Trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế
nước ta phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng trong quan hệ kinh tế
quốc tế, sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ nội địa và
nhập khẩu; phải mở cửa thị trường, bảo hộ hạn chế, dỡ bỏ hàng rào thuế
quan Đây là những thách thức lớn đối với các ngành sản xúat trong nước,
đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp.
81 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3584 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Lâm, kinh phí đào tạo bao gồm kinh
51
phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 1.500.000 đồng/người/khoá ( 1 khoá
học = 5 tháng) và từ nguồn học viên đóng 40.000 đồng/người/tháng nghĩa
là 200.000 đồng/người/khoá. Chi phí bình quân để tạo ra một chỗ làm việc
mới là 1.700.000 đồng/người. Nếu xét theo chi phí đào tạo như trên thì đầu
tư tạo việc làm qua chương trình vốn vay quỹ hỗ trợ quốc gia hỗ trợ việc
làm có hiệu quả. Vì với chi phí vốn vay thấp nhưng tạo ra được nhiều chỗ
việc làm. Tuy nhiên, với cách quản lý vốn đào tạo như hiện nay là nhà
nước rót vốn cho cơ sở đào tạo, ngoài việc trả kinh phí cho giảng viên,
nông dân dự khoá đào tạo được hỗ trợ tiền ăn ở khi học thì thực tế nhiều
khóa học do kinh phí hạn hẹp nên học ít khai nhiều, ít có thông tin phản hồi
giữa người học nghề với cơ sở đào tạo nghề để đánh giá hiệu quả. Dưới đây
là một số hiệu quả đạt được và những hạn chế trong vấn đề tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất của huyện Gia Lâm:
1.Hiệu quả đạt được.
Gia Lâm là một huyện ngoại thành có tốc độ phát triển kinh tế tương đối
cao của thành phố. Trong những năm gần đây, huyện đã được thành phố
quan tâm tạo mọi điều kiện trong phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ
như: xây dựng hệ thống đường giao thông, xây dựng các khu vui chơi, giải
trí, xây dựng siêu thị, tu bổ lại các chợ….nên đời sống tinh thần và vật chất
của người dân không ngừng nâng cao. Mặc dù việc thu hồi đất nông nghiệp
đã làm cho một bộ phận lớn nông dân không có việc làm, đời sống gặp khó
khăn. Song nhờ sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và người nông
dân, đã giải quyết việc làm cho nhiều hộ nông dân bị mất đất canh tác.
Điều này đã đem lại một số hiệu quả sau:
Thứ nhất, tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp là tạo điều
kiện nâng cao thu nhập cho họ. Như thực tế hiện nay, 1 sào ruộng người
dân cấy 2 vụ lúa, chăm sóc tốt mỗi năm cũng chỉ thu được 1,6 triệu đồng.
52
Nhưng sau khi bị thu hồi đất, người dân được đền bù một khoản tiền lớn,
bằng 40 năm trồng lúa. Còn đối với những người có việc làm mới, thu nhập
cũng tăng lên đáng kể. Công nhân may lương tháng 1,2 triệu
đồng/người/tháng; công nhân cơ khí là 1,6 triệu đồng/người/tháng. Với
những hộ kinh doanh, buôn bán thu nhập bình quân 3 triệu đồng/tháng tăng
40% so với trước khi thu hồi đất. Xu hướng thu nhập từ hoạt động nông
nghiệp giảm dần, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp tăng lên, bình
quân 37,45 triệu đồng/hộ/năm. Từ đó, người dân có điều kiện nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và
lao động trí óc, giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo.
Thứ hai là góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng cơ bản, dịch
vụ; giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: công nghiệp-xây dựng cơ bản là
55,3%; thương mại-dịch vụ là 26,33%; nông nghiệp là 18,37%. Tốc độ
phát triển kinh tế của huyện bình quân 14%/năm. Trong đó, công nghiệp-
xây dựng cơ bản tăng 17%/năm; thương mại-dịch vụ tăng 15%/năm; nông
nghiệp tăng 3,5-4%/năm.
Thứ ba, về mặt tinh thần: Có việc làm người nông dân cảm thấy vui vẻ,
thoải mái, bớt lo âu, có niềm tin đối với xã hội.
Thứ tư là góp phần xoá đói, giảm nghèo và giảm tệ nạn xã hội. Trên địa
bàn huyện, số hộ nghèo giảm 626 hộ, số hộ cận nghèo giảm 661 hộ, tỷ lệ
hộ nghèo giảm xuống còn 2,3%; không có điểm, tụ điểm mại dâm công
cộng; số người nghiện ma tuý giảm 74 người.
Thứ năm, thay đổi bộ mặt nông thôn. Với thu nhập cao hơn từ công việc
mới và số tiền được đền bù, những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng
nhiều tại các thôn, xã thay thế cho những ngôi nhà ngói, nhà tranh. Điện đã
53
về tận các hộ gia đình, đường làng, ngõ xóm được mở rộng, làm mới;
100% đường liên thôn, xã được bê tông hoá; trạm y tế xã, trường học trên
địa bàn cũng được sửa sang, xây mới, trang bị nhiều máy móc, đồ dùng
phục vụ cho việc giảng dạy. Các sản phẩm công nghiệp, những tiện nghi
mà người nông dân mơ ước đã thâm nhập vào mỗi gia đình như xe máy,
tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, quạt điện, máy điều hoà nhiệt độ… Họ được
tiếp cận với tri thức mới, văn hoá mới, hiện đại hơn, tiến bộ hơn. Nông
thôn ngày nay đã mang một diện mạo khác hẳn vài chục năm trước. Phát
triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đồng nghĩa với việc làm cho cuộc
sống của người nông dân tốt hơn, nâng cao hơn. Muốn vậy phải tạo việc
làm cho họ. Chứ không phải lấy đất xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị
rồi để mặc hàng vạn nông dân tự tìm lối ra.
2.Hạn chế.
2.1. Số lượng việc làm tạo ra còn ít, chất lượng việc làm chưa cao.
Số lượng việc làm mới tạo ra mới chỉ đạt 63,96% so với nhu cầu cần giải
quyết việc làm. Trong đó, 76.95% là công việc đòi hỏi trình độ lao động
phổ thông, chỉ có 2,47% cần trình độ cao đẳng, đại học. Thực trạng này xảy
ra là do những nguyên nhân sau đây:
Một là, công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập.
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng thực tế cho thấy việc
triển khai nhiệm vụ dạy nghề cho nông dân ở khu vực bị thu hồi đất những
năm qua vẫn còn nhiều bất cập.
- Ngành nghề đào tạo chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người
học nghề. Chỉ tiêu đào tạo những nghề phù hợp với lao động nữ ít hơn so
với những nghề dành cho lao động nam, trong khi nhu cầu giải quyết việc
làm của lao động nữ lại khá cao.
54
- Các trung tâm dạy nghề vẫn bị động trong việc tìm kiếm thông tin cần
thiết để điều chỉnh những nội dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu của
nhiều đối tượng sử dụng lao động khác nhau. Trang thiết bị của trường dạy
nghề thì lạc hậu, giáo viên cần đào tạo lại.
- Trong số lao động được học nghề thì do nhiều nguyên nhân khác nhau
nên học viên nghỉ học, bỏ tiết gây khó khăn cho các cơ sở dạy nghề trong
việc quản lý lớp. Một trong những nguyên nhân khiến nông dân không mặn
mà với chuyện học nghề là họ chưa quen với những việc cần phải suy nghĩ,
học các kiến thức mới.
- Vẫn còn tình trạng học viên sau khi tốt nghiệp các khoá đào tạo nhưng
trình độ tay nghề không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động nên
không có việc làm hoặc việc làm không đúng nghề được đào tạo, thu nhập
thấp. Điều này được lý giải là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
sở dạy nghề với nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư
để đào tạo tại chỗ; sự tham gia của các doanh nghiệp được giao đất sản
xuất kinh doanh dịch vụ còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện
đúng cam kết trước khi nhận đất.
- Người dân còn thiếu nhiều thông tin về chuyển nghề, đào tạo nghề; các
chương trình mục tiêu về hướng nghiệp còn đơn lẻ, dàn trải chưa có sự kết
hợp thường xuyên; các tổ chức, các doanh nghiệp chưa thường xuyên quan
tâm đến đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân, đặc biệt là những
lao động lớn tuổi.
- Riêng đối với đào tạo thợ thủ công: chỉ có 3% được dạy nghề tại trường
và truyền nghề tại doanh nghiệp, 97% số thợ còn lại học theo hình thức
“cha truyền con nối”. Các trường dạy nghề thường không quan tâm hỗ trợ
cho các làng nghề. Trong khi thanh niên trong làng nghề lại không đủ điều
kiện về văn hoá để tuyển sinh, hơn nữa họ phải nuôi gia đình không thể bỏ
55
làm việc để xa nhà theo học hàng năm trời trong trường dạy nghề. Với
những thợ đang làm thuê cho doanh nghiệp trong làng nghề thì không dám
đi học vì sợ đi học sẽ mất việc. Điều này dẫn đến kết quả là hai hình thức
đào tạo bị tách biệt nhau: trường chủ yếu đào tạo cho các đối tượng xã hội,
làng nghề phải tự lo đào tạo cho con em mình.
Hai là, việc sử dụng tiền đền bù đất của nông dân chưa hợp lý.
Bảng 13. Bảng giá đất nông nghiệp.
- Đối với đất trồng cây hàng năm.
Hạng Giá đất ( đồng)
1 108000
2 90000
3 72000
4 54000
5 45000
6 38000
- Đối với đất trồng cây lâu năm.
Hạng
Giá đất
(đồng)
1 126.000
2 108.000
3 84.000
4 63.600
5 48.000
- Đối với đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất.
Hạng Mức giá (đồng)
1 25.500
56
2 21.000
3 16.600
4 12.200
5 7.650
Nguồn: Bảng giá đất nông nghiệp theo quy định của UBND Thành phố Hà
Nội (Kèm theo quyết định số 05/2006/QĐ-UB ngày 31-01-2006 của UBND
Thành phố Hà Nội).
Theo quy định của thành phố Hà Nội, mức đền bù và hỗ trợ cho nông dân
sau khi bị thu hồi đất bao gồm các khoản sau:
- Đơn giá đền bù: 108.000 đồng/m2.
- Mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp: 30.000 đồng/m2.
- Mức hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất: 35.000 đồng/m2.
- Thưởng tiến độ bàn giao mặt bằng: 3000 đồng/m2.
- Bồi thường cây cối, hoa màu.
Tổng các khoản thì cứ 1m2 đất nông nghiệp bị thu hồi trên địa bàn huyện
Gia Lâm được bồi thường cao nhất là 184.000 đồng. Mỗi sào đất sẽ được
hỗ trợ là 66.240.000 đồng tương đương với hơn 40 năm trồng lúa. Với số
tiền đền bù lớn như vậy thì người nông dân sẽ làm gì? Theo kết quả khảo
sát cho thấy:
- 56 % số hộ dùng tiền đền bù để sửa sang nhà cửa hoặc xây nhà mới và
nhà trọ cho thuê.
- 96% dùng vào việc mua sắm đồ dùng, phương tiện sinh hoạt như xe máy,
tivi, tủ lạnh…
- 12,8% gửi tiết kiệm. Một hình thức sinh lời an toàn nhưng kém hiệu quả
hơn đầu tư kinh doanh. Qua điều tra thực tế, những hộ thuần nông kém
năng động, sợ rủi ro, không tìm được hướng sản xuất kinh doanh mới, kể
cả những hộ năng động chưa tìm được cơ hội đầu tư nên họ chọn giải pháp
57
an toàn nhất là gửi số tiền đó vào ngân hàng để hưởng lãi suất mặc dù lãi
suất khá thấp.
- Một số hộ dùng tiền đền bù để đi xin việc cho con, chủ yếu là vào làm
công nhân cho các nhà máy sau khi tốt nghiệp cấp II, cấp III.
- Chỉ có 10% số hộ dùng tiền để đầu tư vào những việc có ảnh hưởng lớn
đến việc làm, thu nhập trong tương lai như mua sắm phương tiện, tài sản
cho sản xuất kinh doanh, cho con em đi học nghề. Trong khi trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lao động ở đây khá thấp. Do đó, nhiều hộ nhận
được tiền đền bù nhưng không tìm được việc làm và chỉ trong vòng 2-3
năm đã trắng tay, giờ lại thành hộ nghèo.
Ba là, chất lượng lao động trong các hộ bị thu hồi đất nhìn chung là
thấp.
- Về trình độ học vấn: Lao động đã tốt nghiệp cấp III chiếm 23,4%; đáng
chú ý là tỷ lệ lao động chỉ mới tốt nghiệp cấp I khá cao 36,14%. Nếu đánh
giá theo giới tính thì trình độ của nữ giới thấp hơn nam giới, số năm đi hcọ
trung bình của nữ giới thấp hơn nam giới. Trình độ học vấn thấp sẽ hạn chế
trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vấn đề đào tạo nghề gặp
nhiều trở ngại.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Chủ yếu là lao động phổ thông chưa
qua đào tạo chiếm 78,57%. Tỷ lệ lao động có trình độ CĐ, ĐH chỉ có
2,17%; Trung học chuyên nghiệp là 7,84%; công nhân kỹ thuật không có
bằng 11,42%. Vì chưa qua đào tạo nên vấn đề tìm việc làm mới cho các hộ
dân bị thu hồi đất sản xuất gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp trên địa bàn
chủ yếu tuyển dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật nên bộ phận
lao động phổ thông không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Nếu
có được tuyển dụng thì cũng chỉ nhận được mức lương thấp, làm cho người
lao động ở địa phương làm được một thời gian rồi lại bỏ. Theo báo cáo của
58
liên minh HTX thì 55% lao động trong các cơ sở chuyên ngành nghề chưa
qua đào tạo, 36% không có chuyên môn kỹ thuật, 82,6% lao động làm việc
tại các tổ, HTX, liên minh HTX chưa qua đào tạo nghề.
Bảng 14. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao
động trong những hộ dân bị thu hồi đất.
Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật Số tuyệt
đối
(người)
Tỷ
trọng
(%)
Trình
độ học
vấn
Đã tốt nghiệp Tiểu học 1.797 41,85
Đã tốt nghiệp Trung học cơ sở 1.466 34,15
Đã tốt nghiệp PTTH 1.030 24
Tổng cộng 4.263 100
Trình
độ
chuyên
môn kỹ
thuật
Chưa qua đào tạo 3.370 78,49
CN kỹ thuật không có bằng cấp 490 11,41
Trung học - Công nhân kỹ thuật 336 7,83
Cao đẳng - Đại học 97 2,27
Tổng cộng 4.263 100
Nguồn: Kết quả điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm,
Phòng lao động, thương binh và xã hội huyện Gia Lâm.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực phi nông nghiệp diễn ra chậm chạp và tự phát.
Việc làm của nông dân về cơ bản vẫn là thuần nông, trồng trọt và chăn
nuôi. Dịch vụ nông thôn bị thả lỏng, công nghiệp nông thôn tự phát, quy
mô nhỏ làm cho tình trạng nông dân không có việc làm càng trở nên phổ
biến. Đa số những hộ nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp có tư tưởng
59
trông chờ vào chính sách hỗ trợ của nhà nước, mà không chủ động tìm
kiếm việc làm, chưa chủ động tìm kiếm thông tin trên thị trường lao động.
Sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, năng lực ứng dụng khoa học,
công nghệ vào thực tiễn rất hạn chế. Sau khi mất đất, 51% nông dân vẫn
giữ nguyên nghề sản xuất nông nghiệp, 13% chuyển sang nghề mới, 36%
không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Từ đó, thu nhập của họ
thấp, khả năng chuyển đổi nghề khi bị mất đất hoặc cơ hội tham gia vào
môi trường lao động công nghiệp đòi hỏi kỹ năng và tính kỷ luật cao là
không dễ dàng. Trong số các hộ dân bị thu hồi đất, lao động từ 35 đến 60
tuổi chiếm 44,95%. Giải quyết việc làm cho đối tượng này gặp nhiều khó
khăn, một mặt do sức khoẻ và khả năng thích ứng với nghề mới, nhất là
những nghề đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao của họ hạn chế. Mặt khác, các
doanh nghiệp chủ yếu chỉ tuyển những lao động trẻ khoẻ, từ chối tiếp nhận
những đối tượng này vào làm việc. Trong khi một bộ phận lao động trẻ
ham chơi, thích hưởng thụ, không chịu được vất vả nên cũng khó đào tạo
để chuyển đổi nghề.
2.3. Hoạt động của HTX nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Vai trò nổi bật và quan trọng hàng đầu của HTX là hỗ trợ và thúc đẩy các
hộ xã viên, các thành viên là các hộ kinh tế gia đình, tiểu chủ, doanh nghiệp
nhỏ trong phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế; là cầu nối giữa
kinh tế hộ và thị trường. Song hiện nay, hoạt động của các HTX nông
nghiệp đang gặp nhiều khó khăn như:
- Hoạt động dịch vụ của HTX còn khó khăn, quy mô và doanh số còn
nhỏ. Chất lượng dịch vụ ở nhiều HTX chưa đáp ứng được yêu cầu của xã
viên. Nhìn chung, hiệu quả sản xuất-kinh doanh, dịch vụ của HTX còn
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế trong giai đoạn
qua. HTX chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chưa có sức hấp dẫn,
60
lôi cuốn xã viên và người lao động gắn bó, tích cực xây dựng HTX. Toàn
huyện có 42 HTX, trong đó 31 % số HTX hoạt động tốt, 44% hoạt động
trung bình, 25% hoạt động yếu kém.
Hình 5. Phân loại HTX.
31%
44%
25%
hoạt động tốt
hoạt động trung
bình
hoạt động yếu
kém
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của HTX còn nghèo nàn, chưa được đầu tư, đổi
mới công nghệ để có thể phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ theo nền
kinh tế thị trường.
- Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn bất cập do trình độ văn hoá cũng như
trình độ chuyên môn chưa đáp ứng đòi hỏi của một đơn vị kinh tế tập thể
hoạt động theo cơ chế thị trường.
61
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG
DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM
I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện trong thời gian tới.
Nắm vững Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIX đề ra là “Khai
thác có hiệu quả mọi nguồn lực và phát huy hết sức mạnh tổng hợp trên địa
bàn; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong nông nghiệp-nông
thôn theo hướng CNH-HĐH; xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, nâng
cao trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết tốt các vấn đề
xã hội bức xúc; cải thiện đời sống, vật chất và tinh thần của nhân dân…”
UBND huyện đã đề ra một số chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội rong thời
gian tới như sau:
1. Kinh tế.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 15-16%/năm. Trong đó: CN-XDCB tăng 18-
19%/năm; Thương mại-dịch vụ tăng 16-17%/năm; Nông nghiệp- Thuỷ
sản tăng 4-5%/năm.
- Cơ cấu kinh tế của huyện đến năm 2010 là: CN-XDCB chiếm 56,5%;
thương mại,dịch vụ chiếm 29,5%; nông nghiệp, thuỷ sản chiếm 15%.
- Giá trị sản xuất trên 1 ha canh tác đạt 60-65 triệu đồng. Phấn đấu giá trị
sản xuất của khối hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tăng bình quân
2,4%/năm; tỷ trọng giá trị sản xuất của HTX dịch vụ nông nghiệp trong
toàn ngành đạt 3% vào năm 2010, 70% số HTX hạot động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2010 xuống dưới 1,85%.
- Thu nhập bình quân đầu người là 9,85 triệu đồng.
2. Dân số, lao động, việc làm.
- Giảm tỷ lệ gia tăng dân số xuống 1,55%.Tỷ lệ lao động trong độ tuổi
tham gia lực lượng lao động khoảng 78%.
62
- Hàng năm tạo việc làm mới cho khoảng 7.500-8.000 người. Giảm tỷ lệ
thất nghiệp xuống dưới 6%. Nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu
vẹc nông thôn lên 90%. Tổ chức dạy nghề cho khoảng 3000 người.
- Cơ cấu lực lượng lao động trong các ngành: CN-XDCB, nông nghiệp,
dịch vụ đạt tỷ lệ tương ứng là 52% - 28% - 20%. Tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo đạt 55-60%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 20-25%.
II. Những giải pháp chủ yếu.
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghề.
Thực tiễn cho thấy, dạy nghề để chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp được coi là giải pháp hữu hiệu
nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo nông dân thiếu việc làm và thất
nghiệp, đồng thời cũng góp phần tích cực trong việc ổn định kinh tế, xã hội
trên địa bàn huyện. Đào tạo nghề sẽ tạo ra nguồn nhân lực có khả năng đáp
ứng được yêu cầu của CNH, HĐH; tạo ra một đội ngũ nhân lực đông đảo,
có trình độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng
nhanh với mọi biến động của quá trình sản xuất. Để đẩy mạnh công tác đào
tạo nghề cần làm tốt những công việc sau:
1.1. Đối với UBND huyện, UBND các xã.
Cần rà soát, gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với phát triển các
ngành nghề; quy hoạch đất dịch vụ và đất liền kề các khu công nghiệp;
đồng thời tiếp tục xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các cơ
chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất về dạy nghề
và việc làm phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi thôn, mỗi xã. Chủ
động xây dựng kế hoạch hỗ trợ dạy nghề và tạo việc làm cho người lao
động ngay trong quá trình xây dựng quy hoạch và kế hoạch thu hồi đất
nông nghiệp; tăng cường kinh phí đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm trong
63
chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và giáo dục đào tạo để hỗ trợ
lao động bị thu hồi đất sớm chuyển đổi nghề, ổn định việc làm.
Thường xuyên rà soát, tổng hợp, dự báo nhu cầu học nghề của lao động
bị thu hồi đất trên địa bàn huyện để xây dựng phương án hỗ trợ dạy nghề.
Thông báo công khai kế hoạch hàng năm về chỉ tiêu và kinh phí được
duyệt cho huyện, cho các xã và các cơ sở dạy nghề trên địa bàn để đăng ký
số lượng học viên; giao nhiệm vụ và hướng dẫn các cơ sở dạy nghề đủ điều
kiện để tổ chức các khoá dạy nghề cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp
theo kế hoạch và mức chi đã được duyệt. Đặc biệt, các địa phương cần có
cơ chế khuyến khích để thu hút các cơ sở doanh nghiệp tham gia vào dạy
nghề, ưu tiên cho vay vốn từ quỹ quốc gia đối với những người đã học
nghề cần vốn để tạo việc làm; chỉ đạo, kiểm tra thực hiện kế hoạch hàng
năm về dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện.
1.2. Đối với các doanh nghiệp.
Phải cam kết sử dụng lao động tại chỗ. Doanh nghiệp phải công khai số
lượng tuyển dụng lao động trong dự án và theo tiến độ tuyển dụng trong
từng thời kỳ, số lượng cần tuyển bao nhiêu, yêu cầu nghề nghiệp, trình độ,
tay nghề ra sao. Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo công nhân bằng
chính sách hỗ trợ một phần kinh phí dạy nghề cho công nhân, nhân viên
mới tuyển chưa có chứng chỉ nghề.
1.3. Đối với các cơ sở dạy nghề.
Tham gia dạy nghề cho lao động khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, mở rộng số lượng nghề đào tạo phù hợp với định hướng phát triển kinh
tế xã hội của huyện, với thực tiễn sản xuất và yêu cầu thực tế của doanh
nghiệp. Việc chọn nghề và nội dung dạy nghề cần xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn của địa phương, phải là các nghề có nhu cầu đào tạo ở đại phương
và có nhiều thanh niên tham gia học nghề. Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu
64
cần dạy theo yêu cầu, mục tiêu của người học, biên soạn chương trình hoặc
chuyên đề cho phù hợp. Cùng với việc dạy cũng cần đẩy mạnh việc liên kết
với các doanh nghiệp trên địa bàn để vừa đào tạo, vừa giải quyết việc làm
cho học viên.
2. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn
huyện.
Từ rất lâu rồi, huyện Gia Lâm vẫn nổi tiếng với làng nghề truyền thống
như làng nghề làm dược liệu ở Ninh Hiệp, làng nghề dát quỳ vàng, bạc ở
Kiêu Kỵ, làng nghề gốm sức Bát Tràng. Sự phát triển làng nghề truyền
thống luôn gắn với sự phát triển của văn hoá dân tộc. Sản phẩm của làng
nghề truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao động tinh
thần. Nó được tạo ra từ bàn tay tài hoa, khéo léo và bộ óc sáng tạo, tinh tế
của người thợ thủ công. Vì thế, các sản phẩm thường mang phong cách văn
hoá riêng. Mỗi làng, thậm chí mỗi nhà có nét tinh xảo riêng. Đấy cũng
được coi là bí quyết nghề nghiệp. Song điều quan trọng là thông qua các
sản phẩm xuất khẩu đã gián tiếp giới thiệu được nét đẹp văn hoá độc đáo
của địa phương với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay các làng nghề đã bị
mai một; làng nghề Bát Tràng vẫn còn hoạt động song gặp nhiều khó khăn.
Hầu hết, các nghệ nhân giỏi của các làng nghề đều là những người cao tuổi,
trong khi lớp trẻ lại không mặn mà với việc học nghề. Vì vậy, khôi phục và
phát triển các làng nghề này là yêu cầu bức xúc nhằm phát huy nội lực,
khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, góp phần giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, làm chuyển dịch cơ cấu lao động, góp phần đẩy mạnh CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá riêng
của địa phương. Một số giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề truyền
thống:
65
2.1. Khảo sát, điều tra, đánh giá một cách toàn diện các làng nghề
truyền thống.
Xem xét các tiềm năng, lợi thế của từng ngành nghề, sản phẩm truyền
thống, những thứ gì được ưa chuộng, cái gì lạc hậu, hạn chế, so sánh với
sản phẩm cùng loại trên thị trường, kể cả tay nghề, ngày công, năng suất,
mẫu mã, thiết bị công nghệ, thị trường...để có những định hướng đúng khôi
phục và phát triển nghề. Trên cơ sở đó, tiến hành xây dựng đề án khôi phục
phát triển đối với từng làng nghề.
Đồng thời cũng khẩn trương tiến hành quy hoạch chi tiết các cụm làng
nghề để triển khai đầu tư hạ tầng kỹ thuật đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản
xuất của các cơ sở sản xuất; Chú ý quy hoạch vùng nguyên liệu cho các
làng nghề; việc triển khai đề án khôi phục và phát triển làng nghề gắn với
công nhận làng nghề đạt tiêu chuẩn, vừa để tôn vinh nghề, làng nghề, vừa
tập trung các nguồn lực đầu tư phát triển làng nghề.
2.2. Quan tâm, hỗ trợ nguồn nhân lực phục vụ cho việc khôi phục và
phát triển làng nghề.
Phát hiện và thu hút đội ngũ doanh nhân giỏi, kiện toàn đội ngũ doanh
nhân giỏi, kiện toàn đội ngũ quản lý công nghiệp các cấp có năng lực, có sự
phân công , phân cấp rõ ràng; có chính sách tôn vinh và đãi ngộ nghệ nhân,
hỗ trợ truyền nghề và học nghề tại địa phương. Đồng thời cũng quan tâm
hỗ trợ, gửi đi đào tạo nghề ở các địa phương khác trong nước. Bên cạnh đó,
quỹ khuyến công hàng năm lồng ghép với các chương trình, dự án khác
trên địa bàn, tiếp tục đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề, khởi sự doanh
nghiệp, tham quan học tập, cập nhật thông tin...cho các đối tượng thuộc các
thành phần kinh tế đầu tư và các nghề và làng nghề truyền thống để nâng
cao trình độ quản lý của chủ cơ sở, nâng cao tay nghề của người thợ, tiếp
cận với sản xuất hàng hoá của kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập;
66
sớm thành lập các hội nghề để tạo mối liên doanh liên kết giữa các cơ sở
sản xuất từng ngành nghề, làng nghề. Đối với các làng nghề, Nhà nước nên
đầu tư cho các làng nghề này xây dựng trường hay trung tâm dạy nghề
riêng, vừa dạy cho người trong làng nghề, vừa đào tạo cho các làng nghề
khác và cho các đối tượng ngoài xã hội.
2.3. Huy động vốn đầu tư phát triển làng nghề.
Trước hết, đẩy mạnh cải cách hành chính tạo môi trường đầu tư thông
thoáng, bổ sung, điều chỉnh các chính sách khuyến công, ưu đãi đầu tư cho
phù hợp; kêu gọi các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân trong tỉnh,
trong nước và quốc tế, các doanh nghiệp trong nước, bà con việt kiều ở
nước ngoài, huy động vốn trong dân, vốn tín dụng, các nguồn vốn ngân
sách ưu tiên cho đền bù giải toả, hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật thiết yếu,
xúc tiến thương mại, đào tạo nghề, hỗ trợ thương hiệu..., tiếp tục triển khai
chương trình khuyến công và lồng ghép với các chương trình dự án liên
quan trên địa bàn, đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và sở hữu nhà để nhân dân, cơ sở sản xuất có điều kiện vay vốn tín dụng
đầu tư, phát triển, tạo thuận lợi cho việc tổ chức lại sản xuất của các cơ sở
sản xuất trong làng nghề, hình thành sự liên doanh, liên kết trong sản xuất
kinh doanh và các doanh nghiệp đầu tư mối...Trong những tháng gần đây,
suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam và
bộ phận bị tác động nặng nhất là các doanh nghiệp làng nghề. Vì vậy, cần
có chính sách ưu đãi với làng nghề trong vấn đề vay vốn và hỗ trợ lãi suất,
dành một phần số tiền trong gói kích cầu ưu tiên cho các làng nghề và
doanh nghiệp nông thôn.
67
2.4. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, quảng bá, tiếp thị các sản phẩm
của làng nghề.
Quảng bá và tiếp thị sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng,
tờ rơi, internet, thông qua hội chợ, triển lãm, các kỳ Festival, các điểm
trưng bày bán sản phẩm, các tour du lịch làng nghề...Khuyến khích các
doanh nghiệp xây dựng thương hiệu hàng hoá, các làng nghề xây dựng
nhãn hiệu tập thể và xuất xứ sản phẩm. Hàng năm tổ chức hội thi sáng tác
mẫu mới hàng thủ công mỹ nghệ, hàng lưu niệm. Xây dựng website về giới
thiệu sản phẩm, đào tạo nghề, cung cấp thông tin cho làng nghề...
2.5. Tập trung hình thành các doanh nghiệp, đơn vị làm đầu mối tiêu
thụ sản phẩm, làm "bà đỡ" cho các làng nghề.
Đây là khâu đột phá quan trọng, tạo nên đầu ra cho sản phẩm làng nghề.
Một mặt họ thu gom sản phẩm của làng nghề đưa đến nơi tiêu thụ, mặt
khác họ thường xuyên cung cấp các thông tin giúp các cơ sở sản xuất thay
đổi mẫu mã, chất lượng kịp thời, tạo sức cạnh tranh sản phẩm, và có thể hỗ
trợ một lượng vốn, hỗ trợ đào tạo kỹ thuật cho các làng nghề. Nhờ đó, các
cơ sở sản xuất trong làng nghề sẽ có điều kiện để hợp tác, liên kết, hoặc
chuyên môn hoá một số công đoạn trong sản xuất, đồng thời chú trọng hơn
đến việc xây dựng nhãn hiệu cho sản phẩm làng nghề.
2.6. Tăng cường ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và đổi mới
mẫu mã sản phẩm.
Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển rất nhanh chóng,
việc ứng dụng các thành tựu của nó trong sản xuất là cần thiết, tuy nhiên
việc ứng dụng và chuyển giao các công nghệ mới cho các ngành nghề, làng
nghề truyền thống phải phù hợp với loại ngành nghề và năng lực của cơ sở
sản xuất, áp dụng trong một số công đoạn của sản xuất, riêng công đoạn thể
hiện tính độc đáo, tinh tuý của sản phẩm thì cần sử dụng bí quyết, công
68
nghệ truyền thống. Có như vậy, sản phẩm làm ra có chất lượng ổn định,
năng suất tăng, giá thành hạ và có điều kiện bảo vệ môi trường tốt hơn.
Đồng thời vẫn giữ được bản sắc văn hóa địa phương. Tuy nhiên, để tăng
sức cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường, sản phẩm của làng nghề phải
luôn đổi mới về mẫu mã.
2.7. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống gắn với hình
thành các tour du lịch làng nghề.
Đây là điều không mới với các nước trên thế giới, thậm chí nhiều làng
nghề trong nước cũng đã tận dụng thế mạnh về văn hoá truyền thống để
làm các tour du lịch từ lâu nhưng chưa hiệu quả. Điểm yếu ở đây là hầu hết
các làng nghề hiện nay cơ sở hạ tầng, giao thông còn kém phát triển; khâu
tiếp thị vừa thiếu lại vừa yếu, người dân làng nghề chưa có đủ kiến thức về
cách phục vụ khách du lịch…Do đó, để phát triển làng nghề gắn với du lịch
thì yếu tố hạ tầng cơ sở đóng vai trò quan trọng. Du lịch làng nghề đòi hỏi
tính văn hoá cộng đồng nên bên cạnh sự quan tâm của các cấp chính quyền,
cần phát huy vai trò chủ động hợp tác của cộng đồng dân cư trong làng
nghề và các doanh nghiệp du lịch.
Hiện nay, tại làng nghề Bát Tràng đã mở dịch vụ chở du khách bằng xe
trâu. Dịch vụ tuy mới mẻ nhưng sẽ thu hút khá nhiều du khách bởi sự lạ
lẫm, độc đáo cũng như nét thôn quê của nó. Với giá 5 đô la/người/chuyến
du khách có thể thưởng ngoạn và thăm thú làng nghề, vừa trò chuyện rôm
rả, vừa có thể chụp hình. Hay một dịch vụ khác cũng sẽ thu hút được nhiều
du khác đó là dịch vụ tự làm sản phẩm gốm. Phí dịch vụ đối với một đoàn
khách từ 30 người trở lên là 10.000 đồng/người/ngày; với những khách đi
lẻ thì tiền dịch vụ sẽ gộp vào tiền bán sản phẩm do tự khách làm ra, giao
động từ 5.000 đến 40.000 đồng/sản phẩm. Ngoài ra các chủ xưởng còn
cung cấp dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi nếu khách có nhu cầu. Khách du lịch
69
có thể thoả thích sáng tạo để có thể mang về những sản phẩm ưng ý. Trung
bình mỗi tháng Bát Tràng thu hút từ 25.000 đến 30.000 lượt khách trong
nước và khoảng 5.000 lượt khách quốc tế đến tham quan, du lịch. Cần có
thêm những loại hình dịch vụ du lịch làng nghề khác để đáp ứng nhu cầu
của du khách như du lịch các chùa và nhà thờ họ…
3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một trong những giải pháp được nhiều địa phương
quan tâm và sử dụng. Thông qua xuất khẩu lao động không chỉ giảm bớt
gánh nặng về việc làm trước mắt mà hàng năm số lượng ngoại tệ người lao
động gửi về làm tăng thu nhập cho bản thân người lao động, gia đình và
nhà nước. Ở Malayxia thu nhập bình quân 2-3 triệu đồng/tháng, có nghề 5-
7 triệu đồng/tháng; ở Đài Loan thu nhập 300-500 USD/tháng; Hàn Quốc
thu nhập 900-1000 USD/tháng; Nhật Bản trên 1000 USD/tháng. Mặt khác
thông qua xuất khẩu lao động, người lao động học hỏi và tiếp nhận được kỹ
thuật hiện đại, phương pháp làm việc tiên tiến, tác phong công nghiệp. Để
tiếp tục phát triển lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài cần tiến
hành những giải pháp sau:
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài.
Từ năm 1996 đến nay, Chính phủ đã lần lượt ban hành 4 Nghị định, đặc
biệt năm 2006, Quốc hội đã ban hành Luật Người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2007.
Với luật này, hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài có
một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ để phát triển trong thời gian tới.
70
3.2. Đàm phán để ký kết các thoả thuận với các nước nhận lao động
Việt Nam sang làm việc.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký các hiệp định với các nước Hàn Quốc,
Malayxia, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, Ô-man, Qatar; đang đàm phán
và chuẩn bị ký kết các hiệp định với Các tiểu Vương quốc Arập Thống
Nhất, Ba-ranh, Libi, Liên bang Nga… Đối với các nước nhận lao động Việt
Nam nhưng chưa có hiệp định hoặc thoả thuận, chúng ta đã tiếp xúc, đàm
phán và tạo ra sự hợp tác chính thức với Chính phủ các nước trên thực tế
nhằm phối hợp quản lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam.
3.3.Tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài.
Chính phủ Việt Nam giao cho các đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động. Tại các các nước có
nhiều lao động Việt Nam làm việc, đã thành lập các Ban Quản lý lao động
trong cơ quan đại diện để thực hiện nhiệm vụ này. Ngoài ra, luật pháp Việt
Nam cũng quy định các doanh nghiệp làm dịch vụ đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài phải có trách nhiệm cử đại diện các nước
nhận lao động để bảo vệ quyền lợi người lao động.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng các bộ ngành liên quan và
chính quyền địa phương thường xuyên theo dõi, phát hiện xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi
của người lao động.
3.4. Hỗ trợ người lao động.
Mọi người đi làm việc ở nước ngoài được đào tạo, bồi dưỡng về tay nghề,
ngoại ngữ, kiến thức pháp luật, phong tục tập quán, các ứng xử trong công
việc và cuộc sống của nước sẽ đến làm việc để người lao động có đủ năng
lực, kiến thức làm việc ở nước ngoài, tránh tình trạng người lao động vi
phạm kỷ luật lao động nước sở tại, bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp.
71
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được Đảng ta xác
định:
- Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, đa dạng, bền vững có
chất lượng hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 3%-3,5%/năm.
- Xây dựng một nông thôn mới giàu đẹp, có kinh tế, kết cấu hạ tầng hiện
đại, môi trường sinh thái sạch đẹp, bản sắc văn hoá được giữ gìn.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tăng
thu nhập của nông dân đạt khoảng 2000-2500 USD/năm. Xây dựng người
nông dân thành người lao động văn minh có văn hoá, có kiến thức kinh tế-
kỹ thuật, biết kinh doanh và có đời sống khá giả.
Vì vậy, để đạt được mục tiêu đó thì việc đào tạo nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nông thôn được coi là giải pháp trọng điểm. Trình độ
chuyên môn kỹ thuật, tay nghề có được nâng cao thì người nông dân mới
có điều kiện, có nhiều cơ hội hơn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường
lao động. Một số biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn:
Thứ nhất, đào tạo nghề nông cho nông dân, chủ yếu là tập huấn, bồi
dưỡng kiến thức cho lao động nông nghiệp qua trung tâm học tập cộng
đồng tại thôn. Sử dụng các mô hình mẫu của chương trình khuyến nông.
Kết hợp hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở trình độ cao hơn tại các trường cao
đẳng, trung cấp nông nghiệp. Xây dựng các mô hình trình diễn ngay trên
đồng ruộng, chuồng trại, ao hồ…sau đó mời nông dân đến tham quan, học
tập huấn luyện, tập huấn kỹ thuật ngay trên những mô hình trình diễn.
Người nông dân có thể đến học tại Trường Đại học Nông nghiệp I hay mời
thầy dạy là các chuyên gia giỏi của các Trung tâm khuyến nông, các
chuyên gia của công ty giống cây trồng, v.v..Người học nghề cũng có thể
72
đến trang trại của các nông dân làm kinh tế giỏi để học chăn nuôi thuỷ sản,
cách trồng cây ăn quả, làm nấm, trồng hoa, chế biến nông sản…Lao động
trẻ ở nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến thức chuyên môn mà kiến
thức xã hội, giao tiếp công đồng, phát triển bản thân còn nhiều khiếm
khuyết. Ở họ dạy nghề thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào
chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác phong làm việc nghiêm túc,
tuân thủ kỷ luật lao động và có tinh thần đồng đội khi làm việc ở bất cứ
môi trường nào.
Thứ hai, đào tạo những nghề thuộc khu vực công nghiệp-dịch vụ cho lao
động nông thôn, chủ yếu là thanh niên, học sinh mới tốt nghiệp phổ thông
hoặc bổ túc văn hoá giúp họ chuẩn bị sẵn điều kiện chuyển sang lao động
phi nông nghiệp. Với lực lượng lao động này, cần đặc biệt coi trọng dạy
nghề, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao
động. Hình thức đào tạo chủ yếu qua các cơ sở dạy nghề trên địa bàn
huyện.
Thứ ba, nâng cao kiến thức và năng lực cho đội ngũ cán bộ xã. Nội dung
đào tạo cho đội ngũ cán bộ xã chủ yếu là về kiến thức pháp luật, quản lý
kinh tế- xã hội, kỹ năng tổ chức thực hiện các chủ trương, đề án của cấp
trên ở địa bàn thôn xã. Thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở trước hết
là ở những thôn, xã khó khăn theo các tiêu chí cơ bản: cán bộ tối thiểu phải
có trình độ học vấn trung học cơ sở và có chứng chỉ được đào tạo sơ cấp về
quản lý nhà nước. Và chỉ bố trí cán bộ vào bộ máy lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở khi học có đủ tiêu chuẩn.
Thứ tư, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông nông thôn. Liệu chất
lượng đào tạo có đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội không?
Muốn vậy công tác giảng dạy, đào tạo luôn phải đổi mới, cập nhật và chuẩn
hoá giáo trình cũng như đội ngũ giáo viên. Về nội dung này cần tập trung
73
thực hiện đồng bộ nâng cấp cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng đôi ngũ
giáo viên. Tiếp tục đầu tư kinh phí cho kiên cố hoá phòng học ở khu vực
nông thôn chưa hoàn thành. hỗ trợ 100% kinh phí sách giáo khoa, sinh hoạt
phí cho học sinh thuộc diện hộ nghèo hoặc đối tượng chính sách xã hội. Có
chính sách đưa cán bộ khoa học-kỹ thuật về nông thôn thông qua việc yêu
cầu thực hiện chế độ nghĩa vụ đối với sinh viên đại học học các ngành liên
quan đến nông nghiệp, nông thôn về công tác tại cơ sở xã thời hạn từ 3 đến
5 năm.
5. Tăng cường hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động.
Đẩy mạnh hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động nhằm tạo
môi trường để người lao động và người sử dụng lao động gặp nhau trên thị
trường lao động là rất cần thiết. Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động của
thông tin thị trường lao động như:
- Tăng cường quản lý và nâng cao chất lượng của các trung tâm dịch vụ
việc làm, hội chợ việc làm, các trang web việc làm trên internet….nhằm tạo
cơ hội cho người lao động tiếp cận với các chủ sử dụng lao động.
- Nâng cao tính chuyên nghiệp và hiện đại hoá thiết bị kỹ thuật của các cơ
quan thống kê và cung ứng thông tin thị trường lao động các cấp.
- Cung cấp thông tin cho người dân biết về số lượng tuyển dụng của các
doanh nghiệp, yêu cầu về độ tuổi, trình độ, ngành nghề tuyển dụng.
6. Khuyến khích nông dân tự tạo việc làm.
Sự tham gia hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước cũng như chính quyền các cấp
chỉ ở một mức độ nhất định. Nhu cầu giải quyết việc làm thì nhiều, song
nhà nước và chính quyền các cấp chỉ có thể giải quyết được một phần nhu
cầu đó. Nếu cứ ỷ lại, trông chờ vào nhà nước thì vấn đề việc làm cho nông
dân bị thu hồi đất sẽ trở nên nan giải hơn rất nhiều. Vì vậy, người nông dân
74
cần chủ động, dựa vào những điều kiện mà bản thân mình và gia đình có
được tìm hướng đi cho mình. Để làm được điều đó cần nâng cao nhận thức
về tự tạo việc làm cho người nông dân. Thay vì sử dụng tiền đền bù thông
thường, có thể hướng dẫn người dân sử dụng bằng những cách hiệu quả
hơn như:
+ Trích một khoản tiền được bồi thường góp vốn vào các dự án khu công
nghiệp hoặc doanh nghiệp trong khu công nghiệp, trở thành các cổ đông.
Các cổ đông cá nhân không chỉ hưởng cổ tức mà còn tập hợp cổ phần, cử
người đại diện tham gia quản lý trong công ty.
+ Sử dụng nguồn tiền làm kinh tế hộ gia đình hoặc thành lập hợp tác xã,
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông qua các hợp đồng cung ứng
nguyên vật liệu, dịch vụ…tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn huyện.
+ Sử dụng tiền đền bù cho mình và con em mình học nghề, chuyển đổi
nghề nghiệp.
7. Hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất.
Một thực tế trong thời gian qua là giá đền bù đất nông nghiệp thấp nhưng
sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất và giao cho doanh nghiệp, giá đất
lại tăng lên hàng chục lần với khoản chênh lệch rơi vào túi nhà đầu tư.
Trong khi việc làm không có, cuộc sống bất ổn. Vì vậy, nhà nước cần có
những biện pháp hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất như:
- Hỗ trợ nông dân tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang phát
triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao, áp dụng các tiến bộ khoa học mới nhằm
tăng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch khu vực sản xuất
nông nghiệp tập trung như vùng chăn nuôi bò sữa, bò thịt, lợn nạc; đẩy
mạnh dồn điền, đổi thửa, phát triển hình thức kinh tế trang trại; đào tạo
người dân có kiến thức sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, hiện
đại. Tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, phát triển
75
dịch vụ công, tài chính công, các loại hình tín dụng để giải quyết vấn đề về
vốn.
- Thành lập Quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, phổ cập giáo dục, học nghề và
việc làm cho các hộ bị thu hồi trên 30% đất sản xuất. Hỗ trợ tiền học phí,
tiền đóng góp cơ sở vật chất trường học cho con em nông dân là học sinh
trong độ tuổi phổ thông. Trợ cấp kinh phí khó khăn, hỗ trợ 100% kinh phí
BHYT cho người trên 60 tuổi đối với nam, trên 55 tuổi đối với nữ. Hỗ trợ
một lần kinh phí đào tạo nghề cho người trong độ tuổi lao động, có nhu cầu
học nghề bằng hình thức cấp thẻ học nghề.
- Xã hội hoá các hoạt động dịch vụ tại các khu đô thị, khu công nghiệp,
tạo điều kiện cho người dân có đất bị thu hồi được tham gia kinh doanh,
nhất là những lao động lớn tuổi, không tìm được việc làm trong các khu
công nghiệp.
8. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX.
HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có
nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức
mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có
hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, góp phân phát triển kinh tế xã hội, đất nước. HTX thực hiện vai
trò “ bà đỡ” thúc đẩy kinh tế xã viên phát triển. HTX xúc tiến các dịch vụ
quan trọng nhất phục vụ sản xuất của các hộ xã viên và cộng đồng, khâu
tưới tiêu nước, cung cấp cây, con giống, hướng dẫn kỹ thuật…; HTX tiến
hành các hoạt động sản xuất, chế biến, giúp đỡ tiêu thụ nông phẩm…Nhờ
tham gia HTX mà những hộ nghèo có điều kiện ổn định và nâng cao năng
lực sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Ở
khu vực nông thôn, các HTX dịch vụ nông nghiệp đã tạo ra một số thay đổi
đáng kể trong quá trình sản xuất nông nghiệp; đồng thời tạo ra nhiều việc
76
làm mới cho xã viên, người lao động thông qua việc triển khai các dịch vụ
phục vụ đời sống và phát triển ngành nghề. Hướng tạo việc làm này đã
giảm sức ép về số lượng lao động trên một đơn vị diện tích đất sản xuất
nông nghiệp và như vậy sẽ có tác dụng tăng hiệu suất sử dụng thời gian lao
động ở khu vực nông thôn. Với vai trò quan trọng như trên, cần phải có
những biện pháp phát huy hơn nữa hieeuj quả hoạt động của HTX. Cụ thể
là:
- Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động các khâu dịch vụ của các HTX
nông nghiệp, mở rộng các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ tín dụng nội bộ, các dịch vụ đời sống, các ngành nghề mới…
- Hướng dẫn thực hiện các chính sách hỗ trợ kinh tế tập thể như chính sách
đất đai, tín dụng đầu tư, hỗ trợ khoa học công nghệ, thông tin, thị trường và
chế độ đối với người lao động và xã viên HTX.
- Rà soát đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ HTX, phối hợp với các
sở ngành của Thành phố hỗ trợ kinh phí cho cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp
vụ HTX tham gia các lớp đào tạo trung và dài hạn. Hằng năm tổ chức các
lớp tập huấn nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ HTX.
- Tăng cường liên kết giữa các HTX, giữa HTX với doanh nghiệp; củng cố
hoạt động của các câu lạc bộ trong HTX.
- Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp cho
nông dân, gắn quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá và vùng sản xuất nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông
sản.
77
III. Một số kiến nghị trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất.
1. Đối với thành phố Hà Nội.
- Tiếp tục tăng cường công tác quản lý nhà nước với các vấn đề xã hội, đặc
biệt là tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. Sửa đổi, bổ sung các chính
sách, giải pháp cụ thể đối với những vùng, khu vực có đất nông nghiệp bị
thu hồi. Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến việc
thu hồi đất và giải quyết tốt quyền lợi và tạo môi trường thuận lợi cho nông
dân.
- Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất,
quy hoạch xây dựng, quy hoạch công nghiệp đã được phê duyệt để có dự
báo, tính toán về nhu cầu đào tạo chuyển nghề cho nông dân.
- Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không sinh sôi nảy nở thêm được. Vì
vậy, trong quá trình lập quy hoạch công nghiệp, đô thị cần nghiên cứu, xem
xét nên quy hoạch tại những khu vực đất nông nghiệp có năng suất thấp,
đất xấu, không nên quy hoạch tại những vùng có điều kiện thuận lợi cho
phát triển nông nghiệp năng suất cao, để đảm bảo sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên đất, an toàn lương thực và phát triển cân bằng, bền vững.
- Quy hoạch sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới
cần thông báo sớm, công khai cho nhân dân được biết. Việc thu hồi đất nên
theo nguyên tắc: nhu cầu đến đâu thì thu hồi đến đó. Đền bù, giải phóng
mặt bằng phải tính đến yếu tố giá cả thị trường trong từng thời điểm nhất
định.
- Nhận thức đúng đắn và cần thiết về vị trí, vai trò chủ thể của nông dân
trong quá trình phát triển nông thôn. Nông dân là chủ thể của quá trình phát
triển nông thôn, cũng có nghĩa là đặt nông dân trở lại đúng vị trí, vai trò
của họ trong sự phát triển, vì mục đích cuối cùng của công cuộc phát triển
78
đất nước là sự phát triển toàn diện của con người. Nông dân phải được
tham gia ý kiến vào quá trình quy hoạch đô thị và khu công nghiệp cũng
như trong quá trình đền bù, giải toả đất nông nghiệp; mọi hoạt động của cơ
quan nhà nước, của các đoàn thể, tổ chức xã hội phải hướng vào nâng cao
đời sống tinh thần và vật chất của nông dân, bảo đảm cho nông dân quyền
được hưởng thụ những lợi ích xứng đáng với những đóng góp của họ.
2. Đối với chính quyền địa phương.
- Cần có những quy định cụ thể, chặt chẽ và kiểm tra thường xuyên đối với
các doanh nghiệp trong vấn đề ưu tiên tuyển dụng và đào tạo nghề cho lao
động ở địa phương có đất bị thu hồi.
- Nhanh chóng triển khai việc bồi thường đất nông nghiệp bằng đất dịch
vụ. Quy hoạch vị trí đất làm dịch vụ gắn với quy hoạch đất khu công
nghiệp, khu đô thị trên cơ sở tham khảo ý kiến của dân.
- Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ quy trình bồi thường, tái định cư, giải
phóng mặt bằng, công khai đến người dân có đất bị thu hồi; đảm bảo việc
cấp phép đầu tư, giao đất, cho thuê đất theo đúng quy định của pháp luật,
tránh tình trạng vội vàng chạy theo phong trào, thu hút đầu tư để giải phóng
mặt bằng khi các vấn đề bồi thường, tái định cư, hướng nghiệp ổn định
cuộc sống người dân chưa được giải quyết.
- Tuyên truyền, động viên, khuyến khích lao động trẻ đi học nghề để nâng
cao tay nghề. Thay đổi nhận thức của người nông dân về việc làm thông
qua các phương tiện thông tin truyền thông, các chương trình phổ cập giáo
dục quốc gia, tổ chức các chương trình tư vấn các mô hình, phương thức
phát triển kinh tế và hỗ trợ các khoá đào tạo kỹ năng, kiến thức kinh tế ứng
dụng cơ bản.
79
KẾT LUẬN
Trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nền kinh tế
nước ta phải chấp nhận một “sân chơi” bình đẳng trong quan hệ kinh tế
quốc tế, sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ nội địa và
nhập khẩu; phải mở cửa thị trường, bảo hộ hạn chế, dỡ bỏ hàng rào thuế
quan…Đây là những thách thức lớn đối với các ngành sản xúat trong nước,
đặc biệt đối với sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn là xu hướng tất yếu của hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Đối với Hà Nội nói chung và huyện Gia Lâm nói riêng, đô thị
hoá nông thôn đã và đang mang lại cho người nông dân ngoại thành nhiều
cơ hội phát triển, cải thiện đáng kể đời sống dân sinh. Tuy nhiên chính tốc
độ đô thị hóa quá nhanh đó đã đẩy hàng chục vạn nông dân bị mất đất rơi
vào cảnh thất nghiệp. Trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai nhiều
chính sách hỗ trợ cho người dân những vùng bị thu hồi đất như chính sách
định cư tại chỗ, hỗ trợ đào tạo nghề, chuyển đổi nghề, nhưng do nhiều yếu
tố khách quan và chủ quan nên số lượng nông dân mất việc làm, thiếu việc
làm vẫn chưa thể khắc phục triệt để. Vậy đâu là lời giải cho bài toán này?
Trước tình hình đó, đề tài “Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm” đã đánh giá và đưa ra
một số giải pháp giải quyết vấn đề này. Đề tài đã đạt được những kết quả
như sau:
- Xác định được vai trò của tạo việc làm.
- Hệ thống hoá kinh nghiệm giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất ở một số nước châu Á.
- Phân tích công tác thu hồi đất trên địa bàn huyện Gia Lâm và tình hình
tạo việc làm cho nông dân. Từ đó rút ra những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất.
80
- Đề xuất một số nhóm giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất,
đồng thời đưa ra một số kiến nghị với nhà nước và chính quyền địa phương
để có thể làm tốt hơn vấn đề tạo việc làm cho nông dân.
Các giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp nhằm
đạt được những mục tiêu về hiệu quả kinh tế cũng như hiệu quả xã hội.
Những kết luận nêu trên tuy còn nhiều hạn chế và bất cập nhưng cũng sẽ có
những đóng góp nhất định cho vấn đề tạo việc làm cho nông dân mất đất,
nhất là trong thời kỳ hội nhập.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo số 08/BC-UB của UBND huyện Gia Lâm về mục
tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của các đề án phát triển kinh tế giai đoạn 2006-
2010.
2. Bộ luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2002 và năm 2006.
3. Giáo trình Dân số và phát triển, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2007.
4. Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân năm 2008.
5. Luật đất đai năm 2003.
6. Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
7. PGS.TS.Nguyễn Tiệp ( Hiệu trưởng trường đại học Lao động-
Xã hội). Việc làm cho người lao động trong quá trình chuyển đổi mục
đích sử dụng đất.
8. Tạp chí cộng sản, Số 22/2008.
9. Ths. Nguyễn Thị Tuyết Mai. Chiến lược phát triển nông
nghiệp của một số nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
MỘT SỐ TRANG WEB
1.
2.
3.
4.
5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm - Hà Nội.pdf