Giảm nghèo vật chất ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014

- Thực hiện chính sách luân chuyển và tăng cường cán bộ tỉnh, huyện về xã để đảm nhận các cương vị lãnh đạo chủ chốt để tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách đối với các huyện nghèo; thực hiện chế độ trợ cấp ban đầu đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển, có chế độ tiền lương, phụ cấp và chính sách bổ nhiệm, bố trí công tác sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

docx56 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giảm nghèo vật chất ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 2013. Đó là một trong những kết quả đạt được của Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) Giảm nghèo bền vững vừa được nêu ra tại Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các Chương trình MTQG giai đoạn 2011-2015 và định hướng xây dựng các chương trình MTQG giai đoạn 2016 - 2020. Cũng theo Báo cáo này, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo đã giảm từ 50,97% cuối năm 2011 xuống còn 38,2% cuối năm 2013; 32,59% cuối năm 2014; bình quân giảm trên 5%/năm. Như vậy, bình quân tỷ lệ hộ nghèo chung cả nước giảm 2%/năm, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân trên 5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra theo Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 - 2020 và Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 08/10/2012 phê duyệt chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 – 2015. Được biết, tổng kinh phí huy động thực hiện Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 30.451 tỷ đồng, đạt 109% tổng kinh phí được phê duyệt của Chương trình. Trong đó, Chương trình đã đầu tư 4.459 công trình cơ sở hạ tầng hỗ trợ phát triển sản xuất và phục vụ nhu cầu dân sinh tại các huyện nghèo. Xây dựng và đưa vào sử dụng trên 1.600 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu để phục vụ sản xuất và dân sinh ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. Trong 2 năm (2012 - 2013), Chương trình 135 đã đầu tư xây dựng được 8.959 công trình bao gồm giao thông, thủy lợi, điện, trường học, y tế, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, nhà sinh hoạt cộng đồng... Năm 2014, đã đầu tư xây dựng 6.221 công trình, năm 2015 là 2.069 công trình, tập trung chủ yếu vào đường giao thông, thủy lợi, nhà văn hóa, trường học, công trình nước sinh hoạt, nhà sinh hoạt cộng đồng, trường học... Các địa phương cũng đã tổ chức hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho các hộ gia đình; giao khoán bảo vệ rừng với diện tích trên 2 triệu ha cho trên 155.000 hộ; thực hiện đào tạo, đưa khoảng 9.500 lao động đi làm việc tại nước ngoài. Thông qua thực hiện mô hình giảm nghèo, số hộ thoát nghèo đạt khoảng 15 - 20%, thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng khoảng 15%; tạo việc làm cho 25% lao động nông thôn. Tổ chức tập huấn cho khoảng 140 nghìn lượt cán bộ giảm nghèo ở cơ sở. Đặc điểm:Trong những năm qua, tỷ lệ nghèo đói trên toàn quốc có xu hướng giảm, tuy nhiên lượng tăng giảm này không đều và khoảng cách nghèo giữa các vùng ngày càng giãn rộng ra. Phần lớn những người nghèo còn lại sống ở vùng nông thôn xa xôi, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện sức khỏe kém. Nghèo trong các nhóm dân tộc thiểu số là một thách thức kéo dài. Những người nghèo ngày càng khó tiếp cận với các điều kiện giảm nghèo chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện giảm nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số. Bên cạnh những thách thức giảm nghèo mang tính lâu dài thì công cuộc giảm nghèo ở nước ta còn phải tính đến một số thách thức mới như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển Nghèo ngày càng tập trung nhiều hơn ở các dân tộc thiểu số Việt Nam, những người chiếm không quá 15% dân số nhưng chiếm gần một nửa số lượng những người nghèo còn lại và 2/3 người nghèo cùng cực. Việt Nam có 54 nhóm dân tộc được chính thức công nhận, trong đó dân tộc Kinh (Việt) là đông dân nhất với số dân chiếm khoảng gần 74 triệu người (chiếm 85,7 % tổng dân số) theo Tổng Điều tra về Dân số và Nhà ở năm 2011. Vào năm 2011, Việt Nam có 5 nhóm dân tộc khác (dân tộc Tày, Thái, Mường, Khmer và H’mong) với số dân chiếm khoảng hơn 1 triệu người và 3 nhóm dân tộc khác (dân tộc Nùng, Dao và Hoa) có số dân từ 500.000 đến 1.000.000 người. Còn có nhiều nhóm dân tộc có dân số dưới 500.000 người. Ngoại trừ dân dân tộc Hoa, Khmer và Chăm, các nhóm dân tộc thiểu số hầu hết sống ở vùng núi và cao nguyên, cách xa khu vực đồng bằng và thành phố lớn. Người dân tộc thiểu số tập trung đông nhất ở khu vực Tây Bắc, Đông Bắc và khu vực Tây Nguyên, mặc dù vậy vẫn có những cụm dân cư dân tộc thiểu số ở vùng Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2014, số hộ nghèo dân tộc thiểu số là 663.563 hộ, chiếm tỷ lệ 46,66% so với tổng số hộ nghèo cả nước. Số hộ nghèo khu vực thành thị là 109.604 hộ, chiếm tỷ lệ 7,71% so với tổng số hộ nghèo cả nước; Số hộ nghèo khu vực nông thôn là 1.312.656 hộ, chiếm tỷ lệ 92,29% so với tổng số hộ nghèo cả nước. Số hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội là 173.902 hộ, chiếm tỷ lệ 12,23% so với tổng số hộ nghèo cả nước. Số hộ nghèo thuộc diện chính sách giảm nghèo là 256.701 hộ, chiếm tỷ lệ 18,05% so với tổng số hộ nghèo cả nước, bao gồm: 21.643 hộ nghèo có thành viên thuộc đối tượng chính sách người có công, chiếm tỷ lệ 1,52% so với tổng số hộ nghèo cả nước; 235.067 hộ nghèo có thành viên thuộc đối tượng chính sách bảo trợ xã hội, chiếm tỷ lệ 16,53% so với tổng số hộ nghèo cả nước. Mặc dù Việt Nam đã đạt tiến bộ đáng kể trong giảm nghèo nói chung, trong đó bao gồm kết quả giảm nghèo một cách vững chắc cho dân tộc thiểu số nhưng vẫn còn khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số về điều kiện sống và tỉ lệ nghèo, và khoảng cách đó đang ngày càng giãn rộng. Khoảng cách chênh lệch là lớn nhất đối với một số khu vực nghèo nhất và thuộc địa bàn khó tiếp cận nhất của Việt Nam (vùng núi phía Bắc) và vùng duyên hải Bắc Trung bộ. Tăng trưởng về thu nhập của các hộ thiểu số không đồng đều, với tỉ lệ tăng trưởng của nhóm hộ giàu cao hơn. Kể cả đối với các hộ dân tộc thiểu số có tỉ lệ tăng trưởng nhanh nhất thì tốc độ tăng trưởng thu nhập vẫn chậm hơn so với các hộ dân tộc Kinh trung bình. Nhất quán với tỉ lệ tăng trưởng khác nhau, mật độ dân tộc thiểu số trong nhóm hộ nghèo đã tăng lên. Sự gia tăng tỷ lệ dân tộc thiểu số trong nhóm dân số nghèo và rất nghèo là một vấn đề đáng quan ngại. Nhưng không phải tất cả các dân tộc thiểu số đều nghèo. Có những bằng chứng đáng khích lệ về những cải thiện về đời sống và sinh kế của rất nhiều hộ dân tộc thiểu số trong những năm gần đây, và phân tích gần đây về Khảo sát mức sống dân cư 2015 cho thấy sự hiện diện của một số hộ thiểu số khá giả trong tầng lớp có thu nhập trung bình và cao. -Trong những năm gần đây, tăng trưởng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người khá giả, dẫn đến sự bất bình đẳng về thu nhập. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng con đường phát triển của Việt Nam là con đường của sự tăng trưởng mà không có sự gia tăng đáng kể về bất bình đẳng (Viện KHXH Việt Nam, 2010). Tuy vậy, trong những năm gần đây, tình hình đã dần thay đổi và bất bình đẳng có xu hướng ngày càng gia tăng. - Những khoảng cách chênh lệch về phát triển con người vẫn tồn tại và trong một số trường hợp có thể giãn rộng Việt Nam không chỉ thành công trong việc tăng thu nhập. Tiến bộ trong phát triển con người cũng không kém phần ấn tượng. Nhưng giống như trường hợp tăng trưởng thu nhập và giảm nghèo, tiến bộ trong lĩnh vực này cũng không đồng đều. Bất bình đẳng có thể làm suy yếu quá trình tăng trưởng nếu như nguyên nhân của những bất bình đẳng đó là do những khác biệt về hoàn cảnh - ví dụ như nguồn gốc dân tộc, giới tính và cơ hội không đồng đều trong việc tiếp cận giáo dục – đây là những yếu tố sẽ làm cản trở một số nhóm trong việc hưởng lợi một cách bình đẳng từ quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mức độ chú trọng ngày càng tăng đối với việc “xã hội hóa” y tế và giáo dục ở Việt Nam – xã hội hóa tức là chú trọng tới việc chia sẻ các chi phí và trách nhiệm xã hội giữa các cá nhân, nhà nước và khu vực phi nhà nước – đồng nghĩa với việc thu nhập bắt đầu trở nên quan trọng hơn trong việc quyết định khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản. Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập sẽ góp phần làm gia tăng khoảng cách chênh lệch về mặt xã hội, trong đó bao gồm chênh lệch về tỉ lệ nhập học (đặc biệt là ở cấp trung học và đại học) và chênh lệch về khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế. Hậu quả trực tiếp của việc này là sự gia tăng gánh nặng của các khoản chi tiêu của gia đình cho y tế và giáo dục, đặc biệt là đối với các hộ không thuộc diện khá giả. Nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù bệnh tật tập trung nhiều hơn ở các hộ nghèo nhưng so với các hộ giàu thì khả năng họ sử dụng các dịch vụ y tế lại ở mức thấp hơn (NHTG, 2012). Hơn nữa, phân bố chi tiêu công trong khu vực y tế lại theo hướng thiên vị cho các hộ giàu, chẳng hạn như chi tiêu cho các trung tâm y tế xã mà các hộ nghèo nông thôn sử dụng lại ở mức rất nhỏ so với chi tiêu cho các bệnh viện nhà nước mà các hộ khá giả sử dụng. Đã có những quan ngại được nêu lên về tác động bần cùng hóa của chi phí y tế để chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo, trong đó bao gồm quan ngại rằng người nghèo sẽ lựa chọn không chữa trị khi bị bệnh nặng. Hầu hết các hộ nghèo đều có thẻ y tế miễn phí giúp giảm chi phí trả cho các dịch vụ, nhưng kèm theo đó là những quan ngại về chất lượng chăm sóc mà họ nhận được. Một số nghiên cứu đã nêu bật vấn đề chi phí y tế cao mà người dân phải chi trả từ tiền túi; chi phí y tế mà người dân phải tự chi trả tiếp tục ở mức cao mặc dù đã có nhiều cải thiện về diện bao phủ của Chương trình Bảo hiểm Y tế Quốc gia do kết quả của Luật Bảo hiểm Y tế. Luật mới đã trợ cấp phí bảo hiểm y tế hoàn toàn cho người nghèo và trợ cấp một phần phí BHYT cho đối tượng cận nghèo. Tuy nhiên, bảo hiểm y tế cũng mới chỉ mang lại tác động khiêm tốn trong việc giảm chi phí y tế từ tiền túi của người dân (Lieberman và Wagstaff, 2008), gồm chi phí y tế cho các trường hợp bệnh nặng. Các hộ có con nhỏ và người già có nhiều rủi ro về sức khỏe hơn và có tỉ lệ chi trả chi phí y tế cho các trường hợp bệnh nặng cao hơn, theo thông tin họ cung. Việt Nam đã vượt qua cơn bão kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng tài chính năm 2008-2009 một cách xuất sắc hơn so với hầu hết các nước khác. Vào năm 2009, tăng trưởng đã giảm từ 8,5% của hai năm trước đó - mức cao nhất trong vòng một thập kỷ - xuống còn 5,3% - mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ, nhưng đến năm 2010 thì lại tăng bật trở lại mức 6,8%. Năm 2011 tăng trưởng lại giảm xuống còn 5,9% nhưng vẫn cao hơn một điểm phần trăm so với mức trung bình của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tăng trưởng trong năm 2012 chỉ ở mức 5,03% - mức thấp nhất trong khoảng hai thập niên qua. - Ở khu vực nông thôn tỷ lệ đói nghèo luôn cao hơn thành thị. Khu vực đồng bào dân tộc thiểu số giảm nghèo chậm và còn rất cao. Sự phân bố hộ nghèo giữa các vùng, miền là không đều. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo trên toàn quốc giảm xuống nhưng sự chênh lệch về hộ nghèo giữa các vùng là rất lớn. Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Thành thị 6,9 5,1 4,3 3,7 3,0 2,5 Nông thôn 17,4 15,9 14,1 12,7 10,8 9,2 Đồng bằng sông Hồng 8,3 7,1 6,0 4,9 4,0 3,2 Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 26,7 23,8 21,9 18,4 16,0 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 20,4 18,5 16,1 14,0 11,8 9,8 Tây Nguyên 22,2 20,3 17,8 16,2 3,8 11,3 Đông Nam Bộ 2,3 1,7 1,3 1,1 1,0 0,7 Đồng bằng sông Cửu Long 12,6 11,6 10,1 9,2 7,9 6,5 Đơn vị: % Nguồn: Tổng cục thống kê Theo chuẩn nghèo mới dự kiến áp dụng từ năm 2011, trong giai đoạn từ 2010 – 2015, người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn, một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỷ lệ hộnghèo còn cao, là địa bàn rất khó khăn đối với công tác giảm nghèo. Song, tỉ lệ hộ nghèo đang có xu hướng giảm là dấu hiệu tích cực cho sự phát triển của đất nước trong tương lai. 2.2. So sánh các giai đoạn xóa đói giảm nghèovật chất ở Việt Nam Giai đoạn 1988 – 2000 Năm 1988 đánh dấu bước tiến mới đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo, đó là việc ban hành “Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1988 – 2000” bao gồm cả công tác định canh định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa (QĐ 135/1988/QĐ – TTg) ra đời nhằm nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu vùng xa; tạo điều kiện đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước, góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo). Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan tâm đến chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo hôm nay. Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa..." Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo". Giai đoạn 2001 – 2005 Chính phủ ban hành “Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 – 2005” bao gồm các chính sách và nhóm dự án. Các chính sách gồm: Chính sách hỗ trợ về y tế. Chính sách hỗ trợ về giáo dục. Chính sách an ninh xã hội và trợ cấp đối tượng yếu thể. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở. Chính sách hỗ trợ công cụ và đất đai sản xuất cho người nghèo. Dự án thuộc Chương trình bao gồm: Dự án Tín dụng cho người nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh. Dự án hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm. Dự án xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo vùng đặc biệt (vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bãi ngang ven biển, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng ATK, vùng sâu Đồng bằng Sông Cửu Long). Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo. Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất ngành nghề ở các xã nghèo. Dự án ổn định dân cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư theo kế hoạch, các dự án của Chương trình 733 cũ thuộc ngành nông nghiệp theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản só 1123/CP-NN ngày 06/12/2000 về việc chuyển dự án Chương trình 733). Dự án định canh định cư ở các xã nghèo. Ngoài “Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2006”, còn có các dự án khác. Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,... tổng hợp thành các mục tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương trình, dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh. Tăng cường sức khỏe bà mẹ. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác. Đảm bảo bền vững môi trường. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển. Giai đoạn 2006 – 2010 Tháng 7 năm 2005 "Thông cáo báo chí về tỷ lệ hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010" Các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến trong giai đoạn 2006-2010 Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,45 lần so với 2005 Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu 6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi 4,2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư 1,5 triệu người được miễn giảm phí học nghề 15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm 19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng trường 500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm (Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tháng 9-2005: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006–2010) Bên cạnh đó, giai đoạn này tiếp tục thực hiện chính sách của giai đạn 2001 – 2005 trong “Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm” và có sự chỉnh sửa và bổ sung cho giai đoạn này. Chương trình 135 giai đoạn 2 được tiếp tục triển khai. Bên cạnh đó chính phủ triển khai Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững đối với 61 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh thành có số hộ nghèo trên 50% theo nghị quyết 30a ngày 27/12/2008. Theo nghiên cứu của UBDP, đến năm 2009 nước ta có 41 chính sách và dự án định hướng vào việc giảm nghèo. Những thành tựu và hạn chế của quá trình giảm nghèo Trong mọi hoàn cảnh, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm xóa đói giảm nghèo, chăm lo đời sống nhân dân, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội. Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với nhiều chương trình dự án, đặc biệt là thực hiện Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững trong cả nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Xóa đói giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo - thành tựu, thách thức và giải pháp Những kết quả đạt được Sau 10 năm thực hiện “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo” (2002-2013) và 5 năm thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về “Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo nhất trong cả nước (2008-2013), Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng mừng trong công tác xóa đói giảm nghèo. Theo Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012 của Ngân hàng thế giới (WB), hơn 30 triệu người Việt Nam đã thoát khỏi đói nghèo trong hai thập kỷ qua. Nghèo đói ở Việt Nam đã giảm nhanh chóng từ 60% hồi đầu những năm 1990 xuống còn 20,7 trong năm 2010. Việt Nam đã đạt được tỷ lệ nhập học tiểu học và trung học cơ sở cao, lần lượt hơn 90% và 70%. Theo đánh giá gần đây nhất của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc FAO, Việt Nam là một trong những nước đạt được thành tích nổi bật trong việc giảm số người bị đói từ 46,9% (32,16 triệu người) giai đoạn 1990 – 1992 xuống còn 9% (8,01 triệu người) trong giai đoạn 2010 – 2012, và đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ 1 (MDG1). Thực hiện chủ trương giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020, Bộ Lao động – thương binh xã hội đã phối hợp với các bộ, ngành thực hiện rà soát toàn bộ hệ thống chính sách giảm nghèo hiện hành gồm 153 văn bản, tập trung vào 6 nhóm chính sách chủ yếu: tín dụng ưu đãi; giáo dục - đào tạo; y tế; nhà ở; đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; hỗ trợ sinh kế; trợ giúp pháp lý. Qua rà soát, hiện có 149 văn bản còn hiệu lực, trong đó có 20 văn bản được đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế và 28 văn bản được đề xuất ban hành mới. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo Trung ương còn thực hiện sửa đổi, bổ sung các chính sách và dự kiến ban hành các chính sách mới đồng thời tích hợp các chính sách giảm nghèo như hỗ trợ học sinh bán trú nghèo dân tộc thiểu số, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hỗ trợ tiền điện, đào tạo nghề, hỗ trợ phát triển sản xuất và sinh kế. Tính đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 1,8-2%/năm, riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm bình quân 5%/năm. Việc thực hiện các chính sách giảm nghèo chung và chính sách giảm nghèo đặc thù tiếp tục được triển khai. Năm 2014, ngân sách đã chi khoảng gần 13 nghìn tỷ đồng để mua cấp thẻ BHYT cho các đối tượng, trong đó gần 10 triệu người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ thẻ BHYT; gần 2 triệu lượt học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ chi phí học tập với số tiền hơn 7 nghìn tỷ đồng; Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn 400 nghìn lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60 nghìn học sinh nghèo được vay vốn học tập... Các chính sách giảm nghèo đối với các xã trên địa bàn huyện nghèo theo Nghị quyết 30a tiếp tục được thực hiện. Về nguồn lực cho giảm nghèo, Nhà nước ưu tiên tập trung cao nhất từ ngân sách cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong năm 2014, tổng nguồn vốn để thực hiện mục tiêu giảm nghèo khoảng 34,7 nghìn tỷ đồng, trong đó, ngân sách trung ương bố trí hơn 6 nghìn tỷ đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Ngoài các doanh nghiệp đã nhận hỗ trợ các huyện theo cam kết, năm 2014, đã có thêm Tổng Công ty Hoá chất và Tổng Công ty Rượu - Bia - Nước giải khát Hà Nội nhận hỗ trợ tỉnh Bắc Giang và Hà Giang. Theo báo cáo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh ở tất cả các địa phương. Năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo là 5,97%, cuối năm 2015 còn dưới 5%. Đối với các xã nghèo thuộc diện 30a, tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 28%. Như vậy, sau 5 năm thực hiện mục tiêu giảm nghèo quốc gia, Việt Nam đã đạt được mục tiêu đề ra và được thế giới đánh giá là 1 trong 6 quốc gia hoàn thành mục tiêu trước thời hạn và là điểm sáng về thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Hạn chế Tuy đạt được những thành tích đáng mừng nhưng công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức trong quá trình thực hiện như giảm nghèo chưa đồng đều; tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc còn cao; giảm nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ tái nghèo ở một số nơi còn cao; chính sách còn chồng chéo, nguồn lực còn đầu tư dàn trải “Hiện nay, khu vực rốn nghèo vẫn tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tôc thiểu số. Nếu nhìn tốc độ giảm nghèo trong 5 năm thì đây lại là vùng có tốc độ giảm nhanh nhất, mỗi năm khoảng 10%. Song, do khoảng cách nghèo quá lớn so với các vùng khác nên những vùng này vẫn còn khoảng 40-50% hộ nghèo. Cá biệt có một huyện hộ nghèo còn trên 60%, có 7 huyện nghèo hộ nghèo chiếm từ 50-60%..." Phần lớn những người nghèo còn lại sống ở vùng nông thôn xa xôi, hạn chế về tài sản, trình độ học vấn và điều kiện sức khỏe. Người trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao. Đồng bào các dân tộc thiểu số chỉ chiếm gần 15% dân số cả nước nhưng chiếm tới 47% tổng số người nghèo năm 2010, so với 29% năm 1998. Người nghèo ngày khó tiếp cận với các điều kiện giảm nghèo chung do không theo kịp tốc độ gia tăng của các điều kiện giảm nghèo, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số. Tình trạng chính sách chồng chéo, khó thực hiện, hoặc có chính sách mà không cân đối được nguồn lực để thực hiện; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo, tình trạng huy động nguồn lực chưa đáp ứng được nhu cầu, sử dụng nguồn lực hiệu quả chưa cao, có nơi chưa dành ưu tiên cho công tác giảm nghèo hoặc trông chờ, ỷ lại và ngân sách Trung ương. Một hạn chế lớn nữa là có nơi, có lúc nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ về công tác xóa đói giảm nghèo chưa đúng mức, trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các biện pháp xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh những thách thức giảm nghèo bền vững là một số thách thức mới như: Bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại; nghèo tại khu vực thành thị gia tăng do tốc độ đô thị hóa nhanh khiến người dân gặp khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi và nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nghèo ở Việt Nam Theo Liên hợp quốc, có 5 nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển, bao gồm hiện tượng bế quan toả cảng; mức độ rủi ro cao trong cuộc sống; sự thiếu thốn những điều kiện cần thiết để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo; những hạn chế, bất cập trong chính sách hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức quốc tế; sự tham gia không đầy đủ của người nghèo vào hoạt động hoạch định chính sách phát triển. Tình trạng nghèo và tái nghèo tại Việt Nam cũng do nhiều nguyên nhân bao gồm: Các nguyên nhân theo vùng địa lý Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ cấu sản xuất đa phần dựa vào nghề nông. Đa số người nghèo sống bằng nghề nông nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, điều kiện thời tiết không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, khả năng đối phó và khắc phục rủi ro này của người nghèo rất kém do nguồn thu nhập thấp, bấp bênh và khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khỏe,...). Với năng lực kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn trong cuộc sống của họ và tất nhiên người nghèo thì càng nghèo hơn. Ngoài ra, người nghèo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, năng suất thấp do không có trình độ để áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Khả năng nâng cao năng suất là rất khó khăn trong khi do áp lực của đô thị hóa ngày càng mạnh, diện tích đất canh tác ngày càng thu hẹp. Những tác động của chính sách vĩ mô đến người nghèo chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp. Việc phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm dân cư gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào đặc tính của tăng trưởng chưa hợp lý. Thông thường, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn những người nghèo và như vậy đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo giữa nội thành và ngoại thành là điều khó tránh khỏi. Các nguyên nhân từ cộng đồng Sự cách biệt với xã hội còn lớn. Công việc của phụ nữ thường là ở nhà. Họ có ít thời gian để tiếp xúc với xã hội. Hộ nghèo có chủ hộ là nữ cảm thấy rất xa lạ với những quyết định có liên quan tới chính bản thân họ. Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại. Những nhóm dân tộc thiểu số nghèo hơn rất nhiều so với đa số người Kinh. Các nguyên nhân về mặt nhân khẩu học Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các hộ gia đình nghèo và khu vực nông thôn thường là rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Dân số tăng nhanh, quy mô gia đình nhiều con ở khu vực ngoại thành là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đồng thời tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Thành kiến về vai trò của người phụ nữ còn tương đối khắc khe. Những hộ có chủ hộ là nữ có nhiều khả năng rơi vào cảnh nghèo hơn so với chủ hộ là nam giới. Trẻ em gái ít được đi học hơn , nếu có cũng ít được đi học cao. Phụ nữ thường phải nhận mức lương thấp hơn nam giới ở cùng một công việc và ít được tham gia vào các công việc điều hành quan trọng. Chẳng may trong trường hợp mất đi người chồng, người phụ nữ thường thiếu khả năng chống chọi nên dễ rơi vào đói nghèo. Các nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế hộ gia đình Tính ổn định và liên tục của nguồn thu nhập còn hạn chế nhất là trong khu vực nông thôn do phải chịu nhiều rủi ro không lường trước được như thiên tai, dịch bệnh, sâu bọ hay giá nông sản thấp. Những người nghèo là những người thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt và ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để đảm bảo cho nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo. Trình độ học vấn thấp làm hạn chế khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao và ổn định. Các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị mới ngày càng phát triển ở khu vực ngoại thành là cơ hội cho người dân sống nơi đây nhưng đồng thời đây cũng là thách thức lớn đối với người nghèo, bởi lẽ do trình độ học vấn thấp họ khó có thể tìm được việc làm tốt hơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Nếu tìm được chỗ làm cũng chỉ là lao động phổ thông. Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ, đồng thời nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Thông thường họ lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị kinh tế thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao, giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng này tất yếu dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân sống ở các huyện ngoại thành phải chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng trên thực tế không phải nông dân nào cũng biết cách thay đổi “phương thức sản xuất” của mình, tức là phải tăng năng suất trên một đơn vị diện tích đất canh tác nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao,... Một số người khác sau khi nhận được số tiền đền bù từ mảnh ruộng của mình trong các dự án quy hoạch không biết sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả dẫn đến hệ quả là: + Thứ nhất, chỉ thoát được cảnh đói nghèo trong một thời gian ngắn. +Thứ hai, khi diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp không tìm được việc làm mới, thất nghiệp gia tăng +Thứ ba, khi giá đất tăng lên do tác động của đô thị hóa, người nông dân bán đất ồ ạt, nhiều ngôi nhà mới được xây dựng nhưng đó là những ngôi nhà của những người ở nơi khác đến, đất canh tác cũng thu hẹp lại, vì vậy người nông dân khó có cơ hội để duy trì hoạt động sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất nông nghiệp như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón đã làm tăng chi phí tính trên một đơn vị giá trị sản phẩm. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng. Ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân còn thấp, vẫn tồn tại thái độ tiêu cực với cuộc sống. Nhiều người không thật sự muốn làm ăn, quanh năm họ chỉ trông chờ vào sự cứu trợ của chính quyền, thậm chí khi chưa đến mức bần cùng họ cũng không thể hiện chút nỗ lực nào, ngược lại là tìm mọi cách để có tên trong sổ nghèo với hi vọng được thụ hưởng một số quyền lợi cho không. Một số cá nhân khác do có vấn đề tâm lý (làm ăn thất bại, gia đình đỗ vỡ) nên không thiết tha với cuộc sống và trở nên rất tiêu cực (nghiện rượu, bài bạc). Đây là những trường hợp rất khó để thoát nghèo cho dù các biện pháp chính sách có tốt đến đâu đi chăng nữa. Nguyên nhân từ phía lãnh đạo: Theo Báo cáo của Dự án VIE, công tác xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn do nguồn lực xóa đói, giảm nghèo hạn chế, cán bộ làm công tác này còn thiếu, yếu về năng lực. Bên cạnh đó, cơ chế xác định hộ nghèo chưa được thực hiện thống nhất ở các địa phương và chất lượng giám sát, theo dõi báo cáo về xóa đói, giảm nghèo chưa cao: Thứ nhất, nguồn kinh phí do Trung ương bố trí còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra. Với nguồn kinh phí hằng năm bố trí cho xóa đói, giảm nghèo khoảng 600 – 700 tỉ đồng ( bình quân khoảng 100.000đ/người) khó có thể giúp người nghèo thoát nghèo trong thời gian ngắn. Trong điều kiện nguồn kinh phí ở Trung ương hạn hẹp thì nguồn huy động tại chỗ đóng vai trò hết sức quan trọng. Song, nhiều khi gặp khó khăn, không chủ động được việc huy động nguồn lực tại chỗ do không biết chính xác nguồn kinh phí được hỗ trợ từ Trung ương là bao nhiêu và thông thường tiêu chí phân bổ kinh phí không được thông tin rõ ràng. Thứ hai, một số chính sách hỗ trợ chưa thật phù hợp với người nghèo ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình. Ví dụ như chính sách hỗ trợ khám chữa bệnh cho nguời nghèo là rất ý nghĩa, song mức hỗ trợ tối đa tại trạm y tế xã là 10.000đ/lần khám chữa bệnh, tuyến huyện là 147.000đ/lần là quá thấp ( trong khi các chi phí đi lại, thuốc thang mà người bệnh tự chi trả có thể cao hơn nhiều). Các thủ tục rườm rà khi vay vốn kết hợp với đội ngũ cán bộ tín dụng tại cơ sở thiếu trầm trọng là lý do khiến người nghèo khó tiếp cận được với dịch vụ này. Hệ thống cơ chế, chính sách mang tính bao cấp kéo dài phần nào đã tạo ra tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng của một bộ phận người nghèo, xã nghèo cũng ảnh hưởng đến tính bền vững của công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Thứ ba, hệ thống theo dõi giám sát chương trình chưa được tổ chức một cách có hệ thống và đồng bộ. Thông thường, công tác sơ kết, tổng kết chương trình chủ yếu dựa trên báo cáo của các bộ và các tỉnh gửi về, song tình trạng một số chi tiêu trong báo cáo không có số liệu hoặc không gửi báo cáo về vẫn xảy ra thường xuyên. Trong khi đó, các chi tiêu được sử dụng để báo cáo nhìn chungmang tính liệt kê, chưa phân biệt rõ giữa chi tiêu đầu vào, đầu ra và vai trò tác động. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho công tác theo dõi, đánh giá chính xác hiệu quả và tác động của chương trình. Thứ tư, thiếu đội ngũ cán bộ xóa đói, giảm nghèo có đủ năng lực để thực hiện chương trình. Hiện nay, phần lớn đội ngũ làm công tác này ở xã vẫn kiêm nhiệm, trong khi chủ yếu các hoạt động của chương trình được triển khai ở xã. Chưa được đào tạo có hệ thống, khối lượng công việc nhiều khiến họ khó thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Hơn nữa, công tác xóa đói, giảm nghèo đòi hỏi cán bộ ngoài chuyên môn nghiệp vụ còn phải nhiệt tình, nhạy bén, sáng tạo để nắm chắc tình hình đói nghèo trên địa bàn. 2.5. Chính sách hỗ trợ người nghèo của Nhà nước Phân hóa giàu nghèo là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Tăng trưởng kinh tế có tác động tới giảm nghèo, song tác động đó phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế - xã hội, đặc biệt là các chính sách giảm nghèo. Thực tế cho thấy, tại các quốc gia có sự quan tâm lớn của Chính phủ tới người nghèo bằng các chính sách hỗ trợ có hiệu quả thì tỉ lệ nghèo sẽ giảm nhanh. Thành tựu giảm nghèo ở nước ta thời gian qua là một trong những minh chứng thuyết phục, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Các chính sách của nhà nước có tác động trực tiếp tới giảm nghèo bao gồm: Nhóm chính sách về tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người nghèo Nhóm chính sách này bao gồm: Chính sách cho vay tín dụng với cơ chế ưu đãi: có tác dụng hỗ trợ nguồn lực cho phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho nông dân nghèo tại một số vùng ít đất và không có đất sản xuất. Chính sách này góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp nhằm đảm bảo an ninh lương thực cho người nghèo và tạo cơ hội cho họ vươn lên. Cùng với chính sách hỗ trợ đất sản xuất, rất cần thiết phải có những chính sách hỗ trợ khác đi kèm thì người nghèo mới sử dụng có hiệu quả đất đai. Thực tế, một số địa phương ngoài việc hỗ trợ đất sản xuất, đã có chính sách hỗ trợ thêm về vốn sản xuất, về khuyến nông, hướng dẫn cách làm ăn cũng như các chính sách miễn giảm thuế nông nghiệp, đã giúp nhiều hộ dân tộc thiểu số và hộ nghèo ổn định và phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Chính sách khuyến nông, khuyến lâm- ngư: nhằm tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận với thông tin và kĩ thuật sản xuất, phát triển thị trường, có tiềm năng cải thiện được phúc lợi cho các hộ nông thôn. Dịch vụ khuyến nông của chương trình xóa đói giảm nghèo bao gồm nhiều hoạt động như: Đào tạo, tập huấn về kỹ thuật sản xuất cho người sản xuất; Hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất thông qua việc cung cấp đầu vào (như giống, phân bón, thuốc trừ sâu), nguyên liệu (thức ăn gia súc, thuốc thú y,) và công nghệ sản xuất; Chiến dịch thông tin tuyên truyền sử dụng sách báo, băng Video, băng đài, Chính sách trợ giá, trợ cước đối với đồng bào các dân tộc miền núi, hải đảo và ngư dân: nhằm tạo điều kiện cho dân cư, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao có thể tiếp cận được với thị trường hàng hóa thiết yếu, nguyên vật liệu cơ bản cho sản xuất, tiêu thụ được sản phẩm và những nhu cầu về văn hóa tinh thần. Nhờ đó thúc đẩy việc cung ứng hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp phục vụ tiêu dùng thiết yếu của đồng bào các dân tộc được tốt hơn. Mặt khác, thông qua mức giá tiêu thụ sản phẩm của đồng bào sản xuất ra ở các xã khu vực III đã có tác động kích thích sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa và cải thiện đời sống của đồng bào. Nhóm chính sách hỗ trợ thông qua cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo bao gồm: Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế: Đây cũng là một chính sách lớn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, chính sách này luôn được nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nhằm giúp người nghèo tiếp cận dễ dàng hơn với việc khám chữa bệnh, đảm bảo sức khỏe để sản xuất kinh doanh. Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục và dạy nghề: nhằm tạo cơ hội cho nguời nghèo có điều kiện tiếp cận với giáo dục để nâng cao trình độ văn hóa, kiến thức. Chính sách xóa đói giảm nghèo về giáo dục không chỉ bao gồm những nội dung về miễn giảm học phí, các khoản đóng góp khác, mà còn cả chế độ trợ cấp nuôi dưỡng, ăn, ở cho một số đối tượng đặc thù. Chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở: đặc biệt đối với các trường hợp rủi ro về thiên tai, bão, lũ mà nhà cửa bị sập, bị trôi, hư hỏng thông qua chính sách cứu trợ đột xuất, giúp một phần kinh phí để đảm bảo ổn định cuộc sống cho những đối tượng này. Chủ trương hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở (bao gồm sửa chữa hoặc xây mới) tuy mới được hình thành vài năm gần đây, song nó đã thực sự đi vào cuộc sống, được các địa phương đặc biệt quan tâm, coi như một hướng đột phá để đảm bảo an ninh, an toàn cuộc sống của người dân. Ngoài ra còn phải kể đến một số chính sách, chương trình và một số hoạt động khác có nội dung hướng đến hỗ trợ người nghèo như: Chính sách hỗ trợ nước sạch và vệ sinh môi trường, trợ giá, trợ cước giống cây lương thực, vận chuyển phân bón và chính sách đầu tư phát triển, Chính sách trợ cước vận chuyển giống thủy sản đã giúp đồng bào có điều kiện nuôi trồng thủy sản để có nguồn thực phẩm ổn định cải thiện đời sống, nâng cao sức khỏe dinh dưỡng cho đồng bào; Hỗ trợ đầu tư phát triển trạm phát thanh, tuyên truyền xã, cụm dân cư thông qua chính sách trợ giúp máy thu thanh, và gần đây nhất là chính sách trợ giá xăng dầu cho ngư dân đánh bắt thủy, hải sản xa bờ, Những chính sách kể trên là những hình thức trợ giúp quan trọng để thúc đẩy sản xuất ở những vùng có nhiều khó khăn, là biện pháp để xóa đói giảm nghèo, góp phần giảm bớt khoảng cách giữa các địa phương, vùng, miền. Tuy nhiên, những chính sách kể trên chỉ thực sự có hiệu quả khi được thực hiện đúng đối tượng với sự cung ứng nguồn lực đầy đủ (tài chính, con người và thời gian). Thực tế cho thấy, kinh phí để thực hiện chính sách giảm nghèo hiện nay được cân đối chủ yếu từ nguồn Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, có sự huy động các nguồn khác từ các tổ chức quốc tế, tổ chức của chính phủ, phi chính phủ và sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong nước. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GIÚP THÚC ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng của Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo Theo nghị quyết số 30a của Chính Phủ, mục tiêu cụ thể đến năm 2020: Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng mức trung bình của khu vực. Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống của dân cư ở các huyện nghèo gấp 5 – 6 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt cho hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập; chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong điều kiện tình hình kinh tế - xã hội khó khăn, cả nước tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách, dự án giảm nghèo theo hướng bền vững, tăng cường khả năng tiếp cận của đối tượng thụ hưởng và sự tham gia của người nghèo; tập trung chỉ đạo đẩy mạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững. Quốc hội thông qua Nghị quyết về hai Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình xây dựng nông thôn mới (giảm từ 16 Chương trình xuống còn 2 Chương trình mục tiêu) để dành nguồn lực đầu tư tập trung, bảo đảm giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tăng thu nhập của người nghèo. Mục tiêu cụ thể là giảm tỷ lệ nghèo cả nước bình quân 1-1,5%/năm; riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm 4%/năm (theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016-2020); tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, cận nghèo như y tế, giáo dục, điều kiện sống cơ bản, thông tin, bảo hiểm, trợ giúp xã hội... Theo đó, chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng giai đoạn 2016-2020 được Chính phủ phê duyệt, về thu nhập là 700 nghìn đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn; 900 nghìn đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. Với mức thu nhập này, tỷ lệ hộ nghèo cả nước sẽ vào khoảng 12% và tỷ lệ hộ cận nghèo khoảng 6%. Chương trình thực hiện trên phạm vi cả nước; ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản khó khăn. Kinh phí thực hiện chương trình từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, tối thiểu là 46.161 tỷ đồng; trong đó ngân sách trung ương là 41.449 tỷ đồng và 4.712 tỷ đồng từ nguồn ngân sách địa phương. Để đảm giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, cầntriển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó tập trung vào các nhóm giải pháp cơ bản: Thứ nhất, các bộ, ngành, địa phương phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của đất nước; phải coi công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là một tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền. Thứ hai, tập trung rà soát chính sách để loại bỏ những điểm không còn phù hợp và bổ sung những chính sách mới, phù hợp. Các chính sách sửa đổi, bổ sung phải hướng vào hỗ trợ hộ nghèo, hỗ trợ vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng hỗ trợ sản xuất và hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Hỗ trợ sản xuất tập trung vào hỗ trợ trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc; giao đất, giao rừng cho người dân gắn với phát triển và bảo vệ rừng, điều chỉnh các chính sách về giữ rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ lương thực, giống, khuyến nông, đào tạo nghề, lãi suất cho vay phát triển sản xuất; hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn khó khăn và thu hút lao động tại chỗ gắn với hỗ trợ đào tạo nghề thông qua doanh nghiệp. Hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản như nhà ở, nước sạch, bảo hiểm y tế, giáo dục, tiếp cận thông tin, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Thứ ba, huy động các nguồn lực cho công tác giảm nghèo và thực hiện lồng ghép, sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Cùng với nguồn đầu tư từ ngân sách, cần huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng; khuyến khích sự nỗ lực của người nghèo, hộ nghèo. Ngân hàng Chính sách xã hội tăng thêm dư nợ tín dụng người nghèo so với chỉ tiêu 10% hiện nay để tăng mức hỗ trợ và mở rộng đối tượng hộ nghèo được hỗ trợ tín dụng chính sách; bảo đảm mục tiêu thoát nghèo bền vững. Thứ tư, Ban Chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020 tổng kết, đánh giá chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2015 và xây dựng Chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với những tiêu chuẩn, tiêu chí cao hơn, gắn với việc xây dựng, ban hành và thực hiện chuẩn nghèo mới. Khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định về chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ đồng bào dân tộc trong thời gian tới. 3.2. Đề xuất giải pháp 3.2.1.Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập Chính sách hỗ trợ thông qua khoán chăm sóc, bảo vệ rừng, giao rừng và giao đất để trồng rừng. Ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay tại ngân hàng thương mại nhà nước để phát triển sản xuất nông nghiệp, đầu tư cơ sở chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản Bố trí kinh phí rà soát, xây dựng quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện cụ thể của từng huyện, xã, nhất là những nới có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay gặp thiên tai, Tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm cho các huyện nghèo để xây dựng những trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư thành những trung tâm chuyển giao khoa học kĩ thuật, công nghệ và dich vụ thúc đẩy phát triển sản xuất trên địa bàn Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã, các trang trại đầu tư sản xuất, chế biến, kinh doanh trên địa bàn các huyện nghèo với những ưu đãi tốt nhất có thể. Chính sách xuất khẩu lao động: hỗ trợ đào tạo nghề, đào tạo ngoại ngữ, bồi dưỡng văn hóa đào tạo định hướng để lao động các huyện nghèo tham gia xuất khẩu lao động. 3.2.2.Chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí Bố trí đủ giáo viên cho các huyện nghèo; hỗ trợ xây dựng nhà “bán trú dân nuôi”, nhà ở cho giáo viên ở các thôn bản, xây dựng trường Dân tộc nội trú cấp huyện theo hướng liên thông với các cấp ở huyện nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ cho các huyện nghèo; tăng cường, mở rộng chính sách đào tạo ưu đãi theo hình thức cử tuyển và theo địa chỉ cho học sinh người dân tộc thiểu số, ưu tiên các chuyên ngành nông, lâm nghiệp, y tế, kế hoạch hóa gia đình, đào tạo giáo viên thôn, bản, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật. Tăng cường dạy nghề gắn với tạo việc làm: đầu tư mỗi huyện một cơ sở dậy nghề tổng hợp được hưởng các chính sách ưu đãi, có nhà ở nội trú cho học viên để tổ chức dạy nghề tại chỗ cho lao động nông thông về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, ngành nghề phi nông nghiệp, dạy nghề tập trung để đưa lao động nông thôn đi làm việc tại doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chính sách đào tạo cán bộ tại chỗ: đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ y tế cơ sở cho con em ở các huyện nghèo tại các trường đào tạo của Bộ Quốc phòng, ưu tiên tuyển chọn quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự của địa phương để đào tạo, bổ sung cán bộ cho địa phương. Chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở: tổ chức tập huấn, đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho đội ngụ cán bộ cơ sở thôn, bản, xã, huyện về kiến thức quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng và quản lý chương trình, dự án, kĩ năng xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch. Tăng cường nguồn lực thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Đẩy mạnh công tác truyền thông, vận động kết hợp cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình để nâng cao chất lượng dân số của các huyện nghèo 3.2.3.Chính sách cán bộ đối với các huyện nghèo Thực hiện chính sách luân chuyển và tăng cường cán bộ tỉnh, huyện về xã để đảm nhận các cương vị lãnh đạo chủ chốt để tổ chức triển khai thực hiện cơ chế, chính sách đối với các huyện nghèo; thực hiện chế độ trợ cấp ban đầu đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển, có chế độ tiền lương, phụ cấp và chính sách bổ nhiệm, bố trí công tác sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Có chính sách hỗ trợ và chế độ đãi ngộ thỏa đáng để thu hút khuyến khích tri thức trẻ về tham gia tổ chức công tác tại các xã, huyện nghèo. Chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở các thôn, bản, làng xã và huyện Đẩy nhanh thực hiện quy hoạch các điểm dân cư ở những nơi có điều kiện và những nơi thường xuyên xảy ra thiên tai, nâng cao hiệu quả đầu tư. Sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển trong cân đối ngân sách hàng năm(bao gồm vốn cân đối ngân sách địa phương và hỗ trợ từ ngân sách trung ương) vốn trái phiếu chính phủ, vốn từ các chương trình dự án, vốn ODA để ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế- xã hội. Đối với cấp huyện, trường trung học phổ thông, trường dân tộc nội trú huyện có quy mô đáp ứng nhu cầu học tập của con em. KẾT LUẬN Như vậy, có thể thấy rằng, đối với Việt Nam nghèo đói vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc, ảnh hưởng trực tiếp từ sự phát triển của quốc gia. Bởi vậy, xóa đói giảm nghèo toàn diện và bền vững luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và đã xác định đây là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước, là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần vào công cuộc định hướng xã hội chủ nghĩa. Hằng năm, Đảng và Nhà nước đã thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, thông qua đó chúng ta cũng hiểu được vai trò của nhiệm vụ xóa đói giảm nhiều, iups chúng ta có cái nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn về nghèo đói. Đồng thời cũng nhận thức được rằng xóa đói giảm nghèo là một vấn đề hết sức phức tạp, không phải chỉ giải quyết trong thời gian ngắn mà cần phải có kế hoạch, chính sách cụ thể và được thực hiện từng bước. Nó đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực hết mình, sự đoàn kết giúp đỡ nhau của tất cả mọi người.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxbinh-luan-qua-trinh-giam-ngheo-vat-chat-viet-nam-giai-doan-2010-2015-7308.docx
Luận văn liên quan