Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, thực trạng và giải pháp phát triển

Chương 1 1 Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sở hữu một bộ phận DNNN. 1 1.1. Tại sao lại cần thiết phải giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN? 1 1.2. Thế nào là giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN? . 3 1.3. Nghị định của chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN. 3 Chương 2 9 Thực trạng về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 9 2.1. Tình hình giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 9 2.1.1. Trước tháng 9/1999 . 9 2.1.2. Sau tháng 9/1999 . 11 2.2. Đánh giá tình hình thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 13 2.2.1. Ưu điểm 13 2.2.2. Nhược điểm 15 Chương 3 18 Các giải pháp phát triển 18 3.1. Các giải pháp chung . 18 3.2. Những giải pháp cụ thể . 18 3.2.1. Vấn đề giải quyết công nợ của doanh nghiệp . 18 3.2.2. Giải quyết vần đề người lao động . 21 3.2.3. Hổ trợ các doanh nghiệp trong và sau chuyển đổi hình thức sở hữu 22

doc26 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3211 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 Tính tất yếu khách quan của việc chuyển đổi sở hữu một bộ phận DNNN. Tại sao lại cần thiết phải giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN? Vai trò tích cực, to lớn của các DNNN nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng là rõ ràng và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống các DNNN đã bộc lộ nhiều hạn chế. Bên cạnh những DNNN thích ứng được với điều kiện mới, tìm được hướng đi, tiếp tục phát triển thì cũng có không ít doanh nghiệp “giậm chân tại chỗ”, rơi vào tình cảnh khó khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, không tìm được đầu ra cho sản phẩm - dịch vụ mà mình cung cấp, đời sống người lao động bấp bênh. Theo như chủ trương trong công tác sắp xếp, đổi mới DNNN được triển khai từ năm 1992 thì trọng tâm của công cuộc sắp xếp và đổi mới này chính là cổ phần hoá DNNN. Tuy nhiên, thực tế không phải bất kì doanh nghiệp nào cũng có thể cổ phần hoá được. Trong trường hợp này, để tránh phải phá sản hay giải thể doanh nghiệp thì hình thức giao, bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê những DNNN hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được đã ra đời nhằm mục tiêu: - Tránh được giải thể, phá sản doanh nghiệp hay phải bán xé lẻ tài sản của doanh nghiệp dẫn đến tình trạng người lao động lâm vào tình trạng mất việc làm vì không có cơ sở sản xuất. - Tạo điều kiện cơ cấu lại công ty nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà nước. - Tạo ra những thay đổi về cơ cấu kinh tế theo thành phần sở hữu phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế. - Sử dụng có hiệu quả hơn số vốn, tài sản mà nhà nước đã đầu tư vào công ty. Giảm bớt ngân sách chi cho hỗ trợ những doanh nghiệp thua lỗ để đầu tư vào những doanh nghiệp thực sự cần thiết thuộc sở hữu của nhà nước. - Bảo đảm lợi ích chung của cả nhà nước và người lao động khi giảm chi phí và trách nhiệm của nhà nước, tạo động lực phát triển quyền làm chủ của người lao động. Theo như Nghị định 80/2005/NĐ - CP thì những doanh nghiệp được áp dụng các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê là: - Doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần: là doanh nghiệp không thuộc danh mục Nhà nước cần nắm giữ cổ phần theo tiêu chí, danh mục phân loại do Thủ tướng Chính phủ ban hành. - Doanh nghiệp không cổ phần hoá được: là doanh nghiệp mà theo phương án tổng thể sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thuộc danh mục cổ phần hoá, sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật về cổ phần hoá nhưng vẫn không cổ phần hoá được, doanh nghiệp thuộc danh mục cổ phần hoá nhưng không đáp ứng đủ điều kiện để cổ phần hoá hoặc được cơ quan quyết định cổ phần hoá xác định không thể tiến hành cổ phần hoá được. Như vậy, việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN không những không làm ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò vị trí của kinh tế nhà nước, không làm mất tài sản xã hội chủ nghĩa mà còn giúp nâng cao hiệu quả, cắt giảm bao cấp và bù lỗ của nhà nước cho các doanh nghiệp này, tạo điều kiện tập trung nguồn lực của nhà nước cho các DNNN cần củng cố và phát triển, vốn được sử dụng tốt hơn trong xã hội, giúp ổn định việc làm và giải quyết vấn đề xã hội.[2, trang 90] Thế nào là giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN? Theo Nghị định 80/2005/NĐ-CP về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN thì ta có thể hiểu các khái niệm trên như sau: - Giao công ty cho tập thể người lao động: là việc chuyển sở hữu công ty nhà nước và tài sản nhà nước tại công ty thành sở hữu của tập thể người lao động trong công ty có phân định rõ sở hữu của từng người, từng thành viên với các điều kiện ràng buộc. - Bán doanh nghiệp hay bộ phận của doanh nghiệp: là chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ doanh nghiệp, bộ phận của doanh nghiệp sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. - Khoán doanh nghiệp: là phương thức quản lý doanh nghiệp mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán. - Cho thuê doanh nghiệp: là việc chuyển giao cho người thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong công ty theo các điều kiện ghi trong hợp đồng thuê. 1.3. Nghị định của chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN. Vấn đề giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN cho các chủ thể khác đã được bàn tới ở Việt Nam từ hơn 10 năm trước đây. Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá VIII) xác nhận đây là những hướng quan trọng góp phần đổi mới và sắp xếp lại các DNNN. Trên cơ sở chủ trương này, một số doanh nghiệp đã được các cơ quan chủ quản cho phép thí điểm để rút kinh nghiệm. Tới năm 1998, với nghị quyết 08/1998/NQ – CP, Chính phủ chính thức quyết định thực hiện thí điểm ở phạm vi rộng hơn các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN có quy mô nhỏ, không có ảnh hưởng tới quyết định phát triển KT – XH, không thuộc diện nhà nước buộc phải quản lý. Sau một thời gian thực hiện, rút kinh nghiệm bước đầu về tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu các DNNN và để tạo cơ sở cho các bộ, các ngành các địa phương tiếp tục thực hiện chủ trương này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 58/2002/QĐ – TTg về các tiêu chí danh mục phân loại DNNN và các tổng công ty nhà nước. Quyết định này có 1 nội dung đề cập tới bán, giao doanh nghiệp cho người lao động: những DNNN nào có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng mà không cổ phần hoá được thì sẽ giao cho tập thể người lao động tại doanh nghiệp hoặc được đem bán. Tháng 6/2002, Nghị định số 64/2002/NĐ – CP của Chính phủ đã cụ thể hoá thêm những thủ tục, quy định rõ hơn 1 số nội dung của quá trình cổ phần hoá DNNN. Tại khoản 3, Điều 2 của Nghị định này, việc tiến hành bán, khoán cho thuê DNNN được tiếp tục khẳng định: Nếu nếu DNNN nào có vốn nhà nước trên sổ sách dưới 5 tỷ đồng, không thuộc diện nhà nước phải nắm giữ 100% vốn điều lệ mà không cổ phần hoá được thì sẽ được bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê. Theo tinh thần của chủ trương này, việc tiến hành giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp sẽ phức tạp hơn, trước tiên phải tổ chứa cổ phần hoá hoặc chỉ rõ rằng không thể cổ phần hoá được mới có thể thực hiện bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê. Tháng 9/1999, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị định số 103/1999/NĐ – CP, quy định một cách có hệ thống và tương đối toàn diện những nội dung cụ thể về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN. Để mở ra “lối thoát” cho các DNNN làm ăn thua lỗ; đồng thời mang đến cơ hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước muốn đầu tư vào các DNNN. Mục tiêu của Nghị định là quy định trình tự thủ tục trong việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, xây dựng cơ chế chính sách nhằm khuyến khích tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, tận dụng nguồn tài sản đã có sẵn ở các doanh nghiệp để tiếp tục duy trì và phát triển sản xuất. Với Nghị định này, Chính phủ chủ trương ưu tiên cho tập thể người lao động trong các doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định tự đứng ra nhận khoán, thuê hoặc mua doanh nghiệp đó, khuyến khích tối đa, duy trì sản xuất và tạo việc làm cho người lao động. Chính phủ cũng chủ trương giao không thu tiền các doanh nghiệp thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định cho người lao động của mỗi doanh nghiệp tương ứng, với điều kiện doanh nghiệp phải được duy trì và phát triển, việc làm của người lao động phải được đảm bảo ổn định (ít nhất là trong một số năm đầu sau khi chuyển đổi). Cùng với việc ban hành Nghị định trên, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cán bộ các cơ quan quản lí các ngành soạn thảo, ban hành hoặc trình Chính phủ các văn bản có liên quan nhằm triển khai Nghị định 103/1999/NĐ – CP. Theo đánh giá của bộ kế hoặch đầu tư cho đến năm 2000 về cơ bản, đã có các văn bản hướng dẫn thực hiện nghị định 103/1999/NĐ – CP do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành. Trong thời gian tiếp theo, các cơ quan hữu quan tiếp tục bổ sung các hướng dẫn liên quan tới việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN, đặc biệt có: - Hai thông tư của bộ tài chính - Một thông tư của bộ Lao động - Thương binh và xã hội hướng dẫn việc sử lí lao động trong các DNNN cần bán, khoán , cho thuê. - Một Công văn của Tổng Liên đoàn Lao động hướng dẫn nhiệm vụ công đoàn tham gia thực hiện Nghị định 103/1999/NĐ – CP của Chính phủ về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN.[2, trang 83-85] Tuy nhiên, do quy định chưa đầy đủ, thiếu tính khả thi, nên chuyện mua bán DNNN trên thực tế chưa như mong muốn. Thấy được thực trạng này, tháng 4/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 49 để điều chỉnh Nghị định 103, nhưng cũng không thay đổi được tình hình. Năm 2005, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 80 thay thế cho hai nghị định 103 và 49. Thế nhưng, vì Nghị định 80 vẫn còn thiếu những quy định chi tiết nên việc mua bán DNNN vẫn còn gặp không ít khó khăn. Thực ra, cuối năm 2005, Bộ Tài chính cũng đã có Thông tư 109 hướng dẫn một số nội dung về tài chính của Nghị định 80 nhưng vẫn chưa thể đầy đủ. Chẳng hạn như quy định về cơ sở pháp lý để thỏa thuận giá khoán, bán, cho thuê chưa rõ ràng; quy định về giải quyết thủ tục đất đai gắn liền với tài sản nhà nước chưa cụ thể; quy định về chính sách, chế độ đối với những người lao động tại các DNNN quá phức tạp... Dường như Chính phủ cũng đã thấy được sự bất cập của các quy định pháp luật về việc giao, khoán, bán cho thuê DNNN, nên giữa tháng 11/2006, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu bổ sung Nghị định 80 theo hướng xóa bỏ cơ chế khoán kinh doanh và cho thuê DNNN; thực hiện việc bán DNNN theo hình thức bán đấu giá... Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận Nghị định 80 có một số điểm rất đáng chú ý được nhiều doanh nghiệp giá là những “bước đột phá” cụ thể như quy định về việc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế - tài chính được thành lập theo pháp luật nước ngoài hoạt động kinh doanh tại nước ngoài hay tại Việt Nam sẽ có quyền mua công ty Nhà nước hoặc một bộ phận công ty Nhà nước thuộc danh mục các ngành nghề, lĩnh vực mà Nhà nước cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư 100% vốn hoặc được góp vốn liên doanh. Việc này sẽ tạo thêm kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài mới. Hay như trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Đầu Tư, ông Trần Tiến Cường, Trưởng ban Doanh nghiệp (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương) nhận định, “Những sửa đổi trong Nghị định 80/2005/NĐ - CP cũng tập trung giải quyết được vấn đề về công khai, minh bạch trong thông tin giao, bán, khoán, kinh doanh và cho thuê công ty Nhà nước. Theo quy định, thời gian công khai thông tin được kéo dài hơn, tăng từ 30 ngày lên 45 ngày và có 15 ngày gia hạn. Chúng tôi cho rằng, tăng cường công khai hoá các hoạt động này sẽ giải quyết được những vụ việc mua bán nội bộ không hiệu quả như đã từng xảy ra trước đây”. Ông Cường cũng nhấn mạnh: “Khác với việc thành lập doanh nghiệp mới, nhà đầu tư nước ngoài có thể giảm bớt nhiều thủ tục, thời gian khi mua lại một công ty Nhà nước. Họ có quyền lựa chọn việc có sử dụng hay không lực lượng lao động sẵn có, lựa chọn cách thức thuê/mua quyền sử dụng đất ngay trên địa điểm của công ty Nhà nước cũ... Đây là điểm rất hấp dẫn của hoạt động này”. Ngoài ra, công ty Nhà nước thuộc diện bán sẽ không bị khống chế về quy mô. Bất cứ công ty Nhà nước nào thuộc diện phải sắp xếp lại, không thực hiện cổ phần hoá được đều là đối tượng của các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước. Việc mua bán công ty Nhà nước hay một bộ phận công ty Nhà nước sẽ được thực hiện theo phương thức đấu thầu (nếu người mua muốn mua trọn gói công ty Nhà nước bao gồm cả lao động) hoặc đấu giá (nếu chỉ mua tài sản). Việc xác định giá trị công ty Nhà nước phải được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của công ty, bộ phận công ty tại thời điểm bán. Cũng giống như cổ phần hoá công ty Nhà nước, Nghị định 80/2005/NĐ - CP quy định, nếu công ty có giá trị tài sản theo sổ sách kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên, việc xác định giá trị sẽ phải thực hiện thông qua tổ chức tài chính chuyên nghiệp trong danh sách do Bộ Tài chính công bố. Cách làm này sẽ đảm bảo được đúng giá thị trường của công ty Nhà nước. Thêm vào đó, quy định về thanh toán tiền mua công ty cũng được quy định lại theo hướng nâng cao trách nhiệm của bên mua công ty Nhà nước. Theo quy định, người mua có thể thanh toán tiền mua trong thời hạn không quá 2 năm, trong đó lần đầu phải thanh toán ngay 70% giá trị. Đây là giải pháp để tránh tiền lệ dây dưa kéo dài trong thanh toán tiền mua công ty Nhà nước đã từng xảy ra. Nhìn chung, những quy định của nhà nước về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN cho tới thời điểm này đã tương đối phù hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế - xã hội luôn biến đổi nên Chính phủ cần phải không ngừng sửa đổi, bổ sung những chủ trương, chính sách về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN để phù hợp hơn với từng thời kì cụ thể. Chương 2 Thực trạng về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 2.1. Tình hình giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 2.1.1. Trước tháng 9/1999 Trên thực tế hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN không phải là vấn đề mới, mà nó đã được các DNNN áp dụng trong nhiều năm, kể cả trong thời kì bao cấp, mặc dù quy mô còn hạn chế, thực hiện không có tính hệ thống và chưa thành một chủ trương rõ ràng. Ngay từ những năm 1960, hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN đã được áp dụng, chủ yếu đối với ngành thương mại (khoán đối với cửa hàng và kho bãi chứa hàng), trong vận tải đường bộ và đường thuỷ (khoán và cho thuê phương tiện vận tải), trong các nông trường lâm trường (khoán vườn cây, con gia súc đến hộ gia đình). Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chủ yếu áp dụng khoán sản phẩm, khoán trong các tổ, đội, phân xưởng, cho thuê tài sản đơn chiếc. Tuy nhiên, phạm vi thuê và khoán chỉ giới hạn trong từng bộ phận và cho các chủ thể thuộc nội bộ DNNN, hầu như chưa có hình thức thuê, khoán toàn bộ một DNNN mà chỉ có hình thức bán và cho thuê riêng lẻ của DNNN khi tiến hành giải thể, phá sản doanh nghiệp. Từ cuối thập kỉ 80, việc cho thuê và khoán kinh doanh đối với từng bộ phận của doanh nghiệp đã được triển khai khi DNNN được mở rộng quyền tự chủ kinh doanh. Về cơ bản, đối tượng nhận thuê, khoán đều là tập thể cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp.[2, trang 96-97] Vào đầu thập kỉ 90, đồi tượng nhận thuê khoán tuy chủ yếu là cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp có tài sản hay phương tiện đem khoán hoặc cho thuê, nhưng người trực tiếp khai thác sử dụng thực sự (người kinh doanh các tài sản này) không chỉ là người của doanh nghiệp nữa, mà bao gồm cả các lực lượng lao động xã hội khác. - Về hình thức bán toàn bộ DNNN, chỉ tới những năm đầu của thập kỷ 90 mới có một số địa phương tiến hành. Ví dụ: Hải Phòng đã bán 2 doanh nghiệp, Hải Dương bán 6 doanh nghiệp quy mô nhỏ (vốn nhà nước dưới 300 triệu đồng), thuộc diện hoạt động khó khăn kinh doanh thua lỗ không được đăng kí lại theo nghị định 388 – HĐBT vào những năm 1992 – 1993. Tiếp theo, năm 1998 tỉnh Ninh Bình cũng đã thí điểm 4 DNNN đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Với các hình thức khác, một số thử nghiệm cũng đã được thực hiện, ví dụ Thanh Hoá cho thuê 1 doanh nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh thí điểm bán 4 DNNN quy mô nhỏ. - Về việc khoán doanh thu, khoán định mức sử dụng nguyên vật liệu đối với phương tiện vận tải đã được thực hiện trong các doanh nghiệp vận tải thuộc ngành giao thông, ngành thương mại cũng áp dụng hình thức khoán 1 cách khá rộng rãi (chủ yếu là khoán doanh thu). Theo báo cáo của ngành, trong thời kì 1900 – 1991 đã có tới 19 công ty thực hiện khoán với nhiều hình thức phong phú, từ khoán doanh thu tới khoán nộp lợi nhuận. Sau đó hình thức khoán được mở rộng tới các hộ thuộc nông trường quốc doanh, ngành công nghiệp… - Hình thức thuê được áp dụng trong việc cho thuê các phương tiện vận tải trong những doanh nghiệp giao thông đường thuỷ (và cả trong ngành đường sắt - dù quy mô ít hơn). Theo báo cáo của Bộ Giao thông vận tải, năm cao nhất doanh thu từ cho thuê phương tiện vận tải đường sông chiếm xấp xỉ 5% tổng doanh thu toàn ngành. Trong những ngành khác hình thức cho thuê cũng được áp dụng đối với các loại phương tiện sản xuất (máy móc, thiết bị), nhà xưởng và mặt bằng sản xuất, cửa hàng… Cho tới trước năm 1999, các Bộ và địa phương đã phân loại và sắp xếp lại các DNNN. Cụ thể, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có 75 doanh nghiệp, tức 4,7% số doanh nghiệp trên địa bàn thuộc diện thực hiện khoán, cho thuê, giao và bán, 18 tỉnh, thành phố khác có khoảng 156 doanh nghiệp thuộc diện cho thuê, khoán, giao hoặc bán. [] 2.1.2. Sau tháng 9/1999 Sau tháng 9/1999, tức là khi Nghị định 103/1999/NĐ – CP đã ra đời. Việc ra đời của Nghị định này trong thời kì đó được xem là kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu chuyển đổi doanh nghiệp của các địa phương, nhất là đối với những tỉnh có nhiều doanh nghiệp nhỏ, manh mún, thua lỗ kéo dài. Nghị định này đã giúp số lượng DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê tăng mạnh. Biểu đồ: số doanh nghiệp được bán, khoán, cho thuê qua các năm từ 1992 đến 2001. Nguồn: Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội 2001. Cho tới tháng 10/2001, đã có 124 DNNN đã được chuyển đổi hình thức sở hữu theo Nghị định này, trong đó giao 64 doanh nghiệp (51,6%), bán 47 doanh nghiệp (37,9%), khoán kinh doanh 12 doanh nghiệp (9,6%) và chỉ có 1 (0,9%) doanh nghiệp cho thuê. Trong số trên, có 60 doanh nghiệp ngành công nghiệp – xây dựng (48,4%), 48 doanh nghiệp thương mại dịch vụ (38,7%) và 16 doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp (12,9%). Sau khi giao, bán, hầu hết các doanh nghiệp đều chuyển đổi thành công ty cổ phần, trong đó đại bộ phận cổ đông là người lao động tại doanh nghiệp. [] Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến cuối năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 3.245 DNNN trong tổng số 5.655 DNNN (tính tại thời điểm đầu năm 2001) với các hình thức thích hợp, trong đó giao, bán 253 DNNN. Sau năm 2005, nghĩa là sau khi Nghị định 80/NĐ – CP ra đời với nhiều quy định mới mang tính đột phá về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN như hình thức bán đấu giá doanh nghiệp cũng như bán DNNN cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã được áp dụng với khá nhiều DNNN. Tuy nhiên, vì các số liệu thống kê chính xác về tình hình giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN trong 2 năm gần đây không nhiều nên em không thể đưa ra một con số cụ thể về số lượng DNNN đã được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Sau đây là 1 ví dụ về 1 DNNN đã được bán theo hình thức đấu giá gần đây nhất: Vào tháng 11/2007 “Công ty cổ phần Vận tải dầu khí Việt Nam đã trúng thầu mua toàn bộ tài sản Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh, với giá trị trúng thầu là 49,25 tỷ đồng. Theo hợp đồng mua bán DNNN số 2700857/HĐ/FC-TC ngày 12-11-2007 giữa UBND tỉnh Hà Tây và Công ty cổ phần Vận tải dầu khí Việt Nam, đến ngày 01-12-2007, Công ty cổ phần Vận tải dầu khí Việt Nam sẽ tiếp quản, tiếp tục duy trì, tổ chức mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh. Sau khi hoàn tất việc chuyển giao, Công ty cổ phần Vận tải dầu khí Việt Nam có quyền được sử dụng tài sản, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, tổ chức lại sản xuất, đầu tư mới, quyết định loại hình doanh nghiệp; được thừa hưởng các quyền lợi và các hợp đồng kinh tế đã ký kết của Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh; kế thừa sử dụng toàn bộ 1.198 lao động mà Công ty may thêu xuất nhập khẩu Hưng Thịnh đã ký hợp đồng theo danh sách nêu tại phương án bán DNNN” [Hữu Hoài]. 2.2. Đánh giá tình hình thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN những năm qua. 2.2.1. Ưu điểm Như chúng ta đã biết, nhìn chung các DNNN trước khi thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, hay cho thuê đều có những đặc điểm sau: - Là những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, không ổn định, hoạt động cầm chừng, hay đã tạm ngừng hoạt động trong vài năm. - Quy mô nhỏ, trình độ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu. - Vốn ít, hiệu quả sử dụng vốn thấp, thua lỗ kéo dài, nợ đọng nhiều và dây dưa, không có khả năng thanh toán. - Lực lượng lao động chủ yếu được tuyển dụng từ thời bao cấp, chưa được đào tạo lại, thiếu những kỹ năng cần thiết để thích ứng với cơ chế thị trường, do vậy thu nhập thấp và khó tìm kiếm việc làm mới. [] Tuy chưa có tài liệu nào đánh giá toàn diện mọi mặt hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau khi thực hiện biện pháp giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN nhưng nhìn chung sau khi thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp trên đều tăng được vốn, được củng cố lại, tiếp tục duy trì và phát triển, kinh doanh đã ổn định và có hiệu quả hơn. Nhiều doanh nghiệp đã có chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường. Chúng không những không để lao động cũ phải mất việc mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người lao động khác (riêng doanh nghiệp cho thuê đã sử dụng lại và đào tạo khoảng 70% lao động cũ). Cụ thể, vào năm 2000, Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã khảo sát tại 5 doanh nghiệp (Công ty dịch vụ Giao thông vận tải Hải Dương, Công ty TNHH Phú Yên, Công ty TNHH Sơn Hải, Công ty Dịch vụ kỹ thuật Hải Dương và Công ty thương mại dịch vụ Hồng Bàng - Hải Phòng) và nhận thấy so với năm trước khi bán (1992 – 1993), kết quả sản xuất kinh doanh đã thực sự tăng, doanh thu tăng xấp xỉ 1.2 đến 11.4 lần, giá trị tài sản và tiền vốn tăng từ 1.8 đến 2.3 lần. Riêng chỉ có Công ty Sơn Hải có mức tăng chậm và mức thu nhập bình quân của người lao động giảm chỉ còn 81% so với trước khi bán. [2, trang 100] Theo số liệu quý I năm 2003 của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trung ương khoảng 130 DN thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê, nhiều khảo sát ghi nhận rằng các chỉ tiêu kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp này sau chuyển đổi đều tăng, tuy số DN cổ phần hóa chiếm số đông (1.264 DN) nhưng đóng góp của chúng trong mức tăng chỉ số hiệu quả chung của DNNN là nhỏ hơn so với những doanh nghiệp thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Vì các DN đủ điều kiện cổ phần hóa đều là các đơn vị đang hoạt động có lãi hoặc không thua lỗ nghiêm trọng, còn các doanh nghiệp giao, bán, khoán kinh doanh, hay cho thuê dạng là những đơn vị thua lỗ nghiêm trọng và kéo dài. Bên cạnh đó, những đổi mới mang tính đột phá của Nghị định 80/NĐ – CP trong việc bán DNNN cho cả các đối tượng là doanh nghiệp nước ngoài cũng đã đem lại nhiều cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn cho các DNNN sau khi thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu. Một trong những ví dụ về việc công ty hoặc nhà đầu tư có vốn nước ngoài mua công ty nhà nước phải kể đến là trường hợp công ty Temasek Holdings của Singapore đang hoàn tất các thủ tục để mua 30% cổ phần của Pacific Airlines với tổng số tiền là 50 triệu đôla. Temasek Holdings là Công ty đã được Bộ Tài chính lựa chọn xây dựng phương án tái cấu trúc Pacific Airlines trong 5 năm (2005-2010) và đã trình phương án lên Chính phủ Việt Nam. Qua việc thực hiện xác định giá trị của Temasek Holdings cho thấy, tổng giá trị của Pacific Airlines lên tới 167 triệu USD. Hiện, Pacific Airlines bước đầu đã ổn định kinh doanh và bắt đầu có lãi. 2.2.2. Nhược điểm Tuy ưu điểm của các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN là rất nhiều nhưng có thề nói số lượng DNNN thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN chưa thực sự được nhiều như mong muốn. Trước tháng 9/1999 những hình thức trên chỉ mang tính chất riêng lẻ, đối phó với tình hình thực tế của doanh nghiệp, không được tiến hành theo phương thức thống nhất. Cụ thể là: - Chưa nhất quán và thông suốt về chủ trương chính sách và quy định pháp lý, chưa có sự nhất trí về chủ trương của các cấp lãnh đạo (tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân tỉnh), đến các sở, ngành của tỉnh, giám đốc, tổ chức Đảng, công đoàn doanh nghiệp. - Chưa có cơ quan đầu mối để giúp các địa phương thực hiện việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN và thực hiện các công việc có liên quan (kiểm kê, đánh giá tài sản, thoả thuận giá, dự thảo hợp đồng…). Đồng thời cũng không có đầu mối nào được giao trách nhiệm rõ ràng về việc theo dõi, tháo gỡ vướng mắc của doanh nghiệp sau khi được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê nên công tác này cũng không được thực hiện có hệ thống. - Do là chủ trương thí điểm nên các địa phương không buộc phải thực hiện các giải pháp giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp. Kết hợp với tâm lý e ngại “mất cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội”, điều này làm nhiều địa phương dè dặt với các đề xuất giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN ở địa phương mình. [2, trang 102] Ngay cả sau khi Nghị định 103/NĐ – CP ra đời cũng chưa giải quyết được một số vần để như: - Các DNNN được bán, khoán, cho thuê chủ yếu có quy mô nhỏ, sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư còn thấp. - Đối tượng được mua, nhận khoán và nhận thuê doanh nghiệp còn hạn hẹp, chủ yếu tập trung trong nội bộ doanh nghiệp hoặc ưu tiên cho lực lượng lao động trong doanh nghiệp. Do đó, chưa thu hút được các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp bỏ vốn, sử dụng kinh nghiệm của họ vào việc khôi phục phát triển doanh nghiệp. “Tôi đã từng đi mua các loại DN thua lỗ, nên hiểu rằng, mỗi người tìm đến mua DN với ý đồ, kế hoạch kinh doanh riêng. Nếu vẫn cứ giao DN cho những người lao động vốn đã không giúp gì cho DN đó trong một thời gian dài, thì tình hình sẽ không thể cải thiện. Việc mua bán DN nên thực hiện theo phương thức đấu giá mà người lao động có thể là đối tượng ưu tiên xem xét”, đại diện Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu hoa quả 1 đề nghị. - Còn nhiều bất cập trong việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện bán, khoán kinh doanh và cho thuê. - Chính sách ưu đãi đối với người lao động vượt quá khả năng đáp ứng của doanh nghiệp và của nhà nước. Tuy nhiên, sự ra đời của Nghị định 80/NĐ – CP nhìn chung đã giải quyết được phần lớn các khuyết điểm trên. Hiện nay chỉ còn một số điểm cần bàn tới đó là: - Cần đẩy nhanh việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước. - Có nên cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình tư nhân hoá một cách cởi mở hơn. - Việc bán DN theo hướng không giới hạn quy mô. Có nghĩa là, các DN thuộc diện giao, bán đều có thể trở thành hàng hoá nếu không thuộc diện Nhà nước nắm giữ. Và việc chuyển đổi theo hình thức nào có lẽ cần phải trao quyền chủ động cho chính DN đó thay vì các quyết định hành chính từ trên xuống. [theo báo Đầu Tư] - Sự thiếu hoàn thiện của hành lang pháp lý, riêng chuyện thủ tục hành chính cũng đã làm cho những người có ý định mua bán DNNN ngán ngẩm. Có quá nhiều thủ tục phát sinh do nhiều cơ quan quản lý ở nhiều cấp đều có thẩm quyền xem xét và... cho ý kiến. - Xóa bỏ cơ chế khoán kinh doanh và cho thuê DNNN; thực hiện việc bán DNNN theo hình thức bán đấu giá... Và quan trọng nhất là: hiện nay tiến trình cải cách vẫn còn rất chậm và hiệu quả chưa cao, không ít nơi còn do dự, không muốn chuyển đổi sở hữu, vì sợ mất quyền quản lý của mình đối với doanh nghiệp trực thuộc. Người lao động trong DNNN đều sợ mất sự bao cấp, bảo hộ, che chắn của chính quyền; sợ mất quyền lợi, mất việc làm... Chương 3 Các giải pháp phát triển. 3.1. Các giải pháp chung. Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong giai đoạn tới, cần mở rộng việc bán, khoán, cho thuê DNNN theo các hướng sau: - Áp dụng các hình thức bán, khoán kinh doanh và cho thuê cả với các loại doanh nghiệp làm ăn có lãi, đang kinh doanh thuận lợi, có vị thế và khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường. - Bán, khoán kinh doanh và cho thuê cả những DNNN có vốn tương đối lớn, có công nghệ tương đối tiên tiến so với mức bình quân của ngành. - Song song với việc bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN, nên mở rộng việc áp dụng hình thức thuê chuyên gia quản lý doanh nghiệp. - Mở rộng hơn nữa đối tượng được phép mua, nhận khoán, thuê DNNN. - Kết hợp bán, khoán, cho thuê DNNN với các hình thức khác để đổi mới DNNN, gắn bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp với việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong các DNNN, gắn trách nhiệm và quyền lợi vật chất của các cán bộ quản lý và cán bộ, nhân viên, người lao động trong các DNNN. Trong quá trình đổi mới ở nước ta, việc tiếp tục bán, khoán, cho thuê DNNN là một giải pháp cần đẩy mạnh hơn. Để làm tốt hơn việc này, trong giai đoạn tới cần triển khai một số giải pháp cụ thể dưới đây. 3.2. Những giải pháp cụ thể. 3.2.1. Vấn đề giải quyết công nợ của doanh nghiệp. Xử lý các khoản nợ đặc biệt là nợ tồn đọng của doanh nghiệp là một lung túng lớn đối với quá trình giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN các cá nhân, tổ chức mua, nhận khoán hoặc thuê lại DNNN không bao giờ chịu nhận trang trải các khoản nợ mà trước đây doanh nghiệp đã gây ra. Nhìn chung đây cũng là điều hợp lý. Tuy nhiên, các khoản nợ mà doanh nghiệp đang gánh chịu cũng phải được sử lý theo hướng trả nợ dứt điểm. Để làm điều này, trước hết các cơ quan chủ quản của các DNNN thuộc diện được giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê phải khắc phục quan niệm lấy đây là con đường thoát nợ đối với các doanh nghiệp yếu kém, lẩn tránh khỏi các khoản nợ phải trả. Vì thế trước khi giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp cần phải thực hiện các bước sau: - Trước tiên, cần tính toán lại tất cả các khoản nợ đã phát sinh, trách nhiệm thanh toán đối với mỗi khoản bao gồm nợ ban đầu và lãi phát sinh. Trên cơ sơ này xác định thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản. - Cân đối các khoản nợ đã được xác định trên đây với tài sản và khả năng thanh toán hiện tại của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoàn toàn không có tài sản để thanh toán các khoản nợ cần làm thủ tục phá sản chứ không được xếp vào loại hình doanh nghiệp đươc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Còn trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản nhưng không thể trả nợ do vốn bị chiếm dụng có thể xử lý theo 2 cách cơ bản sau (hoặc kết hợp cả hai): + Một là: đàm phán với cá nhân, tổ chức nhận mua khoán, thuê để họ nhận cả các khoản nợ phải trả và nợ phải thu trên cơ sở có kế hoặch thanh toán nợ rõ ràng và có sự cam kết của các bên liên quan tới các khoản nợ của doanh nghiệp. + Hai là, cơ quan quản lý nhà nước được ủy quyền đứng ra thu hồi các khoản nợ cũ và thanh toán trả các chủ nợ cũ. [2, trang 195 – 196] - Đối với các trường hợp thua lỗ, mất vốn do lãnh đạo doanh nghiệp cũ gây ra thì các cá nhân này có trách nhiệm đền bù và không được mua doanh nghiệp đó. - Chỉ sau khi doanh nghiệp đã thanh toán xong các khoản nợ hoặc có tổ chức hay cá nhân cụ thể nhận thanh toán các khoản nợ của mình, doanh nghiệp mới được đưa ra giao, bán, khoán, hoặc cho thuê. Nhà nước phải có các biện pháp tài chính mạnh, dứt khoát và phải chấp nhận chi phí nhất định mới xử lý được vấn đề tài chính trong doanh nghiệp chuyển đổi. Theo hướng đó, ngày 25/11/2001, Thủ tướng Chính phủ đã quết định xoá hoặc dãn nợ cho các DNNN có khó khăn khách quan gồm các khoản như: - Thiệt hại do thay đổi chính sách thuế và thu ngân sách nhà nước làm ảnh hưởng tới sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. - Thiệt hại do di chuyển địa điểm sản xuất – kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền - Thiệt hại do thiên tai. Vấn đề đặt ra là: nếu doanh nghiệp thua lỗ không phải vì các nguyên nhân trên, cũng không phải do Ban lãnh đạo doanh nghiệp cố ý làm trái mà thua lỗ, nợ nhiều, mà chỉ đơn thuần là do thay đổi của thị trường, do yếu kém trong quản lý, thì ai sẽ chịu trách nhiệm trả nợ? Giải quyết vần đề này, có thể theo 3 hướng sau: - Trước hết, dùng Quỹ hỗ trợ tổ chức lại doanh nghiệp để trang trải các khoản nợ, sau đó lấy các khoản thu từ việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê để bù đắp lại. - Thứ hai, doanh nghiệp không còn giá trị đáng kể, nhà nước buộc phải dùng Quỹ hỗ trợ tổ chức lại doanh nghiệp để trang trải các khoản nợ mà không có nguồn thu bồi hoàn. - Thứ ba, nhà nước cho phép doanh nghiệp lấy lãi trước thuế để bù lỗ kế qua các năm, xử lý các khoản chi, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi chưa có nguồn, … [2, trang 197 – 198] Ngoài ra, cũng cần đề cập tới vấn đề tài sản vô hình của doanh nghiệp. Toàn bộ nội dung của Nghị định mới nhất về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN hoàn toàn không đề cập đến giá trị tài sản vô hình. Trên thực tế đây là tài sản có giá trị khá lớn, có khi tổng giá trị tài sản hữu hình của công ty không bằng tài sản vô hình. Tài sản vô hình chủ yếu là các giá trị tài sản về Sở hữu trí tuệ như: - Quyền sở hữu Sáng chế - Quyền sở hữu Kiểu dáng công nghiệp - Quyền sở hữu Nhãn hiệu hàng hoá… 3.2.2. Giải quyết vần đề người lao động. Nếu theo lộ trình sắp xếp lại DNNN thì đến năm 2003 sẽ có 150.000 lao động thuộc diện dư thừa, trong đó có khoảng 75.000 lao động bị mất việc làm do các DNNN được cổ phần hóa, sát nhập, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. Sức ép lao động dư thừa càng lớn hơn khi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn. Việc bảo vệ quyền lợi của người lao động là cần thiết và chính đáng khi chuyển đổi doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu quá tập trung vào nguyên tắc này thì mục đích giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước khó có thể đi vào thực tế vì thông thường công ty nhà nước không thể cổ phần được và làm ăn thua lỗ mới chọn các hình thức chuyển đổi này mà tính không hiệu quả đó có nguyên nhân chính là từ nguồn nhân lực. Vì vậy, những đối tượng khi tiếp nhận doanh nghiệp thông thường bên cạnh việc có chiến lược kinh doanh phù hợp còn phải có chính sách cải tổ nhận sự lớn mới mong đưa doanh nghiệp hoạt động một cách hiệu quả. Như vậy, các Nghị định không nên ràng buộc quá cứng về vấn đề lao động mà nên giao sự tự chủ về cho đối tượng tiếp nhận. Những lao động không đáp ứng được yêu cầu phải có hình thức và chính sách phù hợp để giải quyết. [] Tốt nhất là cần hoàn thiện chính sách đối với người lao động tại các DNNN được bán, khoán hoặc cho thuê theo các hướng: - Lao động dôi dư, đặc biệt là lao động nữ trong quá trình sắp xếp DNNN được tạo điều kiện đào tạo lại bằng cách sử dụng một phần quỹ hỗ trợ đổi mới DNNN hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì được hưởng chế độ mất việc. - Tập trung việc giải quyết trợ cấp thôi việc cho người lao động vào một mối, do người sử dụng lao động trả trước khi doanh nghiệp thực hiện giao, bán, nếu thiếu được lấy từ Quỹ hỗ trợ… 3.2.3. Hổ trợ các doanh nghiệp trong và sau chuyển đổi hình thức sở hữu. Vì các doanh nghiệp được chuyển đổi sở hữu hầu hết đều là những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài nên để bán được những doanh nghiệp này Chính phủ cần phải có một số ưu đãi hay trợ giúp cho những doanh nghiệp sau khi đã được chuyển đổi. Đây là một điểm vô cùng quan trọng vì nếu những chính sách này không phù hợp và phát huy được hiệu quả thì việc thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN sẽ trở nên rất khó khăn bởi các nhà đầu tư không có nhiều động lực để mua lại những doanh nghiệp này, việc bảo đảm rằng doanh nghiệp sẽ làm ăn hiệu quả sau chuyển đổi là không hề chắc chắn. Nghị định 80/NĐ – CP cũng có hẳn 1 chương bàn về vấn đề này ví dụ như là doanh nghiệp được miễn lệ phí đăng kí kinh doanh, lệ phí trước bạ trong quá trình chuyển đổi tài sản, tiếp tục được xuất nhập khẩu hàng hoá theo quy định hiện hành áp dụng đối với công ty nhà nước, hay được hưởng chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư mà không không cần làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi… Theo em thì những quy định trên đã tương đối đầy đủ và thoả đáng. Tuy nhiên, trong thời gian tới hi vọng rằng nhà nước sẽ quan tâm nhiều hơn tới một số vấn đề như: - Cải cách hành chính trong việc tiến hành các thủ tục trong quá trình thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN để việc này được tiến hành nhanh chóng hơn. Tránh những thủ tục không cần thiết gây lãng phí thời gian và tiền bạc. - Việc đánh giá giá trị tài sản doanh nghiệp trước khi thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê cần được quan tâm để kết quả đánh giá là chính xác và phù hợp với phương pháp đánh giá hiện hành. - Điều chỉnh lại mức ưu đãi giảm giá theo khung số lượng lao động cụ thể bởi vì ở các doanh nghiệp có giá trị thực tế bằng nhau, số lượng lao động khác nhau nếu được hưởng tỷ lệ % ưu đãi bằng nhau như quy định hiện hành sẽ dẫn đến mức ưu đãi trên mỗi lao động khác nhau. - Việc các DN được xem là có lợi thế về đất đai có khả năng bị loại khỏi danh mục các DN được phép giao, bán cũng cần phải xem xét kĩ vì lợi thế về đất đai là một lợi thế lớn, có sức thu hút cao đối với các doanh nghiệp khi quyết định mua lại DNNN. - Cho vay vốn ưu đãi để các doanh nghiệp sau chuyển đổi có điều kiện phát triển. Song song với vấn đề này cũng cần quan tâm tới khả năng và tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp tránh hiện tượng thiếu công bằng trong các chính sách cho vay. Tóm lại, sắp xếp, đổi mới DNNN, trong đó có các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê sẽ góp phần giúp các DNNN hoạt động hiệu quả hơn, cũng như nâng cao được năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước, mang tính hiệu quả cao vì thế trong tương lai những hình thức này cần được quan tâm và đánh giá đúng vai trò để có thể phát huy hơn nữa hiệu quả của chúng. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, thực trạng và giải pháp phát triển.doc
Luận văn liên quan