Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập

Từ những vẫn đề lý luận và thực tiễn trên, chúng ta thấy việc trao quyền tự chủ đầy đủ cho nhà trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc trao quyền này phải có lộ trình thích hợp với điều kiện thực tiễn của cơ sở giáo dục. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục kết hợp với việc trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chính là kế sách quan trọng thúc đẩy giáo dục nước nhà tiến lên, hội nhập thành công vào quá trình quốc tế hoá sâu rộng hiện nay.

pdf98 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3516 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập (qua thực tiễn một số cơ sở đào tạo đại học công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa Đảng và Nhà nước thành những biện pháp cụ thể theo kịp yêu cầu phát triển dân trí, nhân lực và nhân tài phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước còn yếu. . Sử dụng không hiệu quả, lãng phí đầu tư của Nhà nước và tiền đóng góp của dân, nên không những đã không tạo được bước chuyển đột phá về cải cách giáo dục, mà còn gây mất lòng tin trong dư luận xã hội. - Điều kiện, năng lực của cơ sở đào tạo đại học công lập: . Hội đồng trường là một cơ chế quyền lực, đại diện pháp lý của Nhà nước, là cơ chế chịu trách nhiệm đối với xã hội, nhưng phần lớn các đại học công lập hiện nay chưa có hội đồng trường, hoặc đã có thì lại chưa phải là một cơ chế quyền lực thực sự. . Cơ chế trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học vẫn chưa rõ ràng. - Sự nhận thức, quản lý của Lãnh đạo cơ sở đào tạo đại học công lập: . Hiệu trưởng các trường, thủ trưởng các đơn vị chưa hiểu rõ thương hiệu của mình, uy tín của mình còn quý hơn tiền được cấp. . Phần lớn các đại học công lập hiện nay vẫn chưa có hội đồng trường, ở các đại học đã có thì lại chưa phải là một cơ chế quyền lực. . Cơ chế “trách nhiệm xã hội” của các cơ sở giáo dục đại học vẫn còn chưa rõ ràng. . Nhiều đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chưa chủ động xây dựng phương án tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính giai đoạn 2007-2009. - Sự nhận thức của cán bộ, viên chức, người lao động trong các cơ sở đào tạo đại học công lập. Một bộ phận cán bộ, viên chức, người lao động trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chưa nhận thức đầy đủ nội dung, mục đích và yêu cầu về thực hiện giao quyền tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp, vẫn còn mang nặng tâm lý ỷ lại, trông chờ bao cấp của nhà nước, e ngại khi thay đổi cơ chế quản lý,... Hiện nay, cả phía trường đại học cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa có được những tiền đề để thực hiện tự chủ theo đúng nghĩa. Để thực hiện tự chủ, trường đại học cần có cách quản trị để hoạt động của trường có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh, minh bạch và trách nhiệm xã hội,.. Quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo phải đảm bảo được định hướng phát triển quốc gia, điều phối nguồn lực có hiệu quả, kiểm soát được chất lượng, “bảo vệ người tiêu dùng” sinh viên, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các trường,… Việc trao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo công lập nói chung, cơ sở đào tạo đại học nói riêng ở nước ta trong thời gian qua có thể nói là chưa được thực hiện một cách triệt để và đầy đủ. Hiện nay các trường đều phải chịu sự phân phối về chỉ tiêu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên các trường không thể vượt quá chỉ tiêu đã được ấn định. Việc thu học phí, mở ngành mới, các trường đều phải xin phép Bộ và theo quy định của Bộ. Vấn đề “tự do học thuật” được UNESCO xem như là một trong những nền tảng chính cho sự vận hành của đại học ngay từ năm 1950 nhưng còn khá xa lạ đối với nước ta. Việc đổi mới tổ chức chưa gắn với đổi mới cơ chế quản lý, nên ngành giáo dục chưa thoát khỏi khó khăn về quản lý khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chương 3 Giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 3.1. Phương hướng triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập Những kết quả bước đầu đã đạt được khẳng định việc triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập là đúng hướng, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, phát huy năng lực và tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, tăng thu nhập cho cán bộ, giảng viên. Tuy nhiên, việc triển khai cơ chế này còn nhiều khó khăn và bất cập cần khắc phục và giải quyết. Trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP và kết quả thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP đến nay, có thể nêu lên các phương hướng triển khai có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cơ sở đào tạo công lập như sau: - Nhà nước khẳng định rõ ràng chủ trương vận dụng những mặt mạnh của cơ chế thị trường vào việc phát triển nền giáo dục, coi cơ chế thị trường như một trong nhiều công cụ tạo động lực mạnh để bổ sung các biện pháp kế hoạch hóa và vận dụng chính sách trong việc điều chỉnh cân đối giữa các mặt: quy mô-chất lượng-hiệu quả; coi cơ chế thị trường lành mạnh là một đòn bẩy đảm bảo cho quá trình hội nhập và phát triển, có thể và cần phải vận dụng có chọn lọc, đảm bảo công bằng trong cạnh tranh giữa các tổ chức giáo dục - đào tạo trong và ngoài nước dưới sự quản lý một cách chính thức và chặt chẽ của Nhà nước. Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền với việc thực hiện đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người lao động. - Trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong những nguyên tắc lớn và sự quản lý thống nhất của nhà nước đối với giáo dục-đào tạo, phát huy tính tự chủ, bản sắc riêng và tính cạnh tranh trong đào tạo đại học và dạy nghề, Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho những ngành nghề cần thiết nhưng tính cạnh tranh thấp. - Nhà nước phải thực hiện các giải pháp then chốt nhằm tạo bước đột phá trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, trong đó mở rộng khu vực ngoài công lập và chuyển các cơ sở công lập hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính “hành chính bao cấp” sang hoạt động theo cơ chế “tự chủ cung ứng dịch vụ” không bao cấp tràn lan. - Từng bước giảm bớt sự tham gia trực tiếp của Chính phủ vào giáo dục đại học, mà giao cho thị trường. Bộ Giáo dục và Đào tạo làm đúng chức năng quản lý nhà nước: chỉ định hướng và đề ra chiến lược cho phát triển giáo dục, ban hành các chuẩn mực thiết yếu của các trường đại học và tiến hành công tác thanh tra giáo dục mà không can thiệp sâu vào các công việc cụ thể của nhà trường, đồng thời giao quyền tự chủ đầy đủ cho tất cả các trường đại học công lập cũng như tư thục. - Các cơ quan quản lý nhà nước đổi mới phương thức quản lý giáo dục, quản lý bằng mục tiêu, pháp luật, chiến lược và chính sách vĩ mô, tránh việc quản lý theo kiểu “ôm đồm, sự vụ” hay quản lý theo kiểu can thiệp sâu vào công việc của từng trường học. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện cải cách hành chính, hoàn chỉnh dần các chức năng quản lý của các bộ, ngành theo hướng tách nhiệm vụ quản lý nhà nước ra khỏi các hoạt động mang tính “tác nghiệp”, Bộ không nên “ôm” các hoạt động chuyên môn của cơ sở mà nên sớm giao lại để họ tự quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình đó, Bộ không hoàn toàn thả nổi, buông lỏng quản lý. - Khi giao quyền tự chủ cho các trường thì bộ phải tăng cường khâu quản lý, kiểm tra, giám sát. Nhưng hiện tại, thanh tra của ngành giáo dục chưa mạnh cả về số lượng và chất lượng. Mặc dù đã cố gắng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn tư tưởng e ngại, né tránh, phó thác mọi việc cho thanh tra chuyên ngành. Bản thân công tác thanh tra, kiểm tra là phải thực hiện ngay trong các vụ làm chức năng chuyên môn giúp lãnh đạo bộ quản lý. Đó là phần việc lớn, rất quan trọng cần được chú trọng, quan tâm. - Tổ chức rút kinh nghiệm kỹ việc xây dựng hai đại học quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh để có căn cứ thực tiễn và lý luận vững chắc cho đề án đổi mới cải cách nền giáo dục đại học, đặc biệt trên hai vấn đề lớn là xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế và việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học. - Mỗi trường đại học là một trung tâm trí tuệ với những đặc thù riêng, từng trường sẽ căn cứ vào năng lực của mình và nhu cầu việc làm của xã hội được quyền tự quyết định chương trình đào tạo về chuyên môn, có quyền tự chủ về tài chính. Các trường cần chủ động hơn trong các hoạt động, không quá ỷ lại và trông chờ vào những hướng dẫn chi tiết của Bộ. - Đào tạo không nhất thiết phải theo chỉ tiêu nhà nước giao mà còn phải theo dự báo nhu cầu tương lai, đào tạo không chỉ phục vụ cho cơ quan nhà nước và kinh tế quốc doanh, mà còn phục vụ cho các thành phần khác, đào tạo không chỉ bằng ngân sách nhà nước mà còn bằng cả học phí, đào tạo không nhất thiết phải phân công công tác mà phải tự tìm việc làm. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý nhà nước xác định những mục tiêu và giải pháp cơ bản, mang tính tầm ngắn hạn, tầm xa cho công tác quản lý giáo dục. Các trường đại học gắn kết với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp, đào tạo theo đơn đặt hàng. - Trường đại học được quyền tự quyết định thu học phí. Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung vào công việc kiểm định cơ sở vật chất, chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng giáo dục đào tạo, từ đó thông báo cho dân chúng biết. - Các cơ sở giáo dục được tự chủ chương trình giảng dạy, môn dạy, đặc biệt giáo viên được toàn quyền tự chủ về phương pháp giảng dạy, cấu trúc chương trình giảng dạy. Giáo viên được chọn hướng dẫn môn học theo nghiên cứu chuyên sâu của bản thân. Xoá bỏ sự phân biệt không đáng có giữa giảng viên biên chế, hợp đồng; giữa giảng viên công lập và ngoài công lập. Đây là một khâu mấu chốt để giải quyết những vấn đề khác. - Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục - đào tạo. Nhà nước xoá bỏ dần việc cấp ngân sách cho khối giáo dục và đào tạo, từ mầm non đến đại học, thay vào đó là cấp học bổng trực tiếp cho học sinh giỏi, học sinh nghèo. Thông tin về học bổng được công khai ở các cơ sở như tổ/xóm, xã/phường. Người học nhận phiếu học bổng sẽ tuỳ ý chọn trường. Nhà nước dùng học bổng để điều tiết và phân luồng sau phổ thông. Ai muốn học trường có học phí cao hơn học bổng thì hoặc phải đóng thêm tiền hoặc nhà trường bảo lãnh cho vay. Từ đó, Nhà nước sẽ xoá bỏ sự phân biệt trường công và trường tư trong đầu tư ngân sách của Nhà nước trong giáo dục. Tiền xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị, trả lương giáo viên,… phải được dựa trên số học sinh có trong trường. Như vậy, Nhà nước sẽ tạo được sự cạnh tranh lành mạnh về chất lượng và thương hiệu của các trường. - Xây dựng một nền giáo dục đại học chất lượng cao theo hướng chuẩn hoá trên cơ sở phát huy yếu tố truyền thống dân tộc và hiện đại hoá tương thích được với các chuẩn giáo dục đại học của khu vực và quốc tế. 3.2. Các giải pháp thúc đẩy triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học ở nước ta hiện nay phải được coi là động lực chủ yếu, là đòn bẩy để nhanh chóng phát triển giáo dục đại học, là giải pháp cơ bản và hữu hiệu trong xoá bỏ cơ chế “xin-cho” rơi rớt của chế độ tập trung, bao cấp đang tồn tại nặng nền hiện nay ở nước ta trong quản lý giáo dục nói chung và quản lý giáo dục đại học nói riêng. Giao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường sẽ là “khoán 10” đối với phát triển giáo dục đại học. Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn 2006-2020 là văn bản pháp lý có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ trước đến nay về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, Nghị quyết còn nêu chung chung và thiếu lộ trình, thời gian, cách thức thực hiện. Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập cần tập trung vào các nội dung sau: - Cách thức, lộ trình thực hiện xoá bỏ cơ chế chủ quản trong quản lý các trường đại học. Nghị quyết 14 của Chính phủ đã nêu: "Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ", "xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản" (phần 3, mục e) nhưng đến nay, các trường đại học thường vẫn phải xin phép Bộ phê duyệt mở ngành. Việc xóa bỏ cơ chế chủ quản sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý nhà nước về giáo dục đại học được tập trung vào đầu mối quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là Việt Nam hiện nay có đến 17 bộ ngành cùng tham gia quản lý các trường đại học, do đó, việc sắp xếp và điều hành sẽ được thực hiện như thế nào, lộ trình thực hiện đến đâu, mâu thuẫn nào sẽ nảy sinh,... cần được xác định cụ thể hơn. - Làm rõ một số vấn đề trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 và Điều lệ trường đại học ban hành năm 2003. + Tự chủ đại học là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đối với việc đổi mới giáo dục nước ta. Tuy nhiên, Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 và Điều lệ trường đại học ban hành năm 2003 còn nhiều vấn đề quan trọng nổi cộm chưa được làm rõ, hoặc chưa kịp giải quyết thoả đáng, đặc biệt cần nghiên cứu những quan điểm đổi mới triệt để, đáp ứng đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của đất nước, của thời đại. Chẳng hạn, Luật Giáo dục 2005 có quy định trường đại học được "xây dựng chương trình, giáo trình,... xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh,..." (Điều 60), nhưng trên thực tế, các trường đều phải làm theo quy định, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Điều 20, Luật Giáo dục 2005 có ghi "Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi" trong khi chấp nhận cơ chế thị trường trong giáo dục đại học thì không thể xác lập quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm thật sự cho các trường đại học Việt Nam. + Luật Giáo dục 2005 chỉ đưa ra những quy định chung về "quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm" của trường đại học (Điều 60), còn đến nay vẫn chưa ban hành Luật Giáo dục đại học. Nhà nước nên sớm ban hành văn bản quy định cụ thể về quyền của các trường đại học - đơn vị sự nghiệp đặc thù trong việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. + Các trường đều có Hội đồng trường (Điều 53, Luật Giáo dục) nhưng đến nay có rất ít trường đã thành lập Hội đồng trường hoặc đã có nhưng chưa phát huy hết quyền lực. Điều lệ trường đại học 2003 ghi "Khi hiệu trưởng không nhất trí với quyết nghị hoặc kết luận của hội đồng trường thì kịp thời báo cáo xin ý kiến cơ quan chủ quản", Như vậy, hiệu trưởng có quyền phản đối quyết nghị của hội đồng trường-bằng cách "xin ý kiến cơ quan chủ quản". Điều này cho thấy vai trò của hội đồng trường không được coi trọng. Song song đó, Nghị quyết quy định nhà trường "có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu" nhưng không rõ trách nhiệm "đào tạo" như thế nào, nhà trường có được tự do trong việc hình thành chương trình giảng dạy riêng và không theo khung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo? Do đó, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò, vị trí của Hội đồng trường vì Điều lệ Trường đại học chỉ nói chung chung. - Xây dựng cơ chế huy động vốn (từ cán bộ, giảng viên), vay vốn hoặc liên doanh liên kết với các trường nước ngoài, với các doanh nghiệp,... Việc huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho các trường đại học công lập có khả năng tài chính, đảm bảo cho hoạt động đào tạo có chất lượng. Nhưng với cơ chế hiện nay, các trường đại học chưa chủ động, thuận lợi trong việc huy động vốn từ cán bộ, giảng viên, công nhân viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính cần xây dựng quy chế rõ ràng, thủ tục đơn giản trong việc huy động vốn, sử dụng nguồn tài chính của các trường đại học công lập. - Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về định mức, tiêu chuẩn, chính sách, chế độ (định mức giờ giảng, thu quản lý quỹ học phí, định mức biên chế, chế độ làm việc, định mức lao động,...), các văn bản hướng dẫn trong quá trình thanh toán, giải ngân qua hệ thống kho bạc làm cơ sở cho các trường đại học thực quyền có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Hiện nay, tất các những quy định này đều chưa đủ, chưa phù hợp với hiện tại nên các trường đại học không thể chủ động trong việc đánh giá hết hoạt động của mình, việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ chưa được sát thực và có hiệu quả. - Xây dựng và ban hành các văn bản quy định tiêu chí cụ thể để đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng hoạt động giáo dục - đào tạo của các bộ phận trong từng đơn vị đào tạo công lập khi thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Hiện nay, nước ta chưa có chế tài đủ mạnh để hạn chế những việc cố ý làm trái pháp luật nên Nhà nước phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế tài hạn chế những điều đó. Bên cạnh những chế tài đó, cần phải có cuộc vận động sâu rộng để từng hiệu trưởng các trường, thủ trưởng các đơn vị hiểu được thương hiệu của mình, uy tín của mình còn quý hơn tiền được cấp. 3.2.2. Đổi mới cách thức quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các trường đại học theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học - Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, chức trách, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và nhất là cho các trường đại học. Chính phủ thành lập tiểu ban giám sát quá trình thực hiện quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội thuộc Hội đồng quốc gia giáo dục. - Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các bộ, ngành liên quan tập trung xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học và hệ thống các chính sách đồng bộ về giáo dục đại học. Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, vừa là nền tảng, vừa là động lực để phát triển đất nước, hội nhập tốt hơn. Thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập là yêu cầu quan trọng của nền giáo dục nước nhà trong xu thế hội nhập và phát triển. Do đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các bộ, ngành liên quan, trước hết cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học và hệ thống các chính sách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giúp các trường đại học có thể thực thi quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của mình một cách thuận lợi nhất, nhanh nhất và có hiệu quả nhất. Nhà nước chỉ xây dựng chiến lược và kế hoạch chiến lược, từ đó hệ thống giáo dục và đào tạo sẽ chuyển động theo cơ chế tự lựa chọn, tự tối ưu hoá dưới sự định hướng và quản lý của Nhà nước. - Hoạch định quản lý chiến lược cho công tác quản lý giáo dục trên cơ sở phân tích được cơ hội và thách thức bên ngoài. Hiện nay, nước ta có những thuận lợi như: môi trường quốc tế hoá giúp chúng ta hội nhập được những phương thức quản lý tiên tiến, tiến tới chuẩn hoá các tiêu chuẩn giảng dạy, định lượng được một số phương diện giáo dục,… Tuy nhiên, những thách thức cũng không nhỏ, đó là công nghệ giáo dục, dụng cụ học tập, phương tiện giảng dạy,… còn rất lạc hậu. Chúng ta có thế mạnh là cơ chế quản lý ổn định, đội ngũ những người làm công tác quản lý có kinh nghiệm lâu năm nhưng chưa thiết lập được hệ thống tiêu chuẩn đánh giá những điểm mạnh, yếu bên trong; tư duy phân cấp về quyền tự chủ còn lạc hậu, bảo thủ, chế độ đãi ngộ chưa tương xứng,… - Thay đổi nhận thức từ lãnh đạo bộ, lãnh đạo vụ đến các chuyên viên; thay đổi phong cách làm việc, thậm chí là những lợi ích cục bộ. Phong cách làm việc của lãnh đạo (quyền uy, dân chủ,...) có ảnh hưởng lớn đến nhận thức, phong cách làm việc của cấp dưới. Nhận thức, phong cách làm việc của lãnh đạo, chuyên viên các cơ quan quản lý cần được thay đổi theo hướng tăng tính kiểm tra, giám sát, kiểm định chất lượng. Các cơ quan quản lý nhà nước sẵn sàng hy sinh lợi ích cục bộ để trao quyền tự quyết cho các trường đại học công lập khi nhà trường có đủ điều kiện và sẵn sàng nhận. Đồng thời, việc trao quyền tự chủ này phụ thuộc vào các điều kiện về cơ sở vật chất của trường đại học công lập, trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, cán bộ, công nhân viên của nhà trường. - Hoàn thiện và triển khai rộng mô hình các đại học quốc gia hiện nay đang được “hưởng” quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội cho tất cả các trường đại học trong cả nước. Việc thực hiện quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội mà các trường đại học quốc gia đang thực hiện tuy chưa được tự chủ hoàn toàn nhưng nó cũng tạo điều kiện thuận lợi nhiều hơn các trường khác trong hoạt động của mình. Hoàn thiện mô hình này sẽ giúp các trường đại học công lập hoạt động ngày càng có hiệu quả, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nhằm tiến tới xoá bỏ đẳng cấp trong giáo dục đại học mang nặng tính hình thức như hiện nay để trong tương lai gần, giáo dục đại học chỉ còn phân biệt các trường theo chất lượng đào tạo và chất lượng nghiên cứu khoa học. - Nhà nước tạo hành lang pháp lý về chính sách học phí phù hợp làm cơ sở cho các trường đại học tự quyết định mức thu. Học phí phải đủ bù đắp cho công tác đào tạo, phù hợp với thu nhập của các khối dân cư, bao gồm cả xây dựng cơ bản và trả lương xứng đáng cho các thày cô. Trên cơ sở đó, Nhà nước tính toán và ban hành chính sách học phí trên một sinh viên phù hợp làm cơ sở cho các trường tự quyết định mức thu. Các trường sẽ phải cạnh tranh trong dịch vụ và chất lượng đào tạo để thu hút sinh viên. - Các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng cung cấp thông tin, kiểm soát chất lượng đầu ra và định hướng đào tạo thống nhất cho các trường đại học công lập. Quản lý nhà nước về giáo dục là điều khiển hoạt động dạy và học nhằm biến đường lối, chính sách giáo dục thành hiện thực. Nguyên tắc trong điều khiển hoạt động dạy và học là phải đảm bảo mối liên hệ ngược, tức là bảo đảm truyền tải thông tin từ các bộ phận tới trung tâm, giúp cho việc tự điều chỉnh hoạt động của hệ thống được tối ưu. Cơ quan quản lý nhà nước tập trung kiểm định cơ sở vật chất, chất lượng đội ngũ giảng viên, trên cơ sở đó thông báo để dân chúng biết và lựa chọn trường học. Các cơ quan này không nên can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của trường, nhất là về tài chính, nhân sự. - Xoá bỏ cơ chế bộ chủ quản, khi đó nhà trường sẽ chủ động trong tất cả các hoạt động trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nhà trường chủ động và hoạt động có hiệu quả những nhiệm vụ của mình khi Nhà nước tạo hành lang pháp lý phù hợp với cơ chế mới, xác định rõ ràng, đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của tất cả các cơ quan quản lý cũng như của trường đại học. Trước mắt, Bộ Giáo dục và Đào tạo làm việc với các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đang quản lý các trường đại học để thống nhất việc quản lý, đảm bảo triển khai có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các trường đại học công lập nhằm nâng cao công tác quản lý chất lượng đào tạo ở các trường. - Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát theo đúng chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục. Các cơ quan quản lý nhà nước tránh làm thay hoặc gây phiền hà, cản trở những nghiệp vụ và sự vụ thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của trường đại học. Việc kiểm tra được thực hiện một cách nghiêm túc toàn bộ, nhất là vấn đề đầu tư, chi tiêu ngân sách nhà nước và đóng góp của nhân dân cho giáo dục. Các bộ, ngành phối hợp tập trung xây dựng một cơ chế phân bổ và quản lý vốn đầu tư từ tất cả các nguồn khác nhau cho giáo dục - đào tạo. Kiểm soát chi của cơ quan Kho bạc nhà nước phải thật sự tạo điều kiện cho các đơn vị. Cơ quan Kiểm toán nhà nước cũng phải dựa vào quy định tự chủ, tự chịu trách nhiệm để thực thi công việc. - Thực hiện chính sách xã hội hoá giáo dục, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổng công ty mở trường hoặc liên kết mở trường, Nhà nước ưu đãi về vốn và mặt bằng. Quyền tự chủ trong giáo dục còn là việc nhà nước phải mạnh dạn thực hiện phân cấp theo hình thức tư nhân hóa cho các cơ sở giáo dục bằng các biện pháp thực tế như: mở rộng tính tự chủ trong đào tạo, tài chính, nhân sự và bộ máy. Đặc biệt trong cách thức và phương pháp đào tạo, phải tạo ra cơ chế “mềm dẻo” nhằm phát huy tối đa thế mạnh của từng cơ sở giáo dục. Mô hình này được triển khai và mở rộng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trong việc đào tạo theo nhu cầu của xã hội vì chính các đơn vị này sẽ tham gia xây dựng chương trình đào tạo và tiếp nhận sản phẩm đào tạo. - Nâng cao chất lượng giáo dục đại học thông qua sự kiểm định chất lượng. Nghị quyết 14 đã thể hiện quyết tâm cao độ của Chính phủ về việc đổi mới giáo dục đại học, đặc biệt ở phần bảo đảm và kiểm định chất lượng đại học. Tuy nhiên, việc Chính phủ cho thành lập đại trà các trường đại học ở hầu hết các tỉnh thành trong các nước sẽ dẫn đến việc kiểm định và bảo đảm chất lượng ngày càng khó khăn hơn. Trong khi đó, việc quản lý và kiểm định chất lượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì trong những năm qua dường như chưa được báo cáo cụ thể ngoại trừ việc tự đánh giá diễn ra ở các trường trọng điểm. Chính vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường công tác kiểm định chất lượng đào tạo. - Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đội ngũ giảng viên. Giảng viên trong trường đại học giữ vai trò là người hướng dẫn giúp người học đến với tri thức. Hiện nay ở nước ta, Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn tới giảng viên và những gì được dạy trong lớp học. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khoá VIII đã xác định: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục”. Chỉ thị 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng chỉ rõ: “Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”. Do đó, việc cấp bách cần thực hiện giải pháp đào tạo, đãi ngộ đội ngũ giáo viên. Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng hàng đầu quyết định chất lượng và hiệu quả của giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách quản lý đối với đội ngũ giảng viên, Chính phủ có ảnh hưởng rất nhỏ đến giảng viên. Giảng viên có quyền lớn nhất trong việc quyết định dạy gì, dạy như thế nào, nhưng vẫn đảm bảo định hướng giáo dục đào tạo của Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu thực tế nâng cao chất lượng giáo dục, Nhà nước đảm bảo các chế độ đãi ngộ tài chính, từng bước “xã hội hoá” hoạt động giáo dục song hành với “xã hội hoá” đội ngũ giảng viên. Có chính sách trọng dụng người tài. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý của chức vụ Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trước khi bổ nhiệm. Phần lớn, hiệu trưởng các trường đại học ở nước ta được bổ nhiệm nhưng chưa qua lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý. Do đó, những sai lầm xảy ra trong quản lý là tất yếu, nhất là trong quản lý tài chính. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước nên chủ động phối hợp với những nước tiên tiến tổ chức lớp bồi dưỡng hiệu trưởng các trường đại học theo hình thức liên kết; Thực hiện đánh giá hiệu trưởng qua ý kiến giảng viên; đánh giá giảng viên qua ý kiến của sinh viên. 3.2.3. Hoàn thiện phương thức hoạt động và quản lý của cơ sở đào tạo đại học công lập trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm - Đổi mới tổ chức và hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường. Nhà trường chủ trương xây dựng một cơ cấu tổ chức linh hoạt, lấy bộ môn làm hạt nhân, củng cố phát triển các khoa và các đơn vị chức năng. Đồng thời, nhà trường cần xây dựng một cơ chế thích hợp cho chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên thông qua các chương trình đào tạo mới và đào tạo lại. - Thực hiện việc Hiệu trưởng quyết định mức lương của giảng viên. Triển khai thành lập và tăng cường vai trò của Hội đồng trường. - Nhà trường khai thác triệt để các nguồn lực hiện có thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo. Nhà trường xác định hướng phát triển trường theo hướng nghiên cứu hoặc hướng nghề nghiệp ứng dụng; Tự xây dựng chương trình giảng dạy và học tập cho tất cả các ngành, nghề trong trường theo hướng dân tộc, hiện đại, chuẩn hoá, liên thông và chất lượng để chủ động hội nhập được với giáo dục đại học khu vực và quốc tế. Nhà trường chủ động về chương trình và tài liệu phục vụ giảng dạy theo hướng đào tạo ngành nghề của trường. Các trường đại học tăng cường khai thác và cung cấp cho xã hội các sản phẩm nghiên cứu, ứng dụng và triển khai các tiến bộ khoa học, công nghệ vào cuộc sống nhằm đem lại nguồn thu thông qua các hợp đồng NCKH, chuyển giao công nghệ, tham gia các đề án phát triển kinh tế xã hội của các địa phương. - Trên cơ sở luật pháp và quy định của nhà nước, Nhà trường chủ động thiết lập mối quan hệ hợp tác quốc tế. Với quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội, nhà trường chủ động phối hợp với các trường đại học và cơ sở nghiên cứu, đào tạo khác trong khu vực và quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học; xây dựng trung tâm du học tại chỗ trong trường; tự cử và quyết định các đoàn ra và đón các đoàn vào. Nhà trường có chính sách riêng để thu hút các chuyên gia quốc tế giỏi hỗ trợ trong đào tạo và nghiên cứu; Chủ động tham gia thị trường đào tạo nguồn nhân lực quốc tế và xuất khẩu lao động trình độ cao. - Thu hút cán bộ có năng lực quản lý, giảng viên giỏi về làm việc tại trường. Trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kế hoạch, tài chính và con người, nhà trường đầu tư kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau để thu hút các cán bộ quản lý có năng lực cao và giảng viên giỏi chuyên môn về làm việc tại trường nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng đào tạo. - Nhà trường được quyền tự quyết vấn đề tuyển sinh (thi môn gì, lấy bao nhiêu sinh viên theo học) trên cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên hiện có. Chỉ tiêu tuyển sinh được Nhà trường xác định gắn với điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, với thị trường sức lao động địa phương trong nước và cả ngoài nước. Khi đó, phụ huynh và sinh viên được toàn quyền trong việc lựa chọn trường học, ngành học. - Đổi mới tổ chức, quản lý, nội dung, phương pháp giảng dạy trong nhà trường nhằm hướng tới thỏa mãn nhu cầu người học trong một nền giáo dục đại học gắn với phát triển kinh tế-xã hội, gắn với thị trường lao động. Để có một nền giáo dục đại học chất lượng cao theo hướng chuẩn hóa cần phát huy yếu tố truyền thống dân tộc học và hiện đại hóa tương thích được với các chuẩn giáo dục đại học khu vực và thế giới. Trường đại học không chỉ là nơi cung cấp thông tin, giúp người học hiểu được, nhớ được, nắm được tri thức mà quan trọng hơn phải là vận dụng nhanh chóng những gì học được vào thực tiễn cuộc sống trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Mỗi trường đại học cần tạo điều kiện để từng thành viên trong trường, từng người học có thể phát huy được hết năng lực, sở trường và sự sáng tạo của mình trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập. Thủ tục hành chính trong nhà trường cần đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng nhưng hiệu quả. - Bảo vệ quyền lợi của cán bộ, giảng viên, công nhân viên thông qua hoạt động của Tổ chức công đoàn nhà trường. Tổ chức công đoàn nhà trường là người kiểm tra, giám sát hoạt động của Ban Lãnh đạo nhà trường và là người bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của cán bộ, giảng viên, công nhân viên. Quy chế dân chủ trong nhà trường được thực hiện nghiêm túc khi Công đoàn nhà trường phát huy có hiệu quả vai trò của mình. Vai trò tự chủ của hiệu trưởng càng được mở rộng trong quá trình quản lý nhà trường thì vai trò của tổ chức công đoàn nhà trường càng phải phát huy mạnh mẽ nhằm đảm bảo quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện nghiêm túc, triệt để. - Chuyển quản lý trường đại học từ cách quản lý hành chính sang quản lý chất lượng và hiệu quả đào tạo. Phát huy toàn diện khả năng, năng lực và mũi nhọn chuyên sâu của từng trường bằng cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa. 3.2.4. Đổi mới cơ chế tài chính trong các đơn vị sự nghiệp đào tạo đại học công lập Đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập nói riêng là một công tác trọng tâm của quá trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006-2010. Đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy hoạt động của các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập gắn với nhu cầu của xã hội, đảm bảo chất lượng và có hiệu quả, góp phần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh hiện nay, nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho giáo dục còn hạn hẹp, việc trao quyền tự chủ đầy đủ cho các cơ sở giáo dục là biện pháp hữu hiệu để phát triển giáo dục, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm tạo ra cuộc cách mạng kỳ diệu trong công cuộc phát triển giáo dục ở nước ta. Mặt khác, mục tiêu giáo dục luôn được ưu tiên hàng đầu là nâng cao chất lượng giáo dục, phù hợp với thực tiễn phát triển cuộc sống. Do vậy, trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, thực hiện chương trình khung mềm dẻo thích ứng nhanh nhạy với môi trường bên ngoài, kích thích người học phát huy những kiến thức thực tiễn của chính mình. - Thực hiện lập kế hoạch và giao trần ngân sách trung hạn (3 năm) cho tất cả các cơ sở đào tạo đại học. - Điều chỉnh từng bước cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho các cơ sở đào tạo đại học công lập theo hướng ưu tiên. - Hoàn thiện cơ chế học phí theo hướng học phí được xác định trên cơ sở tính toán đầy đủ chi phí dạy và học, chia sẻ hợp lý trách nhiệm chi trả giữa nhà nước, xã hội và người học. Tiếp tục hỗ trợ học phí cho sinh viên diện chính sách, thực hiện tín dụng ưu đãi đối với sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Học phí phải vượt chi phí đào tạo để còn có phần tích luỹ tái đầu tư. Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn cấp học bổng cho sinh viên. - Giao quyền tự quyết mức chi cho nhà trường trong việc chủ động thực hiện quyền tổ chức nhân sự, học thuật, hợp tác quốc tế. Nhà nước ban hành cơ chế để kiểm soát. Hiện nay, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học công lập chỉ mới được thực hiện trên cơ sở nguồn ngân sách nhà nước cấp và nguồn thu sự nghiệp. Để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực sự của các cơ sở giáo dục đại học công lập, Nhà nước cần thực hiện việc cấp kinh phí đào tạo cho các cơ sở đào tạo đại học công lập theo hình thức đặt hàng. Chi phí đào tạo, bồi dưỡng được tính toán cụ thể cho từng người học (trang thiết bị, cơ sở vật chất, lương giảng viên, ….) trên cơ sở thu đủ chi và có tích lũy, tái đầu tư. - Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường. Có chuẩn bị tốt các điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất,... mới thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ. Nguồn kinh phí đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị, tiền trả lương giảng viên,... được tính toán dựa trên số lượng sinh viên theo học tại trường nhằm tạo sự cạnh tranh chất lượng và thương hiệu của chính các trường. - Các trường tạo mối quan hệ với các doanh nghiệp, áp dụng xu hướng đào tạo “đặt hàng” của doanh nghiệp. Chú trọng vấn đề đào tạo theo nhu cầu sử dụng của xã hội, mỗi đơn vị đào tạo đại học công lập có quan hệ chặt chẽ với các nhà đầu tư, doanh nghiệp, tăng đào tạo theo địa chỉ sử dụng. 3.2.5. Nâng cao trình độ chuyên môn, nhận thức của cán bộ, giảng viên, sinh viên các cơ sở đào tạo đại học công lập nhằm thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm - Xác định rõ trách nhiệm của từng cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ. Việc xác định rõ trách nhiệm và quyết tâm đổi mới phải được thực hiện từ trung ương đến cơ sở, từ giám đốc, hiệu trưởng các trường đến các chủ nhiệm khoa, từng giảng viên. Nhà trường tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân trong hoạt động quản lý, giảng dạy, học tập. Có như vậy, việc đổi mới mới thật sự sâu, rộng và đạt kết quả cao. - Phát huy vai trò của tổ chức đảng trong các trường đại học với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Tính dân chủ thực sự giúp cán bộ, giảng viên, sinh viên có trách nhiệm cao khi cùng tham gia quản lý công việc của nhà trường. Đây cũng là trách nhiệm của lãnh đạo nhà trường nhằm tạo động lực để trường đại học ngày càng phát triển. Thực tế, ngành giáo dục có tính bảo thủ tương đối cao, và tâm lý “trên bảo dưới nghe” ở các trường rất phổ biến. Lý do chính là chưa có cơ chế để thực sự phát huy dân chủ nên tiếng nói của cấp dưới không được chú ý hoặc nói nhiều những không được giải quyết triệt để. Do đó, tăng cường phát huy dân chủ ở các trường đại học là vô cùng quan trọng để làm sao người lao động, giảng viên, cán bộ công nhân viên thực sự tham gia quản lý công việc của nhà trường. Trách nhiệm này, phần lớn thuộc về lãnh đạo các cơ sở đào tạo đại học. Việc thực hiện dân chủ hoá trong đảng bộ các trường đại học nước ta không chỉ đem lại sự thống nhất, đoàn kết trong nội bộ tổ chức đảng của nhà trường mà còn đem lại sự thống nhất trong phối kết hợp công tác giữa đảng uỷ, ban giám hiệuv à các đơn vị, đoàn thể trong trường. Thực hiện công tác tuyên truyền, dân chủ sâu rộng đến từng cán bộ, giảng viên, sinh viên trong nhà trường hiểu rõ thương hiệu, uy tín của mình còn quý hơn tiền được cấp. - Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội đối với các hoạt động của nhà trường. Các nghị quyết của đảng uỷ, các kế hoạch, chương trình hành động của chính quyền, đoàn thể được đông đảo cán bộ, đảng viên tham gia góp ý, xây dựng đã thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đúng với đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị. Hiệu trưởng là người điều hành mọi hoạt động của nhà trường trên cơ sở các nghị quyết của đảng uỷ, kế hoạch, chương trình hành động của chính quyền, đoàn thể và chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội về mọi hoạt động như: Tổ chức và sử dụng đội ngũ giảng viên, công chức và các cán bộ khác trong biên chế và hợp đồng của nhà trường; Thực hiện quy chế dân chủ, quy chế chi tiêu nội bộ, công khai việc sử dụng biên chế và tài chính trong trường; Tạo điều kiện để các thành viên của trường được tham gia thực hiện và giám sát theo tinh thần dân biết, dân làm, dân kiểm tra; Định kỳ báo cáo cơ quan quản lý cấp trên về kết quả hoạt động toàn diện của trường. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, công nhân viên trong nhà trường từ khâu tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ. Nhận thức rõ vai trò người thầy là nhân tố quan trọng, quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và thực hiện thành công 3 mục tiêu của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy, các trường đại học cần đổi mới tư duy về công tác lựa chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cán bộ quản lý ngành giáo dục - đào tạo; xoá bỏ sự phân biệt giữa giảng viên biên chế với giảng viên hợp đồng để có một đội ngũ giảng viên có chất lượng và hiệu quả. - Đẩy mạnh việc bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao tay nghề đối với cán bộ quản lý tài chính, kế toán các trường đào tạo công lập bằng nhiều hình thức khác nhau để hoạt động tài chính đi vào nề nếp và lành mạnh hơn. - Hoàn thiện tổ chức và hoạt động thanh tra trong các cơ sở giáo dục đại học. Trong điều kiện nhà nước chủ trương phân cấp mạnh hơn cho các cơ sở, trao quyền tự chủ thực sự, tối đa cho các trường thì thanh tra được coi là một chức năng thiết yếu của công tác quản lý. Vì vậy, việc hoàn thiện tổ chức thanh tra và tăng cường hoạt động thanh tra trong các trường đại học nhằm giúp các trường đảm bảo thực hiện đúng các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định, quy chế của ngành. 3.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện giải pháp triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các cơ sở đào tạo đại học công lập 3.3.1. Nhà nước sẵn sàng trao; Trường sẵn sàng nhận Quá trình tự chủ diễn ra khi cơ quan quản lý giáo dục sẵn sàng hy sinh một phần quyền lực và các trường dám nhận quyền lực được trao. Trên thực tế, có những trường đại học năng lực yếu kém rất ngại “khoán” và có tâm lý ỷ lại nhà nước. Để có thể nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, các trường cần chuẩn bị đủ các điều kiện về nguồn lực, nhân lực, vật lực nhằm hoạt động có hiệu quả cao. Khi trao quyền tự chủ cho trường đại học, Nhà nước phải xây dựng khung chính sách, đảm bảo điều phối nguồn lực hiệu quả, thiết kế cơ chế kiểm soát quyền lực và phải kiểm soát được chất lượng, buộc các trường đại học phải có trách nhiệm đối với người học nói riêng và xã hội nói chung. 3.3.2. Chuyển từ “xin cho ban phát” sang định hướng chiến lược Quá trình chuyển từ “xin cho, ban phát” sang định hướng chính sách, xây dựng chiến lược, điều phối, kiểm tra, giám sát đòi hỏi năng lực đội ngũ cán bộ hành chính giáo dục đại học phải được tuyển dụng và đào tạo một cách chuyên nghiệp. Trên thực tế, trách nhiệm của quản lý nhà nước về giáo dục đại học phải thúc đẩy quá trình tự chủ của trường đại học mà không phải kìm hãm nó. Đối với tập thể lãnh đạo trường đại học cũng phải được nâng cao năng lực quản lý trước khi trao quyền. Trên thực tế, nhiều hiệu trưởng trường đại học ở nước ta khi được bổ nhiệm chưa qua các trường lớp đào tạo quản lý giáo dục đại học một cách bài bản, thường làm theo kinh nghiệm. 3.3.3. Thiết lập hội đồng trường Cần cơ chế kiểm soát, giám sát việc thực thi quyền lực, điều kiện về nguồn lực cho các hoạt động dạy và học khi trao quyền tự chủ cho các trường đại học. Bất kể là trường công hay trường tư, hiệu trưởng phải chịu sự kiểm soát của một hội đồng trường nhằm gắn với trách nhiệm giải trình trước cộng đồng, trước người học và các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Một trường đại học có quyền tự chủ song nếu thiếu một cơ chế kiểm soát thì trường đó chưa thực hiện có hiệu quả cơ chế chịu trách nhiệm xã hội. Đồng thời, kiểm định là một công cụ quan trọng để đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, cũng như nguồn lực phải đầy đủ mới có thể thực hiện quyền tự chủ của mình. 3.3.4. Hình thành văn hoá chất lượng Quyền tự chủ được thực hiện đầy đủ khi đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên hình thành một văn hoá chất lượng. Người lãnh đạo trường, cán bộ giảng viên, sinh viên phải có ý thức làm chủ, thói quen tôn trọng dân chủ, công khai các hoạt động tài chính và học thuật trong nhà trường. Lãnh đạo trường khi nhận thêm quyền lực từ cơ quan quản lý giáo dục cấp trên phải điều chuyển một phần quyền lực cho các khoa, bộ môn và cả giảng viên. Sinh viên cũng được hưởng quyền lực thông qua đại diện của mình tại hội đồng trường. Hiệu trưởng nhà trường thường xuyên đối thoại với sinh viên để hiểu mong muốn, tâm tư của người học để giúp họ học tốt hơn. 3.3.5. Xoá “độc quyền” trong giáo dục Giáo dục đại học phải hoạt động trong một khuôn khổ pháp luật chặt chẽ và trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Chỉ trong môi trường cạnh tranh lành mạnh được bảo vệ bằng pháp luật, quyền tự chủ mới phát huy và trách nhiệm xã hội của nhà trường mới có điều kiện thực hiện. Quá trình, mức độ trao quyền tự chủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể bỏ qua các yếu tố phản ánh trình độ phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội, môi trường chính trị. Tự chủ đại học là cần thiết, nhưng Nhà nước phải nắm được chất lượng đào tạo để bảo vệ quyền lợi cho người học. Để tạo những chuyển biến bước đầu trong việc tiến tới xây dựng chế độ tự chủ và tính trách nhiệm xã hội của các trường đại học, cần bám sát những nội dung, yêu cầu cơ bản: Thứ nhất, đổi mới về tổ chức, quản lý, nội dung nhằm hướng tới thoả mãn nhu cầu người học trong một nền giáo dục đại học gắn với phát triển kinh tế-xã hội, gắn với thị trường lao động. Thứ hai, xây dựng một nền giáo dục đại học chất lượng cao theo hướng chuẩn hoá trên cơ sở phát huy yếu tố truyền thống dân tộc và hiện đại hoá tương thích được với các chuẩn giáo dục đại học của khu vực và quốc tế. Bản thân từng trường đại học tự thay đổi nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy. Chống chủ nghĩa quân bình trong giáo dục đại học. Mỗi trường đại học cần tạo điều kiện đề từng thành viên trong trường, từng người học có thể phát huy được hết năng lực, sở trường và sự sáng tạo của mình trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập. Chuyển quản lý trường đại học từ cách quản lý hành chính sang quản lý chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chất lượng và hiệu quả đào tạo của từng trường phải trở thành lẽ sống, danh dự, uy tín và đó chính là thương hiệu của nhà trường; Phát huy toàn diện khả năng, năng lực toàn diện và mũi nhọn chuyên sâu của từng trường bằng cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hoá. Điều quan trọng là phải đổi mới tư duy, công việc và thói quen làm việc hàng ngày, tất cả đều phải được đánh giá và quy đổi ra giá trị lao động. Có như vậy, tiến trình chuyển đổi cơ chế hoạt động tại các trường đại học công lập ở nước ta mới nhanh chóng và tiến tới thành công. kết luận Từ những vẫn đề lý luận và thực tiễn trên, chúng ta thấy việc trao quyền tự chủ đầy đủ cho nhà trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc trao quyền này phải có lộ trình thích hợp với điều kiện thực tiễn của cơ sở giáo dục. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục kết hợp với việc trao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp đào tạo công lập chính là kế sách quan trọng thúc đẩy giáo dục nước nhà tiến lên, hội nhập thành công vào quá trình quốc tế hoá sâu rộng hiện nay. Có thể nói, nền giáo dục đại học nước ta còn lạc hậu, biểu hiện ở chất lượng thấp, quy mô nhỏ và một nền đại học nghèo nàn, trì trệ do sự trì trệ của cơ chế tập trung, bao cấp còn đậm nét nhất trong ngành giáo dục so với tất cả các ngành khác. Do vậy, đổi mới giáo dục đại học phải bắt đầu từ đổi mới quản lý hệ thống, chủ yếu là đổi mới cơ chế. Nhà nước chỉ nên xây dựng chiến lược và kế hoạch chiến lược, không nên xây dựng quy hoạch cụ thể, chi tiết rồi áp đặt toàn hệ thống phải làm theo. Nhà nước sử dụng khéo léo bàn tay vô hình kỳ diệu của cơ chế thị trường như: xoá bỏ việc giao chỉ tiêu cho từng trường mà để họ tự cân đối, xoá bỏ việc tuyển sinh “ba chung”, xoá bỏ các chế độ tài chính cứng nhắc trói buộc các trường đại học công lập mà thực hiện khoán ngân sách, xoá bỏ quy định trần học phí. Nhà nước có chính sách học bổng đủ nhiều về số lượng, đủ cao về giá trị, cùng với chính sách tín dụng giáo dục để người nghèo có thể đi học. Học phí phải được phép vượt chi phí đào tạo để không lỗ mà còn có phần tích luỹ tái đầu tư. Cùng với đó, cho phép các trường đại học công lập xây dựng một cách dân chủ quy chế sàng lọc và đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ công nhân viên, cho phép các trường tự quyết định chương trình, nội dung, phương pháp tiên tiến mà không cần xin phép Bộ. Thực hiện có hiệu quả quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học ở nước ta hiện nay sẽ là động lực chủ yếu, là đòn bẩy để nhanh chóng phát triển giáo dục đại học, là giải pháp cơ bản, hữu hiệu trong xoá bỏ cơ chế “xin - cho” rơi rớt của chế độ tập trung, bao cấp. Giao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường đại học sẽ là “khoán 10” đối với phát triển giáo dục đại học nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động nhanh chóng trên con đường hội nhập với khu vực và quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá. danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Điều lệ trường đại học năm 2003. 2. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng 8 năm 2006 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ. 3. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. 4. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 153/2007/TT-BTC về sửa đổi một số điểm của Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. 5. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 113/2007/TT-BTC, ngày 24 tháng 9 năm 2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09 tháng 8 năm 2006 của Bộ Tài chính về trình tự chi thanh toán thu nhập tăng thêm nhằm tăng tính tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp. 6. Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, ngày 16 tháng 01 năm 2002 về đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu. 7. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn 2006-2020. Đây là văn bản pháp lý có tính toàn diện, triệt để và sâu sắc nhất từ trước đến nay về đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. 8. Chính phủ (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. 9. Chính phủ (2006), Nghị định số 137/2006/NĐ-CP, ngày 14 tháng 11 năm 2006 quy định việc phân cấp quản lý nhà nước đối với tài sản nhà nước tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước. 10. Chính phủ (2006), Quyết định số 202/2006/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 8 năm 2006 ban hành quy chế quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập. 11. Đại học Quốc gia Hà Nội - Đại học Sư phạm Hà Nội - Đại học Thủy lợi, Báo cáo tổng kết năm học 2004-2005, 2005-2006, 2006-2007. 12. Đại học Quốc gia Hà Nội - Đại học Sư phạm Hà Nội - Đại học Thủy lợi, Quy chế chi tiêu nội bộ. 13. Giáo dục đào tạo Việt Nam thời kỳ hội nhập (2007), Nxb Lao động, Hà Nội. 14. Phạm Minh Hạc (2003), Về Giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Học viện Hành chính (2007), Giáo trình Quản lý nhà nước về tài chính, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 16. GS.TS. Nguyễn Đình Hương (2007), Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. PGS.TS. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992. 19. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục. 20. PGS.TS. Trần Đình Ty (2003), Quản lý tài chính công, Nxb Lao động, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf93_1375.pdf
Luận văn liên quan