Chuyên mục: Luật dân sựTrường: ĐH Luật Hồ Chí MinhLoại: Đề tài tốt nghiệpFile: docTrình độ: Đại họcSố trang: 53
LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam đang dần tiến những bước chân vững chắc hội nhập vào nền kinh tế thế giới với mong muốn trở thành quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang tích cực thực hiện việc cắt giảm thuế quan trong AFTA, ký hiệp định Việt Nam - Hoa Kì, cường quốc có nền kinh tế đứng đầu thế giới, và đặc biệt là năm 2006, sau 11 năm tích cực đàm phán, chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mở ra rất nhiều triển vọng cho nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình hội nhập đó, Việt Nam sẽ là miền đất đầy hứa hẹn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thị trường nước ngoài cũng sẽ là nơi mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam hướng tới.
Trong xu thế hội nhập vô cùng năng động và sôi động đó, thì việc xảy ra các tranh chấp là điều không thể tránh khỏi và cũng không dễ giải quyết được một cách nhanh chóng và chính xác. Hiện nay, chúng ta có rất nhiều các phương pháp giải quyết tranh chấp như: Hòa giải, Trọng tài, Tòa án Nhưng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì đang ngày càng khẳng định được vị thế, vai trò, và tính hấp dẫn trong việc giải quyết các tranh chấp.
Chính vì những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “ Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu kĩ lưỡng về phương thức giải quyết tranh chấp này, với mong muốn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế, đồng thời chỉ ra một số hạn chế và đề suất một số kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa phương thức này ở Việt Nam.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trọng tài là một trong những lĩnh vực rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học. Trong khuôn khổ bài khóa luận này, tôi không có tham vọng và trình độ cần thiết để giải quyết tất cả các vấn đề về trọng tài, mà tôi chỉ đi tập trung làm rõ những quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam và phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài, chỉ ra các tồn tại, và đưa ra các ý kiến để hoàn thiện.
3.Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế và pháp luật kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp tổng hợp, đối chiếu, so sánh phương pháp hệ thống gắn với quá trình nghiên cứu thực tiễn về trọng tài
4. Kết cấu của khóa luận.
Nội dung cơ bản của khóa luận ngoài phần mở đầu và phần kết luận, được trình bày ở hai chương:
Chương I: Lí luận chung về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Chương II: Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6282 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài, vừa quán triệt tư tưởng đổi mới của Đảng. Pháp lệnh trọng tài đã tạo ra cơ sở pháp lí quan trọng cho cơ quan trọng tài thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần duy trì và phát triển quan hệ kinh tế, đẩy mạnh sản xuất lưu thông hàng hóa, phòng ngừa và xử lí vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, việc kí kết hợp đồng kinh tế không còn là kỉ luật Nhà nước, là nghĩa vụ nữa mà là quyền của các đơn vị kinh tế, sự tồn tại cơ quan trọng tài với tư cách là cơ quan nhà nước để quản lí công tác hợp đồng kinh tế là không cần thiết nữa.
Kể từ ngày 01/7/1994, ở nước ta sẽ không còn có trọng tài kinh tế nhà nước nữa. theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật tổ chức tòa án nhân dân, được quốc hội thông qua ngày 28/12/1993. Tòa kinh tế đã được thành lập trong tòa án nhân dân tối cao và tòa án nhân dân tỉnh để xét xử các vụ án kinh tế theo pháp luật.
Ngiên cứu kinh nghiệm giải quyết tranh chấp - thương mại ở một số nước thấy rằng, tranh chấp thương mại kinh tế được giải quyết thông qua trọng tài thương mại và tòa án thương mại hay tòa án thường.
Ngày 05/9/1994, Chính phủ đã ra NĐ 116/CP về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có thể lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp cho phù hợp, thuận tiện.
- Hội đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải
Trong giai đoạn này, song song với mô hình trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài kinh tế có tính chất xã hội nghề nghiệp. Đó là: Hội đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải đặt bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.
Hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập ngày 30/4/1963 bởi nghị định 59/CP có chức năng chính là giải quyết các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng hóa mà một bên mang quốc tịch Việt Nam.
Hội đồng trọng tài hàng hải được thành lập ngày 05/10/1963 bởi nghị định 153/CP có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hàng hải, là một trong số các bên là cá nhân, pháp nhân, nước ngoài hoặc các bên tranh chấp đều là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài.
Mặc dù hoạt động với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp, song hai tổ chức trọng tài này chỉ là sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch tập trung cho nên cũng chỉ phù hợp với tình hình thực tế lúc đó mà thôi.
2.1.2. Giai đoạn từ 1993 đến nay.
Trước đòi hỏi của thực tế, và sự lạc hậu của pháp luật trọng tài trong nước, ngày 28/04/1993, thủ tướng chính phủ ra quyết định 204/1993/TTg về việc thành lập trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hai hội đồng trọng tài ngoại thương và hội đồng trọng tài hàng hải.
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được ghi nhận là tổ chức phi chính phủ được thành lập bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam có “Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế”.
Ngày 16/02/1996, theo tinh thần của nghị quyết số 114/TTg của thủ tướng chính phủ, thẩm quyền của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được mở rộng: ngoài thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế, trung tâm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nội địa khi các đương sự có yêu cầu.
Sự ra đời của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, phần nào thể hiện được quan điểm mở cửa, chủ trương khuyến khích việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài của Đảng và nhà nước ta, song chỉ mình trung tâm đó chưa thể đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp ngày càng nhiều trong nền kinh tế nước ta. Chính vì lẽ đó, ngày 05/9/1994, chính phủ ban hành nghị định 116/CP quy định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài với tư cách là tổ chức xã hội nghề nghiệp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long, Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn,…
Tại điều 1 nghị định 116/CP, quy định, các trung tâm có trọng tài có thẩm quyền giải quyết “ Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty; giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập và giải thể công ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu”. Pháp luật quy định các trung tâm có thẩm quyền như vậy song mỗi trung tâm có thể xác định lĩnh vực hoạt động cho mình tùy thuộc vào khả năng chuyên môn của các trọng tài viên.
Sau gần 10 năm hoạt động (từ 1993 đến năm 2002) trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và các trung tâm trọng tài khác đã thể hiện được vai trò nhất định trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của các trung tâm này, đã bộc lộ nhiều bất cập trong pháp luật trọng tài Việt Nam như: thiếu các quy định cụ thể; điều chỉnh không toàn diện; một số nội dung còn lạc hậu không có tính thực tiễn, không phù hợp với trọng tài khu vực cũng như trên thế giới…
Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật đối với sự phát triển của trọng tài cũng như để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức này ngày càng gia tăng, đồng thời thể hiện sự tôn trọng luật chơi chung trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Ngày 25/02/2003, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại mở ra một giai đoạn phát triển mới của trọng tài Việt Nam nói chung và Trọng tài Thương mại Quốc tế nói riêng. Đây là văn bản điều chỉnh khá toàn diện và có tính thực tiễn trong lĩnh vực thương mại. Hơn thế nữa nội dung của nó về cơ bản là phù hợp với luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL, cũng như những đạo luật trọng tài hiện đại trên thế giới.
Như vậy, có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của trọng tài ở Việt Nam, là một quá trình kế thừa và phát triển liên tục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lịch sử đất nước. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, ở nước ta việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài được sử dụng nhiều hơn, đặc biệt là sau khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời được coi là xương sống của pháp luật Việt Nam về trọng tài.
2.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp Thương mại Quốc tế bằng Trọng tài tại Việt Nam.
2.2.1. Tố tụng Trọng tài
2.2.1.1. Đơn kiện (thông báo trọng tài), thời hiệu khởi kiện và thụ lý đơn kiện.
Để giải quyết vụ tranh chấp tại trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi đến đúng trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn. Như chúng ta đã biết thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài được xác định bởi sự lựa chọn của các bên có tranh chấp. Chỉ có trung tâm trọng tài nào được các bên lựa chọn mới có thẩm quyền giải quyết. Nếu nguyên đơn gửi đơn kiện đến không đúng trung tâm trọng tài mà các bên đã thỏa thuận lựa chọn thì đơn kiện đó chắc chắn sẽ không được thụ lý.
Tại khoản 4 Điều 20 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: “Tố tụng trọng tài bắt đầu từ khi trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn hoặc từ khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn, nếu vụ tranh chấp được giải quyết tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập.”
Quy định này đã xác định rõ thời điểm bắt đầu quá trình trọng tài đối với mỗi loại trọng tài. Đối với trọng tài Ad - hoc là khi bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn. Đối với trọng tài thường trực là từ khi trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn.
Tùy thuộc vào hình thức trọng tài do các bên lựa chọn mà thủ tục gửi đơn kiện là khác nhau. Nhưng dù dưới hình thức nào đi chăng nữa thì đơn kiện đều phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
Ngày, Tháng,Năm viết đơn.
Tên và địa chỉ của các bên.
Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp.
Các yêu cấu của nguyên đơn.
Trị giá tài sản mà nguyên đơn yêu cầu.
Trọng tài viên của trung tâm trọng tài mà nguyên đơn chọn.
Để giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng trọng tài do các bên thành lập nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi cho bị đơn; nội dung đơn kiện như trên.
Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản chính hoặc bản sao thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu chứng cứ. Bản sao phải có chứng từ hợp lệ. Đồng thời nguyên đơn phải nộp phí trọng tài nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia tranh chấp và sự độc lập, vô tư, khách quan của các trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp thì tại khoản 5 Điều 20 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: “Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn kiện, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định tại khoản 3 điều này.”
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng tài.
Thời hiệu khởi kiện cũng là một vấn đề rất quan trọng trong tố tụng trọng tài vì trong trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện thì trọng tài sẽ không giải quyết vụ việc nữa cho dù đơn kiện, thỏa thuận trọng tài, chứng cứ… mà nguyên đơn gửi đến đầy đủ và hợp pháp. Theo Điều 20 Pháp lệnh Trọng tài năm 2003, đối với vụ tranh chấp mà pháp luật có quy định thời hiệu khởi kiện thì thực hiện theo quy định đó của pháp luật. Còn đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp bất khả kháng. Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện được tính vào từ ngày xảy ra sự kiện cho đến khi không còn sự kiện bất khả kháng.
Khi nhận được đơn kiện, Trung tâm trọng tài phải xem xét xem vụ kiện đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay không, đặc biệt là thỏa thuận trọng tài của các bên có chọn đích danh Trung tâm trọng tài mà nguyên đơn gửi đơn đến hay không. Nếu thỏa thuận trọng tài và tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, nguyên đơn và bị đơn đều là tổ chức, cá nhân kinh doanh, Trung tâm trọng tài sẽ thụ lý đơn kiện và có trách nhiệm giải quyết.
Như vậy, ta có thể kết luận rằng quá trình tố tụng trọng tài tại Trung tâm trọng tài bắt đầu từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn kiện. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn kiện, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện của nguyên đơn, những tài liệu kèm theo mà nguyên đơn cung cấp và danh sách trọng tài viên của trung tâm.
Bản tự bảo vệ của bị đơn
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo, của nguyên đơn do Trung tâm trọng tài gửi đến, nếu không có thỏa thuận gì khác, bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ. Bản tự bảo vệ phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
Ngày, tháng, năm viết bản tự bảo vệ;
Tên và địa chỉ của bị đơn;
Lí lẽ và chứng cứ để tự bảo vệ, phản bác một phần hay toàn bộ nội dung đơn kiện của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn về thẩm quyền của trọng tài và thỏa thuận trọng tài (chẳng hạn vụ tranh chấp không được thẩm quyền giải quyết của trọng tài; không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu;)
Trọng tài viên của trung tâm mà bị đơn chọn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm.
Theo yêu cầu của bị đơn, thời hạn bị đơn phải gửi bản tự bảo vệ và kèm theo chứng cứ có thể dài hơn ba mươi ngày nhưng phải trước ngày hội đồng trọng tài mở phiên họp.
Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Đơn kiện lại phải được gửi cho hội đồng trọng tài, đồng thời gửi cho nguyên đơn trước ngày mở phiên họp của hội đồng trọng tài giải quyết đơn kiện của nguyên đơn.
Nguyên đơn phải có bản trả lời đơn kiện lại trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện lại. Bản trả lời phải được gửi cho bị đơn và Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ giải quyết đơn kiện lại cùng một lúc với việc giải quyết đơn kiện.
2.2.1.2. Vấn đề chọn địa điểm, thời gian, ngôn ngữ và luật áp dụng cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Địa điểm diễn ra phiên họp giải quyết tranh chấp
Địa điểm trọng tài được hiểu là nơi tiến hành các phiên họp xét xử trọng tài. Việc chọn địa điểm trọng tài trước tiên phụ thuộc vào quyền của các bên tham gia tranh chấp. Nhưng nếu các bên không lựa chọn được thì Hội đồng trọng tài sẽ tiến hành lựa chọn địa điểm trọng tài.
Cụ thể, tại khoản 6, Điều 49, Pháp lệnh Trọng tài quy định: “Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp tại Việt Nam hoặc nước ngoài; nếu không thỏa thuận được thì Hội đồng trọng tài quyết định nhưng phải bảo đảm thuận tiện cho các bên trong việc giải quyết”
Tại Điều 18, quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) quy định: “việc xét xử được tiến hành tại Việt Nam theo yêu cầu của các bên hoặc trong trường hợp cần thiết, chủ tịch ủy ban trọng tài có thể quyết định việc xét xử tiến hành ở một địa điểm khác trên lãnh thổ Việt Nam”.
- Thời gian tiến hành trọng tài
Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mà pháp luật các nước thường trao cho các đương sự quyền xác định thời gian tiến hành phiên họp trọng tài sao cho thuận lợi nhất cho mình. Nhưng khi các bên không thỏa thuận được thì quyền đó sẽ thuộc Hội đồng trọng tài.
Tại khoản 1 Điều 38, Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định:
“Thời gian mở phiên họp giải quyết tranh chấp do Chủ tịch Hội đồng trọng tài quy định nếu các bên không có thỏa thuận khác”
Điều cần lưu ý ở đây là các bên chỉ có quyền thỏa thuận về thời gian diễn ra phiên họp trọng tài còn quá trình giải quyết tranh chấp thì các bên phải tuân theo quy định của Hội đồng trọng tài.
- Ngôn ngữ trọng tài
Vấn đề này pháp luật các nước thường dành cho các bên đương sự quyền được lựa chọn, thỏa thuận ngôn ngữ phù hợp với mình. Thực tiễn giải quyết tranh chấp Hợp đồng thương mại quốc tế thường chỉ có một ngôn ngữ được sử dụng và đó là ngôn ngữ giao dịch giữa các bên trong việc đàm phán ký kết hợp đồng. Có một số quốc gia không trao quyền này cho các bên đương sự mà quy định ngôn ngữ trọng tài là ngôn ngữ của quốc gia đó.
Đảm bảo nguyên tắc thoả thuận, pháp lệnh trọng tài thương mại quy định tại khoản 7 Điều 49 như sau “Các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ dùng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt”
Tương tự như quy định của pháp lệnh tại Điều 22, quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam quy định: “đối với vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có quyền thỏa thuận về ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài: nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt. Các bên có quyền yêu cầu trung tâm cung cấp phiên dịch và phải trả chi phí”.
Chọn luật áp dụng
Theo khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, quy định, các bên tham gia tranh chấp có quyền chọn luật áp dụng, nếu trong trường hợp các bên không lựa chọn được thì Hội đồng trọng tài sẽ quyết định việc chọn luật áp dụng. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có quyền lựa chọn pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 7 và các tập quán thương mại để giải quyết vụ tranh chấp (khoản 5 Điều 49 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003)
2.2.1.3. Thành lập hội đồng trọng tài
Mặc dù giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mang tính tài phán nhưng không giống như tòa án, không có Hội đồng trọng tài cố định để giải quyết tranh chấp thương mại mà ở đó cùng một số trọng tài viên nhất định giải quyết nhiều vụ việc. Hội đồng trọng tài chỉ được thành lập khi có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp. Các bên có tranh chấp sẽ tham gia vào việc thành lập hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp cho họ.
Thông thường, việc giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài do một Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết.
Như vậy có hai hình thức thành lập hội đồng trọng tài là hình thức trọng tài Ad - hoc và hình thức trọng tài thường trực. Với mỗi hình thức trọng tài, trình tự, thủ tục chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tuân theo những quy định khác nhau. Nhưng nhìn chung, thủ tục thành lập hội đồng trọng tài đều qua các bước sau: Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên giải quyết thì mỗi bên chọn ra một trọng tài viên, sau đó các trọng tài viên được chọn phải chọn ra một trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Đối với vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết, thì trọng tài viên đó do các bên thỏa thuận chọn ra. Trong trường hợp các bên không chọn được trọng tài viên, các trọng tài viên không chọn được trọng tài viên thứ ba thì sẽ có hỗ trợ từ phía trung tâm trọng tài hoặc phía tòa án.
Cụ thể việc thành lập Hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài được quy định tại Điều 25 Pháp lệnh Trọng tài. Theo đó trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì sau khi nhận được đơn kiện, trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn kiện, tên trọng tài viên mà nguyên đơn chọn và các tài liệu kèm theo, cùng với danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì sau khi nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do Trung tâm Trọng tài gửi tới, bị đơn phải chọn trọng tài viên có tên trong danh sách trọng tài viên của Trung tâm Trọng tài và báo cho trung tâm trọng tài biết hoặc yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định trọng tài viên cho mình. Nếu bị đơn không chọn trọng tài viên hoặc không yêu cầu Chủ tịch Trung tâm Trọng tài chỉ định, trọng tài viên có tên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài cho bị đơn. Trong trường hợp có nhiều bị đơn, thì các bị đơn phải thống nhất chọn một trọng tài viên, nếu các bị đơn không thống nhất được thì chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định.
Sau khi chọn được hoặc được chỉ định, hai trọng tài viên phải chọn ra một trọng tài viên thứ ba có tên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài làm chủ tịch hội đồng trọng tài.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên suy nhất giải quyết nhưng không chọn được trọng tài viên thì theo yêu cầu của một bên, việc chỉ định sẽ do chủ tịch trung tâm trọng tài chỉ định.
Trong trường hợp thỏa thuận trọng tài quy định tranh chấp được giải quyết tại hội đồng trọng tài do các bên thành lập thì tố tụng trọng tài được bắt đầu từ khi nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị đơn trong đó có nêu tên trọng tài viên mà nguyên đơn chọn. Bị đơn phải xem xét đơn kiện và quyết định chọn trọng tài viên cho mình, sau đó thông báo cho nguyên đơn biết. Nếu bị đơn không chọn được trọng tài viên cho mình thì nguyên đơn có quyền đề nghị tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên cho bị đơn. Đối với trường hợp vụ án có nhiều bị đơn thì các bị đơn phải thống nhất chọn một trọng tài viên duy nhất. Tuy nhiên, nếu các bị đơn không thống nhất chọn được trọng tài viên duy nhất thì nguyên đơn có đề nghị tòa án cấp tỉnh nơi có trụ sở hoặc cư trú của một trong các bị đơn chỉ định trọng tài viên cho các bị đơn. Sau khi được lựa chọn, các trọng tài viên này phải thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Nếu hai trọng tài không chọn được trọng tài viên thứ ba thì các bên có quyền yêu cầu tòa án giúp đỡ.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do trọng tài viên duy nhất giải quyết nhưng không chọn được trọng tài viên duy nhất thì theo yêu cầu của một bên tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú sẽ chỉ định trọng tài viên duy nhất. Trọng tài viên duy nhất này sẽ làm việc như một Hội đồng trọng tài.
Đối với các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, thì trọng tài viên có thể là người ngoài danh sách trọng tài viên của các trung tâm trọng tài Việt Nam. Khoản 3 Điều 49 quy định: “ trọng tài viên do các bên chọn hoặc do tòa án chỉ định có thể là trọng tài viên có tên trong danh sách hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của các trung tâm trọng tài Việt Nam hoặc là trọng tài viên nước ngoài về trọng tài nước đó”.
Tại khoản 4 Điều 49 Pháp lệnh trọng tài cũng có quy định: “trong trường hợp một bên hoặc các bên yêu cầu tòa án nước ngoài chỉ định trọng tài viên thì tòa án có thẩm quyền chỉ định trọng tài viên là tòa án được xác định theo quy định của pháp luật nước đó.”
Như vậy có thể thấy các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài Việt Nam mà điển hình là VIAC về thành lập Hội đồng trọng tài đều có những nội dung tương tự với pháp luật các nước cũng như với luật mẫu trọng tài của UNCITRAL. Các quy định này rất phù hợp với nguyên tắc thỏa thuận trong xét xử trọng tài đồng thời thể hiện được quyền bình đẳng của các bên trong quá trình trọng tài mà việc thành lập hội đồng trọng tài là khâu quan trọng. Bên cạnh đó, việc dựa vào các Tòa án hay các Trung tâm Trọng tài để thành lập Hội đồng Trọng tài làm cho phương pháp trọng tài khó bị chấm dứt giữa chừng do thiếu cơ chế điều chỉnh, ngoại trừ khi các bên thực sự muốn điều này xảy ra. Kể từ khi Hội đồng Trọng tài được thành lập thì việc giải quyết trực tiếp tranh chấp mới được tiến hành cụ thể.
2.2.1.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp
Diễn biến phiên họp giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Như trên đã phân tích, trong tố tụng trọng tài, các bên có tranh chấp được bảo đảm tối đa quyền tự định đoạt, các bên có thể thỏa thuận cả thời gian giải quyết tranh chấp, tức là các bên có quyền quyết định khi nào tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp. Hội đồng trọng tài phải tôn trọng sự thỏa thuận đó của các bên. Chỉ khi không có thỏa thuận của các bên về thời gian tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp, Chủ tịch Hội đồng trọng tài mới có quyền quyết định thời gian mở phiên họp giải quyết tranh chấp ( Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.)
Về mặt nguyên tắc, phiên họp giải quyết vụ tranh chấp là không công khai, đây chính là ưu thế của trọng tài thương mại quốc tế khiến các thương nhân lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Khi đã ấn định thời gian tiến hành phiên họp trọng tài, các bên sẽ tiến hành phiên họp tại địa điểm và bằng ngôn ngữ do các bên thỏa thuận hoặc do hội đồng trọng tài lựa chọn.
Về thành phần tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, các bên có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp này. Các bên có quyền mời luật sư, nhân chứng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hội đồng trọng tài cũng có thể cho phép người khác tham dự nếu được các bên đồng ý. Thông thường các phiên họp giải quyết vụ tranh chấp có sự có mặt của các bên nhưng cũng có những phiên họp không như vậy, có những phiên họp chỉ có mặt của một bên đương sự. Có hai lý do dẫn đến trường hợp này. Một là do các bên tranh chấp yêu cầu hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào hồ sơ để giải quyết vụ tranh chấp mà không cần các bên có mặt. Hai là do sự vắng mặt có lý do chính đáng của các đương sự (có thể là nguyên đơn hoặc bị đơn).
Việc vắng mặt có thể dẫn đến phiên họp giải quyết phải hoãn lại nếu có lý do chính đáng. Tại khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định: “trường hợp có lý do chính đáng, các bên có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp”. Quy định về hoãn phiên họp là để nhằm bảo đảm quyền tham gia tranh tụng của các bên để đảm bảo tính chính xác của quyết định trọng tài.
Trong phiên họp giải quyết tranh chấp hội đồng trọng tài sẽ nghe các bên trình bày ý kiến của mình. Trên cơ sở đó, kết hợp với những chứng cứ và tài liệu có thể được đưa ra những quyết định đúng đắn.
2.2.1.5. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình trọng tài.
Thế mạnh của phương thức giải quyết tranh chấp bằng tài phán so với các phương thức khác đó là nó mang tính quyền lực nhà nước. Đặc biệt khi cơ quan tài phán đó là tòa án, khi đó quyền lực nhà nước là tuyệt đối những phán quyết mà cơ quan này đưa ra được bảo đảm thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan như cảnh sát, nhà tù…
Trọng tài tuy không phải là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng sự hoạt động của nó lại nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ phía các cơ quan nhà nước. Mà sự thể hiện rõ nhất đó là sự giúp đỡ của các cơ quan tòa án đối với các trung tâm trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Vấn đề này được thể hiện tại Điều 33 Pháp lệnh Trọng tài thương mại: “trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời…”. Việc quy định quyền yêu cầu áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thể hiện rõ sự hỗ trợ từ phía tòa án trong việc giải quyết tại trọng tài vì thực tế trọng tài không có quyền áp dụng biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Nếu không có sự hỗ trợ này, trọng tài sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ việc. Hiện nay, có sáu biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 33 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 bao gồm:
Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy;
Kê biên tài sản tranh chấp;
Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
Kê biên và liêm phong tài sản tranh chấp;
Phong tỏa tài sản ngân hàng.
Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định khá chặt chẽ vì việc áp dụng sẽ làm ảnh hưởng đến lợi ích của người bị áp dụng. Theo Điều 34 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, kèm theo đơn yêu cầu, bên yêu cầu phải ký gửi bản sao đơn kiện, bản sao thỏa thuận trọng tài, bằng chứng về các chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài sản có thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện được. Bên yêu cầu phải nộp một khoản tiền để bảo đảm để bảo vệ lợi ích của bên bị áp dụng và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu. Tòa án xem xét và quyết định áp dụng hay không áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thi hành ngay. “trong trường hợp bên yêu cầu biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho bên kia, cho người thứ ba thì phải bồi thường”.
Để trọng tài có thể phát triển, pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định về sự hỗ trợ của tòa án trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng đến quyền lực công.
2.2.1.6. Quyết định trọng tài
Quyết định trọng tài là một khâu quan trọng, là bước cuối cùng trong tiến trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Sau khi đã xem xét nội dung vụ tranh chấp, nghiên cứu các chứng cứ, các tài liệu một cách kĩ lưỡng, hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định trọng tài. Quyết định trọng tài phải lập theo nguyên tắc đa số, trừ trường hợp vụ tranh chấp do trọng tài viên duy nhất, ý kiến thiểu số phải được đưa vào biên bản phiên họp. Pháp lệnh trọng tài không quy định trường hợp không đạt được đa số thì sẽ giải quyết như thế nào.Theo như quy định trong quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, trong trường hợp này quyết định trọng tài được thành lập theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Theo quy định tại Điều 44 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì quyết định trọng tài phải bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết định trọng tài; trong trường hợp giải quyết vụ tranh chấp do Trung tâm trọng tài tổ chức thì quyết định trọng tài phải có tên Trung tâm trọng tài;
Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
Họ tên các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất;
Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp;
Cơ sở để ra quyết định trọng tài;
Quyết định về vụ tranh chấp; quyết định về phí trọng tài và các phí khác.
Thời hạn thi hành quyết định trọng tài
Chữ ký của các trọng tài viên hoặc trọng tài viên duy nhất.
Quyết định trọng tài có hiệu lực ngay khi công bố. Về thời điểm công bố, theo khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định “quyết định trọng tài có thể được công bố ngay tại phiên họp cuối cùng hoặc sau đó nhưng chậm nhất là sáu mươi ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng. Toàn văn quyết định trọng tài phải được gửi ngay cho các bên ngay sau ngày công bố”.
Quyết định trọng tài không thể bị sửa chữa, tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt vẫn có thể bị sửa chữa, ví dụ như các lỗi về đánh máy, tính toán, lỗi in…nhưng tuyệt đối không được làm thay đổi nội dung vụ việc.
Một hậu quả pháp lý nặng nề có thể xảy ra sau khi công bố quyết định trọng tài, đó là: quyết định trọng tài bị tòa án hủy do vi phạm thủ tục tố tụng. Các vấn đề liên quan đến hủy quyết định trọng tài được quy định từ điều 50 đến Điều 56 pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Theo đó, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi tòa án cấp tỉnh nơi hội đồng trọng tài ra quyết định để yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Tòa án sẽ tiến hành xét đơn yêu cầu bằng cách mở phiên tòa. Vì quyết định trọng tài đã có hiệu lực pháp luật nên khi xét đơn yêu cầu, tòa án không có quyền xét lại nội dung vụ tranh chấp. Sau khi xem xét đơn, giấy tờ kèm theo, chứng cứ, nghe ý kiến của những người được triệu tập, ý kiến của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thảo luận và ra quyết định hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài dựa trên sáu căn cứ sau đây:
Không có thỏa thuận trọng tài;
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu;
Thành phần Hội đồng trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên theo quy định của pháp lệnh này;
Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trong trường hợp quyết định của trọng tài có một phần không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thì phần phán quyết này bị hủy;
Bên yêu cầu chứng minh được trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ trọng tài viên;
Quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các bên có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị quyết định của tòa án. Tòa án nhân dân Tối cao mở phiên tòa xem xét và ra quyết định, quyết định của tòa án Tối cao là chung thẩm.
Việc quy định quyền yêu cầu hủy quyết định trọng tài là rất cần thiết, tạo ra một cơ chế xem xét lại xem tiến trình tố tụng trọng tài có tuân thủ các nguyên tắc của trọng tài hay không và vấn đề đảm bảo giá trị chung thẩm của quyết định trọng tài. Việc quyết định trọng tài bị hủy là điều mà các đương sự (trừ bên yêu cầu hủy) và Hội đồng trọng tài không hề mong muốn. Vì vậy, khi giải quyết đòi hỏi hội đồng trọng tài phải triệt để tuân theo các nguyên tắc tố tụng và tòa án khi xem xét hủy quyết định trọng tài phải hết sức cẩn trọng, tránh trường hợp quyết định trọng tài bị hủy có thể ảnh hưởng đến lợi ích của bên có quyền và làm giảm uy tín của trọng tài.
2.2.2. Thi hành quyết định trọng tài
Thi hành quyết định trọng tài được hiểu là việc các bên đương sự thực thi quyết định trọng tài trên thực tế. Do bản chất của trọng tài là sự tự nguyện nên sau khi quyết định trọng tài được đưa ra thì các bên phải tự nguyện thực hiện quyết định đó trong một khoảng thời gian nhất định, trừ trường hợp một trong các bên làm đơn yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, nếu một bên không tự nguyên thi hành và cũng không yêu cầu hủy theo quy định Điều 50 của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì bên được thi hành quyết định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành quyết định trọng tài. Trong trường hợp, một trong các bên có yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành kể từ ngày quyết định của tòa án không hủy quyết định trọng tài có hiệu lực.
Tòa án không hủy quyết định trọng tài, tức là tòa án đã công nhận tính hợp pháp của quyết định trọng tài. Khi xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài, hội đồng xét xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra các giấy tờ do nguyên đơn cung cấp để xem có căn cứ hủy quyết định trọng tài hay không. Nếu có căn cứ để hủy quyết định trọng tài theo Điều 54 Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định hủy quyết định trọng tài, các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại tòa án, nếu không có thỏa thuận khác. Nếu không có căn cứ để hủy quyết định trọng tài, Hội đồng xét xử sẽ ra quyết định không hủy quyết định trọng tài. Trong trường hợp này, quyết định trọng tài sẽ phải được thi hành, theo yêu cầu của bên được thi hành án.
Như vậy, quyết định trọng tài sẽ được cưỡng chế thi hành nếu quyết định này là hợp pháp. Tính hợp pháp của quyết định trọng tài được thừa nhận khi không có đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài hoặc yêu cầu hủy quyết định trọng tài bị bác thông qua quyết định không hủy quyết định trọng tài của tòa án.
Trên đây là một số quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài. Nó đã thể hiện những cố gắng, nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho trọng tài nói chung và trọng tài thương mại quốc tế nói riêng ngày càng phát triển, đồng thời thể hiện sự mong muốn hòa nhập của Việt Nam với toàn thế giới.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định ngày càng cụ thể và đầy đủ về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài, đặc biệt là Ủy ban thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, thay thế cho những văn bản quản lý nhà nước về trọng tài trước đó đã ban hành.
Hơn thế nữa, cùng với Pháp lệnh Trọng tài thương mại là các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định 25/2004/NĐ - CP của chính phủ ngày 15/01/2004 quy định chi tiết việc hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Ttrọng tài, Nghị quyết số 05/2003/ NQ - HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 31/07/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại.
Qua đó, ta có thể thấy Trọng tài Thương mại Quốc tế Việt Nam có cơ sở pháp lý rất thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, nhìn vào những con số thống kê dưới đây, ta sẽ thấy, Trọng tài thương mại quốc tế ở Việt Nam phát triển chưa thật tương xứng với điều kiện thuận lợi mà nó đang có.
Từ những năm 1990, Việt Nam đã có 6 trung tâm trọng tài cùng tồn tại bao gồm: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội,… nhưng tổng số vụ tranh chấp mà các trung tâm này giải quyết thì chỉ khoảng 150 vụ. Điều đặc biệt là 98 % số vụ tranh chấp được giải quyết tại VIAC.
Đối tượng tranh chấp thì chủ yếu là hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng dịch vụ với các vi phạm chủ yếu là không giao hàng, giao hàng không đúng hẹn…Ngoài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, hiện có sáu Trung tâm Trọng tài khác đang hoạt động đó là: Trung tâm Trọng tài Thương mại Á Châu (Hà Nội), Trung tâm Trọng tài thương mại Hà Nội (Hà Nội), Trung tâm Trọng tài Viễn Đông (Hà Nội), Trung tâm trọng tài Quốc tế Thái Bình Dương (Thành phố Hồ Chí Minh), Trung tâm trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Thành phố Hồ Chí Minh ), Trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ (Thành phố Cần Thơ)
Năm 2000, tổng số vụ tranh chấp được giải quyết tại VIAC là 23 vụ.
Năm 2001, tổng số vụ tranh cháp được giải quyết tại VIAC là 16 vụ, nhưng chủ yếu là những vụ tranh chấp thương mại quốc tế.
Năm 2003, số vụ tranh chấp được giải quyết là 16 vụ.
Đặc biệt, năm 2006, sau 3 năm pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 đi vào cuộc sống, VIAC đã giải quyết được 23 vụ tranh chấp. Các tranh chấp chủ yếu là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng xây dựng,…các bên tranh chấp chủ yếu vẫn là các cá nhân, tổ chức của quốc gia có nền kinh tế phát triển như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo…Tuy nhiên phần lớn các tranh chấp do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết, các Trung tâm Trọng tài còn lại hầu như giải quyết rất ít, có Trung tâm đến nay chưa giải quyết vụ nào.
Như vậy có thể thấy số vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ngày càng gia tăng, điều đó thể hiện những tín hiệu rất khả quan của trọng tài quốc tế Việt Nam.
Nhìn vào tiềm năng thì có thể thấy trọng tài Việt Nam còn nhiều cơ hội để phát triển, nhưng thực tế thì trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó.
* Trọng tài thương mại ở Việt Nam còn chưa phát triển là bởi một số nguyên nhân sau:
1. Những quy định của pháp luật hiện hành
Còn thiếu sót, chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể các vấn đề cần quy định, có những vấn đề còn chưa thực sự đi vào cuộc sống, gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng thực tiễn của pháp luật vào cuộc sống. Pháp lệnh trọng tài năm 2003 ra đời đã đáp ứng được phần nào yêu cầu của tình hình thực tế. Tuy nhiên, sau 6 năm đi vào thực tế, pháp lệnh đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất hợp lý và thiếu những quy định cụ thể cần thiết.
2. Tập quán, thói quen thương mại
Ở đây, điều đầu tiên phải nói tới chính là do thói quen của các thương nhân Việt Nam. Họ tin tưởng vào tòa án hơn là trọng tài. Họ cho rằng chỉ có tòa án mới có thể giúp họ đòi được sự công bằng. Thêm vào đó, thương nhân Việt Nam chưa có những hiểu biết đầy đủ về vấn đề chọn cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài. Do vậy mà thương nhân Việt Nam rất e dè mỗi khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
3. Trình độ trọng tài viên
Các trọng tài viên hiện nay đều là những người kiêm nhiệm trong các lĩnh vực thương mại. Vì vậy, một số trọng tài viên còn chưa chuyên nghiệp, ví dụ như yêu cầu về quy tắc tố tụng. Điều này một số trọng tài viên chưa nắm được. Cùng với đó, các tranh chấp ngày càng sâu và phức tạp, nhất là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Hiện nay cũng tồn tại thực trạng có một số ít trọng tài viên chưa nắm chắc kiến thức pháp luật quốc tế bao gồm luật các nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên hoặc sắp là thành viên. Nếu các trọng tài viên không nắm chắc các điều ước quốc tế đa phương, song phương hoặc những điều ước được ký kết khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu của việc trọng tài thương mại quốc tế chưa thực sự được phát triển ở Việt Nam. Để hạn chế tình trạng này và thúc đẩy hoạt động trọng tài tại Việt Nam, chúng ta cần phải có những thay đổi đúng đắn và hợp lý. Dưới đây là những kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại của hoạt động giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam.
3.2. Các kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại của hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam
3.2.1. Thúc đẩy nhanh quá trình soạn thảo luật trọng tài để sớm đưa vào cuộc sống nhằm khắc phục những hạn chế của pháp lệnh trọng tài thương mại.
Ở Việt Nam từ trước tới nay chưa có Luật về trọng tài. Hiện nay nhu cầu về việc ban hành một văn bản Luật hoàn chỉnh để thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đang trở lên rõ ràng và cấp bách. Chính vì thế mà ngày 23 tháng 1 năm 2008, Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 570/2008/UBTVQH về việc thành lập Ban soạn thảo Luật Trọng tài thương mại. Được biết, Ban soạn thảo đang tiến hành chuẩn bị thành lập Tổ biên tập để giúp việc chuẩn bị dự án Luật. Luật về trọng tài cần phải quy định một cơ chế thống nhất và có hiệu quả cho việc trọng tài ở Việt Nam. Nói chung, luật cần thừa nhận các nguyên tắc căn bản, phổ biến của trọng tài như: bản chất thỏa thuận của trọng tài; sự hài hòa giữa sự tự quản của các bên và sự hỗ trợ của Nhà nước; công bằng, khách quan và công lý.
3.2.2. Sửa đổi một số quy đinh còn bất cập trong pháp lệnh trọng tài
Về khái niệm hoạt động thương mại.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Nhưng tại khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì lại định nghĩa về hoạt động thương mại như sau: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li – xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Một hoạt động thương mại mà có tới hai văn bản luật khác nhau định nghĩa và lại có sự khác nhau về hai khái niệm này, gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình xác định thẩm quyền của trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Về chủ thể được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh quy định “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”. Theo quy định trên, thuật ngữ “các bên” sẽ có hàm ý rất rộng. Các bên có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong khi đó, Nghị định của Chính phủ số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh lại giới hạn phạm vi chủ thể chỉ bao gồm “cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”. Cụ thể, Điều 2 của Nghị định quy định “Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”.
Như vậy, trong khi tinh thần của Pháp lệnh thì “mở” nhưng văn bản hướng dẫn thi hành, tuy có hiệu lực thấp hơn, lại đưa ra quy định “đóng”. Điều này khiến các Trung tâm trọng tài đã phải từ chối rất nhiều vụ tranh chấp do chủ thể ký thoả thuận trọng tài không phải là “tổ chức, cá nhân kinh doanh”.
Trong thực tế, có rất nhiều tổ chức, như các ban quản lý dự án, tham gia đấu thầu hoặc giao kết các hợp đồng, trong đó sử dụng trọng tài theo khuyến nghị của các nhà tài trợ, định chế tài chính như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á v.v... Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, các trung tâm trọng tài của Việt Nam sẽ phải từ chối giải quyết vì các chủ thể này không phải là tổ chức kinh doanh. Điều này không phù hợp với pháp luật và thực tiễn trọng tài quốc tế vốn chỉ nhấn mạnh tiêu chí thoả thuận, nghĩa là khi có thoả thuận của các bên chọn trọng tài thì trọng tài sẽ có thẩm quyền. Còn tiêu chí chủ thể ký thoả thuận trọng tài không có ý nghĩa quan trọng, thậm chí trong một số trường hợp chủ thể ký thoả thuận trọng tài là Nhà nước thì thoả thuận trọng tài vẫn có giá trị bởi vì bằng việc tự nguyện ký kết thoả thuận trọng tài, Nhà nước đã “từ bỏ” quyền miễn trừ của mình.
- Vấn đề thay đổi trọng tài viên
Theo khoản 4 Điều 27 pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định:
Việc thay đổi trọng tài viên do các trọng tài viên khác trong hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp không quyết định được, hoặc nếu hai trọng tài viên hay trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết vụ tranh chấp thì việc thay đổi trọng tài viên được tiến hành như sau:
+ Đối với vụ trang chấp do Trung tâm Trọng tài giải quyết thì Trung tâm Trọng tài quyết định.
+ Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập giải quyết thì theo yêu cầu của nguyên đơn, chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở giao cho Hội đồng thẩm phán quyết định. Quyết định của tòa án là chung thẩm.
Quyết định này làm phát sinh một số bất cập sau:
Thứ nhất, là quy định về thủ tục, nhưng khoản 4 Điều 27 lại không quy định về thời hạn giải quyết. Vậy việc thay đổi hay không kéo dài trong bao lâu.
Thứ hai, điểm b khoản 4 lại quy định về quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên cho nguyên đơn mà loại trừ quyền yêu cầu của bị đơn và quyền từ chối của trọng tài viên.
Thứ ba, không quy định vấn đề thông báo cho các bên hay cho Hội đồng trọng tài việc quyết định thay đổi hoặc không thay đổi trọng tài viên.
Một quy định có nhiều thiếu sót như vậy, sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới quá trình tố tụng trọng tài.
Vấn đề ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài
Khoản 7 Điều 49 Pháp lệnh Trọng tài thương mại quy định: “các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận thì ngôn ngữ dùng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt.”
Một quy định áp đặt ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt nếu các bên không có thỏa thuận như trên là chưa hợp lý, không bảo đảm được quyền của các bên bởi tiếng Việt không phải là ngôn ngữ phổ biến trên thế giới. Trường hợp này, nên để cho Hội đồng trọng tài quyết định lựa chọn ngôn ngữ sao cho phù hợp với tình hình thực tế sao cho có lợi nhất cho các bên tham gia giải quyết tranh chấp.
- Vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo Điều 33 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 liệt kê, thì có 6 biện pháp để áp dụng, thiết nghĩ quy định này còn thiếu và chưa hợp lý. Bởi theo quy định thì chỉ được phép áp dụng “một hoặc một số biện pháp kể trên”, như vậy vấn đề đặt ra lúc này là sẽ có những biện pháp khác ngoài sáu biện pháp kể trên, ví dụ như: cho phép bán hàng khi cần thiết đối với tranh chấp liên quan đến hàng tươi sống không bảo quản được lâu, cho tạm sử dụng khi thật cần thiết,…hay việc phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, phải chăng chỉ có tài khoản tại ngân hàng mới bị phong tỏa, còn tài khoản ở Quỹ tín dụng, hay các tổ chức tài chính khác thì không bị phong tỏa? … Vậy nên, chỗ này pháp luật nên quy định theo hướng mở, ví dụ như “các quy định khác, các trường hợp khác theo quy định của pháp luật…”
Vấn đề ra quyết định trọng tài
Theo Điều 43 quy định về nguyên tắc ra quyết định trọng tài theo đó, quyết định trọng tài phải được ra theo đa số. Vấn đề đặt ra lúc này là: Nếu không đạt được đa số thì sẽ giải quyết thế nào? Đây chính là sự thiếu sót của pháp luật. Nếu quy định thêm rằng: khi không đạt được đa số, thì trọng tài viên phải họp nhau lại và thống nhất quyết định như vậy có lẽ sẽ hợp lý hơn.
3.2.3. Liên quan đến trọng tài viên:
Tăng cường đào tạo đội ngũ trọng tài viên giỏi về chuyên môn, ưu tú về đạo đức cho phù hợp với tình hình mới. Các trung tâm trọng tài cần phải nghiên cứu và triển khai việc mở rộng danh sách trọng tài viên và không ngừng nâng cao chất lượng xét xử. Đặc biệt, thông qua các tổ chức trọng tài quốc tế uy tín, các hiệp hội ngành nghề để mời các trọng tài viên nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, có uy tín tham gia làm việc tại trung tâm.
Từ phía nhà nước, cần có chính sách hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trọng tài viên để thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và tranh chấp thương mại quốc tế nói riêng được tốt hơn.
3.2.4. Cơ chế hỗ trợ từ tòa án
Trọng tài khó thể tồn tại nếu như không có sự hỗ trợ từ tòa án. Nhưng sự tồn tại của trọng tài đã san sẻ bớt gánh nặng cho tòa án trong việc giải quyết tranh chấp. Như vậy, mặc dù là hai cơ quan xét xử độc lập nhưng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Nếu có sự phối hợp nhịp nhàng chặt chẽ giữa hai bên sẽ tạo ra điều kiện để cả hai cùng phát triển. Thực trạng pháp luật hiện nay cho thấy vị trí của trọng tài chưa được coi trọng đúng mức. Ví dụ như trong nhiều trường hợp, trọng tài không được đảm bảo cơ chế thông tin thích đáng như tòa án. Vì vậy cần sớm có những quy định bảo đảm cơ chế phối hợp hiệu quả giữa trọng tài và tòa án.
3.2.5. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến về trọng tài thương mại cho các thương nhân.
Cần phải phổ biến, tuyên truyền, bồi dưỡng về trọng tài cho các doanh nghiệp, hoặc người đứng đầu doanh nghiệp để họ hiểu được bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có ý nghĩa quan trong như thế nào. Gần đây, với sự hỗ trợ của một dự án do Đan Mạch tài trợ, chúng ta đã tiến hành tập huấn cho các DN về giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài hơn 30 tỉnh, thành phố trên cả nước. Tiến tới, 64 tỉnh, thành phố đều được tập huấn. Với nguyên tắc phi lợi nhuận trong hoạt động, cũng như những ưu điểm của mình, cơ chế trọng tài đang là một xu thế phát triển của kinh tế quốc tế.
Trên đây là một số kiến nghị để hoàn thiện phần nào pháp luật về trọng tài ở Việt Nam. Trọng tài thương mại ở Việt Nam chỉ thực sự phát triển mạnh khi có được môi trường pháp lý thuận lợi, đội ngũ cán bộ trọng tài viên giỏi về chuyên môn, tốt về đạo đức.
KẾT LUẬN
Trọng tài thương mại quốc tế được các chuyên gia kinh tế đánh giá là phương thức giải quyết tranh chấp trong tương lai với những ưu điểm nổi trội của nó. Do vậy Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và vững chắc thì chúng ta cần phải không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình nói chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp với xu thế chung.
Sự ra đời của pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho trọng tài Việt Nam. Đã tạo ra được cơ sở pháp lý khá phù hợp cho tổ chức và hoạt động của trọng tài thương mại quốc tế.
Thực hiện khóa luận này, tôi đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài. Và kết quả đạt được sau khi nghiên cứu là:
Trình bày, phân tích một cách tổng quát nhât các vấn đề lý luận cơ bản về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Phân tích làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Tổng hợp, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.
Đề xuất một số kiến nghị.
Với mong muốn là sau khi đọc xong cuốn khóa luận này, độc giả sẽ có cái nhìn tổng quát và đẩy đủ hơn về việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam.doc