Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1 Tính cấp thiết của đề tài . 1 1.2 Tình hình nghiên cứu 2 1.3 Mục tiêu của Luận văn . 3 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 3 1.5 Phương pháp nghiên cứu 4 1.6 Cơ cấu của Luận văn 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 5 1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại 5 1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại . 5 1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại . 11 1.2 Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 18 1.2.1 Khái niệm 18 1.2.2 Nguyên tắc 20 1.2.3 Các hình thức thương lượng . 26 1.2.4 Điều kiện áp dụng 31 1.2.5 Lợi ích của việc lựa chọn phương thức giải quyết thương mại bằng thương lượng 33 1.2.6 Hình thức pháp lý và hiệu lực của giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 35 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 39 2.1 Các quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 39 2.1.1 Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 40 2.1.2 Các quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết . 42 2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở Việt Nam 46 2.3 Nguyên nhân những khiếm khuyết cơ bản của Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 55 CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 60 3.1 Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 60 3.2 Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựợng 61 3.3 Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 67 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 81MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 1.1 Tính cấp thiết của đề tài . 1 1.2 Tình hình nghiên cứu 2 1.3 Mục tiêu của Luận văn . 3 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 3 1.5 Phương pháp nghiên cứu 4 1.6 Cơ cấu của Luận văn 4 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 5 1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại và các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại 5 1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại . 5 1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại . 11 1.2 Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 18 1.2.1 Khái niệm 18 1.2.2 Nguyên tắc 20 1.2.3 Các hình thức thương lượng . 26 1.2.4 Điều kiện áp dụng 31 1.2.5 Lợi ích của việc lựa chọn phương thức giải quyết thương mại bằng thương lượng 33 1.2.6 Hình thức pháp lý và hiệu lực của giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 35 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 39 2.1 Các quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 39 2.1.1 Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 40 2.1.2 Các quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết . 42 2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở Việt Nam 46 2.3 Nguyên nhân những khiếm khuyết cơ bản của Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 55 CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG . 60 3.1 Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 60 3.2 Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựợng 61 3.3 Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 67 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 81

doc88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10614 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế và khu vực. Thực tế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong những năm vừa qua đã đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách là phải nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở Việt Nam. 3.2 Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựợng Trong thời gian qua với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta đã mang lại nhiều tác dụng tích cực, làm cho các hoạt động thương mại ngày càng phát triển. Sự phát triển của các hoạt động thhương mại này là cơ sở hình thành và hoàn thiện cơ chế pháp lý để điều chỉnh các mối quan hệ thương mại giữa các chủ thể ngày càng nhiều, trong đó có cơ chế giải guyết tranh chấp. Nhiều phương thức giải quyết tranh chấp đã được thể chế hóa như thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án và một số phương thức khác. Việt Nam hiện nay đã thiết lập được một khuôn khổ pháp lý về giải quyết tranh chấp thương mại với hàng loạt các văn bản pháp lý quy định về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tiêu biểu là Luật thương mại năm 2005, Bộ luạt tố tụng dân sự, Pháp lệnh trọng tài thương mại…Các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại ra đời đóng vai trò hết sức quan trọng nó là cơ sở để các doanh nghiệp, người kinh doanh thực hiện đầy đủ quyền năng của mình trong hoạt động thương mại đó là quyền tự định đoạt của mình với việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả, phù hợp, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho các bên kinh doanh. Vì thế, đã giảm thiểu được nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp thương mại, góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi ở Việt Nam Tuy nhiên, do Việt Nam mới bước sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế, trở thành thành viên của nhiều tổ chức thương mại trong khu vực và trên thế giới mà đặc biệt là thành vên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Do vậy, giải quyết tranh chấp thương mại trong thời gian qua còn nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn. Thương lượng với vai trò là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả và được giới kinh doanh ưa chuộng cũng vây. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng cho thấy còn nhiều bất cập, cần tiếp tục được hoàn chỉnh. Chúng ta cần có những định hướng, cũnh như đề xuất các kiến nghị cụ thể để xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng làm cho thương lượng thực sự đóng vai trò to lớn, có hiệu quả trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, đáp ứng xu hướng xã hội hóa hoạt động giải quyết tranh chấp mà chúng ta đang hướng tới. Cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh, thương mại là điều rất quan trọng đối với các nhà kinh doanh. Cũng như khung pháp luật về thương mại, pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại. Đối với Luật nội dung, một số khái niệm còn chưa được thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn vận hành ở nước ta. Các khái niệm “Tranh chấp kinh tế”, “tranh chấp thương mại”, “hợp đồng kinh tế”, “Pháp luật kinh tế” hiện đang là đề tài chưa được ngã ngũ. Chúng ta phân biệt giao dịch dân sự với giao dịch thương mại chủ yếu bằng mục đích lợi nhuận giữa các giao dịch của các bên. Tuy nhiên, việc xác định này không phải lúc nào cũng dễ dàng, trên thực tế việc phân biệt còn gặp nhiều bất cập. Vì thế, nó không những ảnh hưởng đến phạm vi của giao dịch thương mại bị thu hẹp, mà còn về cơ quan giải quyết tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp thậm trí là nhận thức sai lệch về bản chất các loại tranh chấp. Bên cạnh đó là vấn đề lý luận về việc xác định giao dịch thương mại vô hiệu. Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại vấn đề này đang được nhiều người quan tâm hiện nay. Về mặt lý luận, khi giao dịch thương mại vô hiệu sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nhưng trong thực tiễn giải quyết trah chấp thương mại nhiều trường hợp xác định được giao dịch thương mại là vô hiệu nhưng vẫn kéo theo nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Khái niệm hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay, theo pháp luật thương mại năm 2005. Tuy rằng, khái niệm đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích lợi nhuận, đã có sự tiếp cận phù hợp với pháp luật chung và thông lệ quốc tế đồng thời tương đồng với khái niệm kinh doanh theo luật doanh nghiệp năm 2005. Nhưng khái niệm vẫn chưa tạo ra được sự tương đồng trong quan niệm về tranh chấp thương mại, với việc pháp luật hiện nay không đưa ra một khái niệm về tranh chấp thương mại mà hiểu nó thông qua việc liệt kê những tranh chấp và gọi là “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” theo như quy định tại điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, do đó, so với khái niệm hoạt động thương mại hiểu theo nghĩa rộng thì sẽ còn nhiều tranh chấp thương mại không được liệt kê. Hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta nói chung còn mang tính tự phát, theo truyền thống chưa có sự nghiên cứu một cách hệ thống, để tổng kết thành lý luận về thương lượng. Qua nghiên cứu, thấy rằng giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng đang giữ vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam. Thương lượng thành là kết quả sự đàm phán hữu nghị trên cơ sở tôn trọng quyền tự do định đoạt của đương sự và sự vận dụng, linh hoạt, đúng đắn các quy định của pháp luật và tập quán thương mại quốc tế trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng để đạt được kết quả cao nhất. Theo quan điểm chủ đạo của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng và hoàn thiện Pháp luật thương mại trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phải phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay. Thể chế hóa kịp thời đường lối và chính sách của Đảng về xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn liền và đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, xã hội là nền tảng để phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phát triển hệ thống pháp luật thương mại phải xuất phát từ thực tiễn nước ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. Hoàn thiện pháp luật thương mại Việt Nam phải thể hiện được bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, hài hòa mang tính truyền thống, hiện đại và phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ định hướng xã hội chủ nghĩa. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận những thông lệ chung của Pháp luật quốc tế. Thực hiện các cam kết trong các Đièu ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, chúng ta phải nội hóa các quy định trong các Điều ước quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế không có nghĩa là phải hòa tan, đánh mất mình mà càng đòi hỏi gắt gao hơn ở việc giữ vững, phù hợp với quốc gia, dân tộc. Nghị quyết 08/NQ-TW đã chỉ rõ “…Nghiên cứu tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về giải quyết tranh chấp trên cơ sở đảm bảo độc lập, chủ quyền; an ninh quốc gia…”. Tiếp thu kinh nghiệm giải quyết tranh chấp thương mại ở nước ngoài, để làm cho pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của ta tương thích với pháp luật quốc tế. Tạo niềm tin và sự an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư tại Việt Nam. Tạo điều kiện cho các thương nhân trong nước tiếp cận được cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại tiên tiến, tạo cho họ sự tự tin, vững tâm trong kinh doanh trên thương trường quốc tế. Bảo đảm, tối đa quyền tự do kinh doanh, tự do định đoạt của các cá nhân, doanh nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp thương mại. Quyền tự do này bao gồm cả quyền tự quyết định và thiết lập cho mình các khả năng tài phán mang tính dân chủ. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại vừa phải đảm bảo, khắc phục tháo gỡ những vướng mắc, bức xúc trước mắt, vừa hướng tới sự phát triển lâu dài theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta bảo đảm sự phù hợp với các điều kiện về tài chính, vật chất, trình độ dân trí, nhân lực mà đặc biệt là độ ngũ luật sư, thẩm phán, trọng tài viên, để pháp luật được thực thi nhanh chóng và hiệu quả vào đời sống. Để đạt được điều này cần xây dựng các công cụ pháp lý điều chỉnh các tổ chức đáp ứng được tính năng động, nhanh nhạy, đơn giản và an toàn về pháp lý. Trên đây là quan điểm chỉ đạo mang tính định hướng chung cho hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và cho pháp luật giải quyết tranh chấp thươg mại bằng thương lượng nói riêng. Trên cơ sở đó chúng ta có những định hướng cụ thể cho pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ nhất, xây dưng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các quy định về giải quyết tranh chấp thương mại trên thế giới để xây dựng, hoàn thiện các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng mang bản sắc Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Cụ thể là: Trong Bộ luật tố tụng dân sự với tư cách Bộ luật gốc chúng ta cần thêm vào đó những quy định về một số nguyên tắc chính khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Quy định thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cố định, độc lập, quy định thương lượng là phương thức bắt buộc phải có khi có tranh chấp xảy ra trước khi tranh chấp được đưa đến các cơ quan tài phán, trọng tài. Xây dựng những quy định cần thiết về thương lượng trong luật thương mại, về điều kiện, trình tự thủ tục để thương lượng, những vụ việc phải thương lượng, nội dung của thương lượng, phương pháp thương lượng, cơ chế phù hợp hỗ trợ. Nghiên cứu vai trò và khả năng áp dụng án lệ, tập quán quy tắc, quy định của hiệp hội nghề nghiệp, coi đó như một nguồn của Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện và nâng cao năng lực của các thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Hiện nay, ở Việt Nam các thiết chế phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng chưa được quan tâm đúng mức. Các tổ chức hiệp hội mang tính chất nghề nghiệp còn rất ít và nhiều hạn chế. Để đáp ứng nhu cầu các nhà kinh doanh, nhằm phát huy những mặt tích cực của phương thức thương lượng. Tiếp thu vận dụng linh hoạt các nguyên tắc của Luật thương mại, của các cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trên thế giới như WTO, ASEAN, Công ước Washinhton…Đây là những kinh nghiệm rất đáng để chúng ta tham khảo khi xây dựng hàn thiện Pháp luật vè giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ ba, người thương lượng đòi hỏi phải có kỹ năng thương lượng giỏi. Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng đối với mỗi một tranh chấp thươg mại phát sinh không nhất thiết phải là các đại diện có thẩm quyền đứng ra làm người thương lượng mà cần phải có cơ chế ủy quyền. Vì không phải bất cứ giám đốc nào cũng là người thương lượng giỏi, hiểu biết tất cả mọi điều. Điều này ở Việt Nam chưa được quan tâm. Ở nước ngoài, vai trò của Luật sư, chuyên gia thương lượng, cố vấn pháp lý rất quan trọng. Họ được các nhà doanh nhiệp ủy quyền tham gia vào việc giải quyết tranh chấp thương mại ngay từ khi mới xảy ra tranh chấp đến khi giải quyết xong vụ việc. Các chủ doanh nghiệp ủy quyền cho Luật sư là hoàn toàn tin tưởng vào trình độ và khả năng củ Luật sư. Vì thế, pháp luật nên có những tác động tích cực vào cơ chế ủy quyền này, tạo cho hình thức đại diện thương lựợng này thành một tiên lệ đẹp giúp quá trình thương lượng đạt hiệu quả cao. Với cơ chế ủy quyền họ có thể tham gia vào toàn bộ quá trình thương lượng, khi nắm bắt được toàn bộ vấn đề, trên cơ sở kinh nghiệm tích lũy lâu năm, niềm tin nội tâm họ sẽ quyết định vấn đề giải quyết tranh chấp nhanh gọn, chính xác. 3.3 Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng Thứ nhất, về lâu dài cần xây dựng và ban hành Luật về giải quyết tranh chấp thương mại.Luật này sẽ là khung pháp lý chứa đựng các quy định mang tính nguyên tắc cho việc vận dụng vào thực tế giải quyết tranh chấp thương mại, là cơ sở cho việc ra đời các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp. Và một trong những nội dung của nó là việc ghi nhận phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, với những quy định chi tiết về phương thức này: Điều kiện để tiến hành thương lượng, trình tự; Thủ tục để thương lượng; Những vụ việc được thương lượng; Nội dung của thương lượng; Hình thức thương lượng; Cơ chế phối hợp, hỗ trợ giữa các phương thức khác với thương lượng. Đây sẽ là một cẩm nang pháp lý về giải quyết tranh chấp thương mại quan trọng trong hệ thống pháp luật thương mại, nó là cơ sở quan trọng cho các nhà kinh doanh vận dụng thực tiễn giải quyết tranh chấp, góp phần vò sự phát triển thương mại đất nước. Tuy nhiên trước khi chưa xây dựng được Luật về giải quyết tranh chấp thương mại. Thì cần phải tiến hành sửa đổi bổ sung các vấn đề về thương lượng trong các văn bản Pháp luật hiện hành cụ thể mà quan trọng là Luật thương mại năm 2005. Quan trọng là ngoài quy định thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thì bất cập lớn nhất trong thực tiễn áp dụng phương thức này là hiệu lực thi hành của thương lượng nếu thương lượng thành công. Cho nên, cần sớm có quy định xem thương lượng như một hợp đồng, hình thức pháp lý bắt buộc là văn bản có nội dung đầy đủ như một hợp đồng, và quy định đây là phương thức áp dụng giải quyết tranh chấp đầu tiên khi có tranh chấp xảy ra. Cần thiết lập quy chế kết hợp giữa thương lượng với các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhằm phát huy các ưu điểm, hạn chế của các phương thức, đồng thời hỗ trợ nhau không gây tốn kém cho nhà nước và doanh nghiệp, cùng nhau phát triển. Những nội dung này cũng cần được xây dựng trong pháp luật liên quan đến thương lượng ngoài Luật Thương mại là Luật đầu tư, Luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng…Ngoài ra không ngừng tiếp thu, chọn lọc pháp luật, tập quán quốc tế về vấn đề này để ngày càng hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ hai, là cần xây dựng thống nhất một khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại trong các văn bản pháp luật hiện hành dần đi đến xây dựng một khái niệm về giải quyết tranh chấp thương mại không theo hướng hiện nay là liệt kê các tranh chấp được xem là tranh chấp thương mại. Cho nên, thực tiễn có những tranh chấp thương mại lại không được liệt kê vào và điều này sẽ gây khó khăn khi Việt Nam đang tiến sâu vào hội nhập khu vực và thế giới, hơn nữa theo kiểu liệt kê như vậy dẫn đến nhiều cách hiểu về giải quyết tranh chấp thương mại như hiện nay xem tranh chấp thương mại là tranh chấp do thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Cách hiểu này hẹp và không đồng nhất với thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại có những tranh chấp thương mại phát sinh ngay cả khi chưa thực hiện, đà thực hiện xong hợp đồng. Cho nên, xây dựng một khái niệm tranh chấp thương mại thống nhất hiện nay là rất cần thiết, đóng góp cho cả lý luận và thực tiễn áp dụng. Thứ ba, tăng cường tính minh bạch của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng. Trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay, một trong những điều kiện, để một nước có thể tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập quốc tế là pháp luật phải minh bạch, công khai để mọi cá nhân, tổ chức trong nước và ngoài nước có thể thực hiện được quyền khiếu nại, khiếu kiện của mình. Đây ngoài là một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO. Nguyên tắc này cũng được quy định trong nội dung của Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ. Tính minh bạch của pháp luật có thể được hiểu: Một là, pháp luật phải trong sáng, dễ hiểu, đồng bộ, chặt chẽ, nhất quán để mọi người có thể hiểu và thực hiện một cách thống nhất. Hai là, hệ thống văn bản pháp luật cần được đăng tải, công bố một cách đầy đủ, kịp thời và trong điều kiện có thể, cho phép những người thực hiện pháp luật được tham gia vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật. Tuy nhiên trong thời gian gần đây vẫn còn nhiều tồn tại như việc công bố, đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật vừa chậm, vừa thiếu và không đồng bộ, sự tham gia ý kiến của những người phải thực hiện luật vào quá trình xây dựng Pháp luật còn hạn chế, nội dung của nhiều văn bản Luật vào quá trình xây dựng pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn. Những tồn tại này đã gây không ít khó khăn cho những người thực hiện pháp luật đặc biệt là đối với các nhà đầu tư, kinh doanh doanh nước ngoài, cần phải được khắc phục. Thực hiện được điều này chính là sự tôn trọng tự do, tự quyết của các nhà kinh doanh, đầu tư. Điều này có sý nghĩa đặc biệt quan trọng vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ tư, Ngăn ngừa tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế trong hoạt động tố tụng. Vấn đề hình sự hóa các quan hệ kinh tế đang là vấn đề bức xúc trong hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại trong vài năm gần đây. Về nguyên tắc, các quan hệ này không được nhầm lẫn trong hoạt động xét xử. Tình trạng hình sự hóa các quan hệ giao dịch dân sự, thương mại gây ra nhiều tác hại đến không chỉ bản thân những đối tượng bị hình sự hóa mà còn gây tác hại to lớn cho môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước và thu hút đối tác nước ngoài, cho niềm tin vào nền công lý và bộ máy tư pháp của nước ta. Chính vì thế việc sớm khắc phục tình trạng này trở nên rất cấp thiết. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng hình sự hóa là: Một, do nước ta đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, nên nhiều vấn đề kinh tế - pháp lý mới, phức tạp nảy sinh, đồng thời hệ thống pháp luật của nước ta vẫn còn nhiều bất cập và cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và ban hành mới. Tình trạng này khiến cho các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật lúng túng trong việc vận dụng Pháp luật. Hai, do nhận thức pháp luật của cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn có những khiếm khuyết nhất định nên không tránh khỏi được những khiếm khuyết nhận định nên không tránh được hiện tượng các cán bộ này đã không hiểu đúng bản chất của sự việc, sự kiện đã xảy ra từ đó dẫn tới sự sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. Có những trường hợp cán bộ của chúng ta đã cố tình vi phạm và áp dụng một cách trái với các quy định của Pháp luật dẫn đến việc oan sai trong áp dụng Pháp luật cho người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp chính bản thân các nhà doah nghiệp cũng nôn nóng trong việc đòi nợ, thanh lý được hợp đồng nên đã lách luật, dùng phương thức nhờ tố tụng hình sự để xử lý tranh chấp dân sự, thương mại. Vì thế, về cả lý luận và thực tiễn đều cần phải có những tiêu chí rõ ràng để phân biệt các mối quan hệ này. Việc hình sự hóa phải tính đến các yếu tố đặc điểm phát triển kinh tế, các yếu tố quốc tế và xu thế chung của thời đại, phải tôn trọng và tính đến các thông lệ quốc tế, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.(53, Tr 28). Để khắc phục tình trạng hình sự hóa các giao dịch dân sự, kinh tế, cần đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của các văn bản Pháp luật, tăng cường mở rộng tổ chức tư vấn, luật sư trong hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tăng cường công tác đào tạo cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, xử lý nghiêm minh những cán bộ trong cơ quan tư pháp cố tình làm oan sai người vô tội thông qua việc hình sự hóa các giao dịch dân sự - kinh tế.(54) Thứ năm, Xây dựng, và hoàn thiện cơ chế kết hợp giữa giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Để phát huy các ưu điểm, khắc phục một phần nhược điểm của thương lượng. Tăng cường sự lựa chọn của các nhà doanh nghiệp với các phương thức giải quyết tranh chấp này, , cần có cơ chế kết hợp như thế nào giữa thương lượng với các phương thức khác. Một mặt mô hình kết hợp này phải mang bản chất thương lượng nhưng có khả năng thành công cao. Mặt khác phải tạo cơ sở pháp lý và khai thác khả năng sử dụng kết hợp thương lượng với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, nhằm nâng cao hiệu quả của thương lượng. Nguyên tắc quan trọng khi tìm kiếm mô hình sử dụng kết hợp các phương thức trong giải quyết tranh chấp thương mại, là cần đảm bảo các đặc điểm, đặc trưng, các nguyên tắc của các phương thức phải được tôn trọng và tuân thủ. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả luận văn xin đưa ra hai cách phối kết hợp: Một, kết hợp thương lượng với hòa giải và trọng tài. Đây là sự kết hợp giữa phương thức lựa chọn không bắt buộc với phương thức lựa chọn bắt buộc theo cách thức phải thương lượng một quy trình nhiều bước như sau: Khi có thỏa thuận thương mại các bên sẽ phải thương lượng với nhau để giải quyết tranh chấp đó; Nếu việc thương lượng không thành công mà hai bên đã cố gắng hết sức để đạt được thỏa thuận thì các bên sẽ tiến hành hòa giải với sự giúp đỡ của hòa giải viên; Nếu hòa giải không thành, các bên sẽ tiến hành giải quyết bằng trọng tài theo thỏa thuận trọng tài. Cần lưu ý một số vấn đề pháp lý khi giải quyết tranh chấp. Khi kí kết hợp đồng thương mại, các bên có thể thỏa thuận trước về việc lựa chọn trọng tài sau khi đã trải qua thương lượng và hòa giải để giải quyết tranh chấp. Với thỏa thuận trọng tài như vậy, các bên sẽ tham gia vào quá trình thương lượng và hòa giải như là một bộ phận của quá trình trọng tài và có khả năng nhận được sự giúp đỡ của Tòa án.. Trong Luật thương mại thì nên có quy định công nhận thương lượng trong quá trình trọng tài và cơ chế hỗ trợ của Tòa án. Theo pháp luật một số nước, của tổ chức quốc tế đều có quy định về điều này: Quy tắc ICC (Điều 17), Luật mẫu về trọng tài UNCITRAL (Điều 30), Luật trọng tài Trung Quốc (Điều 49) đều công nhận thỏa thuận đạt được bằng thương lượng giữa các bên trong quá trình trọng tài. Hai, Thương lượng kết hợp với hòa giải và Tòa án.Sự kết hợp này đòi hỏi thường khi giải quyết tranh chấp tại tòa, Tòa phải luôn hướng cho các bên thỏa thuận thuận với nhau và Tòa làm hòa giải, và xem đó là thỏa thuận có giá trị pháp lý như bản án và cưỡng chế thi hành. Và khi các bên tiến hành thỏa thuận thành công ngoài tòa, nếu các bên không chịu thực hiện mà vấn đề được đưa ra Tòa, thì Tòa nên công nhận thỏa thuận đó có giá trị và cưỡng chế thi hành. Thứ sáu, tăng cường hiệu quả hoạt động tư vấn pháp luật. Một trong những biện pháp cần được chú trọng trong thời gian tới để góp phần hạn chế những tranh chấp kinh tế đó là việc tăng cường những phát triển hoạt động của các Luật sư theo hướng xã hội hóa và chuyên nghiệp hóa công tác luật sư. Thực tế cho thấy rằng, với số lượng Luật sư quá ít như hiện nay, trong khi dân số đất nước là trên 80 triệu người, cộng với tư tưởng chưa coi trọng vai trò luật sư của các doanh nghiệp thì tình hình tranh chấp thương mại phổ biến phát sinh ngay từ khi kí kết hợp đồng là không thể tránh khỏi. Hiện nay, các đoàn luật sư chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tranh tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hướng dẫn soạn thảo đơn từ về các vấn đề liên quan. Số lượng vụ việc liên quan đến thương mại, đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ còn ít. Việc tư vấn pháp luật trong hoạt động thương mại đặc biệt việc tư vấn pháp luật cho các dự án đầu tư nước ngoài hiện nay ở Việt Nam hầu hết là do các Luật sư của các hãng luật nước ngoài nắm giữ và chi phối.(52, Tr 30-32). Tuy nhiên để đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư, kinh doanh trong và ngoài nước đòi hỏi Luật sư phải là những người có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, các luật sư Việt Nam phải cố gắng phát huy nội lực của mình để không bị tụt hậu về kiến thức pháp luật so với khu vực và thế giới. Mặt khác cũng cần có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế. Sự xuất hiện của các Luật sư sẽ có tác dụng loại trừ những tranh chấp không đáng có trong quá trình kí kết và thực hiện các hợp đồng thương mại giữa các nhà doanh nghiệp. Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện kỹ năng thương lượng. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam kỹ năng thương lượng của các chuyên gia thương luợng còn rất thiếu vì thực tế không một trường đại học nào ở nước ta đào tạo kỹ năng này. Kỹ năng thương lượng là yếu tố quan trọng trong quá trình thương lượng. Vấn đề quan trọng hiện nay là xây dựng một chương trình về kỹ năng thương lượng và đưa vào khung trương trình đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng…Kỹ năng thương lượng giống với kỹ năng đàm phán, Việc phát triển kỹ năng thương lượng là việc phát triển tổng thể kỹ năng thương lượng của tổ chức và cá nhân. Trong khuôn khổ luận văn, tác gia luận văn xin đưa ra một số kỹ năng thương lượng sau: Một, cải thiện liên tục – học hỏi từ mọi kinh nghiệm. Các nhà quản lý đã khái quát tư duy về xử lý thương lượng trong suốt hai thập kỷ qua. Tư duy xử lý thương lượng dựa trên hai nguyên lý nền tảng. Đầu tiên là hầu hết những điều được thực hiện trong tổ chức – từ việc xử lý báo cáo chi tiêu đến đáp ứng các yêu cầu phát triển sản phảm mới – đều là kết quả của quy trình xử lý thương lượng. Xử lý thương lượng là các hoạt động biến thông tin đầu vào thành thông tin đầu ra có tổng giá trị cao hơn. Nguyên lý thứ hai là việc xử lý thương lượng có thể được cải thiện. Chúng có thể được làm nhanh hơn, rẻ hơn, hay hiệu quả hơn thông qua phân tích, tái thiết và học hỏi kết hợp với nhau, hai nguyên lý nền tảng này là cơ sở cải thiện liên tục – một trong những ý tưởng kinh doanh mạnh mẽ nhất trong thời gian gần đây. Khi áp dụng cho thương lượng, nguyên tắc cải thiện liên tục có thể phát triển tính hiệu quả của năng lực nội bộ của một tổ chức, và qua thời gian, cải thiện kết quả cốt yếu. Vậy tại sao không áp dụng cải thiện liên tục cho quy trình thương lượng? Hãy tưởng tượng tổ chức của bạn sẽ tốt lên như thế nào nếu các cuộc thương lượng của tổ chức với đối tác, nhân viên hiệu quả hơn và có lợi hơn. Chi phí giảm, các mối quan hệ trở lên vững mạnh hơn và có lợi hơn. Bước đầu tiên tiến đến cải thiện liên tục trong thương lượng là xem thương lượng như một quy trình có các bước xử lý khá bao quát. Cho dù cuộc thương lượng liên quan đến hai cá nhân, hay nhiều người tham gia, và cho dù nó nhằm mục đích tạo ra một cuộc tranh cãi gây tổn hại, những bước này nói chung đều có tác dụng. Từng bước trong quy trình này tượng trưng cho một cơ hội cải thiện, và từng bước lên được phân tích với mục tiêut trong tâm trí. Bước thứ hai là tổ chức học hỏi từ quy trình xử lý thương lượng vào lúc diễn ra và kết thúc cuộc thương lượng. Ví dụ, những người tham gia nên liên tục đánh giá quy trình thông qua các cuộc thương lượng và điều chỉnh chiến thuật của mình nếu cần thiết. Họ cũng nên dùng những gì đã học được trong một giai đoạn thương lượng để chuẩn bị cho giai đoạn kế tiếp. Và dĩ nhiên, những người tham dự nên tực hiện việc phân tích rút kinh nghiệm vào cuối mỗi cuộc thương lượng để xác định những gì đã làm, những gì chưa, và kinh nghiệm của họ có thể sử dụng như thế nào để cải thiện kết quả thương lượng trong tương lai. Cuối cùng nên học hỏi từ việc phân tích rút kinh nghiệm theo những hình thức giúp phổ biến kiến thức được phổ biến dễ dàng và có thể tái sử dụng bởi các nhà thương lượng trong tương lai: các khóa huấn luyện, danh mục kiểm tra và cơ sở dữ liệu. Việc nắm bắt và tái sử dụng kiến thức được phản ánh cho các lần thương lượng tiếp theo. Việc tổ chức cải thiện quy trình và năng lực thương lượng, bạn cần thừa nhận sự cần thiết phải vượt qua các rào cản chính sau: Kết quả thương lượng không phải lúc nào cũng rõ ràng; trong một vài trường hợp, những hậu quả thực sự của thương lượng không thể lường được trong một thời gian dài; Khi học hỏi từ kinh nghiệm thương lượng, một người không thể lúc nào cũng khẳng định: “hành động này tạo ra ba kết quả.” Sự xuất hiện nhiều tình huống khác nhau không kiểm soát được sẽ làm cho sự chắc chắn như vậy không thể xảy ra; Các cá nhân có thể không có động cơ chia se kinh nghiệm của họ với người khác. Tuy nhiên, kinh nghiệm, và kiến thức do nó tạo ra, có thể giúp bản thân các nhà thương lượng cải thiện khả năng của mình qua thời gian. Và những bài học rút ra từ kiến thức này có thể truyền lại cho những cá nhân khác. Hai, thương lượng là một năng lực tổ chức. Đáng tiếc là rất ít công ty áp dụng việc cải thiện liên tục vào các cuộc thương của họ. Họ cũng không suy nghĩ một cách hệ thống về các hoạt động thương lượng của mình như một năng lực chính của tổ chức. Thay vào đó, họ có một quan điểm ngẫu hứng, nhận thức từng cuộc thương lượng như một sự kiện tách biệt với các mục tiêu, chiến thuật, người tham dự và biện pháp thành công của chính họ. Hậu quả là họ đã không lắm bắt được kiến thức để sử dụng trong tương lai. Chính vì điều này, họ hiếm khi đạt được kết quả tốt hơn và thường chịu thiệt thòi trên bàn thương lượng. Một tổ chức có thể cải thiện kỹ năng thương lượng tổng thể và biến kỹ năng này thành năng lực quan trọng bằng các cách sau: Cung cấp nguồn lực huấn luyện và đào tạo cho những người thương lượng. Những doanh nghiệp muốn tăng năng lực thương lượng của họ, thì họ phải bắt đầu một chương trình đào tạo đặt các nhà thương lượng vào vị trí của thế giới thực tiễn, tiếp theo sẽ là nguồn huấn luyện kỹ thuật mà các nhà thương lượng “thực hiện” sẽ cần trong lĩnh vực này. Những nguồn này giúp cho việc chuẩn bị trước khi thương lượng, cũng có thể là cung cấp các danh mục cho việc kiểm tra cho việc chuẩn bị và việc tiếp cận các bài học được rút ra từ kinh nghiệm thương lượng trước đây. Người thương lượng giỏi là người biết nhận ra mối đe dọa và cơ hội trong một mớ hỗn loạn những thứ không quan trọng. Họ phát triển sự nhận biết thông qua kinh nghiệm, thời gian học đào tạo giúp phát triển hiểu biết, kinh nghiệm tránh nguy cơ phạm lỗi. Làm rõ các mục tiêu và mong đợi của tổ chức về bất cứ thỏa thuận nào – và khi nào người thương lượng nên bỏ đi. Khi bắt đầu thương lượng với một bên ở ngoài tổ chức, những người thương lượg không nhất thiết phải đoán các mục tiêu và nguyện vọng của tổ chức. Họ nên nhận được sự hướng dẫn rõ ràng từ cấp trên. Và cấp quản lý phải thông báo rõ ràng về mong muốn của mình, và nói cho những người thương lượng biết khi nào nên dừng lại hoặc từ bỏ cuộc thỏa thuận. Các mục tiêu thương lượng phải phù hợp với các mục tiêu của tổ chức và được hỗ trợ bằng những động cơ đúng. Yêu cầu mỗi nhóm thương lượng phải triển khai phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng và tìm cách cải thiện nó. Một giải pháp tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng mạnh tương đương với đối phương đem lại cho người thương lượng khả năng thương lượng. Nó giúp cho người thương lượng biết khi nào thì việc bỏ đi là một hành động thông minh. Các tổ chức nên yêu cầu đại diện của họ hiểu rõ về phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng của mình và họ đã khám phá nhiều cách để củng cố giải pháp thay thế tốt nhất của họ. Phát triển cơ chế nắm bắt và tái sử dụng những bài học rút ra từ các cuộc thương lượng trước đây. Ý tưởng nắm bắt kinh nghiệm và tái sử dụng nó cho những tình huống tương tự trong tương lai là một phần thiết yếu của việc quản lý kiến thức phổ biến trong thời đại ngày nay. Điều này đạt được khi các doanh nghiệp có hệ thống trong việc lưu trữ kết quả thương lượng. Thực tế có doanh nghiệp nước ngoài đã phát triển một cơ sở dữ liệu tập trung để giúp các giám đốc dự án thương lượng thỏa thuận với khách hàng. Họ tiến hành, bất cứ giám đốc nào khi thương lượng với khách hàng cũng đều được yêu cầu điền vào một phiếu câu hỏi ngắn nắm bắt các biện pháp được thực hiện, kết quả đạt được, và những bài học nhận biết được. Các kết quả báo cáo này được đưa vào một cơ sở dữ liệu và có sẵn cho các giám đốc dự án khác khi họ chuẩn bị cho những cuộc thương lượng sắp tới với khách hàng. Phát triển các biện pháp thực hiện thương lượng và liên kết với phần thưởng. Điều này đòi hỏi cấp quản lý phải tạo ra sự tương xứng giữa mục tiêu của mình, và cách đánh giá và thưởng cho người thương lượng. Đánh giá có thể là: cuộc thương lượng có giúp bạn và khách hàng xây dựng mối quan hệ để làm việc có hệu quả trong suốt quá trình thỏa thuận không; Những cuộc thương lượng này có tạo ra môi trường mà trong đó cả hai bên có thể tham gia vào những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và giải quyết vấn đề hay không; Thỏa thuận này có đáp ứng các quyền lợi của bạn và của đối tác ở mức độ chấp nhận được hay không; Bạn đã tìm kiếm các giải pháp sáng tạo và hiệu quả có khả năng đạt được lợi ích chung; Bạn đã dùng những tiêu chuẩn khách quan để đánh giá và lựa chọn phương án mà hai bên chấp nhận; Bạn đã đề xuất một phương án thay thế tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng, và bạ chắc là giải pháp thay thế này hiệu quả; Bạn đã tạo ra những cam kết được hoạch định tốt, thiết thực và khả thi mà cả hai bên đều hiểu và sẵn sàng thực hiện. Theo cách đánh giá này bạn sẽ có cách phát triển giải pháp thương lượng và gắn với phần thưởng cho người thương lượng. Chúng ta đều hiểu năng lực thương lượng là tổng năng lực của tổ chức và năng lực của các thành viên. Vậy kỹ năng của một nhà thương lượng hiệu quả là người biết: Xếp mục tiêu thương lượng tương ứng với mục tiêu của tổ chức. Một nhà thương lượng hiệu quả hoạt động trong một cơ cấu hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của tổ chức. Cho nên đòi hỏi mục tiêu phải rõ ràng được truyền đạt từ cấp quản lý, nó bảo đảm cho sự tương xứng giữa mục tiêu với cách cư xử của đại diện thương lượng và kết quả thương lượng. Chuẩn bị kỹ lưỡng và sử dụng từng giai đoạn thương lượng để chuẩn bị sâu hơn. Trong các cuộc thương lượng hiệu quả, người đến bàn thương lượng luôn chuẩn bị sẵn sàng các giữ kiện và đề xuất. Họ cần nhận được sự hỗ trợ, đồng chuẩn bị của các đồng nghiệp, phòng ban và cả tổ chức. Dùng các buổi thương lượng để học hỏi nhiều hơn về những vấn đề có nguy cơ thua và giải pháp thay thế tốt nhất cho thỏa thuận được thương lượng. Trong thương lượng, các nhà thương lượng luôn hoạt động trong một màn sương của sự không chắc chắn. Thuận lợi thường nghiêng về bên thu thập thông tin thông qua chuẩn bị và đối thoại, cho phép họ xuyên qua màn sương đó. Cần sự thông minh để xác định được quyền lợi của cả hai bên, và sự sáng tạo để nghĩ ra các phương án, tạo ra lợi ích dẫn đến tình huống hai bên cùng thắng. Một người thương lượng thực sự giỏi có thể thay dổi cuộc chơi nếu biết đương đầu với những gì người khác xem là trò chơi được mất ngang nhau. Người này có thể giúp cho đối phương thấy được lợi ích của việc chia sẻ thông tin và mở rộng cơ hội thỏa thuận. Có thể tách biệt những vấn đề cá nhân với những vấn đề thương lượng. Nhà thương lượng hoàn hảo biết rằng cuộc thương lượng này không phải là về mình, hay thậm chí về những người đang ngồi bên quanh bàn thương lượng. Người thương lượng này biết hoạt động với tư cách rời khách quan và tập trung vào việc tạo ra kết quả tốt nhất có thể được. Có thể nhận ra rào cản tiềm tàng cho cuộc thỏa thuận. Những rào cản không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một nhà thương lượng khéo léo biết khám phá chúng và trung hòa chúng. Biết cách tạo liên minh. Không phải mọi chuyên gia thương lượng đều bách chiến bách thắng. Đối phương có thể có quyền lực cao hơn tại bàn thương lượng. Tuy nhiên, một người thương lượng giỏi biết rằng liên minh sẽ giúp những người yếu thế chống lại quyền lực đó. Quan trọng hơn, người này biết cách xây dựng liên minh trên nền tảng các quyền lợi chung. Một nhà thương lượng giỏi, theo tác giả luận văn để tiếp cận được các kỹ năng trên đòi hỏi có những phẩm chất: Phải có kiến thức, kinh nghiệm gần như toàn diện, phải vừa là một nhà kinh doanh, một luật gia, nhà ngoại giao, tâm lý học, chính trị học và am hiểu pháp luật quốc tế; Chuyên gia này phải có tư duy nhạy bén, giỏi cả suy nghĩ, giỏi cả hành động, phải có năng lực và sự nhẫn lại không nóng vội, hấp tấp biết kiềm chế cảm xúc, không tự ti kiêu căng, có khí tiết có khả năng sáng tạo dồi dào; Phải có khả năng ngôn ngữ tốt, giỏi diễn đạt ý kiến của mình, trình bày vấn đề sáng tỏ, dùng từ chuẩn xác rõ ràng có tính thuyết phục cao và phải có khả năng quan sát để ứng phó tình huống cho phù hợp Những cuộc thương lượng hiệu quả nhất được xây dựng trên sự tin tưởng. Sự tin tưởng được tạo ra thông qua một giai đoạn thương lượng có những thuận lợi quan trọng cho bước tiếp theo. Những nhà thương lượng giỏi có cách cư xử đúng nguyên tắc xử thế. Với sự đào tạo và kinh nghiệm, bạn có thể phát triển những kỹ năng này để trở thành một nhà thương lượng hiệu quả (41,Tr 161-174). Thứ tám, Tổng kết đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết thương lượng là một khâu quan trọng trong công tác áp dụng pháp luật. Từ vấn đề này có thể học hỏi được những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, xem xét đánh giá lại những văn bản hiện hành liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, đưa ra các kiến nghị đê hoàn thiện công tác này. Tuy nhiên công tác này không phải lúc nào và ở đâu cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Trong những năm gần đây, việc tổ chức tổng kết sơ kết thực tiễn và phổ biến kinh nghiệm bài học thực tế được đưa thành nhiệm vụ của các doanh nghiệp và các cơ quan xét xử. Tuy nhiên, các báo cáo này thường chỉ lưu hành nội bộ, thậm chí chỉ những người liên quan đến công tác tổng kết mới được biết đến. Có nơi còn xem đây là tài liệu mật. Vì thế việc tiếp cận thông tin liên quan gặp nhiều trở ngại khó khăn. Lý luận phát triển từ thực tiễn và thực tiễn bổ sung cho lý luận. Kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng giúp chúng ta hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến công tác này, và việc tổng kết này còn làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật, các nhà làm công tác giảng dạy, đào tạo và đặc biệt là nhà kinh doanh tham khảo trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp. Rất đáng tiếc công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giải quyết tranh chấp này hầu như chưa được các bên, cơ quan các cấp, thực hiện nghiêm túc. Nó chưa trở thành ý chí của các bên liên quan. Với các nhà nghiên cứu thì vấn đề này chưa được tìm tòi, nghiên cứu một cách đầy đủ, với các doanh nghiệp thì không nỗ lực hết mình tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng, với Nhà nước thì chưa có sự quan tâm một cách thích đáng đến vấn đề này. Hi vọng trong tương lại với kiến nghị và nhận xét trên, mong rằng vấn đê này sẽ được quan tâm đầy đủ hơn. Thứ chín, Nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong quá trình xây dựng pháp luật trong nước để tiến tới hài hòa pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong xu thế khu vực hóa toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các quốc gia không thể bó hẹp phạm vi hoạt động kinh tế trong nội bộ quốc gia mình mà buộc phải mở rộng sự liên kết theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ thương mại trong khu vực và trên thế giới. Chính quá trình hội nhập này đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia phải đổi mới hệ thống pháp luật của mình sao cho vừa đảm bảo tính đặc thù của mỗi quốc gia, vừa phù hợp với sự phát triển chung của thế giới về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Để tiếp thu những ưu điểm hợp lý phổ biến một cách chọn lọc để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam tương đồng với pháp luật và thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện hấp dẫn hơn cho pháp luật và thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam, góp phần thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam. KẾT LUẬN Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là vấn đề mang tính chất thời sự. Việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện vấn đề này giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về lý luận cũng như thực tiễn tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Lý luận về vấn đề này ở nước ta hiện nay còn nhiều điều cần tiếp tục hoàn thiện. Luận văn đã phân tích rõ ràng về tranh chấp thương mại từ đó đi sâu tìm hiểu các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà cụ thể là giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Qua đó, có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta hiện nay; Phân tính, đánh giá những ưu điểm và tồn tại của hệ thống này; Nêu thực trạng tình hình thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét về những vấn đề bất cập của hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng, nhận xét nguyên nhân của những bất cập đó để có những định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của nước ta. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng. Góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển lành mạnh, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và quốc tế an tâm kinh doanh, đầu tư, góp vốn phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn thể hiện nhiều khiếm khuyết. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn nhiều bất cập, yếu kém về kinh nghiệm, năng lực giải quyết. Điều này gây ra những thiệt thòi cho doanh nghiệp cũng như môi truờng, đầu tư, kinh doanh của nước ta. Những kiến nghị đưa ra nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, như để nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Vấn đề này cần phải xuất phát trên cơ sở các yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và phải đặt trong tổng thể yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Để quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng thực sự có hiệu quả thì cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các doanh nghiệp, cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia luôn trong xu thế cạnh tranh trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho vấn đề thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại nước ta. Vì thế, việc xây dựng một hệ thống pháp luật cởi mở, thông thoáng,, một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hiệu quả và phù hựp với thông lệ quốc tế sẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam và là tiền đề để Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việc hoàn thiện khung Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn hiện pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Có thể khẳng định rằng, Nhà nước ta đã có sự quan tâm nhất định trong vấn đề này, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên như thế vẫn là chưa đủ. Mong rằng vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều hơn. Nó phải trở thành ý chí của các bên liên quan. Ý chí của các nhà nghiên cứu là nghiên cứu và kiến nghị thành quả đó đi vào thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở hội thảo. Và ý chí của các thương nhân, doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp tham gia phải nỗ lực tìm tòi có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và áp dụng thực tiễn nó. Và quan trọng là ý chí của chủ thể Nhà nước, Nhà nước cần chú trọng hơn nữa vấn đề này, cần lắng nghe và không ngừng hoàn thiện xây dựng pháp luật phù hợp với thực tiễn áp dụng. Vì vậy, chúng ta có thể tin rằng, trong tương lai những khiếm khuyết, bất cập về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hôm nay sẽ được khắc phục, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS Ngô Huy Cương,Tập bài giảng giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, luật nghĩa vụ, khoa luật đại học quốc gia Hà Nội. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992, Nxb chính trị quốc gia Luật thương mại 2005, Nxb Chính trị quốc gia,2007 Luật thương mại 1997, Nxb chính trị quốc gia, 1997 Bộ Luật dân sự 2005, Nxb thống kê, 2006 luật doanh nghiệp năm 2005, Nxb Lao động xã hội,2006 Luật đầu tư 2005, Nxb Lao động xã hội,2006 Luật hàng không dân dụng 2006 Luật hàng hải 2004 Bộ luật tố tụng dân sự, Nxb Thống kê, 2007 Giáo trình luật thương mại tập 1,2 Đại học luật Hà Nội, Nxb công an nhân dân 2007 Giáo trình Luật quốc tế, Đại học quốc gia Hà nội, Nxb đại học quốc gia Hà Nội Giáo trình luật dân sự tập 1, 2 Đại học luật Hà nội, Nxb công an nhân dân 2006 Luật mẫu UNICTRAL về trọng tài thương mại. TS Ngô Huy Cương, “Tự do ý chí và sự tiếp nhận tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay”, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2008 Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 Công ước New York năm 1958 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 13/7/2000 Hiệp định thương mại Việt Nam – Singapore Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp của WTO Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN (DSM) Hiệp định khung năm 1992 của ASEAN và bổ sung năm 1995 về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và công dân của các quốc gia khác năm 1965 (ICSID) Hoàng Phê chủ biên,Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 1997 Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư Pháp Pháp lệnh về kí kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 Văn kiện đại hội Đảng X Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 16/3/1994 Nghị định số 116/NĐ-CP của chính phủ ngày 5/9/1994 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 Giáo trình luật thương mại quốc tế, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội Ban chấp hành TW Đảng (2002) Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Thái Trí Dũng, Kỹ năng giao tiếp và thương lượng, Nxb thống kê năm 2003. Nguyễn Văn Lê,Thương lượng học, Nxb TP Hồ Chí Minh 1994 Hoàng Thế Liên, “Một số vấn đề Luật kinh tế trong bước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường ở đất nước ta” tập bài giảng Đại học Luật Hà Nội. Đào Văn Hội, “Giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Tài liệu hội thảo về hoàn thiện khung pháp luật trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam tại Bộ tư pháp, Hà Nội 2000 Cung Mỹ Anh, “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định pháp luật tố tụng dân sự những vướng mắc và giải pháp khắc phục”, Luận văn thạc sĩ Đại học luật Hà Nội, 2008. Ban biên dịch G.B.S, Kỹ năng thương lượng (Negotiation), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2006. Lê Minh Hải, “Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS”, Luận văn thạc sĩ Đại học luật TP Hồ Chí Minh, 2007. Nguễn Hoài Sơn, “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, hòa giải,lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Đại học Luật Hà Nội, 2004. Phạm Hồ Hương, “Giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài tai Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Luận Văn thạc sĩ khoa luật đại học quốc gia Hà Nội, 2001. PGS.TS Lê Hồng Hạnh “Khái niệm thương mại theo pháp luật Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn và chính sách hội nhập”. Tạp chí luật học số 2/2000. Francis Lemeunier, Nguyên lý thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993 (tiếng việt). TS Ngô Huy Cương, Khái niệm hiệu lực của nghĩa vụ và vấn đề thực hiện nghĩa vụ. TS Ngô Huy Cương. Kỹ năng hành nghề luật sư- Tập III- Hợp đồng và tư vấn hợp đồng,Học viện tư pháp, Nxb Công an Nhân dân, 2002, tr. 53 Phan Chí Hiếu, “Tăng cường vai trò của toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế”, Kỷ yếu hội thảo giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp, Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý (leres), Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, dưới sự tài trợ của Konrad- Adenauer- Stifftung, Nxb Giao thông vận tải, 2000, tr. 98. Phạm Hữu Nghị, “Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh theo pháp luật Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp, Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý (leres), Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, dưới sự tài trợ của Konrad- Adenauer- Stifftung, Nxb Giao thông vận tải, 2000, tr. 73. TS Trần Văn Quang, “phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trung gian”. Vai trò của tư vấn pháp luật trong thực hiện đầu tư nước ngoài và Luật kuyến khích đầu tư trong nước tại Hà Nội. Báo cáo khoa học của hội luật gia thành phố Hà Nội năm 1999. Nguyễn Đình Lộc, Bộ luật hình sự mới và một số vấn đề cần quan tâm, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về Bộ luật hình sự. xem tư liệu diễn đàn: chống hình sự hóa các giao dịch dân sự và kinh tế do Bộ tư pháp và phòng thương mại công nghiệp tổ chức tạ Hà Nội ngày 26/10/2000. Trần Trọng Kim, Nho Giáo: Đại cương triết học Trung Hoa, NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1971, NXB TP Hồ Chí Minh, TP. HCM, tái bản, 1992, NXB Văn hoá Thông tin tái bản, 2001. Nguyễn Kim Sơn, Nho giáo trong tương lai văn hóa Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, 2/2003. TS Phạm Duy Nghĩa, Nho giáo trong tương lai pháp luật Việt Nam. Phạm Hữu Nghị, “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự”, tạp chí nhà nước và pháp luật, số 12/2000. Nguyễn Ngọc Khánh, “nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/2005 Và một số trang web

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.doc