu đồng thì người nông dân có thể gánh chịu được không.
Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo (bảo hiểm y tế) với thời hạn 1 năm là quá ngắn, nên tăng thời hạn sử dụng thẻ lên 2 năm; cần có cơ chế khuyến khích đối với hộ mới thoát nghèo trong vòng 2 năm được tiếp tục hưởng chế độ khám chữa bệnh như người nghèo. Bất cập của bảo hiểm y tế cấp cho người nghèo ở chỗ bảo hiểm chỉ có giá trị trong địa phương cấp thẻ, nên nếu người nghèo bị bệnh nặng phải chuyển lên tuyến trên thì thẻ bảo hiểm đó lại không còn giá trị. Do đó gây rất nhiều khó khăn cho người nghèo khi bị bệnh nặng, họ không có khả năng chi trả viện phí.
Về đầu tư thì một số công trình đầu tư cho các hộ nghèo chất lượng còn kém, và thời gian thi công quá dài, chậm đưa công trình vào sử dụng phục vụ bà con, do giải ngân chậm, vốn nhà nước rót xuống từ từ, lại do thời gian gần đây tình trạng kinh tế đang trong giai đoạn khung hoảng, lạm phát giai tăng nhiều nhà đầu tư phá sản nên một số công trình còn dở dang. Nhà nước phải thống kê lại để thay đổi chủ đầu tư tiếp tục triển khai công trình phục vụ người dân chứ nếu để không sẽ tiếp tục tổn thất.
Chính sách cơ chế miễn giảm học phí cho học sinh nghèo đã không còn phù hợp, thiếu minh bạch về nguồn lực và đối tượng thụ hưởng; cần nghiên cứu sửa đổi theo hướng chi trả tiền trực tiếp từ ngân sách Nhà nước cho học sinh nghèo để họ tự đóng học phí cho nhà trường, trước mắt có thể áp dụng đối với sinh viên nghèo ở hệ giáo dục chuyên nghiệp.
Cho vay vốn tín dụng ưu đãi hộ nghèo và hoạt động khuyến lâm ngư chưa gắn kết chặt chẽ, còn một bộ phận người nghèo có nhu cầu vay vốn nhưng chưa biết cách sử dụng vốn nên chưa được vay; mức vay hiện quá thấp (4-5 triệu/hộ), chưa đáp ứng được nhu cầu vốn vay của người nghèo. Số tiền ủy thác cho vay từ “Quỹ vì người nghèo” còn hạn chế nên số hộ nghèo được vay vốn từ nguồn quỹ này còn ít. Đồng thời, mức cho vay bình quân 1 hộ còn thấp. Nguồn vốn cho vay hạn chế nên gây khó khăn cho UBMTTQ cấp xã trong việc bình xét các hộ vay từ nguồn quỹ này. Bên cạnh đó, việc phân bổ vốn về với xã còn dàn đều, trải mỏng, chưa tập trung cho địa bàn trọng điểm có nhiều hộ nghèo cần hỗ trợ đã làm giảm hiệu quả của đồng vốn cũng như tăng khối lượng công việc của ngân hàng trong công tác quản lý vốn vay.
Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở khó có khả năng thực hiện đạt chỉ tiêu trong 5 năm hỗ trợ 500 ngàn căn nhà cho người nghèo do khung hoảng kinh tế. Chương trình đã được thực hiện gần 2 năm, song so với mục tiêu và các chỉ tiêu đề ra thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách trung ương bố trí còn rất hạn hẹp, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chương trình.
Việc thực hiện chương trình trợ cấp tiền tết cho người nghèo còn có nhiều sai sót, nhiều địa phương, phường, xã còn cấp tiền tết cho cả người giầu, nhiều nơi còn đánh đồng chia đề cho tất cả người dân trong xã mình cùng một mức trong khi số tiền này theo quy định của nhà nước chỉ để cấp cho người nghèo.
CHƯƠNG III
Tăng cường hoàn thiện các giải pháp tài chính
để xoá đói giảm nghèo
1/ Bối cảnh của Thủ đô trong giai đoạn tới
1.1/ Các chỉ số kinh tế xã hội của Hà Nội trong quý I năm 2009 (theo tài liệu của UBND thành phố)
Năm 2009 được xác định là năm nước rút để thực hiện thắng lợi kế hoạch KTXH 5 năm 2006 - 2010, quý I năm 2009 KTXH Hà Nội tiếp tục phát triển và tăng trưởng so cùng kỳ năm trước.
Tổng sản phẩm trên địa bàn quý I năm 2009 tăng 3,1% so cùng kỳ năm trước. Ngành công nghiệp xây dựng đạt mức tăng khá nhất với giá trị tăng thêm tăng 5,5% (đóng góp 2,47% vào mức tăng chung), các ngành dịch vụ có giá trị tăng thêm tăng 4% (đóng góp 1,88% vào mức tăng chung), ngành nông - lâm - thuỷ sản có giá trị tăng thêm giảm 18,4% (làm giảm 1,25% vào mức tăng chung), giá trị sản xuất công nghiệp tăng 5,7%.
Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn Nhà nước do Địa phương quản lý đạt 5.581,0 tỷ đồng, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm 2008; bằng 19,8% so với kế hoạch năm 2009. Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn quý I năm 2009 dự kiến đạt 22.419 tỷ đồng, tăng 10,34% so cùng kỳ năm trước, trong đó vốn trong nước đạt 20.476 tỷ đồng tăng 12,98%, vốn ngoài nước đạt 1.943 tỷ đồng, giảm 11,48%. Trong tổng số vốn trong nước, vốn đầu tư của Nhà nước tăng 17,48%, doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư giảm 24,62%, các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước đầu tư tăng 20,76%, dân tự đầu tư tăng 8,79%, vốn khác giảm 72,41%.
Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 8,4% so cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu địa phương giảm 4,4%. Kim ngạch nhập khẩu quý I năm 2009 trên địa bàn giảm 48,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu địa phương giảm 36,2%.
Lượng khách Quốc tế đến Hà Nội trong quý I khoảng 289 ngàn khách, giảm 18,1% so cùng kỳ, khách nội địa khoảng 2.173 ngàn khách, tăng 9,7%. Doanh thu khách sạn, lữ hành tăng 20%.
Dự kiến quý I năm 2009 so cùng kỳ năm trước, chỉ số giá tiêu dùng tăng 15,18%, chỉ số giá vàng tăng 5,82%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 10,48%. Chỉ số giá tháng Ba năm 2009 so tháng Mười hai năm 2008 tăng 1,22% (tốc độ tăng giá bình quân 1 tháng là 0,4%).
Tổng diện tích gieo trồng cây vụ Đông đạt 24.791 ha, bằng 39,14% (giảm 38.549 ha) so với vụ đông năm trước. Cùng với gieo cấy lúa xuân toàn Thành phố đã gieo trồng được 24.844 ha rau, màu các loại, trong đó: Ngô 7.327 ha, rau đậu các loại 8.032 ha, lạc 5104 ha, đỗ tương 1.788 ha...
Quý I, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 7.000 người trên 21.000 lao động đăng ký (kế hoạch 2009 là giải quyết việc làm cho 126.000 người).
Tổng thu Ngân sách Nhà nước trên địa bàn là 19.199 tỷ đồng, đạt 27,2% dự toán năm; Trong đó: Thu nội địa là 17.266 tỷ đồng, đạt 30,2% dự toán năm (thu từ khu vực DNNN Trung ương đạt 41,6%, thu từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 17,5%, thu từ khu vực ngoài quốc doanh đạt 35,4% ); thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT hàng nhập khẩu là 1.650 tỷ đồng, đạt 23,1% dự toán năm; thu từ dầu thô là 283 tỷ đồng, đạt 4,5% dự toán năm.
Chi ngân sách địa phương ước thực hiện 3.500 tỷ đồng, đạt 14,3% dự toán HĐND Thành phố thông qua. Trong đó: Chi đầu tư XDCB trong nước ước thực hiện 800 tỷ đồng, đạt 7,1% dự toán năm, chi thường xuyên ước thực hiện 2.590 tỷ đồng, tăng 23% dự toán năm.
1.2/ Cơ hội và thách thức trong công tác XĐGN ở Hà Nội trong giai đoạn tới
Như đã trình bầy ở trên sau khi mở rộng địa giới hành chính, tình trạng đói nghèo ở Hà Nội trở thành vấn đề bức xúc hơn. Tỉ lệ nghèo đói đã tăng lên là 8,43%, trong khi trước mở rộng chỉ có hơn 3%, nhiều người dân vẫn phải sống trong những ngôi nhà xuống cấp nghiêm trọng, trẻ em đến tuổi đi học không được đến trường. Chính vì vậy việc XĐGN là mục tiêu cấp bách hàng đầu của thủ đô Hà Nội trong thời gian tới. Và mục tiêu XĐGN đó đã đặt ra cho Hà Nội những thách thức và cơ hội mới.
1.2.1/ Thách thức
Hà Nội mở rộng phải đối diện với khá nhiều bài toán không đơn giản, mà việc giải quyết chúng không phải chỉ bằng quyết định hành chính và trong ngày một, ngày hai.
Về tổ chức lãnh đạo bị xáo chộn, dễ dẫn đến tình trạng cát cứ địa phương, bè phái, mất dân chủ và cơ hội chủ nghĩa. Bộ máy hành chính nhà nước trên địa bàn Hà Nội mở rộng cũng phải cấu trúc lại trên cơ sở sáp nhập. Vì vậy việc lãnh đạo lúc đầu còn nhiều lúng túng, không kiểm soát được hết tình hình đói nghèo ở từng huyện từng xã, nên nhiều chỉ thị đưa ra còn chưa hợp lý, gây bức xúc trong dân.
Về công tác Quy hoạch và đầu tư, xem xét lại toàn bộ các quy hoạch tổng thể và chuyên ngành (đặc biệt là Quy hoạch Thủ đô Hà Nội), từ đó cụ thể hóa vào từng quy hoạch, kế hoạch, chỉ tiêu, định hướng dài hạn và trung hạn, và cả các giải pháp phát triển hàng năm của các địa phương và đơn vị. Cơ cấu kinh tế Hà Nội mở rộng sẽ thay đổi khá lớn, vì sẽ cộng các cơ cấu địa phương vào. Như vậy, tính chất tiên tiến của cơ cấu trước đó sẽ bị giảm bớt đi, tỷ trọng nông nghiệp tăng lên, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ giảm xuống, mức độ đô thị hóa kém hơn, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Thành thử, Hà Nội mở rộng sẽ đứng trước nhu cầu to lớn hơn về đầu tư cải thiện căn bản và cấp bách những cơ sở hạ tầng KT-XH. Bên cạnh đó thì do diện tích mở rộng ra nên đầu tư dễ bị dàn trải không tập trung, gây nên tình trạng lãng phí tiền của. Một số khu công nghiệp quy hoạch vẫn chưa hợp lý, gây mất nhiều đất nông nghiệp ảnh hưởng nhiều đến đời sống kinh tế của người nông dân nếu không có chương trình hướng nghiệp cụ thể và tạo công ăn việc làm cho người nông dân ở chính những khu công nghiệp mới được xây dựng đó.
Hà Nội mở rộng có nguồn lao động nhiều hơn nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, tạo nên một sức ép lớn cho xã hội về vấn đề thất nghiệp và việc làm. Nếu không có những chủ trương chính sách đúng đắn về dạy nghề và tạo công ăn việc làm cho họ thì đây có thể sẽ trở thành nguy cơ cao tạo nên những tệ nạn xã hội khó giải quyết như trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm,… gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của một thủ đô 1000 năm văn hiến.
Hà Nội mở rộng thêm một số huyện miền núi thuộc tỉnh Hoà Bình cũ, do đường giao thông vận tải còn khó khăn, thông tin chuyền thông đến với bà con vùng dân tộc còn ít, nên việc tuyên truyền những chính sách mới của thành phố còn chậm đến với người dân, không nắm được các chủ chương chính sách mới của nhà nước là muốn tạo điều kiện nhân dân sản xuất kinh doanh, dẫn đến chậm tiến độ thực hiện chính sách theo kế hoạch đề ra của Uỷ ban nhân dân thành phố.
1.2.2/ Cơ hội
Bên cạnh những thách thức, khó khăn đó thì thủ đô vẫn có những cơ hội mới khi mở rộng địa giới hành chính. Nếu thành phố biết tận dụng các cơ hội đó thì thành phố sẽ nhanh chóng thực hiện được mục tiêu xoá đói giảm nghèo của mình.
Thứ nhất, Hà Nội mở rộng có tiềm năng đất đai tốt hơn. Với diện tích trên 3300 km2 (tức lớn hơn 5 lần diện tích 645km2 của toàn bộ đất nước Singapore có dân số hơn 4 triệu người và GDP hơn 92 tỷ USD năm 2007), các doanh nghiệp sẽ dễ dàng và chi phí ít hơn trong tìm kiếm các mặt bằng đất đai và cơ hội đầu tư trên địa bàn Hà Nội mở rộng, điều đó cũng có nghĩa là dòng đầu tư phát triển từ các doanh nghiệp sẽ gia tăng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo cơ hội việc làm cho nguồn lao động dồi dào hiện nay, giảm sức ép về thất nghiệp đối với xã hội, tạo xung lực mới tích cực cho phát triển kinh tế. Quy hoạch các khu công nghiệp, khu dân cư và đô thị chức năng cũng sẽ hợp lý và có điều kiện phát triển đồng bộ, hiệu quả hơn. Tránh được tình trạng cứ lấy đất nông nghiệp của bà con nông dân làm đất xây dựng các khu công nghiệp, làm cho bà con mất đất làm ăn gây nên tình trạng đói nghèo.
Thứ hai, Hà Nội mở rộng có cơ hội cải thiện cơ cấu kinh tế theo hướng đa dạng, hiện đại và hiệu quả hơn. Hàng chục khu công nghiệp lớn nhỏ với nhiều doanh nghiệp vốn FDI, hàng trăm làng nghề truyền thống với lịch sử “đất bách nghệ” nổi tiếng và các địa phương khác đang hoạt động có hiệu quả sẽ trực tiếp góp phần làm khởi sắc và đa dạng thêm các sản phẩm công nghiệp chủ lực và xuất khẩu của Hà Nội mở rộng. Nông nghiệp Thủ đô tuy sẽ gia tăng về tỷ trọng trong cơ cấu GDP, nhưng sẽ có thêm cơ hội được chuyên môn hóa và hiện đại hóa cao hơn. Các dịch vụ trực tiếp hỗ trợ kinh doanh và phục vụ đời sống người dân sẽ phát triển ngày càng đa dạng, cả bề rộng, lẫn bề sâu. Người nông dân có nhiều cách thức làm ăn hơn để XĐGN. Người dân lao động phổ thông có nhiều cơ hội tìm việc làm hơn, tránh được các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra.
Thứ ba, Hà Nội mở rộng có thị trường mở rộng hơn: có tính bổ sung, liên kết, hoàn chỉnh và hấp dẫn hơn, tạo cơ hội cho người nông dân bán được nhiều sản phẩm hơn. Với diện tích hơn 3300km2, dân số hơn 6,2 triệu (dự kiến 2008), chiếm trên 10% tổng GDP, tổng thu NSNN, tổng đầu tư và tổng giá trị công nghiệp của cả nước, nơi tập trung các nguồn nhân tài vật lực có giá trị và “sức thanh khoản” cao, có vị trí quan trọng về giao thông, có lịch sử phát triển lâu đời và có Pháp lệnh Thủ đô (sẽ được nâng cấp thành Luật Thủ đô với sự phân cấp nhiều hơn cho địa phương)..., thì chắc chắn Hà Nội mở rộng không chỉ có sức sống tự thân mãnh liệt bên trong của một thị trường có dung lượng lớn, mà còn có sức hút và lan tỏa mạnh mẽ với các địa phương và thị trường khác trong vùng, trong cả nước và với quốc tế. Sự bổ sung giữa các địa phương của Hà Nội mở rộng còn cho phép làm tăng tính liên kết, hoàn chỉnh và hấp dẫn hơn của thị trường Hà Nội trong con mắt của nhà đầu tư, cả trong nước lẫn quốc tế, cả trong công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, lẫn trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, hệ thống giao thông hiện đại như Metro, xe buýt nhanh, khối lượng lớn sẽ hoạt động có hiệu quả hơn và là cơ hội đầu tư hấp dẫn hơn khi xét trên thị trường Hà Nội mở rộng; Hoặc “Hà Tây cũ” sẽ là cơ sở sản xuất, còn “Hà Nội cũ” với khả năng xúc tiến thương mại tốt hơn, thì bày hàng và tiêu thụ hàng, chứ không phải sau hợp nhất là đổ dồn về Hà Nội. Sự hợp lực của một bên có vốn, với một bên có tay nghề, mặt bằng và lao động sẽ là một sự giải tỏa tốt cho nhiều bức xúc của cả hai bên. Ngoài ra, mở rộng Hà Nội cũng sẽ giúp xả bớt đi sức ép thị trường rất nguy hiểm trong tương lai, như: giá cả tăng và cung ứng hàng hóa, nhu yếu phẩm khó khăn do đất chật, người đông; quá tải về hạ tầng, đường sá, sức ép từ các tỉnh xung quanh “ấn” vào Hà Nội, nhất là các khu công nghiệp đặt không đúng chỗ. Khi mở rộng, Hà Nội sẽ có điều kiện tốt hơn để bố trí lại các khu công nghiệp và các khu chức năng khác của Thủ đô cho phù hợp với yêu cầu thị trường, môi trường, cảnh quan và phát triển... Hơn nữa, khi đó Hà Nội cũng sẽ có điều kiện thu hút thêm nguồn đầu tư, góp phần khai thác, mở rộng tiềm năng sẵn có của những địa phương và thị trường liên quan...
2/ Mục tiêu phương hướng xoá đói giảm nghèo đến năm 2010 ở Hà Nội
Theo quan điểm chỉ đạo của nhà nước là phải coi XĐGN là một nhiệm vụ trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể phải xác định XĐGN là một nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu cần được ưu tiên giải quyết trong chương trình hành động của mình, cùng với tiềm lực của mình, Hà Nội đã đưa ra mục tiêu phương hướng XĐGN đến năm 2010.
2.1/ Mục tiêu tổng quát
Đưa Hà Nội ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói giảm nghèo.
Chiến lược xoá đói giảm nghèo đến năm 2010 phải phấn đấu tương đối toàn diện bảo đảm các nhu cầu cơ bản về lương thực, nhà ở, y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hoá thông tin đi lại, giao tiếp. Đồng thời đảm bảo tính bền vững chống tài nghèo, tập trung mọi nguồn lực làm chuyển biến rõ rệt tình trạng nghèo đói ở các vùng trọng điểm, xã đặc biệt khó khăn và cải thiện đời sống dân cư.
Giảm hộ nghèo, không để tái đói, đại bộ phận người nghèo được tiếp cận các dịch vụ xã hộ cơ bản, các mục tiêu trợ giúp xã đặc biệt khó khăn, mở rộng cơ hội cho người nghèo thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội và phúc lợi xã hội.
2.2/ Mục tiêu cụ thể
Đến năm 2010 giảm 3/5 tỉ lệ nghèo so với năm 2009 theo chuẩn của chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, cụ thể:
- Năm 2010 tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn dưới 6%.
- Tăng thu nhập bình quân của nhóm nghèo nhất (so với năm 2009) là 140% vào năm 2010.
+ Tỷ lệ xã nghèo được cung cấp kết cấu hạ tầng là 90% vào năm 2010.
+ Tỷ lệ xã nghèo được cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản 90% vào năm 2010.
Đến năm 2010 mở rộng điện lưới quốc gia đảm bảo 100% số xã có điện. Đảm bảo có để ô tô về tới trung tâm xã. Phấn đấu 90% đường xã có kết cấu mặt đường phù hợp, trong đó 50% mặt đường được rải nhựa hoặc xi măng.
Đến năm 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh với số lượng 150lít/người/ngày.75% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Chú trọng đến các công trình nước sạch cho các gia đình nghèo , đặc biệt là những người ở xa trung tâm xã, xa trục đường chính được tiếp cận nước sạch, vệ sinh môi trường cho các nhà trẻ, trường học, mẫu giáo, trạm xá ở nông thôn.
Các mục tiêu này đặt ra không chỉ đơn thuần là giảm số hộ nghèo mà còn bao gồm cả sự cải thiện các điều kiện tiếp cận các dịch vụ xá hội cơ bản, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo cộng đồng nghèo và xã hội nghèo.
3/ Tăng cường giải pháp tài chính cho xoá đói giảm nghèo
3.1/ Hỗ trợ đầu tư
Hà Nội nên đầu tư xây dựng và phát triển mạng lưới các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế như: Điện nước, giao thông, thông tin liên lạc và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội như: Trường học, công trình y tế, chăm sóc sức khoẻ, nhà văn hoá thể thao… Trước mắt cần tập trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu như: Công trình nước sạch , y tế, giáo dục và giao thông đường bộ đến các trung tâm xã nghèo.
Đặc biệt là thành phố cần tập trung sửa chữa và xây dựng hệ thống thuỷ lợi, trọng tâm của chương trình xoá đói giảm nghèo. Một hệ thống thuỷ lợi hoàn chỉnh, hợp lý sẽ có khả năng tạo cơ hội cho cộng đồng người nghèo quản lý, khai thác tài nguyên đất đai, nước và lao động. Hình thành hệ thống thuỷ lợi để giải quyết tốt vấn đề tưới nước cho thâm canh nông nghiệp bền vững. Xây dựng mô hình quản lý, khai thác thuỷ lợi có hiệu quả, giảm bớt lãng phí, đầu tư và nâng cao ý thức sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên nước cho người nghèo. Không những thế có hệ thống thuỷ lợi tốt bà con dân tộc sẽ không du canh du cư phá rừng làm nương rẫy nữa.
Là thủ đô, trài tim của một đất nước Hà Nội không thể để hệ thống giao thông lạc hậu nhất là ở các xã vùng sâu vùng xa, do vậy phát triển hệ thống giao thông, phục vụ xoá đói giảm nghèo, và trước mắt là tập trung đầu tư làm các tuyến đường liên xã, liên thôn, liên xóm tạo sự đi lại dễ dàng cho người nghèo, thông qua các chương trình 135 của chính phủ là rất quan trọng. Hà Nội cần đầu tư xây dựng những công trình lớn như : giao thông, đường ô tô đến trung tâm xã, hệ thống cấp nước sạch cho đồng bào dân tộc, trạm điện, trường học cấp I,II ,trạm xá, chợ xã, và liên xã nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện phát triển sản suất, nâng cao dân trí.
Các công trình giao thông cơ cấu (đường, cầu cống) cần được xây dựng kiên cố và bán kiên cố, đồng bộ, thích hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Huy động các nguồn vốn phát triển mạng lưới giao thông, vốn đầu tư được huy động theo cơ chế hoạt động gồm nhiều nguồn khác nhau như Vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế, vốn ODA,… Nhưng vốn ngân sách phải chiếm tỉ trọng lớn.
- Nâng cao kỹ năng làm việc và dậy nghề cho người nghèo. Ngày trước chúng ta có khẩu hiệu: “ Hãy đưa cho người nghèo cần câu đừng đưa cho họ con cá”. Nhưng ngày nay nếu chỉ đưa cần cho họ mà không dậy họ cách câu thì cũng bằng không. Do vậy trong chính sách đất đai có liên quan đến ruộng lúa trước, rừng núi, trình độ canh tác và hiệu quả sản xuất. Nếu chỉ giao khoán mà buông lỏng quản lý trong việc sở hữu và sử dụng đất thì chắc chắn chính sách đất đai sẽ không phục vụ đúng yêu cầu ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. Do trình độ sản xuất của đồng bào dân tộc còn ở mức thấp kém, cho nên khi giao quyền sử dụng đất cho đồng bào phải gắn liền với công tác, khuyến nông dân, nhất là những hộ nghèo về kĩ năng nuôi trồng trong nông nghiệp qua chương trình APEM (cử kĩ sư nông nghiệp ở các huyện xuống các xã hướng dẫn bà con cách gieo trồng lúa, phát hiện sâu bênh, cách chăm sóc và chăn nuôi gia súc, gia cầm). Có như vậy mới giúp đồng bào sản xuất đúng hướng và đất đai sẽ được khai thác tốt hơn.
Nâng cao dân trí và trình độ học vấn cho toàn bộ dân số, bằng các hình thức thông tin đại chúng, các hoạt động văn hoá – thông tin tuyên truyền…(cụ thể như: Các cháu học sinh các xã đặc biệt khó khăn đến trường học sẽ được miễn học phí, cấp sách giao khoa…).
Đào tạo tay nghệ cho người lao động bằng nhiều cách, thông qua đào tạo ở các trường lớp như: Trường đại học, cao đẳng, trưòng dạy nghề và các trường hướng nghiệp. Chú ý thực hiện xã hội hoá giáo dục bằng nhiều hình thức để đảm bảo cho người lao động tiếp cận với các công nghệ tiên tiến.
Đối với những bà con mất đất do các dự án công nghiệp thì chính phủ phải thành lập trung tâm dậy nghề vì từ trước đến nay người nông dân chỉ trông chờ vào đồng ruộng, họ không có một ngành nghề gì trong tay để thay đổi nghề nghiệp để nuôi sống bản thân và gia đình.
3.2/ Hỗ trợ tín dụng
Trong những năm qua nhờ có sự ra đời của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng chính sách mà người nghèo ở Hà Nội đã được tiếp cận dần với nguồn vốn tín dụng.
Do đó việc định hướng chính sách hổ trợ vay vốn cho hộ nghèo cần phải theo các hướng sau:
Hà Nội cần ưu tiên trước cho hộ chính sách nằm trong hộ đói nghèo vay trước, sau đó là bộ đội mà có sức lao động và đến các hộ nghèo theo tiêu trí đã xác định của Bộ Lao động- thương binh xã hội. Số hộ đói nghèo mà không có sức lao động thì không thể cho vay vốn. Hoàn thiện quy trình cho vay, thủ tục vay, với cơ chế “một cửa” giúp cho người nghèo vay vốn được dễ dàng. Chú trọng việc cho vay trung hạn, dài hạn phù hợp với chu kỳ sản xuất.
Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo, người yếu thế, người bị rủi ro, nhất là ưu tiên cho phụ nữ có nhu cầu được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý, kịp thời và đúng thời vụ để phát triển sản xuất.
Về lãi suất: Đây là một yếu tố mang nội dung kinh tế và tâm lý đối với người nghèo. Cần tạo ra những nấc thang cho nguời nghèo tham gia vay vốn, tham gia tín dụng. Truớc mắt vẫn áp dụng chính sách lãi suất thấp cho người nghèo, mức lãi suất là 0,5 % (thông qua Hội phụ nữ, Hội nông dân ở các xã). Và về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo, của phụ nữ với hệ thống tín dụng chính thức thông qua đơn giản hoá thủ tục gắn với đào tạo hơn là áp dụng các chế độ ưu đãi về lãi suất như hiện nay.
Mức cho vay: Do hiện nay nếu mức cho vay chỉ từ 1,5 – 3 triệu đồng thì người nghèo chỉ có thể sản xuất manh mún nhỏ lẻ nên mức cho vay cần tuy theo yêu cầu sản suất, dịch vụ mà cho các hộ vay mức nhiều ít khác nhau, và mức trung bình phải tăng lên từ 5,5 – 7 triệu đồng cho một hộ sản xuất với cấp dự án nhỏ tạo việc tại chỗ, có thể giành cho hộ nghèo góp vốn hình thành các tổ hợp sản xuất… thời gian vay theo chu kỳ sản xuất không dưới 3 năm.
Thời gian hoàn nợ: Phải tính toán thời gian trả nợ sao cho thích hợp với chu kì kinh doanh của người dân, vì phải đến thời kỳ thu hoạch thì người dân mới có khả năng trả nợ. Phải có thời gian giãn trả nợ cho người dân nếu có những tác động khách quan vào quá trình sản xuất của họ. Do đó các ngân hàng cần cử cán bộ theo dõi quá trình sản xuất kinh doanh của người dân không những để kiểm soát quá trình sử dụng vốn của họ có đúng mục đích không mà còn nhanh chóng trợ giúp họ khi có những khó khăn khách quan xẩy ra để sau này họ có khả năng trả nợ, nếu không thì ngân hàng cũng sẽ không thể thu hồi vốn.
3.3/ Hỗ trợ về thuế
Hà Nội phải tiếp tục đưa ra các chính sách giảm thuế cho các hộ kinh doanh nhỏ của người nghèo để giảm chi phí sản xuất thì sản phẩm mà họ làm ra mới có sức cạnh tranh về giá đối với những sản phẩm cùng loại khác trên thị trường, tạo điều kiện tăng thu nhập cho người nghèo.
Giảm thuế sử dụng đất cho những hộ sử dụng đất để làm trang trại theo cơ cấu vườn-ao-chuồng, khuyến khích các hộ nông nghiệp chuyển đổi cách thức trồng trọt trăn nuôi manh mún ngày xưa sang cách thức làm ăn mới hiệu quả hơn.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội nên đưa ra đề xuất giảm thuế GTGT cho một số địa phương trong danh sách các xã, huyện nghèo của tỉnh để giảm bớt gánh năng chi phí sinh hoạt hàng ngày để người nghèo khả năng tiết kiệm để tái sản xuất tạo ra thu nhập mới.
3.4/ Công cụ bảo hiểm
Trên thế giới đã có nhiều mô hình phát triển loại hình bảo hiểm cho nông nghiệp. Các nước châu Âu rất phát triển mô hình này, ở trong khu vực, Philippines cũng triển khai bảo hiểm cho nông nghiệp. Thực tế, trên thế giới, bảo hiểm nông nghiệp không phải là dịch vụ kinh doanh phát triển. Quốc gia nào muốn triển khai cũng có sự tài trợ rất lớn của nhà nước. Ở Mỹ mức hỗ trợ lên đến 50%, Philippines cũng áp dụng hình thức hỗ trợ từ nhà nước. Vì vậy, nếu muốn triển khai bảo hiểm nông nghiệp thì nhà nước cần có sự chỉ đạo để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện. Chúng ta cần một chính sách của Nhà nước để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp chứ một mình doanh nghiệp thì không chịu nổi, người dân vùng khó khăn không đủ sức đóng phí. Do vậy thành uỷ Hà Nội nên sớm đưa ra những chính sách cụ thể để hỗ trợ cho BHNN hình thành và phát triển để giảm bớt rủ ro của người nông dân.
Không chỉ riêng ở Việt Nam mà trên thế giới, bảo hiểm nông nghiệp cũng là một nghiệp vụ rất khó khăn. Bảo hiểm nông nghiệp chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường bảo hiểm thế giới. Điều đó chứng minh tính chất khó khăn phức tạp của BHNN. Chính vì vậy, Chính phủ của nhiều quốc gia đã phải can thiệp vào BHNN để hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp của họ. Theo một số chuyên gia, từ kinh nghiệm thực tế trong nước cũng như kinh nghiệm của các nước trên thế giới, BHNN chỉ có thể thực hiện thành công khi nó trở thành một chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, để thực thi một chính sách của Nhà nước, không chỉ có sự tham gia của các doanh nghiệp bảo hiểm mà cần có sự tham gia, quan tâm của các cấp các ngành và của toàn xã hội. Nên gắn các chính sách về BHNN với chính sách tài chính đối với nông nghiệp, nông thôn để tạo ra được môi trường pháp lý thuận lợi thu hút các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm. Cũng theo các chuyên gia, nước ta có quá nhiều thiên tai, trong khi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nếu như Nhà nước dùng một phần từ nguồn ngân sách Nhà nước để hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm, hỗ trợ doanh nghiệp triển khai bảo hiểm nông nghiệp để hình thành nên quỹ bảo hiểm nông nghiệp thì sẽ hiệu quả hơn.
3.5/ Hỗ trợ tài chính khác
3.5.1/ Hỗ trợ tư liệu sản xuất cho người nghèo
Hà Nội nhiều chỗ còn quy hoạch treo, quy hoạch những vùng đất nông nghiệp của nông dân vì vậy, quy hoạch và sử dụng đất có hiệu quả, điều chỉnh thu hồi đất không sử dụng để giao quyền sử dụng cho các hộ nghèo thiếu hoặc không có đất trên địa bàn cũng là một giải pháp quan trọng góp phần xoá đói giảm nghèo.
Thực hiện việc giao đất, giao rừng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gắn với công tác định canh, định cư, tạo điều kiện cho đồng bào có đất sản xuất và ổn định đời sống.
3.5.2/ Hỗ trợ về y tế, giáo dục
Đầu tư cho phát triển con người có vai trò rất quan trọng đối với chiến lược giảm nghèo đói. Các phân tích gần đây về nhu cầu tài chính cho y tế, giáo dục đã chỉ ra mức chi tiêu thực tế cho y tế và giáo dục của thành phố còn thấp với mức dân số đông hiện nay.
- Về giáo dục
Hà Nội hiện nay cũng đã có một số xã thuộc miền núi, trình độ dân trí thấp, do đó chính sách đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng nhằm nâng cao trình độ của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn như: Mường, Dao, mở các lớp xoá mù chữ cho các dân tộc này, giúp người nghèo tiếp cận dịch vụ giáo dục.
Tiếp tục nâng cao các biện pháp nhằm tạo điều kiện công bằng hơn trong giao dục, chú trọng nâng cao chất lượng trong giáo dục cho người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội là một trong những trọng tâm của quá trình phát triển và mang tính quyết định đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo.
Tiếp tục đầu tư thích đáng cho hệ thống giáo dục của các xã nghèo, Tăng cường cơ sở vật chất bao gồm xây dựng mới và xây lại các phòng học tranh tre, nứa lá. Cung cấp đầy đủ các trang thiết bị giảng dậy và học tập cho các trường tiểu học và trung học cơ sở.
Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các xã nghèo bảo đảm cho trẻ em xã nghèo có điểu kiẹn tiếp cận nền giáo dục tiểu học. Tiến hành cải tiến chương trình sách giáo khoa cho học sinh, nội dung giảng dậy và bồi dưỡng giáo viên, có chính sách đối với giáo vien lên dạy ở vùng sâu, vùng đồng bao dân tộc thiểu số.
Xây dựng cơ chế miễn giảm, hỗ trợ cho trẻ em hộ gia đình nghèo trong lĩnh vực giáo dục tiểu học bao gồm: Tiền học phí, tiền sách giáo khoa, tiền xây dựng trường học, có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho các gia đình có con em mhọc tiểu học tại các vùng bị rủi ro (mất mùa, thiên tai…) để giảm bớt những khó khăn cho các gia đình và hạn chế tình trạng con em bỏ học. Từng bước quan tâm đến học sinh nghèo ở các cấp học cao hơn.
- Y tế:
Chỉ có những vùng thuộc đô thị Hà Nội thì cở sở hạ tầng y tế mới tương đối hoàn chỉnh còn ở những vùng sâu vùng xa thì vẫn còn thiếu thốn rất nhiều. Vậy cần phải tăng cường, củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở. Tăng khả năng tiếp cận của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đến các dịch vụ y tế cơ bản, đảm bảo công bằng trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế.
Tăng cường cán bộ y tế cho các xã nghèo đảm bảo 100% xã, phường có trạm y tế. Mở các hình thức đào tạo và bồi dưỡng để phát triển đội ngũ cán bộ y tế cơ sở ưu tiên đào tạo cán bộ dân tộc ít người tại chỗ cho các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, xã khó khăn, tăng cường thiết bị và bồi dưỡng trình độ cán bộ y tế thôn, bản.
Xây dựng và ban hành các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khoẻ nhân dân vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới đồng bào dân tộc ít người và người nghèo. Đặc biệt cần có chính sách chăm sọc sức khỏe của phụ nữ và trẻ em, người già cô đơn không nơi nương tựa. Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân ở các địa phương vùng sâu, vùng xa. Đây là biện pháp quan trọng nhằm phát hiện và điều trị kịp thời, giảm kinh phí chữa bệnh cho người nghèo.
Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế công cộng, đặc biệt là tuyến cơ sở, ở xã vùng sâu, vùng xa. Quy hoạch tốt mạng lưới khám chữa bệnh miễn phí hoặc được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Nhà nước cần điều tiết kinh phí bảo hiểm để chăm sóc, khám chữa bệnh đối với người nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ giảm gánh nặng bệnh tật và tử vong. Tiếp tục triển khai tốt và mở rộng các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế để khống chế các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và các bệnh thường gặp ở người nghèo, vùng nghèo như: Sốt rét, bướu cổ, lao, phong, tâm thần…Có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh này.
4/ Kết luận và kiến nghị
Xoá đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Để thực hiện hiệu quả giải pháp xoá đói giảm nghèo ngoài sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, nhân dân trong thành phố, cũng cần có sự giúp đỡ nhiều mặt của Trung Ương.
Hà Nội thời gian vừa qua mới mở rộng địa giới hành chính, nhiều xã trên địa bàn đi lên từ điểm suất phát thấp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển thấp, nhất là mạng lưới giao thông và thuỷ lợi đã kéo tụt thành tích xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua của Hà Nội. Nên trong giai đoạn tới đây Hà Nội cần đầy mạnh hơn nữa công tác xoá đói giảm nghèo để phát triển xã hội nhanh và bền vững. Chính phủ cần tăng tỉ lệ vốn đầu tư phát triển cho các dự án, chương trình. Các Bộ ban ngành cần thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật, thúc đẩy nhanh mở rộng các tuyến quốc lộ, mạng lưới giao thông.
Hệ thống thuỷ lợi là nguồn lợi lớn cho nông nghiệp, Chính phủ cần cho triển khai sớm các dự án xây dựng thủy lợi, tăng nguồn vốn đầu tư để cho các dự án này sớm được triển khai trong giai đoạn tới.
Tài liệu tham khảo
1, Văn kiện đại hội đại biểu thành phố Hà Nội
2, Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố Hà Nội
3, Đề án phát triển kinh tế xã hội
4, Các quyết định của nhà nước
5,Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
6, Báo cáo công tác xoá đói giảm nghèo
7, Sách thống kê của Hà Nội và Hà Tây năm 2007
8, Tạp chí kinh tế và phát triển
9, Tạp chí phát triển kinh tế
10, Thông tin dự báo kinh tế xã hội
11, Website của sở LĐTB&XH Hà Nội, của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội
12, Website chính của bộ Xây dựng, bộ Kế hoạch và Đầu tư
13, Website chính của uỷ ban Mặt trận tổ quốc thành phố Hà Nội
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp tài chính cho xóa đói giảm nghèo ở Hà Nội giai đoạn 2009 – 2010.doc