C.Mác đã từng nói: “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng thời có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên tôi đã chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6412 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
C.Mác đã từng nói: “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng thời có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên em đã chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.
GiẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Nhận thức chung về giao dịch dân sự :
1. Khái niệm giao dịch dân sự:
1.1. Định nghĩa :
Chế định giao dịch dân sự lần đầu tiên được quy định trong BLDS nước ta ban hành ngày 28/10/1995 và có hiệu lực ngày 1/7/1996, sau đó được sửa đổi, bổ sung trong BLDS hiện hành 2005. Trước khi BLDS 2005 ra đời, giao dịch dân sự chưa được quy định một cách riêng rẽ, cụ thể. Với sự ra đời của BLDS 1995, giao dịch dân sự đã chính thức được đề cập đến (khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu…). Sự củng cố và bổ sung các quy định này trong BLDS 2005 đã chứng minh ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự nước ta.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, đa số các quan hệ dân sự đều được điều chỉnh thông qua hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương gọi chung là giao dịch dân sự. Tại điều 121, BLDS 2005 xác định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, chỉ những giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương hoặc được xác lập bằng hợp đồng thì mới là giao dịch dân sự. Đây cũng là cách phân loại phổ biến nhất của giao dịch dân sự hiện nay.
Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Xét về bản chất, hợp đồng dân sự là cách thể hiện ý chí chủ quan của các bên khi xác lập hợp đồng dân sự hay có thể nói nó là sự thỏa thuận ý chí của 2 hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp ghi trong hợp đồng được Nhà nước bảo hộ. Nhìn chung, hợp đồng dân sự khá đa dạng và phong phú.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của 1 bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Bên chủ thể đó có thể gồm một người hoặc nhiều người (ví dụ như vợ chồng lập di chúc chung). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên cũng phải đáp ứng những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu không đáp ứng một trong các điều kiện đó.
Ngoài ra, bất kỳ một giao dịch dân sự nào cũng làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định đó chính là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được pháp luật bảo đảm thực hiện. Thông thường các giao dịch dân sự đó chỉ phát sinh hiệu lực khi phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong trường hợp ngược lại, giao dịch dân sự đó sẽ bị tuyên bố là vô hiệu và phát sinh những hậu quả pháp lý từ việc tuyên bố đó.
1.2. Các nguyên tắc của giao dịch dân sự:
Để có thể xác định những tư tưởng chỉ đạo chung cho các giao dịch dân sự nhằm bảo đảm cho các giao dịch đó luôn được thực hiện trong vòng trật tự nhất định, các nhà làm luật đã đề ra 1 số nguyên tắc của giao dịch dân sự như sau:
Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nguyên tắc không trái pháp luật, đạo đức xã hội .
Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực trong giao dịch dân sự .
Nguyên tắc mọi thỏa thuận, cam kết hợp pháp trong giao dịch dân sự có hiệu lực đều bắt buộc thi hành.
Nguyên tắc hòa giải.
Nguyên tắc bảo vệ quyền dân sự.
1.3. Đặc điểm của giao dịch dân sự:
Với việc tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc trên, giao dịch dân sự luôn mang một số đặc điểm đặc thù như sau:
Giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch: việc tham gia bất kỳ một giao dịch nào của các chủ thể đều nhằm đạt được những lợi ích vật chất và tinh thần nhất định, từ đó mới hình thành nên sự thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch. Cho nên có thể nói ý chí của chủ thể tham gia là cơ sở hình thành giao dịch dân sự. Tuy nhiên muốn hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự phát sinh theo chiều hướng các bên mong muốn thì nhất thiết phải có sự thể hiện, bày tỏ ý chí thống nhất vơi nguyện vọng bên trong của các chủ thể.
Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện: đó là sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể và là sự thỏa thuận ý chí giữa các bên tham gia giao dịch. Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc thiết lập giao dịch
Chế tài trong giao dịch mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt: chế tài trong giao dịch dân sự là những biện pháp cưỡng chế mà pháp luật quy định buộc các bên chủ thể tham gia phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình nếu giao dịch đó có hiệu lực, đồng thời cũng là các biện pháp xử lý, giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh nếu giao dịch đó vô hiệu.
Nội dung của pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội: giao dịch dân sự được xây dựng nên trên cơ sở đảm bảo quyền tự do ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch cho nên các chủ thể có quyền tự đặt ra những nội dung, cam kết phù hợp với sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, nội dung đó nhất thiết không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Quy định này không hề vi phạm tự do ý chí của các chủ thể mà nhằm bảo đảm các nguyên tắc khác của giao dịch dân sự như bảo vệ lợi ích chung của xã hội cũng như của chính các chủ thể tham gia giao dịch.
2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của của các chủ thể tham gia giao dịch không có nghĩa là pháp luật thừa nhận tất cả các chủ thể, mục đích, nội dung hay hình thức của giao dịch mà pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân theo gọi là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nhằm tạo nên cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Tại Điều 122 BLDS 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
“ 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Từ quy định trên có thể hiểu điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là những điều kiện do pháp luật duy định mà một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa mãn các điều kiện đó. Tuy nhiên trên thực tế, để xác định một giao dịch có phát sinh hiệu quả pháp lý hay không chúng ta còn phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật có liên quan và các ngành luật điều chỉnh giao dịch đó.
2.1. Điều kiện về năng lực chủ thể tham gia giao dịch dân sự:
Theo quy định tại Điều 122 BLDS thì “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng. Theo đó, “người” ở đây phải được hiểu là tất cả các chủ thể đó tức là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam, trong đó Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam là chủ thể đặc biệt của hầu hết các ngành luật nên chúng ta sẽ không xét đến năng lực hành vi dân sự của chủ thể này.
2.1.1. Đối với cá nhân:
Cá nhân được coi là chủ thể thường xuyên, chủ yếu, phổ biến nhất của giao dịch dân sự bởi ngay cả trong giao dịch có sự tham gia của pháp nhân hay chủ thể khác thì cá nhân với tư cách là người đại diện vẫn tham gia giao dịch đó. Tuy nhiên để giao dịch có hiệu lực thì cá nhân cũng phải chịu sự điều chỉnh mà cụ thể là quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự “Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự”.
Năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17 BLDS). Giao dịch dân sự do cá nhân thiết lập chỉ có hiệu lực nếu đáp ứng được các yêu cầu về mức độ hành vi dân sự của cá nhân. Mức độ đó được xác lập như sau:
Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: là những người từ đủ 18 tuổi trở lên không thuộc trường hợp bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự hay bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự.
Đối với những người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: ở lứa tuổi này, chủ thể đã có thể xác lập và thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định. Quy định này cũng hoàn toàn hợp lý với điều kiện về độ tuổi lao động trong Bộ luật Lao động: người lao động là người có thể từ đủ 15 tuổi trở lên và có tham gia giao kết hợp đồng lao động.
Đối với người có năng lực hành vi dân sự 1 phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Theo Điều 20 BLDS thì người từ đủ 6 tuổi đến 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý trừ các giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngay phù hợp với lứa tuổi. Quy định này là hoàn toàn hợp lý bởi những người thuộc độ tuổi này sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ. Còn đối với những người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì trong các giao dịch do người này tham gia phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Đối với người dưới 6 tuổi, người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, mọi giao dịch dân sự của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
2.1.2. Đối với các chủ thể khác:
Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có thể trở thành chủ thể của các giao dịch dân sự nhưng pháp luật cũng quy định cho những đối tượng này những quy định nhất định như đối với chủ thể là cá nhân. Các chủ thể này chỉ có thể tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật của họ hoặc do họ ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định rõ pháp nhân chỉ được tham gia các giao dịch dân sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định pháp luật; còn tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác. Nếu tham gia vào các giao dịch dân sự không thuộc lĩnh vực hoạt động đã được pháp luật quy định như trên, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều coi là đã vi phạm 1 trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tất nhiên giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu.
2.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự:
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” (Điều 123 BLDS 2005). Trong bất kỳ một giao dịch nào, các bên tham gia đều hướng đến một mục đích nhất định, từ đó sẽ có sự xác lập quyền và nghĩa vụ (tức là nội dung của giao dịch) nhằm hiện thực hóa mục đích đó. Như vậy mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ 2 chiều với nhau.
Mục đích và nội dung là một trong những yếu tố chủ yếu tạo thành một giao dịch dân sự, do vậy điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch cũng là những điều kiện cần thiết cho một giao dịch dân sự hợp pháp: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Việc quy định cụ thể những điều cấm của pháp luật là để đảm bảo lợi ích công cộng và của các chủ thể. Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Tuy nhiên trong thực tế, căn cứ để xác định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự trái với đạo đức xã hội khá phức tạp vì đó là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội tự đặt ra và thừa nhận nó như những quy tắc chung chứ không được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật như các điều cấm của pháp luật.
2.3. Điều kiện về ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí tức là các chủ thể tham gia giao dịch phải có sự tự nguyện. Đây cũng là một trong các điều kiện tiên quyết để 1 giao dịch dân sự có hiệu lực “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.
Khi tham gia giao dịch dân sự, mỗi chủ thế đều có những nguyện vọng, mong muốn để tạo cơ sở cho việc xác lập các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch đó. Nhưng để có thể đạt được mục đích của giao dịch, các chủ thể phải có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Nếu không thỏa mãn điều này tức là các chủ thể đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong giao dịch đồng nghĩa với việc giao dịch dân sự được xác lập sẽ bị coi là vô hiệu. Pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự được thiết lập không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch: giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay giao dịch xác lập vào thời điểm mà người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Tất nhiên, những giao dịch được xác lập bởi những yếu tố kể trên tức là đã vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu.
2.4. Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự:
Hình thức giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới 1 hình thức nhất định của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy hình thức của giao dịch chỉ trở thành điều kiện có hiệu lực trong một số trường hợp được pháp luật quy định. Đây là điểm mới trong BLDS 2005 so với bộ luật cũ. Tại Điều 131 BLDS 1995 thì hình thức của giao dịch được quy định là một trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cứ giao dịch nào vi phạm quy định về hình thức đều bị coi là vô hiệu chứ không chỉ trong một số trường hợp như pháp luật hiện hành.
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không quy định hình thức bắt buộc thì giao dịch đó có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào chẳng hạn như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể:
+ Hình thức miệng (bằng lời nói) : đây được coi là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện nay dù đó cũng là hình thức có độ xác thực thấp nhất. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó hoặc giữa các chủ thể có mối quan hệ thân tín, tin cậy.
+ Hình thức văn bản: thể theo sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch hoặc do pháp luật quy định, các bên xác lập giao dịch bằng hình thức văn bản, trên đó phải có chữ ký xác nhận của chủ thể nhằm xác minh sự tham gia giao dịch của các chủ thể. Ngoài ra, có một số trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch bắt buộc phải lập thành văn bản có chứng nhận chứng thực, đăng ký hoặc xin phép mà thông thường là đối với các giao dịch dân sự có đối tượng Nhà nước cần phải kiểm soát trong lưu thông dân sự hoặc đối tượng của giao dịch dân sự có giá trị lớn ( đất đai, nhà cửa…). Trong các trương hợp đó, các chủ thể buộc phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức để có thể đảm bảo giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực.
+ Hình thức bằng hành vi: chẳng hạn như rút tiền từ trạm ATM, gọi điện thoại ở bốt công cộng, mua nước bằng máy tự động... Đây cũng là hình thức giản tiện nhất của giao dịch do không cần thiết phải có sự hiện diện của tất cả các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dân sự là một chế định rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Những quy định về giao dịch dân sự là sự cần thiết cấp bách không thể thiếu trong việc điều chỉnh mối quan hệ cơ bản của pháp luật dân sự. Tuy nhiên để có thể bảo đảm trọn vẹn quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch, pháp luật cũng đề ra các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự hợp pháp, từ đó xác định những giao dịch nào vi phạm các điều kiện đó sẽ bị coi là vô hiệu, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đó. Vậy cụ thể, giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hậu quả pháp lý của nó ra sao? Nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này sẽ giúp chúng ta có phương hướng để hoàn thiện thêm chế định giao dịch dân sự nói chung.
II. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Giao dịch dân sự vô hiệu:
. Khái niệm:
Nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu được sử dụng khác rộng rãi nhưng lại chưa có tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể. Trong BLDS nước ta, tại Điều 122 BLDS 2005 có quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, căn cứ vào các quy định này mà xây dựng nên quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu: “ Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”(Điều 127 BLDS 2005). Như vậy các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự làm cơ sở cho việc xác định giao dịch dân sự vô hiệu. Căn cứ vào các quy định trên, ta có thể khái quát: “Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định”.
Bằng việc quy định các điều kiện và một số trường hợp cụ thể dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu, Nhà nước có thể kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định để đảm bảo tính ônt định trong giao lưu dân sự. Nhìn chung các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu có một số ý nghĩa sau đây:
Định hướng, tạo khuôn mẫu cho các chủ thể pháp luật dân sự khi tiến hành xác lập giao dịch dân sự phải tuân theo các quy định của pháp luật, không được thảo thuận hoặc thi hành trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cho các chủ thể.
Ngăn chặn các loại giao dịch dân sự mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội, bảo đảm cho các giao lưu dân sự hợp pháp được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia giao dịch còn bảo đảm quyền lợi cho người thứ 3 ngay tình, bảo đảm tính công bằng khi giải quyết hậu que của giao dịch dân sự vô hiệu.
Là cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc cho các bên tự hòa giải với nhau khi xảy ra tranh chấp hoặc được tòa án áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giao dịch dân sự vô hiệu.
1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu:
Mục đích hay nói cách khác là những mong muốn, nguyện vọng mà bất kỳ chủ thể nào tham gia giao dịch đều muốn đạt được. Pháp luật luôn tạo điều kiện và giúp đỡ các chủ thể hành động theo ý chí của mình nếu họ không vi phạm vào 1 trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói trên. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không tuân thủ các điều kiện đó dẫn đến giao dịch dân sự bị vô hiệu và các chủ thể phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đây cũng là 2 đặc điểm đặc trưng của giao dịch dân sự vô hiệu:
Vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định: đặc điểm này tuân theo đúng tinh thần của quy định về giao dịch dân sự tại Điều 127 BLDS 2005. Một đặc điểm mang tính quyết định một giao dịch trở nên vô hiệu đó là việc giao dịch đó không tuân thủ đầy đủ 4 điều kiện mà pháp luật đã quy định đối với giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122 BLDS: điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia giao dịch, điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch, điều kiện về sự tự nguyện của chủ thể và điều kiện về hình thức trong một số trường hợp pháp luật quy định.
Các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: bất kỳ một sự vi phạm nào cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật bằng những chế tài nhất định. Trong giao dịch dân sự cũng vậy, một khi các chủ thể không tuân theo quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì cũng phải chịu hậu quả do việc tuyên bố giao dịch đó đem lại. Cụ thể, khi giao dịch bị tuyên bố là vô hiệu sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch đó. Tính vô hiệu được xác định từ thời điểm các bên xác lập giao dịch( tức là từ khi giao kết hoặc tuyên bố ý chí). Đồng thời, khi giao dịch vô hiệu, các bên quay lại tình trạng ban đầu, hoàn trả những gì đã nhận của nhau. Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên vì không đạt được mục đích ban đầu khi tham gia giao dịch, ngoài ra nếu bên nào có lỗi làm thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Như vậy hậu quả pháp lý có thể và hầu như thường gây bất lợi cho các bên tham gia giao dịch dân sự.
1.3. Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Nếu dựa vào các tiêu chí khác nhau sẽ có các cách phân loại giao dịch dân sự khác nhau:
Nếu căn cứ vào sự vô hiệu về nội dung của giao dịch dân sự thì giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ: là loại giao dịch mà tất cả các nội dung của giao dịch đều vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc có 1 phần nội dung của giao dịch vô hiệu nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ giao dịch. Giao dịch này không có giá trị pháp lý.
Ví dụ: Giao dịch dân sự có đối tượng giao dịch là tài sản Nhà nước cấm lưu thông như động vật quý hiếm, ma túy…
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: là giao dịch dân sự chỉ có một số nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, còn các nội dung khác không vi phạm hoặc có 1 phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại trong giao dịch.
Dựa vào thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu: Đây là giao dịch vi phạm vào một hay một số điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự một cách nghiêm trọng. Các giao dịch dân sự vô hiệu này sẽ không bị hạn chế thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu nên các chủ thể có thể yêu cầu bất kỳ lúc nào, thậm chí nếu không yêu cầu, các giao dịch đó cũng bị xác định là vô hiệu.
Giao dịch dân sự bị hạn chế về thời hiệu: đây là những giao dịch mà mức độ vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự không nghiêm trọng. Sự vi phạm các điều kiện đó chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia giao dịch cho nên các bên có thể yêu cầu hoặc không yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên các loại giao dịch dân sự vô hiệu này sẽ bị giới hạn thời gian yêu cầu, nếu quá thời gian đó các chủ thể của giao dịch dân sự vô hiệu không cong quyền này nữa.
Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS 2005: Thực chất cách phân loại này dựa trên quy định của Điều 122 BLDS, từ đó đưa ra các trường hợp khái quát sự vi phạm các điều kiên có hiệu lực của giao dịch dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự được chia thành:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội: Đó là các giao dịch có mục đích và nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội (căn cứ vào Điều 122 BLDS). Điều 128 BLDS quy định rõ “giao dịch dân sự có mục đích và nội dung trái vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: đây là một trong các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm nguyên tắc tự nguyện của chủ thể tham gia giao dịch bởi khi đó ý chí đích thực của chủ thể không hề đồng nhất với sự bày tỏ ý chí. Tại Điều 129 BLDS, pháp luật có nêu ra 2 tình huống mà giao dịch dân sự được xác lập do sự giả tạo hướng đến. Thứ nhất, nếu giao dịch đó được xác lập nhằm mục đích che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch bị che dấu đó cũng vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Thứ 2, nếu giao dịch đó được xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì giao dịch đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: (Điều 130 BLDS 2005) Như đã trình bày ở trên, những đối tượng này có thể tham gia giao dịch dân sự chỉ khi có người đại diện thay họ xác lập, thực hiện giao dịch. Khi xuất hiện các dấu hiệu vi phạm trong giao dịch dân sự, người đại diện có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Giao dịch vô hiệu do bị nhầm lẫn: Theo cách hiểu thông thường thì nhầm lẫn là sự nhận thức hoặc sự bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực bên trong của các bên khi tham gia giao kết. Sự nhầm lẫn của các bên tham gia giao dịch có thể xuất phát từ một phía hoặc từ cả 2 phía, có thể do thiếu kiến thức hoặc những điều kiện nhất định để hiểu rõ ý tưởng của phía đối tác. Tuy nhiên tại Điều 131 BLDS 2005 của nước ta chỉ quy định giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn do lỗi của 1 phía là phía đối tác. Như vậy trên thực tế, trong công tác xử án của tòa án thường gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi gặp trường hợp lỗi làm cho nhầm lẫn thuộc về cả 2 bên tham gia hoặc lỗi gây nhầm lẫn lại thuộc về chính người bị nhầm lẫn.
Trước khi yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó. Nếu bên kí không đồng ý thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Nếu một bên bị nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên kia thì trường hợp này sẽ xác định giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối theo quy định tại điều 132 BLDS.
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa:
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của 1 bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hay nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Do đó thể hiện không đúng ý chí của mình. Để xác định được yếu tố lừa dối trong giao dịch dân sự phải căn cứ vào 2 điều kiện: 1 bên có hành vi sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và người bị lừa phải nghe theo, làm theo một việc nào đó làm thiệt hại đến lợi ích của họ.
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ 3 làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình (Điều 132 BLDS). Như vậy, hành vi đe dọa là sự cố ý của một bên làm cho đối tác hay người tham gia giao dịch với họ khiếp sợ đến mức họ phải thiết lập giao dịch mà không theo ý muốn chủ quan của họ. Khi giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối, đe dọa thì bên bị lừa dối, đe dọa có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình: loại giao dịch này áp dụng cho những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Dù vậy không phải lúc nào họ cũng có thể nhận thức và làm chủ hành vi của mình được như rơi vào tình trang say rượu, bia…Cho nên nếu họ xác lập giao dịch dân sự vào thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì họ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: Hình thức của giao dịch dân sự được xác định là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp pháp luật quy định. Cho nên đối với các giao dịch pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức nhất định mà các bên không thông qua hình thức này thì tòa án hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ấn định 1 thời hạn để các bên hoàn thành các thủ tục về hình thức, quá thời hạn này mà các bên không thực hiện thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Theo cách phân loại truyền thống thì giao dịch vô hiệu được chia làm 2 loại giao dịch vô hiệu tuyệt đối (hay còn gọi là vô hiệu đương nhiên) và giao dịch vô hiệu tương đối (còn gọi là vô hiệu bị tuyên). Đây là cách phân loại khá phổ biến và được nhiều người thừa nhận hiện này. Cơ sở của cách phân loại này dựa vào một số đặc điểm khác biệt chung thể hiện bản chất của 2 khái niệm, ngoài ra cách phân loại này cũng thể hiện được các trướng hợp cụ thể được quy định trong pháp luật. Phân biệt 2 khái niệm này dựa vào các điểm sau:
Đặc điểm
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
Trình tự vô hiệu của giao dịch
Mặc nhiên được coi là vô hiệu.
Không mặc nhiên vô hiệu
Chỉ vô hiệu khi hội đủ những điều kiện nhất định:
+ Đơn yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.
+ Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Thời hạn yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu
_Không bị hạn chế
_2 năm kể từ ngày giao dịch dược xác lập đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định bắt buộc về hình thức (vì hiệu lực của giao dịch phụ thuộc vào ý chí của chủ thể mà không phải nhà nước.)
2 năm từ ngày giao dịch dân sự được xác lập (Điều 136 BLDS 2005).
Hiệu lực pháp lý của giao dịch
Không có hiệu lực pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dich ngay cả khi các chủ thể đã tiến hành thực hiện các nội dung đã cam kết.
Có hiệu lực pháp lý cho đến khi bị tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Bản chất quyết định của Tòa án
Quyết định của tòa án không mang tính phán xử mà đơn thuần chỉ là hình thức công nhận sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Ngoài ra, quyết định của tòa án nhằm xác định hậu quả pháp lý và mang tính cưỡng chế buộc các bên vi phạm phải thực hiệu hậu quả của giao dịch vô hiệu.
Mang tính chất phán xử, là cơ sở duy nhất khiến cho giao dịch dân sự trở nên vô hiệu.
1.4. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Nhìn vào cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu ta thấy thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự có 2 trường hợp (Điều 136 BLDS)
Các giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối). Đó là giao dịch dân sự thuộc các trường hợp: vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo.
Các giao dịch dân sự có thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch gồm có :
+ Giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do bị nhầm lẫn.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do bị lừa dối, đe dọa
+ Giao dịch dân sự do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
+ Giao dịch dân sự được xác lập do không tuân thủ quy định về hình thức. Trong BLDS 1995, giao dịch này được xếp vào giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và có thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là không bị giới hạn thì hiện nay, theo BLDS 2005, dù giao dịch dân sự vi phạm quy định về hình thức vẫn được coi là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối nhưng thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu lại là 2 năm như các giao dịch thuộc giao dịch dân sự tương đối.
Nhìn chung quy định về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu như hiện nay là hợp lý, thống nhất với các quy định về thời hiệu, thời hạn trong các ngành luật liên quan khác.
Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Sau khi 1 giao dịch dân sự vô hiệu sẽ phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định do pháp luật quy định. Tuy nhiên trên thực tế, việc xác định hậu quả pháp lý của một giao dịch dân sự vô hiệu cần căn cứ vào nhiều yếu tố như mức độ vi phạm, mức độ lỗi…để có thể bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia giao dịch.
Về nguyên tắc, theo Điều 137 BLDS thì “Giao dịch dân sự không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”, tức là mục đích, mong muốn, nguyện vọng ban đầu của các bên khi xác lập giao dịch không thể đạt được. Có thể coi đây là hậu quả pháp lý chung nhất, khái quát nhất của giao dịch dân sự vô hiệu. Về cụ thể, các chủ thể phải chịu các hậu quả pháp lý trực tiếp phát sinh từ giao dịch dân sự vô hiệu là :
Thứ nhất, hậu quả pháp lý phát sinh: “các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Trong trường hợp các bên chưa thực hiện giao dịch thì không được tiếp tục thực hiện, nếu giao dịch được thực hiện đến đâu thì dừng đến đó. Theo quy định trên, các chủ thể phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Ví dụ A bán cho B một chiếc máy tính laptop nhưng A lại nói dối B là mới mua và sử dụng máy được 5 tháng nhưng thực chất là A dùng laptop hơn 1 năm rồi mới bán cho B. Giao dịch dân sự giữa A và B là giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm quy định về sự tự nguyện giữa các bên. Hậu quả pháp lý phát sinh từ giao dịch này là việc B phải hoàn trả tiền đã thanh toán cho A và A phải trả lại tài sản là chiếc máy tính laptop cho B.
Tuy nhiên cần lưu ý là các bên hoàn trả cho nhau hiện vật chỉ trong trường hợp hiện vật chưa hề được đưa vào sử dụng, cải tạo, thay đổi…Có trường hợp, tài sản là đối tượng của giao dịch không còn nữa (bị tiêu hủy, mất, hết…) thì pháp luật quy định phải hoàn trả bằng tiền.
Thứ hai, đối với hậu quả pháp lý của những trường hợp đối tượng giao dịch là tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu theo quy định của pháp luật: “trường hợp tài sản giao dịch, hoa lơi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật”. Hiện nay đang có 1 số ý kiến cho rằng nên bỏ quy định tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức khi giao dịch dân sự vô hiệu. Bởi tính khả thi thực tế của quy định này rất thấp đặc biệt đối với trường hợp giao dịch vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa. Thông thường, chỉ khi hành vi vi phạm cấu thành bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc tịch thu mới được đặt ra. Thực tế cả 2 bên chỉ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được.
Hơn nữa đối với giao dịch dân sự vô hiệu không cần tịch thu thì quyền lợi của bên bị vi phạm đã được đáp ứng do được hoàn trả tài sản và bồi thường thiệt hại. Còn người vi phạm, tùy theo mức độ có thể bị xử lý bởi chế tài của các ngành luật khác nhau và lúc đó biện pháp tịch thu có thể được áp dụng.
Thứ ba, về hậu quả phải bồi thường thiệt hại: trong vấn đề này, trước hết phải xác định được mức độ thiệt hại của các bên tham gia giao dịch, từ đó mới phát sinh hậu quả bồi thường. Để đưa ra hướng xử lý cụ thể và xác đáng, cần xác định một cách rõ ràng lỗi của các bên làm cho giao dịch dân sự bị vô hiệu.
Ví dụ trong một giao dịch mua bán bình cổ giữa các cá nhân với nhau được xác định là giao dịch vô hiệu, cần xác định lỗi của cả 2 bên. Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng rằng cái bình cổ đó có từ thế kỷ 13 nhưng thực chất nó xuất hiện từ thế kỷ 15. Thông tin này từ người bán là hoàn toàn sai sự thật nhằm làm cho người mua tin theo và giao kết hợp đồng mua bán. Bên mua được coi là có lỗi khi nói dối bên bán về mục đích thực hiện hoạt động mua bán của mình nhưng thực chất lại không phải như vậy.
Thứ tư, hậu quả pháp lý phát sinh đối với người thứ 3 ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu:
Khi giao dịch dân sự vô hiệu, ngoài việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao dịch còn phải đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích công cộng và các chủ thể khác. Ở đây, xét trường hợp người thứ 3 ngay tình có liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu, pháp luật cần phải có những quy định bảo vệ quyền lợi của họ (Điều 138 BLDS 2005):
Đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu có tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ 3 ngay tình thì giao dịch với người thứ 3 vẫn có hiệu lực trừ trường hợp quy định tại Điều 257 BLDS 2005 về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình.
Đối với trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng 1 giao dịch khác cho người thứ 3 ngay tình thì giao dịch với người thứ 3 bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ 3 ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Ví dụ: ông A được Tòa án phân chia di sản thừa kế của bố mẹ ông là 200.000.000 đồng và 1 ngôi nhà theo quy định thừa kế theo pháp luật. Ông A đã bán lại cho ông B ngôi nhà trên. 1 năm sau, người đồng thừa kế với ông A tìm được bản di chúc thất lạc của bố mẹ ông và làm đơn khởi kiện, yêu cầu tòa án chia lại di sản theo bản di chúc hợp pháp trên. Quyết định trên của tòa án được hủy bỏ. Theo bản di chúc, ông A chỉ được nhận số tiền 200.000.000 đồng chứ không có ngôi nhà. Tuy nhiên căn cứ vào quy định trên trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình, giao dịch với ông A và ông B không bị coi là vô hiệu cho nên ông B không phải hoàn trả tài sản với ông A.
III. Một số tồn tại trong quy định về giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và phương hướng giải quyết:
1. Các vấn đề liên quan đến điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là cơ sở cho việc hình thành các quy định của giao dịch dân sự vô hiệu cho nên giải quyết 1 số tồn tại, hạn chế trong vấn đề này sẽ giúp hoàn thiện các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu.
1.1.Điều kiện về năng lực chủ thể:
Theo Khỏan 1 Điều 130 BLDS 2005 quy định “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu thưo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập,thực hiện”
Việc cá nhân không đủ năng lực chủ thể bao gồm nhiều trường hợp khác nhau như người không có năng lực hành vi dân sư (chưa đủ 6 tuổi), người có năng lực hành vi dân sự 1 phần (từ đủ 6 tuổi đến 18 tuổi), người mất năng lực hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Giữa chúng có những sự khác biệt rất cơ bản bởi vậy việc quy định những trường hợp đó vào chung 1 điều luật là không hợp lý.
Có thể phân biệt các trường hợp cá nhân không đủ năng lực chủ thể tham gia vào các giao dịch dân sự gồm 2 nhóm:
+ Những người không đủ năng lực hành vi dân sự và những người bị mất năng lực hành vi dân sự: những cá nhân này không được phép xác lập các giao dịch dân sự (Điều 21; 22 BLDS). Mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của những người này mà phải do người đại diện xác lập, thực hiện. Những người này không thể trở thành 1 bên chủ thể của giao dịch dân sự được. Chính vì vậy mà giao dịch do những người này xác lập thực hiện đều bị coi là vô hiệu tuyệt đối. Bởi nếu coi chúng là vô hiệu tương đối thì sẽ dẫn đến việc tồn tại những trường họp giao dịch do những người đó xác lập vẫn có hiệu lực. Như vậy là trái với tinh thần của Điều 21; 22 BLDS.
+ Những người có năng lực hành vi dân sự một phần và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự : có thể quy định đây là những trường hợp thuộc giao dịch dân sự vô hiệu tương đối. Theo quy định tại điều 20 và Khoản 2 điều 23 thì những người này vẫn được phép xác lập các giao dịch dân sự nhưng phải có sự đồng ý và chịu sự giám sát của người đại diện. Khi những người này tham gia giao dịch dân sự mà người đại diện không đồng ý thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
1.2. Vấn đề năng lực chủ thể của pháp nhân:
Khi quy định các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về chủ thể thì BLDS chỉ đề cập đến trường hợp chủ thể là cá nhân chứ không hề đề cập đến trường hợp chủ thể là pháp nhân. Vậy các giao dịch do pháp nhân xác lập không phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động được phép của mình thì có được coi là vô hiệu không? Nếu có là vô hiệu tuyệt đối hay tương đối?
Khoản 1 Điều 86 BLDA 2005 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình”. Theo đó, trong giao dịch dân sự, pháp nhân phải xác lập, thực hiện sao cho phù hợp với mục đích hoạt động, vượt quá phạm vi hoạt động sẽ bị coi là vô hiệu. Pháp luật dân sự một số nước cũng quy định khá rõ về vấn đề này: “1 hành vi pháp lý không tuân theo những yêu cầu về khả năng của thể nhân, pháp nhân thì có thể bị vô hiệu” (Điều 116 Bộ luật dân sự và Thương mại Thái Lan). Bộ luật dân sự Nga cũng quy định các giao dịch dân sự của pháp nhân vượt ra khỏi phạm vi năng lực của mình đều có thể coi là vô hiệu.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam thì trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do pháp nhân xác lập vượt quá mục đích và phạm vi hoạt động của mình được suy diễn là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối. Thực tế, trong các Pháp lệnh hợp đồng kinh tế cho thấy rằng các hợp đồng kinh tế của pháp nhân xác lập nếu vượt quá mục đích và phạm vi hoạt động thì đương nhiên bị vô hiệu, không phụ thuộc vào quyết định của Tòa án cũng như vào việc các bên có yêu cầu hay không.
1.3. Hình thức của giao dịch dân sự:
Ngoài những trường hợp pháp luật quy định về hình thức của giao dịch dân sự bắt buộc đối với các chủ thể tham gia giao dịch, trong các giao dịch khác pháp luật không quy định thì các bên có thể tự thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên tại Điều 134 BLDS 2005 chỉ quy định giao dịch dân sự vô hiệu khi vi phạm các quy định bắt buộc của pháp luật về hình thức mà không có cơ chế giải quyết đối với trường hợp các chủ thể vi phạm thỏa thuận giữa các bên về hình thức giao dịch. Khi có sự vi phạm thỏa thuận về hình thức của các bên tham gia giao dịch thì giao dịch dân sự đó có bị coi là vô hiệu hay không?
Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu thực chất là chế tài pháp lí buộc các chủ thể phải gánh chịu hậu quả khi vi phạm các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do vậy việc tuyên bố giao dịch vô hiệu không được áp dụng trong trường hợp này. Tuy có thể suy diễn được nhưng cần có một điều luật để quy định rõ ràng giải quyết việc vi phạm thỏa thuận về hình thức giữa các bên.
1.4. Quy định về nhầm lẫn:
Những quy định về vấn đề nhầm lẫn – một trong những yếu tố làm nên giao dich dân sự vô hiệu đang xuất hiện khá nhiều bất cập trong cả quy định và thực tiễn áp dụng.
Thứ nhất, không có định nghĩa nhầm lẫn: pháp luật quy định một giao dịch dân sự có thể trở nên vô hiệu do nhầm lẫn nhưng lại không có một khái niệm nhầm lẫn rõ ràng dẫn đến tình trạng áp dụng quy định pháp luật về vấn đề này một cách tùy tiện.
Thứ hai, thiếu nguyên nhân gây nhầm lẫn: trong khi luật chỉ dự liệu 2 nguyên nhân gây nhầm lẫn là do lỗi vô ý của bên đối tác và lỗi cố ý thì thực tế lại xảy ra trường hợp một bên bị nhầm lẫn mà bên kia hoàn toàn không có lỗi, hay có trường hợp nhầm lẫn không phải do lỗi của bên đối tác mà do lỗi của chính người bị nhầm lẫn…Nhằm giải quyết lỗ hổng này, nhiều chuyên gia kiến nghị không nên giới hạn nguyên nhân nhầm lẫn bằng 2 cách mà chỉ quy định bất kỳ giao dịch nào xuất hiện sự nhầm lẫn đều vô hiệu hoặc thêm 1 nguyên nhân nữa là “ cả 2 cùng nhầm lẫn”. Có lẽ nên quy định như đề xuất thứ nhất là hợp lý hơn cả.
1.5. Thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 136 BLDS 2005 thì thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là 2 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Thời hiệu trên được đánh giá là hợp lý, phù hợp với nhiều quy định về thời hiệu trong các ngành luật liên quan nhưng có vẻ chưa đảm bảo được quyền khởi kiện chính đáng của người bị xâm hại vì cái mốc thời gian “ kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập”.
Rất ít nước lấy thời điểm trên như Việt Nam để tính thời hiệu. Ví dụ pháp luật của Pháp quy định thời hiệu khởi kiện là 5 năm kể từ ngày chấm dứt đe dọa, từ ngày phát hiện nhầm lẫn hay lừa dối. Đối với Hà Lan, thời hiệu là 3 năm kể từ ngày chấm dứt đe dọa, phát hiện lừa dối hay nhầm lẫn…Do vậy để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm trong giao dịch, thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cần có sự điều chỉnh lại về mặt xác định mốc thời gian bắt đầu tính khoảng thời gian 2 năm.
2. Vấn đề có liên quan đến hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Về hậu quả các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận: trên thực tế việc hoàn trả này không thật sự đảm bảo lợi ích của các chủ thể đặc biệt là trong các giao dịch có đối tượng là nhà, quyền sử dụng đất. Khi các giao dịch có đối tượng như trên bị vô hiệu, bên mua sẽ trả nhà hoặc đất cho bên bán còn bên bán sẽ trả tiền cho bên mua. Một điều dễ dàng nhân ra trong việc hoàn trả này đó chính là sự chênh lệch số lượng tài sản. Lúc này tài sản 2 bên thường không còn có giá trị ngang nhau như lúc mới giao dịch nữa. Thông thường bên mua khi phải hoàn trả lại nhà hoặc đất thường chịu thiệt thòi hơn vì có thể với số tiền được hoàn lại đó, họ không thể mua được một mảnh đất hay ngôi nhà như thế nữa.
Sau 1 thời gian sau khi giao dịch dân sự được thiết lập, thường thì các đối tượng của giao dịch đã bị sửa đổi, cải tạo, không còn nguyên vẹn. Trong những trường hợp như thế này mà giao dịch dân sự bị vô hiệu sẽ rất khó xử lý trong việc hoàn trả tài sản.Về vấn đề này pháp luật cũng chưa quy định rõ.
Về hậu quả hoàn trả bằng tiền nếu không hoàn trả được bằng hiện vật: hiện nay, pháp luật cũng chưa quy định việc hoàn trả bằng tiền được tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm hoàn trả hay tính theo giá trị của tài sản tại thời điểm các bên xác lập giao dịch. Vấn đề này rất quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích các bên đặc biệt là đối với các giao dịch có đối tượng thường xuyên thay đổi về giá cả.
KẾT LUẬN
Giao dịch dân sự là phương tiện pháp lý quan trọng để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia giao dịch. Tuy nhiên việc xây dựng và thỏa mãn các quyền và lợi ích của các bên giao dịch phải dựa trên điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Nếu vi phạm vào các điều kiện này, giao dịch dân sự đó sẽ bị vô hiệu và các chủ thể tham gia giao dịch sẽ phải chịu hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Việc xây dựng các quy định về giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của nó có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm lợi ích các chủ thể, dựng nên một hành lang pháp lý tạo ra tính ổn định cho giao dịch dân sự nói chung và giao lưu dân sự nói riêng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (21trang).doc