Rủi ro LS là một loại rủi ro thị trường quan trọng. Đó là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi của LS và nhiều nhân tố khác, như: cấu trúc, kỳ hạn của TS và nguồn vốn, quy mô, kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn Nó có thể đe doạ nghiêm trọng đến thu nhập, cơ sở vốn của NH, có thể dẫn phá sản, sáp nhập. Thay đổi trong chính sách LS đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các NH nhưng cũng làm tăng rủi ro cho các NH do LS biến động thường xuyên. Đối với các NHTM Việt Nam, với tiềm lực tài chính nhỏ bé, để tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh hiện nay, chấp nhận và kiểm soát loại rủi ro này là tất yếu và đầy khó khăn. Quản lý rủi ro LS là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của các NHTM. Quản lý rủi ro LS hiệu quả sẽ giúp nâng cao vị thế của NH trong môi trường cạnh tranh phức tạp, lợi nhuận của NH ở mức cao và ổn định, đảm bảo duy trì bền vững cơ sở vốn hay giá trị vốn chủ sở hữu. Các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan tâm, nhận thức tầm quan trọng của quản lý rủi ro LS và đề ra những nhiệm vụ thực hiện. Tuy nhiên hoạt động quản lý rủi ro LS ở các NH Việt Nam có thể coi đang còn sơ khai, có nhiều hạn chế cần khắc phục kịp thời.
32 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa tiền tệ. Ngân hàng là lĩnh vực rất nhạy cảm có tác động, ảnh hưởng mạnh đến toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của các NHTM phải đối phó với rất nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỉ giá… Với chức năng là trung gian tài chính, Ngân hàng đi vay và nhận tiền gửi để cho vay thì việc lãi suất thị trường có sự biến động lớn có thể sẽ gây ra rủi ro lãi suất, thậm chí trong nhiều trường hợp đã gây ra thua lỗ cho không ít NHTM. Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro đặc thù của các Ngân hàng thương mại. Rủi ro lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như giá trị vốn chủ sở hữu của Ngân hàng vì thu nhập từ lãi và chi phí từ lãi là những nguồn thu và các khoản chi chủ yếu của các NHTM. Quản lý tốt rủi ro nói chung, rủi ro lãi suất nói riêng là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh. Cải cách hoạt động NHTM Việt Nam đã được thực hiện phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường mở.
Trong xu thế hiện nay, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và các tổ chức khác trong khu vực, Việt Nam nói chung và hệ thống NHTM nói riêng đang phải cạnh tranh với các nền kinh tế, các tổ chức tài chính khác trên toàn thế giới. Biến động về lãi suất là rất thường xuyên và ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để tồn tại và phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh này các NHTM Việt Nam phải nỗ lực hạn chế và kiểm soát rủi ro là tất yếu. Trong đó, hạn chế rủi ro lãi suất giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh có hiệu quả của ngân hàng. Với ý tưởng này em chọn đề tài “Hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại” làm vấn đề nghiên cứu trong đề án.
Kết cấu đề tài: Gồm ba chương chính:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Chương II: Thực trạng rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các NHTM Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt đông kinh doanh của các NHTM
Với vốn kiến thức và sự nắm bắt thực tế còn hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thực tiễn chưa sâu, đề án chuyên ngành sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn TS. Trịnh Thị Thúy Hồng để bài đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn TS. Trịnh Thị Thúy Hồng đã hướng dẫn nhiệt tình trong thời gian qua, đồng gởi lời cảm ơn đến quý thầy cô đã tạo điều kiện cho em có thời gian, điều kiện nghiên cứu các vấn đề thực tiễn.
Qui Nhơn ngày 22/05/2012.
Sinh viên thực hiện
Ksor Bun
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
Tổng quan về rủi ro của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. NH bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Xem xét NH trên phương diện những loại hình dịch vụ mà NH cung cấp, Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Ví dụ: Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay:
Sơ đồ 1.1. Chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng
Ngân hàng hiện đại
Chức năng lập kế hoạch đầu tư
Chức năng tiết kiệm
Chức năng thanh toán
Chức năng bảo hiểm
Chức năng môi giới
Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh
Chức năng quản lý tiền mặt
Chức năng ủy thác
Chức năng tín dụng
Các dịch vụ truyền thống của NH:
+ Thực hiện trao đổi ngoại tệ
+ Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại
+ Nhận tiền gửi
+ Bảo quản vật có giá
+ Tài trợ hoạt động của Chính Phủ
+ Cung cấp các tài khoản giao dịch
+ Cung cấp các dịch vụ ủy thác
Dịch vụ NH mới phát triển gần đây:
+ Tư vấn tài chính
+ Quản lý tiền mặt
+ Dịch vụ thuê mua thiết bị
+ Bán các dịch vụ bảo hiểm
+ Cung cấp các kế hoạch hưu trí
+ Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
+ Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp
+ Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn.
+ Cho vay tài trợ dự án
Thành công của NH phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện hiệu quả các dịch vụ đó, và gắn liền với quản lý rủi ro một cách hiệu quả.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng và nền kinh tế xã hội
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho NH: chủ quan khách hàng (làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, lừa đảo… dẫn đến không trả được nợ cho NH), quản lý yếu kém (nhân viên không có khả năng đánh giá chất lượng khoản cho vay), tham ô của nhân viên (cố tình làm sai quy định để mưu lợi riêng), thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán của NH (thay đổi LS, tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền, thay đổi trong quyết định của Chính phủ). Phân chia theo nguyên nhân có các loại rủi ro phổ biến: rủi ro tín dụng, rủi ro LS, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn.
Khi tổn thất xảy ra, thu nhập, tỷ suất lợi tức, thị giá cổ phiếu của NH giảm. Cổ phiếu giảm giá, nếu không kịp thời chấn chỉnh sẽ kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu, là điểm mở đầu cho việc mua lại, sáp nhập, thay thế ban quản lý NH. Rủi ro LS có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản: hàng loạt người gửi tiền rút tiền, buộc NH phải đóng cửa, tuyên bố phá sản. Tổn thất (ở mức thấp) làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của NH. Để đối phó NH có thể phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động… ảnh hưởng không tốt tới nhân sự, thị trường nguồn, công nghệ. Từ đó có thể làm nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp, sẽ kéo theo sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng trong nước, trong khu vực. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay.
Rủi ro lãi suất trong NHTM
Khái niệm lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa số lãi thu được với số vốn đầu tư để có lãi đó.
Lãi là chênh lệch giữa khoản tiền thu về lớn hơn khoản tiền đầu tư để có thu nhập đó trong một thời gian xác định (thời hạn).
Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nên có tác động trực tiếp đến giá trị tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng. Mọi sự thay đổi của lãi suất đều có thể tác động đến việc tăng, giảm thu nhập, chi phí và lợi nhận của ngân hàng. Nếu thu nhập từ lãi không lớn hơn chi phí về lãi thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro lãi suất.
Khái niệm và nhận dạng rủi ro lãi suất
Lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nên có tác động trực tiếp đến giá trị tài sản Có và tài sản Nợ của NH. Mọi sự thay đổi của lãi suất đều có thể tác động đến việc tăng, giảm thu nhập, chi phí và lợi nhuận của NH. Nếu thu nhập từ lãi không lớn hơn chi phí về lãi thì NH sẽ gặp rủi ro về lãi suất.
Ví dụ: Xem xét bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại sau:
Bảng 1.1. Bảng cân đối kế toán của NHTM năm N
Đơn vị: Tỷ đồng
Tài sản Có
Tài sản Nợ
Dự trữ Chứng khoán ngắn hạn Chứng khoán dài hạn Cho vay ngắn hạn Cho vay dài hạn Tài sản cố định
451630405
Tiền gửi không kỳ hạn Tiền gửi có kỳ hạn < 1 năm Tiền gửi tiết kiệm Chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn Chứng chỉ tiền gửi dài hạn Vay ngắn hạn Vay ngắn hạn Vốn và quỹ
151010251015510
Tổng tài sản
100
Tổng nguồn vốn
100
Qua số liệu trên bảng cân đối kế toán cho thấy ngân hàng này có 35 tỷ đồng tài sản Có nhạy cảm với lãi suất, trong khi tổng tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất là 50 tỷ đồng. Giả sử lãi suất trong năm tăng 3%, ví dụ từ 7% đến 10%, khi đó thu nhập từ tài sản Có của ngân hàng sẽ tăng 35 x 3%= 1,05 (tỷ đồng), trong khi khoản chi trả từ phía tài sản Nợ cũng tăng là 50 x 3%= 1,5 (tỷ đồng), làm cho lợi nhuận của ngân hàng đã bị giảm đi 1,5 – 1,05= 0,45 (tỷ đồng)
Như vậy, rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất gây ra. Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng theo đó tổ chức tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí trả lãi của ngân hàng tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập lãi cho vay của ngân hàng giảm theo. Rủi ro lãi suất phát sinh khi ngân hàng không khớp được giữa lãi suất thu được từ tài sản sinh lãi và lãi suất chi ra cho nguồn vốn phải trả lãi. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường.
Nguyên nhân rủi ro lãi suất
Nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các kỳ hạn của tài sản Nợ và tài sản Có. Nếu NH dung tài sản Nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản Có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất đầu tư vẫn giữ nguyên, NH sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu NH dung tài sản Nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản Có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm, NH cũng có nguy cơ bị rủi ro.
Ngoài ra, rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: Do bất lợi trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, do đó đã làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng; Do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền, nên NH phải tăng lãi suất để huy động vốn; Do chính sách ưu đãi trong cho vay của Nhà nước nên NH phải giảm lãi suất cho vay.
Các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro lãi suất
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn là sự thỏa thuận giữa hai bên việc thanh toán tại một thời điểm trong tương lai dựa trên mức lãi suất được ấn định trước.
Đặc điểm của hợp đồng này là:
Thông thường, hợp đồng này thực hiện giữa các tổ chức tài chính với nhau, hoặc giữa tổ chức tài chính với khách hàng là doanh nghiệp phi tài chính (các hợp đồng này thường được ký kết song phương).
Trong hợp đồng này, người mua được gọi là người giữ thế trường vị (long position), người bán gọi là người giữ thế đoản vị (short position).
Hợp đồng này chỉ được thực hiện khi đáo hạn. Đến thời điểm đáo hạn, người giữ thế đoản vị phải thực hiện bán tài sản cho người giữ thế trường vị và nhận một khoản tiền từ người mua với giá cả đã định trước trong hợp đồng, cho dù vào thời điểm đó giá thị trường của tài sản đó có cao hơn hoặc thấp hơn giá xác định trong hợp đồng. Nếu giá thị trường cao hơn giá hợp đồng thì người giữ vị thế trường vị sẽ có lãi (giá trị dương), còn người giữ thế đoản vị bị giá trị âm; và ngược lại.
Hợp đồng lãi suất tương lai
Hợp đồng tương lai là hợp đồng mua bán một lượng các tài sản tại một thời điểm xác định trong tương lai, với một mức giá được xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Hợp đồng tương lai về lãi suất là hợp đồng tương lai về tài sản mà giá của nó phụ thuộc duy nhất vào mức lãi suất.
Hợp đồng tương lai thường được mua bán trên thị trường tập trung và được thực hiện thông qua các trung tâm thanh toán bù trừ. Khi tham gia vào hợp đồng tương lai, mỗi bên đều phải duy trì một mức ký quỹ nhất định tại trung tâm thanh toán bù trừ nhằm đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng.
Trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng đã sử dụng nhiều nghiệp vụ này trong kinh doanh chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư để phòng chống rủi ro do biến động lãi suất trong tương lai. Để hạn chế rủi ro biến động lãi suất trong tương lai, nhìn chung đòi hỏi các ngân hàng phải giữ vị thế trên thị trường trong tương lai đối nghịch với vị thế hiện thời trên thị trường giao ngay. Bởi vậy, một ngân hàng có kế hoạch mua trái phiếu “ tạo thế trường” trên thị trường giao ngay có thể bảo vệ được giá trị của những trái phiếu này bằng việc ký hợp đồng bán trái phiếu trên thị trường tương lai tạo vị thế đoản, nếu ngay sau đó, giá trái phiếu giảm trên thị trường giao ngay, thì sẽ có một khoản lợi nhuận được bù đắp xuất hiện từ thị trường tương lai và điều này giúp cho ngân hàng tối thiểu hoá tổn thất gây ra do biến động lãi suất.
Nguyên lý cơ bản khi sử dụng hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro là: Nếu giá trị thị trường của tài sản giảm, mức thu lợi trên hợp đồng tương lai sẽ bù đắp lỗ trong kinh doanh thực tế của nhà đầu tư. Ngược lại, nếu giá trị thị trường của tài sản tăng, mức lỗ của hợp đồng tương lai sẽ được bù đắp bởi phần lợi nhuận trong kinh doanh thực tế của nhà đầu tư. Đối với những tài sản nhạy cảm với lãi suất, khi lãi suất tăng, giá trị thị trường của tài sản sẽ giảm, do đó nhà đầu tư sẽ bị lỗ khi bán tài sản. Trong trường hợp đó, nhà đầu tư có thể bán hợp đồng tương lai để hạn chế sự thua lỗ trong kinh doanh. Ngược lại, nếu lãi suất giảm, nhà đầu tư có thể mua hợp đồng tương lai để hạn chế sự thua lỗ khi mua tài sản.
Quyền chọn lãi suất
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua hoặc được bán:
Một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở.
Tại hay trước một thời điểm xác định trong tương lai.
Với một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền mua (hay bán) tài sản cơ sở. Nếu người mua thực hiện quyền mua ( hay bán), thì người bán quyền bắt buộc phải bán (hay mua) tài sản cơ sở. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày đáo hạn; thời gian từ khi ký hợp đồng quyền chọn đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền chọn. Mức giá xác định áp dụng trong ngày đáo hạn gọi là giá thực hiện (exercise price hay strike price).
Hợp đồng quyền chọn được thực hiện với các hoạt động mua, bán (tài sản cơ sở): Cổ phiếu, chỉ số thị trường chứng khoán, ngoại tệ, công cụ nợ, các hợp đồng mua bán tương lai và hàng hoá.
Có hai loại hợp đồng quyền chọn: Hợp đồng quyền chọn mua (call option) và hợp đồng quyền chọn bán (put option). Hợp đồng quyền chọn mua là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền mua sản phẩm từ một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng. Còn hợp đồng quyền bán là thoả thuận cho phép người cầm hợp đồng có quyền bán sản phẩm cho một nhà đầu tư khác với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn của hợp đồng.
Để hạn chế rủi ro khi lãi suất tăng, các nhà đầu tư thường mua quyền chọn bán. Bởi vì khi lãi suất tăng, giá trị thị trường của các chứng khoán, các khoản tín dụng hay các hợp đồng tương lai sẽ giảm, lợi nhuận thu được bằng khoản thu nhập của người mua quyền trừ đi quyền phí và các khoản chi phí khác có lien quan. Ngược lại, để hạn chế rủi ro lãi suất giảm, các nhà đầu tư sẽ thực hiện mua quyền chọn mua.
Trên thị trường, các loại quyền chọn về lãi suất phổ biến được các ngân hàng sử dụng rộng rãi là quyền chọn lãi suất trần, quyền chọn lãi suất sàn và quyền chọn lãi suất trần – sàn.
Quyền chọn lãi suất trần được thiết kế để cung cấp sự bảo hiểm chống lại tình trạng lãi suất tăng vượt quá một mức nhất định. Ngưới vay (người mua quyền) được đảm bảo rằng tổ chức cho vay sẽ không tăng lãi suất của khoản tín dụng vượt quá mức trần, đổi lại người mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản tiền đảm bảo.
Ngược lại với quyền chọn lãi suất trần, quyền chọn lãi suất sàn đặt ra giới hạn dưới lãi suất sẽ được chi trả. Quyền chọn lãi suất sàn là danh mục đầu tư của quyền chọn bán về lãi suất.
Quyền chọn lãi suất trần – sàn đặt ra giới hạn trên và dưới của lãi suất. Ngân hàng thường sử dụng hợp đồng trần – sàn lãi suất để đảm bảo về thu nhập của mình khi lãi suất dao động thất thường hay khi ngân hàng không thể dự tính được chính xác động thái của lãi suất trên thị trường.
Có hai kiểu thực hiện hợp đồng quyền chọn, đó là thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ và theo kiểu châu Âu. Theo kiểu Mỹ là thực hiện quyền chọn vào bất kỳ thời điểm nào trước ngày đáo hạn. Theo kiểu châu Âu là thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn.
Hoán đổi lãi suất
Nghiệp vụ hoán đổi lãi suất là thỏa thuận giữa các bên trong đó mỗi bên cam kết thanh toán cho bên kia khoản tiền lãi tính theo lãi suất cố định hay thả nổi trên cùng một khoản nợ gốc trong cùng một khoảng thời gian.
Hợp đồng hoán đổi lãi suất thường được các công ty sử dụng vào các mục đích chuyển đổi hình thức thanh toán lãi của tài sản, từ tài sản có lãi suất cố định sang lãi suất thả nổi hoặc ngược lại. Để hạn chế rủi ro về lãi suất các NHTM thường trực tiếp tham gia vào các hợp đồng, bên cạnh đó ngân hàng cũng có thể đứng ra làm trung gian cho các hợp đồng để phục vụ khách hàng và thu phí dịch vụ cho ngân hàng.
Giả sử một ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định nhưng lại cho vay với lãi suất thả nổi, nếu lãi suất thị trừng giảm xuống ngân hàng sẽ bị rủi ro. Ngược lại doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thả nổi, nếu lãi suất thị trường tăng lên doanh nghiệp cũng sẽ bị rủi ro. Để hạn chế rủi ro, ngân hàng và khách hàng có thể cùng ký một hợp đồng hoán đổi về lãi suất. Trong đó, ngân hàng sẽ thanh toán lãi suất thả nổi cho doanh nghiệp tính trên số tiền cho vay, còn doanh nghiệp thanh toán lãi suất cố định cho ngân hàng cũng tính trên số tiền đó.
. CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT Ở CÁC NHTM VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ RỦI RO LÃI SUẤT
2.1. Thực trạng quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTM
2.1.1. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam qua các giai đoạn
- Trước năm 1992: Cơ chế lãi suất thực âm
+ Lãi suất âm và cố định
+ Lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi
+ Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn
- Giai đoạn 1992 – 1995: Cơ chế điều hành khung lãi suất khung, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế.
- Giai đoạn 1996 – 2000: Cơ chế lãi suất trần. NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu thựchiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Mức lãi suất tái cấpvốn được quy định cụ thể và điều chỉnh phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu -vốn trên thị trường
- Giai đoạn 2000 – 2002: Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ. Lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định “lãi suất kinh doanh” cùng với lãi suất tái cấp vốn trong điều hành CSTT. Theo đó NHNN hàng tháng công bố LSCB (căn cứ vào lãi suất cho vay thương mại tốt nhất của một nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn thị phần tín dụng) và một biên độ thích hợp làm căn cứ cho việc ấn định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời
- Giai đoạn 2002 – 2008: Cơ chế lãi suất thỏa thuận. Theo QĐ 546 của NHNN ban hành ngày 30/5/2002 (có hiệu lực từ ngày 1/6/2002). Các tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. LSCB do NHNN công bố (trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm cáctổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc NHNN) trong từng thờikỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
- Giai đoạn 2008 đến nay: Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Nhằm hạn chế cuộc chay đua lãi suất của các NHTM, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ –NHNN. Ngày 17/05/2008 ấn định lãi suất kinh bằng VNĐ không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN ban hành.
Ngày 08/6/2012, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 19/2012/TT-NHNN (Thông tư 19) quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Cụ thể, NHNN quy định:
-Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 2%/năm;
- Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ấn định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9,5%/năm.
- Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường.
- Trần lãi suất cho vay đối với năm nhóm đối tượng ưu tiên là 13%.
Từ ngày 24/12/2012, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư số 32 và Thông tư số 33 quy định lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VNĐ và lãi suất cho vay đối với một số lĩnh vực. Theo đó, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giữ nguyên 2%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng giảm từ 9%/năm xuống 8%/năm; riêng Quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô ấn định mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 8,5%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên do TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ấn định trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường
2.1.2. Rủi ro lãi suất trong huy động vốn
Đây là loại rủi ro khi NHTM huy động quá nhiều tiền gửi có kỳ hạn dài, có lãi suất cao, nhưng sau đó lãi suất thị trường giảm (do thay điều hành lãi suất của cơ quan chủ quản, do cung – cầu thị trường…)
Từ đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi huy động tổng cộng 5 lần. Lần đầu tiên từ 14%/năm về 13%/năm vào ngày 13/3. Các lần tiếp theo diễn ra vào 11/4 và 28/5 với mức giảm lần lượt về 12%/năm và 11%/năm, vào ngày 11/6 với mức giảm về 9%/năm, và lần gần đây nhất là vào ngày 24/12 với mức giảm về 8%/năm.
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ biến động lãi suất huy động vốn năm 2012
Việc hạ trần lãi suất huy động liên tục trong năm của NHNN đã làm cho các NHTM rất khó khăn về việc huy động vốn, đặc biệt là đối với nhóm ngân hàng có tính thanh khoản kém, trong bối cảnh hiện nay khi giá xăng dầu khôg ngừng tăng làm cho lạm phát kì vọng của người dân vẫn ở mức cao thì việc huy động vốn ở mức lãi suất thấp sẽ càng trở nên khó khăn hơn.
Hiện nay, nguồn vốn ngắn hạn chiếm trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng, gây khó khăn cho các NHTM trong việc quản trị nguồn vốn, khó bảo đảm cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, dẫn đến hiện tượng rủi ro lãi suất và rủi ro kì hạn.
Rủi ro lãi suất cũng xuất hiện đối với một số chi nhánh NHTM có thị trường huy động vốn, trong khi dư nợ thấp họ thường kinh doanh nguồn vốn bằng cách điều vốn đi để hưởng phí điều vốn của hệ thống, khi đã huy động các kì hạn dài từ trên 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng… với lãi suất cố định trả sau. Nhưng phí điều hòa vốn cũng là công cụ điều tiết của từng hệ thống NHTM, vì vậy khi phí sử dụng vốn của toàn hệ thống liên tục hạ để tránh tình trạng ứ đọng vốn, để kích thích đầu tư… thì các chi nhánh NHTM này cũng bị rủi ro nguồn vốn, dẫn đến thua lỗ.
Rủi ro huy động vốn còn do chính sách điều tiết vĩ mô của NHNN, khi tăng dự trữ bắt buộc làm cho NHTM bị tăng chi phí vốn, nếu NHTM không có một cơ cấu tiền gửi hợp lý. Tuy nhiên, mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng còn tùy thuộc vào quản trị rủi ro của ngân hàng, vào hình thức kinh doanh vốn trên thị trường của mỗi ngân hàng.
2.1.3. Rủi ro lãi suất trong cho vay
Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng rất lớn và khá thường xuyên vì hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động cho vay với tỉ lệ thu lãi chiếm tỉ trọng chủ yếu trong thu nhập của các NHTM.
+ Rủi ro lãi suất cho vay xảy ra khi lãi suất thị trường giảm, ngân hàng phải cho vay với mức lãi suất thị trường trong khi đã huy động với lãi suất cao hơn, hơn nữa lãi suất cho vay thường xuyên biến động do áp lực cạnh tranh giữa các NHTM, thậm chí ngay cả giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống cũng cạnh tranh nhau để thu hút khách hàng.
+ Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay còn xảy ra khi NHNN thay đổi lãi suất cơ bản, thay đổi dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ, gây ra những hiệu ứng dẫn đến rủi ro lãi suất cho vay mà một số NHTM đang vấp phải trong thời gian qua cũng như trong thời gian hiện nay.
Khi lãi suất cơ bản tăng, lãi suất huy động và cho vay sẽ tăng, nhưng chỉ áp dụng đối với khoản vay mới phát sinh, còn các khoản dư nợ hiện hành của NHTM, nhất là các khoản dư nợ cho vay trung và dài hạn có lãi suất danh nghĩa ghi trên hợp đồng đang ở mức thấp thì rủi ro lãi suất cho vay là điều khó tránh khỏi.
Khi lãi suất cơ bản giảm, các NHTM sẽ thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, nhưng cũng áp dụng đối với các khoản tiền gửi và tiền vay mới phát sinh, còn các khoản tiền gửi tiền vay hiện hành sẽ được thực hiện theo lãi suất đã ghi trên hợp đồng tín dụng và lãi suất ghi trên sổ tiết kiệm và các chứng chỉ tiền gửi cho đến hết kỳ hạn, do đó khi lãi suất cơ bản giảm, lãi suất huy động giảm, thì không có nghĩa là chi phí huy động vốn của NHTM đã giảm ngay lập tức. Nhưng đối với các khoản dư nợ phát sinh trước đây với lãi suất trên hợp đồng tín dụng khá cao thì chưa chắc NHTM đã thu được lãi theo đúng lãi suất đã ghi trên hợp đồng tín dụng, do khách hàng thấy các khoản vay mới có lãi suất rất thấp, sẽ thỏa thuận với ngân hàng hạ lãi suất các khoản dư nợ hiện hành, hoặc tìm cách trả nợ trước hạn để đảo lãi suất vay cao sang lãi suất vay thấp, gây rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập của NHTM.
Lãi suất cho vay là một trong những vấn đề nóng của năm 2011. Trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn, việc lãi suất cho vay trong năm 2010 có thời điểm lên tới 22 – 25%/năm đã tác động không thuận lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do vậy, việc giảm lãi suất cho vay theo một lộ trình thích hợp là nhiệm vụ cấp thiết của NHNN.
Trong quý I/2012, ngay sau trần lãi suất huy động giảm xuống 13%/năm, lãi suất cho vay cả ngắn hạn lẫn cho vay trung, dài hạn trên thị trường đã được điều chỉnh giảm từ 1 đến 1,5%/năm so với mặt bằng chung năm 2011, và hiện đang ở mức bình quân 16,81%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và 18,7%/năm đối với các khoản vay trung, dài hạn.
Theo lĩnh vực kinh doanh, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 14,5 – 16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; cho vay sản xuất – kinh doanh khác 16,5 – 20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 21 – 25%/năm.
Bảng 2.1. Bảng lãi suất cho vay cuối tháng 3/2012 phân theo lĩnh vực kinh doanh
Đơn vi: %/năm
Nhóm NHTM
Đối tượng (%/năm)
Ngắn hạn (%/năm)
Trung, dài hạn (%/năm)
NHTMNH
VND
- Sản xuất kinh doanh thông thường
- Nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu
- Phổ biến: 16,5-17
- Thấp nhất: 15
- Phổ biến: 14,5-16
- Thấp nhất: 13,5
18-19
17-18
USD
6,0-6,5
6,5-7,5
NHTM
CP
VND
- Sản xuất kinh doanh thông thường
- Nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu
- Phổ biến: 18-19
- Thấp nhất: 17
- Phổ biến: 17-19
- Thấp nhất: 16
19-20
18-20
USD
6,0-7,5
7,5-9,0
2.2. Đánh giá chung
2.2.1. Những mặt được của quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại NHTM Việt Nam
Tình hình chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay (hay NIM) các NHTM Việt Nam
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ lãi biên (NIM) của các ngân hàng
Nguồn: Báo cáo tài chính các ngân hàng
Báo cáo tài chính hợp nhất 9 tháng năm 2012 của 6 ngân hàng lớn đang niêm yết trên thị trường chứng khoán cho thấy, mảng tín dụng (thu nhập lãi thuần) đang chiếm từ 79% nguồn thu của các nhà băng.
9 tháng năm 2012, nguồn thu từ mảng tín dụng của Vietinbank, Vietcombank, ACB, Sacombank, Eximbank và Ngân hàng Quân đội (MBB) mang về khoản lãi thuần lên tới 41.109 tỷ đồng.
Trong đó, Vietinbank dẫn đầu với 13.724 tỷ đồng, giảm 7% so với cùng kỳ năm ngoái, Vietcombank (8.503 tỷ đồng, giảm 7%), ACB (5.303 tỷ đồng, tăng 16%), Sacombank (4.706 tỷ đồng, tăng 13%), Eximbank (4.045 tỷ đồng, tăng 9%), MBB (4.827 tỷ đồng, tăng 30%).
Những con số trên không chỉ cho thấy sự tuyệt đối về tỷ trọng nguồn thu từ mảng tín dụng mang lại, mà nó còn cho thấy, bất chấp những biến động lãi suất trên thị trường, nguồn thu mảng tín dụng vẫn tăng trưởng mạnh ở 4 ngân hàng ACB, Sacombank, Eximbank và MBB.
Điều chỉnh cơ cấu giữa tài sản và nguồn vốn. Khi thấy xu hướng LS tăng, NH đã thay đổi cơ cấu tài sản – nguồn theo hướng tăng thời gian tồn tại của nguồn vốn, giảm thời gian tồn tại của tài sản. Từ đầu năm 2009, LS có xu hướng tăng nên các NH đã đưa ra nhiều chính sách LS hấp dẫn để huy động vốn có kỳ hạn dài. Khi LS giảm, ngày 24/12/2012, các ngân hàng đã đồng loạt giảm lãi suất tiết kiệm các kỳ hạn dưới 12 tháng từ mức 9%/năm xuống còn 8%/năm. Cá biệt có một số NHTMCP lãi suất huy động các kỳ hạn ngắn còn ở mức dưới 8% như tại ACB kỳ hạn dưới 12 tháng lãi suất còn 7,8%/năm. Đồng thời, NH giảm thời hạn huy động vốn và tăng thời gian tồn tại tài sản – kéo dài thời gian cho vay.
Ngân hàng đã thực hiện cân đối, phù hợp về thời gian giữa cho vay và huy động vốn. Một số NH chủ động tìm các dự án trùng khớp về thời gian cho vay và huy động vốn. Một số NH đa dạng hóa kỳ hạn gửi tiền như nhận tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng… và các kỳ hạn cho vay tương ứng. Điều này một mặt đắp ứng được nhu cầu của khách hàng, mặt khác giúp NH hạn chế rủi ro LS.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt đông kinh doanh tại các NHTM Việt Nam
2.1.2.1. Hạn chế
Các NHTM chỉ quan tâm LS tính toán chưa hoạch định được LS hiệu dụng (thước đo thực sự thu nhập của bên cho vay, chi phí của bên đi vay) dẫn đến việc kiểm soát thu nhập, chi phí của NH chưa chính xác, chưa phù hợp với thị trường và các yếu tố liên quan đến rủi ro.
Các NHTM chưa phân tích định lượng rủi trên cơ sở biến động LS, dự đoán thay đổi LS, mới dừng lại ở việc xác định khuynh hướng rủi ro mặc dù đã nhận thức được rủi ro LS. Muốn phân tích rủi ro LS, NH phải có các phương pháp và chương trình điện toán thích hợp để xác định tài sản và nguồn theo thời hạn đến hạn thanh toán theo các mô hình định lượng rủi ro LS hiện đại phục vụ cho điều tiết rủi ro LS.
Các NHTM chưa xây dựng được về mặt tổ chức và quy trình quản lý rủi ro LS. Quy trình quản lý rủi ro LS gồm phân tích định lượng rủi ro LS, dự báo xu hướng LS, giám sát và điều tiết rủi ro trên cơ sở hạn mức rủi ro đã được xây dựng. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn chưa chủ động xây dựng được quy trình quản lý rủi ro LS.
Khảo sát tại các NHTM Việt Nam cho thấy phần lớn mô hình tổ chức và quá trình quản lý rủi ro LS chưa được triển khai hoặc sơ khai. Chẳng hạn: hệ thống NH nông nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc ban hành các chính sách LS huy động vốn và cho vay, trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng.
So với các hệ thống NHTM khác, NHTM cổ phần Á châu đã có sự quan tâm và nhận thức tầm quan trọng của quản lý rủi ro LS sớm hơn và đã đề ra nhiệm vụ thực hiện nhưng thực tế hội đồng quản lý nguồn vốn và tài sản của ACB chỉ dừng lại ở việc ban hành các chính sách LS điều hành chứ chưa xây dựng được hệ thông thông tin bên trong và bên ngoài một cách đầy đủ phục vụ cho việc dự báo về thay đổi LS, cũng chưa xây dựng hạn mức rủi ro tổng thể, hạn mức rủi ro LS.
Các công cụ tài chính hiện đại nhằm điều tiết RRLS chưa được NHTM áp dụng nhiều do quy chế quản lý của NHNN chưa cho phép thực hiện. Vì vậy việc hạn chế rủi ro LS của các NHTM Việt Nam chủ yếu là tái cấu trúc tài sản và nguồn cho phù hợp với mức tăng hoặc giảm LS thị trường.
Hạn chế trong các hoạt động hỗ trợ cho hoạt động quản lý rủi ro LS. Hoạt động hạch toán kế toán chưa thực hiện đúng đắn theo nguyên tắc kế toán, chuẩn mực kế toán dẫn đến việc cung cấp thông tin cho việc định lượng rủi ro LS bị sai lệch. Bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ về rủi ro LS hầu như chưa được đưa vào chương trình thực hiện tại các NH.
Chất lượng thông tin NH phục vụ cho quản trị NH nói chung rủi ro LS nói riêng còn nhiều hạn chế.
NHTM thiếu đa dạng trong hoạt động kinh doanh làm ảnh hưởng đến quản lý LS dẫn đến giảm sút lợi nhuận NH và tăng rủi ro LS. Hình thức huy động vốn đơn điệu, cơ cấu chưa hợp lý. Hình thức cho vay đơn điệu, chất lượng tín dụng thấp.
Hạn chế thuộc về chính sách LS của NHNN. LSCB vẫn cũng có khoảng cách với LS thị trường nên chưa thực hiện được vai trò LS tham khảo, hướng dẫn cho LS kinh doanh của NHTM. LS tái cấp vốn, tái chiết khấu, LS trên thị trường mở chưa phát huy vai trò LS định hướng, chỉ đạo thị trường, chưa thực sự tác động vào nhu cầu dự trữ của các NHTM.
Chính sách LS của NHNN cũng chưa tác động đến thị trường tài chính, nhất là thị trường cổ phiếu. Điều đó đồng nhất với việc NHNN chưa có giải pháp thích hợp để điều hành khối cung cầu tiền thông qua thị trường tài chính.
Hạn chế thuộc về hệ thống các NHTM: Các tổ chức tín dụng chưa tạo thành một hệ thống tương trợ lẫn nhau trên thị trường tiền tệ nhằm tận dụng các nguồn vốn sẵn có, giảm thấp tình trạng thặng dư vốn.
2.1.2.1. Nguyên nhân
Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm.
Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng.
Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần.
Nguyên nhân thứ ba, và cũng là căn bệnh cố hữu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, là hệ quả từ nguyên nhân thứ nhất: sự mất cân đối về kỳ hạn giữa vốn huy động và vốn cho vay. Tuy Ngân hàng Nhà nước chưa công bố, nhưng theo ước tính của các ngân hàng thương mại, hiện hơn 90% vốn huy động VND của các ngân hàng là dưới 12 tháng; trong khi tỷ lệ này trong cho vay trung và dài hạn là 40%. Cụ thể hơn, nếu nhìn vào bảng huy động lãi suất VND của ngân hàng thương mại có thể thấy rõ sự mất cân đối này. Ví dụ lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng của SHB là 10,44%/năm; từ 12 tháng đến 36 tháng có mức chung là 10,48%/năm. Ở ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á, lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng và 6 tháng đều ở mức 10,49%/năm. Hay ở Techcombank, lãi suất kỳ hạn 1 tháng cao hơn 15 tháng, tương ứng là 10%/năm và 9,20%/năm.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong quản lý rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Khách quan: Thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển: ở mức độ thấp về quy mô, chủng loại hàng hoá và công cụ giao dịch. Thương phiếu, tín phiếu kho bạc còn hạn chế nhất định. Vì thế, NHTM khó áp dụng các công cụ tài chính hiện đại về LS như nghiệp vụ hoán đổi LS… dẫn đến hạn chế hoạt động quản lý LS.
Vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của NHNN còn hạn chế. Nhìn chung LS trên thị trường mở, LS tái cấp vốn, LS chiết khấu chưa phát huy vai trò LS định hướng (do chưa phản ánh sát thực quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường).
Môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán, tín dụng, điều tiết rủi ro LS chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chậm sửa đổi và triển khai. Quy chế về nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ tạo điều kiện cho các NHTM có thêm công cụ điều tiết rủi ro tỷ giá đã được ban hành nhưng các quy chế tương tự liên quan đến LS chưa được NHNN cho phép thực hiện dẫn đến hoạt động quản lý rủi ro LS của NHTM kém hiệu quả.
Vốn tự có thấp ảnh hưởng đến khả năng chống đỡ rủi ro LS của NH. Theo đánh giá của quỹ tiền tệ quốc tế, tỷ lệ vốn/tài sản đã được điêu chỉnh của các NHTM quốc doanh chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tề nhất là những nguyên tắc của hiệp định Basel. Vốn tự có thấp làm hạn chế mở rộng trang thiết bị hiện đại để đổi mới công nghệ, giảm khả năng mở rộng tín dụng, hạn chế khả năng chống đỡ rủi ro.
Chủ quan: Quan điểm, nhận thức về quản lý rủi ro LS của các nhà quản trị NH: Tập trung quản lý tín dụng và thanh khoản, chưa nhận thức được tầm quan trọng của quản lý rủi ro LS.
Chính sách LS chủ yếu nhằm mục tiêu mở rộng nguồn vốn, cho vay, cạnh tranh với các NHTM khác để tăng thị phần công cụ LS. Các bước quản lý LS chưa được các NH quan tâm thực hiện đầy đủ, chưa sử dụng LS như một giá cả thị trường. Ý thức chấp hành pháp luật, quy chế của nhà nước ở một số NH chưa nghiêm túc dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, thiếu hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các NH.
Phương pháp quản lý LS: thiếu linh hoạt, cứng nhắc trong quy định LS, chưa tính toán đầy đủ các yếu tố cấu thành nên LS.
Trình độ, năng lực của cán bộ NH trong quản lý nói chung và quản lý LS nói riêng cũng hạn chế, chưa chủ động sáng tạo, xuôi chiều, làm theo mệnh lệnh là chủ yếu.
Đáng lưu ý là NH hầu như chưa có cán bộ chịu trách nhiệm về quản lý rủi ro LS cũng như chưa thiết lập một cơ chế kiểm tra nội bộ phù hợp với công tác quản lý LS.
Công nghệ thông tin NH cũng nhiều bất cập. Đặc biệt hệ thống chương trình điện toán phục vụ việc xây dựng hệ thống thông tin để xác định LS, định hướng và giám sát rủi ro LS chưa được quan tâm thiết thực.
Việc tổ chức thực hiện thanh toán và phát triển dịch vụ sản phẩm mới tại các NH vẫn nhiều hạn chế, đặc biệt thanh toán không dùng tiền mặt.
Tóm lại, chính sách LS của NHNN và việc quản lý LS tại các NHTM Việt Nam dù có nhiều đổi mới cùng với đổi mới của nền kinh tế thị trường trong xu thế hiện nay nhưng vẫn bộc lộ những tồn tại đáng kể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đòi hỏi phải có những biện pháp khắc phục.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
3.1. Mục tiêu của quản lý rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất thể hiện ở khả năng thay đổi của lãi suất làm ảnh hưởng đến thu nhập kỳ vọng từ tài sản sinh lãi hoặc chi phí kỳ vọng của nguồn vốn huy động phải trả lãi. Do đó, mục tiêu của quản trị lãi suất là giảm thiểu những thiệt hại hay tổn thất có thể phát sinh từ sự biến động của lãi suất. Muốn vậy, mục tiêu của quản trị lãi suất là tìm cách cố định lãi suất hoặc nếu không cố định được thì phải bù đắp được tổn thất nếu có lãi suất biến động. Chẳng hạn, dàn xếp sao cho lãi suất thu từ tài sản sinh lãi và lãi suất chi cho huy động nguồn vốn phải trả lãi đều là lãi suất cố định hoặc thả nổi. Khi đó, tự động lãi suất thu và chi có thể bù đắp lẫn nhau khiến cho biên độ thu nhập lãi được giữ nguyên khi lãi suất thị trường biến động.
3.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Từ hậu quả của khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu, có lẽ chưa bao giờ hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải cùng lúc đứng trước nhiều thách thức như năm 2009. Đó là: vừa phải gia tăng cho vay tín dụng kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống lại nguy cơ suy giảm kinh tế trong khuôn khổ gói chính sách khẩn cấp chung của Chính phủ; mặt khác, vừa phải đề phòng nguy cơ tái lạm phát cao; vừa phải tăng cường đáp ứng nhu cầu về ngoại hối nói riêng và nguồn vốn cho doanh nghiệp nói chung trong bối cảnh suy giảm nguồn tiền huy động và nguồn thu ngân sách trong nước, nguồn thu tài chính từ nước ngoài, nhất là thu từ xuất khẩu, FDI; vừa phải chịu áp lực giữ vững nguồn dự trữ ngoại hối và phải thích ứng với các yêu cầu tự do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường, bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, khó lường của bối cảnh trong nước và quốc tế…
Trước tình hình đó, để hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM đã thực hiện điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn, đẩy mạnh công tác huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế vì đây là nguồn vốn ổn định, ít có sự biến động lớn có thể xảy ra cùng một lúc. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, để đáp ứng nhu cầu thanh toán, các ngân hàng có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn vay liên ngân hàng nhưng sau đó phải bù đắp ngay bằng nguồn vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế. Vì vậy, dù có thể huy động nguồn vốn vay liên ngân hàng với chi phí thấp hơn nhưng một số ngân hàng vẫn chú trọng huy động từ thị trường dân cư và tổ chức kinh tế với những chương trình khuyến mãi có giải thưởng lớn (như gửi tiền nhận vàng, gửi tiền trúng Mercedes,… ) hay lãi suất cao.
Các ngân hàng tiến hành phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo quy định của NHNN. Đồng thời kiểm tra, rà soát lại các khoản vay, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, cập nhật thông tin về khách hàng để có thể biết được khả năng trả nợ của khách hàng nhằm dự báo được luồng tiền thu vào từ nguồn khách hàng trả nợ.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng đã tiến hành thành lập Hội đồng quản lý tài sản nợ và tài sản có, phát huy vai trò, tầm quan trọng trong hoạt động của Hội đồng để có thể bảo vệ lợi nhuận của ngân hàng khỏi những rủi ro có thể xảy ra.
Khai thác các dịch vụ ngân hàng khác làm tăng lợi nhuận từ các dịch vụ, giảm áp lực tìm kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay, qua đó có thể hạn chế được nợ quá hạn, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng, góp phần kiểm soát tốt khe hở kỳ hạn để tránh rủi ro lãi suất cũng là một trong những biện pháp được các ngân hàng áp dụng.
Bên cạnh nỗ lực của NHTM trong việc kiểm soát rủi ro lãi suất, các NHTM cần phải:
Thứ nhất, kiềm chế tốc độ tăng trưởng và kiểm soát chất lượng tăng trưởng tài sản có và dư nợ tín dụng để đảm bảo an toàn tăng trưởng và hiệu quả kinh tế theo quy mô. Việc mở rộng quy mô hoạt động phải gắn liền với việc cải thiện tương xứng về năng lực quản trị, kiểm soát hoạt động.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị điều hành trên cơ sở áp dụng các nguyên tắc, thông lệ quản trị ngân hàng hiện đại, quan tâm hoàn thiện các chính sách, quy trình, thủ tục phù hợp để kiểm soát có hiệu quả các rủi ro trọng yếu.
Thứ ba, nhanh chóng giảm tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng xuống mức trung bình trong khu vực vào năm 2013, tiếp tục tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, tăng cường các trang thiết bị hiện đại, tiếp tục triển khai các mô hình tổ chức và quản trị hiện đại, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế, phát triển hệ thống thông tin quản trị, tăng cường nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, đa dạng hóa dịch vụ.
Thứ năm, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo và bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro cho cán bộ.
Thứ sáu, xây dựng quy trình xét duyệt tín dụng chặt chẽ để có thể xây dựng được kế hoạch giải ngân tương đối chính xác đồng thời thiết lập tốt mối quan hệ với khách hàng để có những dự báo đúng về khả năng rút vốn, khả năng trả nợ của khách hàng nhằm phục vụ tốt công tác dự báo thanh khoản của ngân hàng.
KẾT LUẬN
Rủi ro LS là một loại rủi ro thị trường quan trọng. Đó là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi của LS và nhiều nhân tố khác, như: cấu trúc, kỳ hạn của TS và nguồn vốn, quy mô, kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn… Nó có thể đe doạ nghiêm trọng đến thu nhập, cơ sở vốn của NH, có thể dẫn phá sản, sáp nhập. Thay đổi trong chính sách LS đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của các NH nhưng cũng làm tăng rủi ro cho các NH do LS biến động thường xuyên. Đối với các NHTM Việt Nam, với tiềm lực tài chính nhỏ bé, để tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh hiện nay, chấp nhận và kiểm soát loại rủi ro này là tất yếu và đầy khó khăn. Quản lý rủi ro LS là một nội dung quan trọng trong quản lý rủi ro của các NHTM. Quản lý rủi ro LS hiệu quả sẽ giúp nâng cao vị thế của NH trong môi trường cạnh tranh phức tạp, lợi nhuận của NH ở mức cao và ổn định, đảm bảo duy trì bền vững cơ sở vốn hay giá trị vốn chủ sở hữu. Các NHTM Việt Nam đã bắt đầu quan tâm, nhận thức tầm quan trọng của quản lý rủi ro LS và đề ra những nhiệm vụ thực hiện. Tuy nhiên hoạt động quản lý rủi ro LS ở các NH Việt Nam có thể coi đang còn sơ khai, có nhiều hạn chế cần khắc phục kịp thời.
Mục tiêu hoàn thiện rủi ro LS sẽ không được thực hiện đầy đủ nếu không có những giải pháp hỗ trợ. Do vậy, một số giải pháp như nâng cao chất lượng hạch toán kế toán góp phần cung cấp thông tin kịp thời, phù hợp cho quản lý rủi ro LS; đa dạng hoá, nâng cao chất lượng các hình thức huy động vốn và cho vay góp phần đa dạng hoá cấu trúc thời hạn của LS, hạn chế rủi ro LS; và các giải pháp thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước liên quan tạo điều kiện cho các NHTM quản lý rủi ro LS hiệu quả, nhất là phát triển thị trường tài chính để cung cấp các công cụ tài chính hiện đại cho các NH góp phần hạn chế rui ro LS.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TS. Nguyễn Minh Kiều, Quản Trị Rủi Ro Tài Chính, NXB Thống Kê, năm 2009.
TS. Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp Vụ Ngân Hàng Thương Mại, NXB Lao Động Xã Hội, năm 2011.
PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi, GT. Nghiệp Vụ Ngân Hàng Thương Mại, NXB Tài Chính, năm 2008.
PGS. TS. Sử Đình Thành, TS. Vũ Thị Minh Hằng (Đồng chủ biên), GS. TS. Dương Thị Bình Minh, ThS. Phạm Đăng Huấn, ThS. Nguyễn Anh Tuấn, TS. Bùi Thị Mai Hòa, TS. Diệp Gia Luật, Nhập Môn Tài Chính Tiền Tệ, NXB Lao Động Xã Hội, năm 2008.
Các tài liệu tham khảo trên internet, trang web NHNN, các NHTM, tailieu.vn, vneconomy, atheenah.com, cafef.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_an_han_che_rui_ro_lai_suat_trong_hoat_dong_kinh_doanh_tai_cac_ngan_.docx