Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình

Một số kết luận chung sau khi nghiên cứu đề tài niên luận luật học : “Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình” : 1. Giới hạn xét xử là chế định pháp lí quan trọng có liên quan đến nhiều chế định khác của luật tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm vi mà hội đồng xét xử được phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn chế bởi phạm vi những người và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chính giới hạn xét xử này là yếu tố bảo đảm cho tòa án luôn là tòa án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là cơ quan thực hiện chức năng buộc tội. Mặt khác chế định này còn đảm bảo được nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, tòa án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. 2 .Việc nghiên cứu giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm như : phạm vi những người, những hành vi mà Tòa án có thẩm quyền xét xử; bảo đảm pháp chế XHCN và nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có ý nghĩa quan trọng nâng cao chất lượng xét xử trong phiên tòa sơ thẩm để áp dụng chúng trong thực tiễn xét xử giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. 3. Giới hạn xét xử vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS 2003, nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của BLTTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý cho giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên chúng còn tồn tại những mâu thuẫn với những quy định hiện hành của pháp luật TTHS làm ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng. 4. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới cho thấy theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở TAND thành phố Đồng Hới thì không có bị cáo nào tại phiên toà sơ thẩm bị Toà án xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKSND thành phố Đồng Hới truy tố. Nhưng theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự thì vẫn có tỷ lệ cao số bị cáo được xét xử phúc thẩm bị sửa án theo tội danh nặng hơn so với bản án sơ thẩm. Quy định giới hạn xét xử trong phiên tòa sơ thẩm đã không cho phép Tòa án được xử bị cáo với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, chỉ được phép xét xử bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS truy tố, quy định này đã làm cho Tòa án xử không để lọt người nhưng lại không đúng tội. 5. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm xuất phát từ : Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi của nhân dân bảo vệ quyền tự do, dân chủ và những mục tiêu, quan điểm, định hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo những yêu cầu và các phương hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng. 6. Sự cần thiết và quan điểm cơ bản nêu trên sẽ là tiền đề quan trọng cho phương hướng thiết lập các kiến giải về lập pháp, áp dụng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm. 7. Trong phạm vi niên luận “Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình”, niên luận đã góp phần vào việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm, góp phần hoàn thiện quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử vụ án hình sự, nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử của phiên tòa sơ thẩm. Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiến, tác giả hi vọng rằng các kết quả rút ra từ niên luận sẽ đóng góp một phần vào việc hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phấn đấu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

doc33 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4444 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên giải thích theo nghĩa của danh từ “Giới hạn” là : “phạm vi được quy định, không thể vượt qua”. Xét xử là chức năng của Toà án. Đây là hoạt động do tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó tòa án, sau khi nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án, tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định cần thiết có liên quan. - Về đối tượng xét xử: là những bị cáo, những hành vi theo tội danh thuộc phạm vi mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. - Về phạm vi xét xử : Phạm vi xét xử của hội đồng xét trong phiên toà sơ thẩm được quy định đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử, ngoài ra cùng một điều luật về một tội danh, Toà án có thể xử theo khoản khác nặng hơn hoặc nhẹ hơn khoản mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án cũng có thể xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy, phạm vi xét xử sơ thẩm là những khoản trong một điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm được phép xét xử. - Về mục đích của giới hạn xét xử: ngoài mục đích đảm bảo được chức năng của toà án là xét xử, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa thì theo quy định về giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố; toà án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố, như vậy trong trường hợp này toà án không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, đây là những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Và, có thể đưa ra khái niệm khoa học: Giới hạn của việc xét xử là phạm vi những khoản trong một điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm được phép xét xử đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền bào chữa của bị can, bị cáo. 1.2. Những nguyên tắc áp dụng quy đinh giới hạn xét xử vụ án hình sự 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế là việc thường xuyên nhất quán tuân thủ và chấp hành những quy định của Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản pháp luật khác phù hợp với Hiến pháp, các đạo luật từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, mọi công dân. Nội dung của nguyên tắc này được quy định trong Điều 12 Hiến pháp 1992. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện bằng quy phạm “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải theo quy định của bộ luật này”(Điều 2 BLTTHS).Theo đó, hoạt động xét xử vự án hình sự ở giai đoạn sơ thẩm phải theo quy định của BLTTHS. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện trong vấn đề giới hạn xét xử vụ án hình sự thông qua nội dung sau đây: Trong tố tụng hình sự nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa biểu hiện ở chỗ cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án, những người tiến hành và tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTHS. Theo quy định của Hiến pháp, luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 và luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất còn toà án có chức năng xét xử. Nhiệm vụ của toà án và viện kiểm sát vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Ngoài nhiệm vụ chung là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dâm thì điều 2 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002 còn quy định viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước; của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải xử lí theo pháp luật. Thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, sau khi nhận được bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố của cơ quan điều tra, viện kiểm sát xem xét và quyết định truy tố bị can. Tại phiên toà, viện kiểm sát giữ quyền công tố, thực hiện việc buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo nội dung của quyết định truy tố hoặc có thể rút toàn bộ quyết định truy tố. Nhưng viện kiểm sát không có quyền quyết định về tội phạm và hình phạt của bị cáo. Quyết định nhũng vấn đề này thuộc về toà án theo đúng nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật ” (Điều 9 BLTTHS). Thực hiện chức năng của mình, toà án xét xử các bị cáo trong phạm vi quyết định truy tố của viện kiểm sát. Như vậy giới hạn xét xử là mối quan hệ giữa viện kiểm sát - cơ quan nhân danh Nhà nước truy tố bị cáo ra trước toà, thực hành quyền công tố và toà án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử, đây là mối quan hệ chế ước cần thiết trong tố tụng hình sự để tránh việc lạm quyền và bảo đảm cho tố tụng đạt hiệu quả. Tóm lại việc tuân thủ quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự chính là hoạt động đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. 1.2.2. Nguyên tắc dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động đặc thù của nhà nước mang bản chấp giai cấp và bản chất xã hội của Nhà nước. Bởi vì hoạt động này được tiến hành vì lợi ích giai cấp cầm quyền và lợi ích chung của xã hội. Xuất phát từ bản chất Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên các hoạt động tố tụng hình sự phải tuân theo nguyên tắc dân chủ, nhân đạo XHCN. Tù đó, quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự cũng phải xuất phát từ lợi ích của con người chứ không thể vì lợi ích của nhà nước. Là những nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc dân chủ và nhân đạo đòi hỏi pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử phải thể hiện và bảo vệ được những giá trị xã hội với nội dung sau đây : Theo quy định về giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố; toà án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố...Với quy định như vậy giới hạn xét xử đã quy định theo hướng có lợi cho bị cáo, khiến cho việc xét xử của hội đồng xét xử sơ thẩm không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Do đó có thể nói quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự cũng xuất phát từ lợi ích con người chứ không thể vì lợi ích của nhà nước, luôn luôn bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của tố tụng hình sự, là hình thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm bảo đảm quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nơi riêng. Để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh thì yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, trước hết là phải bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, trong đó không thể không kể đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận trong điều 132 Hiến pháp 1992, điều 11 BLTTHS, điều 9 Luật tổ chức toà án nhân dân 2002, thể hiện quan điểm mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người của Đảng và Nhà nước ta. Nguyên tắc này bảo đảm cho bị can, bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa trước việc buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện nguyên tắc này, bị can, bị cáo, và người bào chữa của họ có quyền đưa ra các chứng cứ và những yêu cần để chứng minh cho sự vô tội hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Còn nghĩa vụ chứng minh tội phạm luôn luôn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Chính quá trình chứng minh này là quá trình tìm ra chân lí của vụ án để trên cơ sở đó xử lí người phạm tội. Những chân lí của vụ án chỉ có thể được xác định khi quá trình chứng minh có xem xét đánh giá mọi tình tiết, mọi ý kiến khác nhau bao gồm cả quan điểm buộc tội và ý kiến bào chữa. Nếu chỉ thiên về hướng buộc tội, không chú ý đến ý kiến bào chữa thì việc giải quyết vụ án đó phiến diện không khách quan. Trong quá trình giải quyết vụ án nếu toà án xét xử cả người chưa bị truy tố hoặc xét xử cả hành vi của bị cáo theo tội danh chưa bị truy tố thì toà án đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, tước đi quyền bào chữa của bị cáo, không cho họ có sự chuẩn bị ý kiến bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Trong trường hợp này toà án xét xử không có sự tranh luận giữa bên buộc tội và bào chữa nên không thể có cơ sở để xác định đúng sự thật khách quan của vụ án. Theo quy định về giới hạn của việc xét xử trong BLTTHS thì toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố; toà án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. Toà án không được xét xử theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà viện kiểm sát truy tố, như vậy trong trường hợp này toà án không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo, đây là những quy định có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Mặt khác thực hiện quy định trên đây, nếu tại phiên toà mà phát hiện tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì toà án ra quết định khởi tố vụ án đối với người mới, tội mới. Việc toà án ra quyết định khởi tố vụ án đối với người mới, tội mới chỉ là sự xác định cụ thể người nào có hành vi phạm tội và cũng không xét xử người đó nên không vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bi cáo. Điều 196 BLTTHS 2003 quy định Toà án chỉ được phép xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Viện kiểm sát truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng, theo đoạn 3, khoản 1, điều 166, BLTTHS 2003 quy định trong mọi trường hợp, Viện kiểm sát đều phải giao cáo trạng cho bị can trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra cáo trạng, ở đây bản cáo trạng giúp định hướng cho hoạt động bào chữa, bên bào chữa chỉ có thể bào chữa khi biết nội dung cụ thể của sự buộc tội. Ngoài ra theo khoản 1 điều 182, BLTTHS 2003 thì quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà, quy định này cáo ý nghĩa giúp bị cáo và người tham gia tố tụng có điều kiện thực hiện các quyền của mình như : đưa ra yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng ...sau khi nhận được quyết định đó. Với những ý nghĩa như trên, do đó khi quy định giới hạn của việc xét xử luôn luôn xem xét đến mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo nếu không như vậy sẽ cho phép toà án được xét xử cả người, cả hành vi chưa bị viện kiểm sát truy tố, kết quả là biến toà án thành cơ quan vừa xét xử vừa buộc tội. Điều này trái với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Kết luận Sau khi nghiên cứu từ (4) vấn đề: a) khái niệm giới hạn xét xử; b) đối tượng xét xử của phiên toà sơ thẩm; c) phạm vi xét xử của phiên toà sơ thẩm; d) mục đích của giới hạn xét xử. Có thể đưa ra khái niệm khoa học: Giới hạn của việc xét xử là phạm vi những khoản trong một điều luật, những tội danh, mà hội đồng xét xử sơ thẩm được phép xét xử đối với những người, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử nhằm bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Những nguyên tắc áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự bao gồm nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. CHƯƠNG II NHỮNG QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Những quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về giới hạn xét xử vụ án hình sự Khi xét xử vụ án hình sự, hội đồng xét xử phải căn cứ vào bản cáo trạng của Viện kiểm sát để xem xét, giải quyết vụ án về nội dung. Hội đồng xét xử không giải quyết những vấn đề mà Viện kiểm sát chưa đề cập trong bản cáo trạng. Quy định có tính nguyên tắc này thể hiện rõ trong Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong BLTTHS 1988, khi nói về giới hạn xét xử có quy định tại điều 170 Giới hạn của việc xét xử: “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử.” Như vậy, theo quy định trên thì việc xét xử của Toà án được hạn chế bởi 3 yếu tố là: Toà án chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố; Toà án chỉ xét theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Đồng thời theo quy định của Điều 170 BLTTHS 1988 thì Toà án chỉ được xét xử một vụ án đối với một con người cụ thể khi có đủ các căn cứ sau: Thứ nhất, người mà Toà án xét xử phải là người bị Viện kiểm sát truy tố bằng một bản cáo trạng. Trường hợp trong vụ án có đồng phạm vì lý do nào đó mà một hoặc một số đồng phạm chưa bị truy tố thì Toà án cũng không có quyền xét xử đối với kẻ đồng phạm đó. Nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, thì Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự (Điều 105, BLTTHS1988) Thứ hai, Toà án chỉ được xét xử những hành vi của bị cáo mà đã bị Viện kiểm sát truy tố. Còn những hành vi chưa bị Viện kiểm sát truy tố thì Toà án không được xét xử. Hành vi phạm tội bị truy tố (bao gồm số lượng và tính chất của hành vi) không phải là hành vi chung chung mà là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy hành vi của bị cáo bị truy tố là những hành vi được quy định thành những tội danh cụ thể của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng. Cáo trạng là một trong bốn quyết định của Viện kiểm sát sau khi kết thúc điều tra. Bản chất của bản cáo trạng là văn bản tố tụng hình sự, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về tội trạng của bị can. Thứ ba, Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là một trong bốn quyết định của Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà, sau thời gian nghiên cứu hồ sơ do pháp luật quy định. Việc quyết đưa vụ án ra xét xử không có nghĩa là Toà án (Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử) đồng nhất quan điểm với Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát đã viện dẫn trong cáo trạng. Trong trường hợp Toà án thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, hay Toà án thấy cần áp dụng khung hình phạt khác (nặng hơn hoặc nhẹ hơn) khung hình phạt theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì theo hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao : “ Nếu xét thấy cần xét xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, hoặc áp dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã đề nghị, thì Tòa án không phải báo trước cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng ”. Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao còn hướng dẫn : “Toà án có quyền áp dụng khoản của điều luật có khung hình phạt nặng hơn khoản của điều luật mà Viện kiểm sát viện dẫn”. Với những hướng dẫn trên thì Toà án có toàn quyền độc lập quyết định khung hình phạt (nặng hơn hoặc nhẹ hơn), chuyển tội danh khác (bằng hoặc nhẹ hơn) tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nếu Viện kiểm sát không thống nhất với quyết định của Toà án thì có quyền kháng nghị phúc thẩm. Còn việc giải quyết sự không thống nhất trong trường hợp Toà án cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn chưa được hướng dẫn triệt để; Tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS, có quy định : “Trước khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần phải truy tố thêm người, thêm tội hoặc cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung và thay đổi cáo trạng. Trường hợp qua xét xử tại phiên tòa mới phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án ra quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Trong trường hợp Tòa án đề nghị Viện kiểm sát đổi tội danh nặng hơn và đã trao đổi mà Viện kiểm sá tkhông nhất trí, thì cả hai bên đều phải báo cáo ngay với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên cần trao đổi ngay để nếu thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu vẫn không thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố ”. Trường hợp hai cơ quan Toà án và Viện kiểm sát bất đồng ý kiến về đổi tội danh nặng hơn thì cơ bản được giải quyết thông qua sự thương lượng giữa lãnh đạo của hai cơ quan đang thụ lí vụ án hoặc lãnh đạo của cơ quan cấp trên, ở đây đã có sự lẫn lộn giữa quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng, dẫn đến việc giải quyết vụ án không trên cơ sở pháp lý và điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của tố tụng hình sự. Mặt khác theo hướng dẫn của thông tư liên nghành thì nếu Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên không thống nhất ý kiến thì toà án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là Toà án không được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, chính quy định này đã làm ảnh hưởng đến nguyên tắc xét xử độc lập của Toà án. Vì độc lập xét xử của Toà án là căn cứ vào quy định của pháp luật, vào các tài liệu, chứng cứ và các tình tiết của vụ án, có quyền quyết định một cách độc lập về tội danh và lượng hình phạt. Điều 196 BLTTHS 2003 quy định Giới hạn của việc xét xử : “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.” So sánh điều 170 cũ và điều 196 mới thấy cả hai điều luật đều xác định Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi do Viện kiểm sát truy tố vì Viện kiểm sát có truy tố thì Toà án mới xét xử được. Vụ án chưa được điều tra, chưa được truy tố thì Toà án chưa được xét xử. Đó là sự phân định về trách nhiệm và quyền hạn của ba cơ quan, cơ quan Điều tra, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Toà án trong tổ chức tư pháp. Toà án là cơ quan xét xử nên có quyết định cuối cùng đối với việc xử lý vụ án. Điều 196 đã quy định cụ thể hơn về quyền của Toà án, tức là : * HĐXX được xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh bằng hoặc nhẹ hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, về vấn đề này thì nghị quyết 04/2004/NQ - HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có quy định: - Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. a. Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với hai tội phạm như nhau. Ví dụ: Bị cáo B bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý”, thì Toà án có thể xét xử bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. b. Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sátđã truy tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố. Để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn thì cần thực hiện theo thứ tự như sau: b.1. Trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn. Ví dụ: Đối với tội cố ý gây thương tích (Điều 104 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất là tù chung thân, còn đối với tội giết người (Điều 93 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất là tử hình; do đó, tội giết người nặng hơn tội cố ý gây thương tích. b.2. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn. Ví dụ: Đối với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất là mười lăm năm, còn đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất là mười hai năm; do đó, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ nặng hơn tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. b.3. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn. Ví dụ: Đối với tội hiếp dâm (Điều 111 của Bộ luật hình sự) và đối với tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 của Bộ luật hình sự), điều luật đều quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn có mức cao nhất là hai mươi năm, nhưng mức hình phạt tù khởi điểm đối với tội hiếp dâm là hai năm, còn đối với tội hiếp dâm trẻ em là bảy năm; do đó, tội hiếp dâm trẻ em nặng hơn tội hiếp dâm. b.4. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn. Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II của Nghị quyết này. b.5. Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung bắt buộc là tội đó nặng hơn. * HĐXX có thể xét xử theo khung khép ( khung nặng hơn hoặc khung nhẹ hơn, trong một điều luật nói chung thường có nhiều khoản còn có thể gọi là khung hình phạt nếu đó là điều luật quy định các tội phạm cụ thể trong bộ luật hình sự) nhưng phải cùng một tội danh mà Viện kiểm sátđã truy tố, tại nghị quyết 04/2004/NQ - HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có quy định: - Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo A về năm hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 139 của Bộ luật hình sự. Theo quy định tại đoạn 2 Điều 196 của BLTTHS thì Toà án có thể xét xử bị cáo A về năm hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản này theo khoản 1 hoặc theo khoản 3 hoặc cũng có thể theo khoản 4 Điều 139 của Bộ luật hình sự. Khi Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội, thì giới hạn của việc xét xử đối với từng tội được thực hiện theo hướng dẫn như hướng dẫn trên. Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sáttruy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó. Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo M về năm hành vi phạm tội, trong đó hai hành vi phạm tội bị truy tố về tội cướp tài sản, còn ba hành vi phạm tội bị truy tố về tội cướp giật tài sản, thì Toà án có thể xét xử bị cáo M về tội cướp giật tài sản đối với cả năm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố (tội cướp giật tài sản nhẹ hơn tội cướp tài sản). Toà án cũng có thể xét xử bị cáo M về tội cưỡng đoạt tài sản đối với cả năm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố (tội cưỡng đoạt tài sản nhẹ hơn tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản) Khi thực hiện các trường hợp được hướng dẫn trên cần thi hành đúng các quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Theo quy định của điều 196 BLTTHS 2003 và nghị quyết 04/2004 thì HĐXX chỉ xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, HĐXX vẫn không được xử theo một tội danh khác nặng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Quy định này đã làm mất đi tính độc lập của HĐXX, hạn chế quyền của Toà án và Viện kiểm sát đã quyết định tội danh thay cho quyết định của Toà án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nếu Toà án đã phát hiện ra hành vi của bị cáo phải được xét xử về tội nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, song Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố, thì như theo quy định trên của BLTTHS thì Toà án vẫn phải đưa ra xét xử và phải tuyên án theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố mặc dù biết là không đúng. Quy định trên trái với nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này cho phép toà án xét xử độc lập mà không bị lệ thuộc, chi phối theo ý kiến hoặc quyết định của bất kì cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào. Để quyết định áp dụng hình phạt, Toà án không chỉ đơn thuần căn cứ vào tội danh đã nêu trong bản cáo trạng mà qua việc xét xử, Toà án phải trực tiếp xem xét đánh giá toàn bộ các chứng cứ của vụ án để xác định cho đúng tội danh mà bị cáo đã thực hiện. Trên cơ sở đó mới áp dụng hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Như vậy, tội danh do HĐXX xác định cũng có thể trùng với tội danh nêu trong bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng cũng có thể khác theo hướng nhẹ hơn hoặc nặng hơn. Do đó quy định HĐXX không được xử theo một tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố là làm mất đi tính độc lập trong xét xử của Toà án. Mặt khác với quy định của Điều 196 BLTTHS về việc Toà án chỉ xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố là bất hợp lý, vì quy định này trái với nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà tất cả các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ, trong đó có Viện kiểm sát và Toà án. Quy định giới hạn xét xử không đảm bảo sự thống nhất với các chế định khác của BLTTHS : Quy định về giới hạn xét xử không phù hợp với khoản 3 Điều 249 BLTTHS 2003 “Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn”. Nếu nhìn riêng chỉ một mình quy định của Điều 196 thì có vẻ như quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm tuyệt đối ; thế nhưng xem xét rộng hơn đến quy định của khoản 3 Điều 249 khi Toà án cấp phúc thẩm được xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà Toà án cấp sơ thẩm xét xử thì không hẳn như vậy. 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự tại địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình từ năm 2005-2009 Những quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm được áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã đạt được những kết quả trong 5 năm từ năm 2005 đến năm 2009 như sau: trong số 1233 bị cáo được VKSND thành phố Đồng Hới truy tố, TAND thành phố Đồng Hới đã xét xử 146 bị cáo với khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt trong cùng một tội danh mà VKSND phố Đồng Hới đã truy tố, chiếm 11,84 %. 692 bị cáo được TA xét xử với tội danh bằng tội danh mà VKS đã truy tố, chiếm 56,12 %. 247 bị cáo được TA xét xử với tội danh nhẹ hơn tội danh VKS đã truy tố, chiếm 20,03%. Còn lại 148 bị cáo được TA xét xử với khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt mà VKS đã truy tố, chiếm 12,00%. Không có bị cáo nào được xét xử với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Bảng thống kê xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự: Năm Số vụ án cấp sơ thẩm đã xét xử. Số vụ án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo tội danh nặng hơn đối với bị cáo. Tỷ lệ (%) so với số vụ án cấp sơ thẩm đã xét xử. Số bị cáo cấp sơ thẩm đã xét xử. Số bị cáo được xét xử phúc thẩm bị sửa bản án theo tội danh nặng hơn so với bản án sơ thẩm. Tỷ lệ (%) so với số bị cáo cấp sơ thẩm đã xét xử. 2005 107 31 28,97 224 67 29,91 2006 112 28 25 236 61 25,84 2007 118 33 27,96 249 64 25,70 2008 124 35 28,22 258 68 26,35 2009 129 30 23,25 266 59 22,18 Như vậy, trong vòng 5 năm, từ năm 2005 đến năm 2009 thực hiện quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự ở phiên toà sơ thẩm, theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở TAND thành phố Đồng Hới thì không có bị cáo nào tại phiên toà sơ thẩm bị Toà án xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKSND thành phố Đồng Hới truy tố. Nhưng theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự thì vẫn có tỷ lệ số bị cáo được xét xử phúc thẩm bị sửa án theo tội danh nặng hơn so với bản án sơ thẩm. Mặc dù số lượng bị cáo được xét xử phúc thẩm bị sửa bản án theo tội danh nặng hơn so với bản án sơ thẩm đã có chiều hướng giảm nhưng vẫn bộc lộ bất cập ở chỗ, tại sao ở phiên toà sơ thẩm không hề có bị cáo nào bị xử với tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố nhưng khi bản án quyết định sơ thẩm của TAND thành phố Đồng Hới được kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm lên TAND tỉnh Quảng Bình thì vẫn có những trường hợp bị cáo được xét xử với tội danh nặng hơn tội danh mà VKSND thành phố Đồng Hới đã truy tố. Chính quy định giới hạn xét xử trong phiên tòa sơ thẩm đã không cho phép TAND thành phố Đồng Hới được xử bị cáo với tội danh nặng hơn tội danh mà VKSND thành phố Đồng Hới truy tố, chỉ được phép xét xử bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS truy tố, quy định này đã làm cho Tòa án xử không để lọt người nhưng lại không đúng tội. Tóm lại, sở dĩ vẫn có bất cập trên, ngoài lý do hạn chế nhất định về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các thành viên HĐXX, còn xuất phát từ lý do chính, là quy định về Giới hạn xét xử vụ án hình sự đối với phiên toà sơ thẩm đã không cho phép toà sơ thẩm được xét xử bị cáo với tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Kết luận Bộ luật TTHS 1988 và bộ luật TTHS 2003 đều quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm, Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Cùng một điều luật về một tội danh, Tòa án có thể xử theo khoản khác nặng hơn hoặc nhẹ hơn với khoản mà Viện kiểm sát truy tố, Tòa án cũng có thể xử theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Điều 196 BLTTHS 2003 cũng không nói đến việc Tòa án có thể định tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, mà Tòa án chỉ được xét xử hành vi theo tội danh mà Viện kiểm soát đã truy tố. Quy định này đã mâu thuẫn đến nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng xét xử của HĐXX. CHƯƠNG III NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn hiện nay Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên toà sơ thẩm là vấn đề mang tính cấp bách. Nó xuất phát từ những yêu cầu, quan điểm cơ bản của Đảng ta theo các định hướng sau: 3.1.1. Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền lên một tầm cao mới có nội dung: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Ở nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động tư pháp là một trong những phương thức thực hiện quyền lực nhà nước thông qua hoạt động xét xử, hoạt động thực hành quyền công tố, hoạt động điều tra và hoạt động thi hành án nên, cơ quan tư pháp không chỉ có Tòa án mà còn bao gồm Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án và những cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án có vai trò quan trọng, là nơi biểu hiện tập trung của quyền lực tư pháp đồng thời là nơi thể hiện nền công lý, sự đối xử bình đẳng, công bằng trong tất cả các mối quan hệ và cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp. Theo đó để phục vụ cho các hoạt động xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, để đảm bảo cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan thì nguyên tắc Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là tiền đề nền tảng của tư pháp trong nhà nước pháp quyền. Sự độc lập xét xử xuất phát tư bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án thực hiện : Đã nhân danh công lý và dựa vào công lý thì thì Tòa án phải xét xử như là một người đứng giữa, trung lập không phụ thuộc vào bên nào, mà quy định HĐXX không được xử theo một tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố là làm mất đi tính độc lập trong xét xử của Toà án. Do vậy, cần thiết xây dựng và hoàn thiện quy định giới hạn xét xử trong phiên toà sơ thẩm theo hướng : Là cơ quan thực hiện quyền công tố Viện kiểm sát chỉ có quyền truy tố ai về những hành vi gì ra trước Toà án, còn hành vi đó cần xử lý như thế nào, tội gì, hình phạt đối với tội ấy ra sao là thẩm quyền độc lập của Toà án. Khi xét xử, HĐXX chỉ được căn cứ vào sự thật khách quan của vụ án đã được xác định ngay tại phiên toà, từ đó dựa vào quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để ra bản án. 3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp Công cuộc cải cách tư pháp đang tiến hành theo tinh thần nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo tinh thần các nghị quyết nêu trên, thì: “Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sơ xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định.” “ Phân biệt rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.” Theo đó, với yêu cầu cải cách tư pháp, cần thiện phải xây dựng và hoàn thiện quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm theo hướng: không quy định bắt buộc Tòa án phải xét xử theo tội danh đã truy tố, cho phép Tòa án trên cơ sở các chứng cứ và tình tiết của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa để quyết định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, phạm tội gì và áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội. 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng qui định về giới hạn xét xử vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng Việt Nam 3.2.1 Giải pháp lập pháp Cần sửa đổi Điều 196 BLTTHS 2003 trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về chức năng, nhiệm vụ của Toà án, Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước. Thứ nhất, nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là thống nhất và được quy định tại Điều 126 Hiến pháp năm 1992 như sau: “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Còn chức năng của hai cơ quan khác hẳn nhau và độc lập với nhau: chức năng của Viện kiểm sát là kểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố Nhà nước trong phạm vi trách nhiệm do pháp luật quy định; chức năng của Toà án nhân dân là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính theo quy định của pháp luật. Do vậy,trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan thực hiện nhiệm vụ của mình một cách độc lập. Viện kiểm sát có quyền truy tố người phạm tội theo tội danh được Bộ luật hình sự quy định nhưng việc xác định người đó có tội hay không có tội, nếu có thì phạm tội gì, được quy định trong điều khoản nào của Bộ luật hình sự thì lại thuộc thẩm quyền của HĐXX vì khi xét xử vụ án, HĐXX phải căn cứ (và chỉ căn cứ) vào kết quả của quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, vào kết quả nghị án để quyết định bản án. Thứ hai, Điều 16 BLTTHS 2003 quy định “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ”. Đây là nguyên tắc cơ bản, đặc trưng của hoạt động xét xử. Điều đó có nghĩa là các phán quyết của HĐXX không chịu bất kì một sự tác động nào từ bên ngoài có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của bản án. Khi xét xử, HĐXX chỉ được căn cứ vào sự thật khách quan của vụ án đã được xác định ngay tại phiên toà, từ đó dựa vào quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để ra bản án. HĐXX hoàn toàn độc lập với yêu cầu hay kết luận của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Vì vậy, nếu kết luận trong bản án của HĐXX có mâu thuẫn với cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố (nếu như kết luận của HĐXX là có căn cứ) thì cũng là một tất yếu khách quan vì đây là kết luận có tính độc lập của HĐXX dựa trên cơ sở của pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. Thứ ba, sự không thống nhất giữa điều 196 và khoản 3 điều 249 sẽ được giải quyết tuyệt đối nếu chúng ta hoàn thiện quy định về giới hạn xét xử theo hướng để cho Toà án toàn quyền quyết định về tội danh và điều khoản áp dụng đối với bị cáo. Từ cơ sở trên, cần sửa đổi quy định tại điều 196 BLTTHS như sau, Điều 196 Giới hạn của việc xét xử “Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa ra xét xử.” Đồng thời sửa đổi Điều 179 BLTTHS theo hướng quy định “trường hợp Toà án có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác nặng hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố ” là một căn cứ để Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát bổ sung. Nếu viện kiểm sát không nhất trí thì vụ án vẫn được đưa ra xét xử và việc quyết định về vụ án phải căn cứ vào hồ sơ và kết quả xét hỏi tại phiên toà; Nếu viện kiểm sát không nhất trí với kết quả xét xử thì kháng nghị lên Toà án cấp trên. Để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ cáo trạng truy tố về tội gì, Toà án xét xử bị cáo về tội gì. Như vậy nếu tại phiên toà qua xét xử mà xác định bị cáo phạm tội nặng hơn tội danh Viện kiểm sát đã truy tố thì các hoạt động tố tụng vẫn tiến hành bình thường và HĐXX có quyền áp dụng tội danh khác nặng hơn để ra bản án. Trường hợp này không áp dụng đối với bị cáo bị xét xử vắng mặt tại phiên toà để đảm bảo quyền bào chữa của họ. Do đó nếu bị cáo vắng mặt tại phiên toà mà có căn cứ để xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố và việc đảm bảo sự có mặt của bị cáo chưa thể thực hiện được ngay lập tức thì trong mọi trường hợp phải hoãn phiên toà để triệu tập bị cáo trừ trường hợp việc triệu tập không thể thực hiện được. 3.2.2 Giải pháp áp dụng pháp luật Việc áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự cần được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách thống nhất, triệt để đảm bảo được xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội và không làm oan người vô tội. Do quy định giới hạn xét xử trong BLTTHS có tính khái quát cao nên muốn áp dụng nó phải có những văn bản giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền. Việc ra các văn bản dạng này trong thực tế lại rất chậm, nhiều khi hướng dẫn vẫn không làm rõ được điều luật, điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả áp dụng pháp luật. Do đó, phương án khắc phục là cần kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn, đảm bảo hướng dẫn được đúng và đầy đủ điều luật tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật. 3.2.3. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung, quy định về giới hạn xét xử nói riêng. Tuyên truyền thông qua hình thức báo đài, giúp người dân biết, hiểu được những quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự nhằm bảo vệ được quyền lợi của mình. 3.2.4. Các giải pháp khác Năng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các thành viên HĐXX nhằm năng cao chất lượng xét xử tại phiên tòa, bảo đảm xét xử đúng người đúng tội. Kết luận Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên toà sơ thẩm xuất phát từ yêu cầu và tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi của nhân dân bảo vệ quyền tự do, dân chủ và những mục tiêu, quan điểm, định hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo những yêu cầu và các phương hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng. Đưa ra một số giải pháp lập pháp, áp dụng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm. C. PHẦN KẾT LUẬN Một số kết luận chung sau khi nghiên cứu đề tài niên luận luật học : “Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình” : 1. Giới hạn xét xử là chế định pháp lí quan trọng có liên quan đến nhiều chế định khác của luật tố tụng hình sự. Giới hạn xét xử là phạm vi mà hội đồng xét xử được phép xét xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn chế bởi phạm vi những người và những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chính giới hạn xét xử này là yếu tố bảo đảm cho tòa án luôn là tòa án - cơ quan thực hiện chức năng xét xử chứ không phải là cơ quan thực hiện chức năng buộc tội. Mặt khác chế định này còn đảm bảo được nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, tòa án không được xét xử những người chưa bị truy tố, không được xét xử những hành vi của bị cáo theo tội danh không bị truy tố. 2 .Việc nghiên cứu giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm như : phạm vi những người, những hành vi mà Tòa án có thẩm quyền xét xử; bảo đảm pháp chế XHCN và nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có ý nghĩa quan trọng nâng cao chất lượng xét xử trong phiên tòa sơ thẩm để áp dụng chúng trong thực tiễn xét xử giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. 3. Giới hạn xét xử vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS 2003, nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của BLTTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý cho giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên chúng còn tồn tại những mâu thuẫn với những quy định hiện hành của pháp luật TTHS làm ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng. 4. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới cho thấy theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở TAND thành phố Đồng Hới thì không có bị cáo nào tại phiên toà sơ thẩm bị Toà án xét xử theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKSND thành phố Đồng Hới truy tố. Nhưng theo số liệu thống kê xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự thì vẫn có tỷ lệ cao số bị cáo được xét xử phúc thẩm bị sửa án theo tội danh nặng hơn so với bản án sơ thẩm. Quy định giới hạn xét xử trong phiên tòa sơ thẩm đã không cho phép Tòa án được xử bị cáo với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, chỉ được phép xét xử bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS truy tố, quy định này đã làm cho Tòa án xử không để lọt người nhưng lại không đúng tội. 5. Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm xuất phát từ : Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu cải cách tư pháp, đòi hỏi của nhân dân bảo vệ quyền tự do, dân chủ và những mục tiêu, quan điểm, định hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo những yêu cầu và các phương hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng. 6. Sự cần thiết và quan điểm cơ bản nêu trên sẽ là tiền đề quan trọng cho phương hướng thiết lập các kiến giải về lập pháp, áp dụng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm. 7. Trong phạm vi niên luận “Giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình”, niên luận đã góp phần vào việc giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong phiên tòa sơ thẩm, góp phần hoàn thiện quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử vụ án hình sự, nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử của phiên tòa sơ thẩm. Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiến, tác giả hi vọng rằng các kết quả rút ra từ niên luận sẽ đóng góp một phần vào việc hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phấn đấu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Danh mục tài liệu tham khảo Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bộ luật TTHS năm 1988, 2003, NXB Chính trị Quốc gia. Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 và luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002. Nghị quyết 04/2004/NQ - HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Đặng quang phương “Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, Kỉ yếu đề tài khoa học cấp bộ, VKSNDTC 1995, tr 43. Phạm Hồng Hải “ Bàn thêm về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí luật học. Nguyễn Văn Hiện “ Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Tòa án nhân dân 1999, tr1-5. Đại từ điển tiếng việt , Nhà xuất bản Văn hóa thông tin. MỤC LỤC A.PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp, đối tượng nghiên cứu của niên luận 2 3. Kết cấu của niên luận 3 B. PHẦN NỘI DUNG 4 Chương I – Những vấn đề chung về giới hạn xét xử vụ án hình sự 4 Khái niệm giới hạn xét xử vụ án hình sự 4 Những nguyên tắc áp dụng quy đinh giới hạn xét xử vụ án hình sự 1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa 6 1.2.2. Nguyên tắc dân chủ và nhân đạo xã hội chủ nghĩa 7 1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo 8 Chương II – Những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về giới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng 11 2.1. Những quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về giới hạn xét xử vụ án hình sự 11 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về giới hạn xét xử vụ án hình sự tại địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình từ năm 2005-2009 19 Chương III – Những phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng 22 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quy định giới hạn xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn hiện nay 22 3.1.1. Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 22 3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp 23 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng qui định về giới hạn xét xử vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng Việt Nam 24 3.2.1 Giải pháp lập pháp 24 3.2.2 Giải pháp áp dụng pháp luật 26 3.2.3. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật 27 3.2.4. Các giải pháp khác 27 C. PHẦN KẾT LUẬN 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiới hạn xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình.doc
Luận văn liên quan