Hạn chế văn hóa Việt

Các nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của con người và văn hoá Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập được phân thành hai nhóm: nhân tố bên trong và nhân tố toàn cầu hoá. Nhóm các nhân tố bên trong bao gồm: nhân tố chính trị - tác động của sự đổi mới hệ thống chính trị và sự đổi mới về quan hệ nhà nước - công dân đến con người và văn hoá Việt Nam hiện đại; và nhân tố giá trị văn hoá truyền thống - tác động tích cực và tiêu cực của các giá trị truyền thống trong các lĩnh vực đời sống, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo. Nhóm các nhân tố toàn cầu hoá bao gồm: nhân tố kinh tế thị trường, công nghệ thông tin - truyền thông, nhân tố toàn cầu hoá văn hoá, văn hoá mạng, văn hóa môi trường và văn hóa hòa bình. Tác động của các nhân tố nêu trên được dự báo theo bốn xu hướng: một là vai trò của nhân tố chính trị trong nước tiếp tục được khẳng định. Hai là những nhận thức mới về văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế xét từ góc độ quan hệ thời gian và không gian. Ba là xu hướng chạy đua phát triển với nguy cơ bất bình đẳng văn hoá. Và bốn là xu hướng thương mại hoá các hoạt động văn hoá và giáo dục.

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9964 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạn chế văn hóa Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở đây hàm nghĩa là việc nghiên cứu văn hóa nói chung).         Gần đây đã có bạn trẻ thắc mắc vì sao sinh viên nước ngoài đến VN thì được học những khóa trình về văn hóa VN, mà sinh viên VN thì không.        Nhưng chúng ta vẫn chưa sẵn sàng cho việc này. Tự nhận thức chưa trở thành một nhu cầu của xã hội. Người biết nghiên cứu và có khả năng nghiên cứu không có. Trình độ của ngành khoa học xã hội trong nước quá thấp và không dễ gì thay đổi.        Thậm chí không ai dám tin là sắp tới có một cơ chế nghiên cứu thích hợp tương xứng phần nào với đòi hỏi của tình hình.        Đã có lúc chúng tôi đi tới ý nghĩ là phải “ quốc tế hóa “ công việc tức là dựa chủ yếu vào thành tựu của giới nghiên cứu nước ngoài. Song lại cũng biết ngay là điều này đi ngược với thói quen suy nghĩ của người đương thời và chắc chắn là chưa thể làm được trong thời gian tới.         Trước mắt chỉ xin có một đề nghị cụ thể, là cần lập ra những trung tâm thông tin tư liệu về Việt Nam học( tối thiểu là một, càng có nhiều càng tốt). Các trung tâm này có nhiệm vụ thu thập tất cả những gì người trong nước và nước ngoài đã viết về con người và xã hội Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Có một phần là nguồn từ sách báo người Việt viết ở Sài Gòn trước 1975 và các trí thức đang sống ở hải ngoại. Phần khác bao gồm từ thư tịch cổ của người Trung Hoa, sổ tay nhật ký của các nhà buôn các giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam các thế kỷ trước, sách báo viết về Đông dương của người Pháp ( kể cả các viên chức hành chính cấp cao, những “ thực dân cáo già “ như chúng ta vẫn nói ) cho tới các công trình nghiên cứu đang hàng ngày hàng giờ xuất hiện trong các trường đại học ở Mỹ và Nhật, Úc và Hà Lan. Thu thập các tài liệu đã có cập nhật hóa nó bằng cách đưa lên mạng … việc này đòi hỏi nhiều công phu, nhưng vẫn là dễ làm nhất và nên được xem là cú hích mở đầu cho một quá trình tự nhận thức mà nếu không tiến tới một cao trào thì xã hội Việt Nam không bao giờ tạo ra được một bước ngoặt trong sự phát triển .  30 nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam. Wednesday, 20. January 2010, 12:30:17 1. Trong lịch sử của ta có hiện tượng các phương thức sản xuất không đầy đủ, không thay thế nhau bằng cách cái sau phủ định cái trước. Những tàn dư của xã hội nguyên thủy (như ruộng công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển hình (như nô tì công và tư), của một chế độ phong kiến phân tán chưa thành hình (như các hào trưởng, hào cường), một chế độ phong kiến tập trung quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại song song, đan chéo vào nhau như một dạng trầm tích. Cho nên trong tư tưởng cũng có dạng trầm tích như vậy. Nhưng nước ta lại sớm thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận huyện của chính quyền đô hộ rồi thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện để dân tộc hình thành sớm. Cho nên ý thức hệ cũng có dạng thống nhất. Sự thống nhất ở đây được thực hiện đơn giản bằng cách kết hợp tư tưởng bản địa với tư tưởng Tam giáo, Âm dương, Ngũ hành và các yếu tố khác. 2. Tôi cho rằng Nho giáo là xương sống của khối liên kết đó. Rõ ràng là trong cái toàn thể mà ta hình dung thì Nho giáo là một phần trong nhiều phần, thế nhưng nó là bộ phận then chốt, quy định sự chọn lọc, sự sắp xếp vì nó là học thuyết thống trị, và hơn thế, nó thích hợp với cơ chế chính trị - kinh tế - xã hội. 3. Các vị anh quân và cả những nhà yêu nước lớn như Nguyễn Trãi chăm lo, phát triển Nho giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức học hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích văn học... đều theo lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo. 4. Ta thường hiểu Nho giáo đơn giản, phiến diện, sách vở, coi nó chỉ là ngoại lai, theo quân xâm lược phương Bắc vào, phục vụ cho chế độ phong kiến... dường như nó là công cụ xâm lược, là chỉ có sức hấp dẫn những giai cấp thống trị cũ mà không thấy Nho giáo rất thích hợp với cuộc sống hẹp, tự nhiên, đóng kín gia đình, họ hàng làng xã, rất thích hợp với nông thôn, với nền sản xuất của hộ tiểu nông. Một cuộc sống có trên, có dưới, có tình anh em bà con, láng giềng, cô bác kiểu gia đình êm ấm từ trong nhà cho ra đến làng, đến nước ; một cuộc sống thái bình ổn định, an cư lạc nghiệp vốn rất hợp với lòng mong mỏi của nông dân... 5. Xã hội bình trị được đạt đến bằng lễ. Một thứ hoà mục làm mọi người vui vẻ, một tình cảm êm đềm đằm thắm làm cảm hoá cả thiên nhiên đến hết cả thiên tai hạn hán, làm xúc động tình cảm, đi vào âm nhạc thành tiếng hoà vui của câu ca, tiếng hát, đi vào nghi lễ thành cái khoan hoà tiết tấu của hành vi cử chỉ. 6. Ðạo đức Nho giáo là đạo đức của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc, làng xóm, nước, thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn hình dung theo mô hình gia đình mở rộng. Không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa vị, vạn vật dục, khí hoà tràn đầy khắp trời đất. 7. Giữa các dân tộc, chúng ta không thể tự hào là nền văn hoá của ta đồ sộ, có những cống hiến lớn lao cho nhân loại, hay có những đặc sắc nổi bật. Ở một số dân tộc hoặc là một tôn giáo, hoặc là một trường phái triết học, một ngành khoa học, một nền âm nhạc, hội hoạ... phát triển rất cao ảnh hưởng phổ biến và lâu dài đến toàn bộ văn hoá thành đặc sắc văn hoá của dân tộc đó. Ở ta thần thoại không phong phú - hay là có nhưng một thời gian nào đó đã mất hứng thú lưu truyền? Tôn giáo hay triết học cũng đều không phát triển. Người Việt Nam không có tâm lý kiền thành, cuồng tín tôn giáo, mà cũng không say mê tranh biện triết học. Các tôn giáo đều có mặt, nhưng thường là biến thành một lối thờ cúng, ít ai quan tâm đến giáo lí. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ. Trong các ngành nghệ thuật, cái phát triển nhất là thơ ca. Hầu như người nào cũng có thể, cũng có dịp làm dăm ba câu thơ. Nhưng số nhà thơ để lại nhiều tác phẩm thì lại không có. Xã hội có trọng văn chương, nhưng cũng chưa bao giờ tôn ai là thi bá, và bản thân các nhà thơ cũng không ai nghĩ cuộc đời, sự nghiệp của mình là ở thi ca. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, một ngành văn hoá nào đó trở thành đài danh dự, thu hút, quy tụ cả nền văn hoá. 8. Hoàn cảnh dẫn ta đi theo con đường tiếp nhận, bắt chúng ta chỉ được nghĩ những chuyện thực tế, dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để ứng phó. Nhằm mục đích thực tế, cha ông chúng ta đã lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận nó, không tính cả chuyện những cái đó hoà hợp hay chống đối nhau, nhưng lại biết cách sử dụng cho có ích không gây ra chống đối. Ðối với thực tế mà nhu cầu đặt ra chỉ như vậy kho Kinh, Tạng của Tam giáo Trung Quốc là quá dư thừa, thậm chí là quá mênh mông, ít ai có điều kiện học đủ. 9. Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người Việt Nam có nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung bạo đã bị xoá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Không có khát vọng để hướng đến những sáng tạo lớn mà nhạy cảm, tinh nhanh, khôn khéo gỡ các khó khăn để tìm được sự bình ổn. 10. Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cái tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng giao tiếp, ứng xử chuộng hợp tình hợp lí. Áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hướng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch, duyên dáng và có quy mô vừa phải. 11. Văn hoá truyền thống của ta là tốt đẹp. Và trong tương lai, biết đâu cái màu sắc dịu dàng, tươi mát, cái không khí thanh bình của nó lại không phải là nơi cần tìm đến trong cuộc sống căng thẳng của nền sản xuất hiện đại? 12. Lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá, sơ lược hoá. Thế nhưng làm như thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái, cứng nhắc, những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều trong cách giải thích kinh điển Trung Quốc thì không phải là dở. Sự linh hoạt - không biết nên giải thích là tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu đạo, bất tranh của Lão - Trang, tinh thần hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là tập quán chín bỏ làm mười bản địa - tất nhiên là hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để tìm chân lí, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện nhu cầu đơn giản, hoàn cảnh căng thẳng thì như vậy thường lại có hiệu quả. 13. Trong lịch sử học thuật của ta không có những nhà kinh học để cả cuộc đời tra cứu, biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển mà cũng không có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc, có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển Tư văn ở Việt Nam bằng cách đi theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ không phải phê phán nó để tìm cái của mình. 14. Trong một xã hội mà quan tâm hàng đầu là giữ gìn sự ổn định, sự nhất trí đề phòng giặc ngoài xâm lược, với một thể chế mà làng xã là thành lũy, với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kĩ thuật không đòi hỏi nhiều khoa học, khoa học không cần nhiều triết học. Nếu có những thời điểm mà có thể nói là nóng bỏng, xuất hiện những nguy cơ xã hội như thế kỉ XIV, XVI, XVIII còn lại vang bóng trong văn học thì cũng cũng không có điều kiện gì để nhìn thế giới theo một cách khác. Với nhu cầu và điều kiện như thế đặt ra làm gì và ai đặt ra được vấn đề quan niệm thế giới theo một cách khác? 15. Người Việt Nam có thể coi là ít tinh thần tôn giáo. Họ coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. Không phải người Việt Nam không mê tín, họ tin có linh hồn, có ma quỷ, Thần Phật. Nhiều người thực hành cầu cúng. Nhưng về tương lai, họ lo cho con cho cháu hơn là cho linh hồn của mình. Tuy là coi trọng hiện thế nhưng cũng không bám lấy hiện thế, không quá sợ hãi cái chết (sống gửi thác về). Trong cuộc sống, ý thức về cá nhân và sở hữu không phát triển cao. Của cải vẫn được quan niệm là của chung, giàu sang chỉ là tạm thời, tham lam giành giật cho nhiều cũng không giữ mãi mà hưởng được. Người ta mong ước thái bình, an cư lạc nghiệp để làm ăn cho no đủ, sống thanh nhàn, thong thả, có đông con nhiều cháu, ước mong về hạnh phúc nói chung là thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường, hơn người. Con người được ưa chuộng là con người hiền lành, tình nghĩa. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ. Ðâu đâu cũng có đền thờ những người có công đức - chủ yếu là có công chống ngoại xâm - nhưng không một anh hùng xuất chúng, một võ sĩ cao cường nào được lưu danh. Trong tâm trí nhân dân thường có Thần và Bụt mà không có Tiên. Thần uy linh bảo quốc hộ dân và Bụt hay cứu giúp mọi người; còn Tiên nhiều phép lạ, ngao du ngoài thế giới thì xa lạ. Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo. Khôn khéo là ăn đi trước, lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn. Ðối với cái dị kỉ, cái mới, không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải, hợp với mình nhưng cũng chần chừ, dè dặt, giữ mình. 16. Hiểu đúng cha ông là để khai thông cách suy nghĩ của người Việt Nam ngày nay, để dễ tiếp cận với triết học hiện đại. Khuynh hướng «thiết thực» dễ làm nghiêng về duy vật hơn là duy tâm, biện chứng hơn là siêu hình, song duy vật thô sơ, biện chứng tự phát (sự chiêm nghiệm trực quan trong tục ngữ của ta). Người vận dụng tha hồ tùy tiện bàn chuyện của mọi phạm vi lớn nhỏ (với trình độ hỗn tạp, chất phác). Do đó tư tưởng của ta vừa xa lạ cái thần bí, vừa xa lạ cái duy lí. 17. Ở phương Tây vấn đề Thượng đế sáng tạo thế giới và quyết định mọi việc được tôn giáo khắc sâu vào tư tưởng, đè nặng lên con người, thành hòn đá lấp lối mọi tự do. Cho nên quá trình duy tâm triết học hoá Thượng đế, hay duy vật phủ nhận sự sáng tạo thế giới đã cắm những cái mốc cho việc mở rộng vương quốc của tự do, cho giải phóng con người, tìm ra bản nguyên thế giới... Phương Ðông cũng có ý niệm Thiên Mệnh, Trời, khuyên kính Trời, yên Mệnh. Song mối quan tâm chính là tu dưỡng đạo đức, trị nước nên con người «kính quỷ thần nhi viễn chi». Khuynh hướng «thiết thực» này (nghĩa vụ làm người, làm dân) dồn cả Trời và Mệnh vào một góc: Trời và Mệnh chỉ còn ý nghĩa bảo vệ quyền làm vua của một dòng họ, quyền hưởng phú quý cho kẻ giàu sang. Thói quen gạt bỏ những cái «xa vời», khó hiểu, xa lánh quỷ thần, không quan tâm đến thế giới linh thiêng làm cho con người không bỏ mê tín song cũng không hứng thú cái thần bí, không tò mò và ít hoài nghi, không say mê tìm hiểu những cái chưa biết, gạt bỏ những cái khác lạ. Chính vấn đề Tâm - Vật, và trước kia là vấn đề Lý - Khí cũng thuộc loại bị gạt ra ngoài như vậy. 18. Nho giáo tự chọn thái độ «trung dung», đứng ở chỗ «đúng mức» nhất, coi ai cũng có nhược điểm «quá» và «bất cập» - ở mặt này hay mặt kia - tức ở những chỗ không thích hợp của cái đó với thể chế xã hội có sẵn (chế độ chuyên chế - tông tộc), ví dụ như chê Mặc vô phụ, chê Dương vô quân, chê Phật không quân thần phụ tử, chê tư tưởng phương Tây quá chú ý vật chất... Tức các học thuyết khác cũng có chỗ «khả thủ», có thể lấy được, chấp nhận được, lúc ở thế bí thì nó «lấy», vay mượn, bổ sung cho mình, ví dụ đối với phương Tây thì «Ðông học vi thế - Tây học vi dụng». Trong xã hội Nho giáo hoá cái mới bị cô lập, dần dần tha hoá và bị rút tỉa, bị Nho giáo nuốt mất trong đó cái khả thủ. Ở Việt Nam từ thế kỉ XVII đã có sự tiếp xúc Ðông - Tây ở cả Ðằng Ngoài lẫn Ðàng Trong; các chúa Trịnh - Nguyễn sớm nhận ra sự lợi hại của tàu và súng phương Tây, song tư tưởng phương Tây thì không thể nào bám rễ. Ở Trung Quốc chủ nghĩa Mao đã hình thành trong chính cái thế, trong cung cách Nho giáo nuốt học thuyết Mác, lấy cái khả thủ. 19. Hán hoá đã thành một xu thế, một thực tế lâu dài trong lịch sử. Xu thế, thực tế đó làm cho nước ta, cũng như Trung Quốc, ở những thế kỉ cuối rơi vào tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá không phải đã là một xu thế mạnh mẽ trong quá khứ mà là một yêu cầu cấp thiết của ngày nay đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất nước. 20. Chúng ta đào tạo đội ngũ khoa học, kĩ thuật đông đảo. Nhưng trong điều kiện kinh tế phát triển còn thấp, không có đủ cơ sở để sử dụng thì kĩ sư không phải là người hành nghề mà thành cán bộ, sống bằng bằng cấp và danh vị... Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con đường chắc chắn: học cho có bằng cấp, vào biên chế sống dựa vào nhà nước kiếm lộc, kiếm bổng. Chuẩn bị vào đời bằng trau dồi «tư cách» (đánh giá về đạo đức, vốn hoạt động chính trị) và bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập. 21. Những con người, ông già và thanh niên, giống như những nhà nho xưa trà lá, lề mề và hay nói suông, thiếu khả năng và quả quyết hành động thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước mà cũng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng nên tính toán sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp không những gây ra lùng nhùng mà giẫy dụa trong lưới lùng nhùng. 22. Cái đáng phê phán ở Nho giáo là sự ngu trung với vua hay là ảo tưởng bình trị dưới chế độ chuyên chế? 23. Nho giáo bồi dưỡng nên một nhân vật văn hoá là nhà nho, với hình ảnh cụ thể là ông thầy đồ, chăm lo học hành, coi trọng văn hoá, văn chương nhưng không phải là người làm học thuật, người làm khoa học, người làm kĩ thuật, người làm nghệ thuật mà chỉ là người noi gương thánh hiền, giữ đạo đức đến sống gò bó, ngụy thiện, lo học thuộc sách vở, mở miệng là lời kinh sử, lấy nó bàn suông mọi chuyện trên đời. 24. Nhà nho không phải là người tìm tòi khoa học kĩ thuật, vốn gắn liền với sản xuất, mà chỉ có chức năng giáo hoá, giữ sự yên ổn (đức trị - hoà mục). Một chế độ phi sản xuất, phi kinh doanh, chỉ sống bằng tô thuế, cần giữ yên chứ không phát triển thì nho thần lừng khừng cũng được việc. 25. Chỉ có những gia đình lớn nhỏ chứ không có xã hội, nhà nước. Không có con người mà cũng không có công dân. Mọi người chỉ lo xử lí các quan hệ người trên và người dưới, tìm sự hoà thuận êm ấm, không hướng con người vào việc tìm tự do và hạnh phúc trong việc cải tiến tổ chức xã hội và làm chủ các lực lượng tự nhiên. 26. Nho giáo không bao giờ nhận giao tranh trước những địch thủ mạnh hơn, mà rút lui một cách ung dung, kiêu hãnh về với cuộc sống thôn dã, về với làng xã gia đình, về tâm giới. 27. Danh vị, phận vị khiến người ta quy cái bất công do Trời, do Mệnh, triệt tiêu mọi lí do hành động chống đối. Ðó cũng là lí do của ảo tưởng về nhân cách, che lấp thực trạng mất nhân phẩm. 28. Ta nên phát huy khả năng truyền thống du nhập và linh hoạt ứng dụng để nhanh chóng có cái hiện đại, hay tìm tòi từ đặc sắc dân tộc cái của mình? 29. Cái hiện đại, cái thế giới cũng không phải là hay cả, nhưng nếu dùng dân tộc đóng cửa chính lại thì cái dở nhất của nó sẽ chui vào cửa sổ. 30. Hiểu đặc sắc văn hoá dân tộc còn là giải phóng cho sức sáng tạo, nói đúng hơn là tìm phương thức vun xới cho sức sáng tạo. Trong nền văn hoá cũ, sức sáng tạo của ta không khỏi có khuynh hướng tiểu kĩ, ứng dụng, thiếu những sáng tạo lớn. Ðó là con đẻ của tinh thần thiết thực. Trong tương lai đó là một nhược điểm. Ðổi thay được nhược điểm đó chắc chắn không phải là dễ dàng. Cũng khó mà kế hoạch hoá việc sáng tạo. Ta chỉ có thể chờ đợi điều đó ở những nhà tư tưởng, những nghệ sĩ, và ở nền sản xuất, tổ chức xã hội có khả năng sản sinh ra họ. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng trưởng kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển sử dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện kết quả cho thấy, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã hội tăng lên và cuối cùng là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất nước rơi vào tình trạng suy thoái, không phát triển được. Đây là quan niệm phát triển nhanh bằng cách hi sinh các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển. Trên thực tế đã bị phá sản. Từ thực tế đó, một số nước đã lựa chọn mô hình: tăng trưởng kinh tế, cùng với việc phát triển tài nguyên con người, bảo vệ môi trường sinh thái. Mô hình này, tuy tăng trưởng kinh tế không nhanh, nhưng lại bền vững, xã hội ổn định. Đây là quan niệm phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa, được các nhà khoa học, các chính khách thừa nhận. Từ đó, cho rằng: Phát triển là một quá trình nội sinh và tự hướng tâm của sự tiến hóa toàn cục đặc thù cho mỗi xã hội. Vì vậy, cho nên ở đây có sự tương đồng về nghĩa và khả năng chuyển hóa lẫn nhau giữa phát triển và văn hóa. Văn hóa bao trùm tất cả các phương diện của hoạt động xã hội. Vậy văn hóa là gì? Hiện nay vẫn đang còn có nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà hoạt động lao động của con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ đó đi đến việc tạo ra những quan niệm cụ thể khác nhau: văn hóa du lịch; văn hóa kinh doanh, văn hóa ẩm thực … Ở đây trong bài viết này trình bày khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng được nhiều nhà nghiên cứu tán thành. Đó là: Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do lao động của người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con người và xã hội. Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp vào sự phát triển xã hội. Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai thác yếu tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của mỗi người cũng như của toàn xã hội. Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngoài xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu. Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu bền. Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó là chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản chất con người, cũng như những mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa. Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu quả, nhưng cũng là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả văn hóa. Sự thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực dụng và những tiêu cực khác của kinh tế thị trường…, đã và đang ảnh hưởng, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của đất nước… Cần phải hiểu rằng về mặt kinh tế, việc thực hiện chính sách hội nhập để tăng cường liên kết, liên doanh với nước ngoài là rất cần thiết. Song, mọi yếu tố ngoại sinh như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường của nước ngoài chỉ có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển, nếu chúng được vận dụng phù hợp và trở thành các yếu tố nội sinh của con người Việt Nam với truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở kiến thức khoa học, kinh nghiệm và sự tỉnh táo, khôn ngoan, chúng ta cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, phát triển. Bởi lẽ, nền văn hóa dân tộc sẽ đóng vai trò định hướng và điều tiết để hội nhập và phát triển bền vững, hội nhập để phát triển nhưng vẫn giữ vững được độc lập, tự chủ. Hợp tác kinh tế với nước ngoài mà không bị người ta lợi dụng, biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận chuyển giao những công nghệ lạc hậu, tiếp nhận lối sống không lành mạnh với những ảnh hưởng văn hóa độc hại… Vì sự phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp giật, chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần quan trọng vào vấn đề bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững... Văn hóa truyền thống Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hòa hợp, hài hòa với thiên nhiên. Nó đưa ra mô hình ứng xử có văn hóa của con người đối với thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các thế hệ con cháu mai sau. Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác. Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn hóa được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững ./. Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập Văn hóa Việt Nam trong quá trình xây dựng để trở thành một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, làm sống động những gì đặc sắc, ưu tú nhất của văn hóa dân tộc, tạo ra xung lực mạnh mẽ để phát triển chính dân tộc mình, đóng góp xứng đáng vào đời sống văn hóa nhân loại, tham gia quá trình hội nhập quốc tế với sự tự biểu hiện, tự khẳng định giá trị, bản sắc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. 1 - Văn hóa là hoạt động sáng tạo và là hệ thống các giá trị do chính con người tạo ra trong mỗi thời đại lịch sử Việt Nam, xét trên phương diện đất nước học, là cả một địa - văn hóa hết sức độc đáo bên cạnh một địa - kinh tế và địa - chính trị rất đặc thù. Lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia - dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa - tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa. 2 - Con người sản xuất và sáng tạo ra văn hóa đồng thời văn hóa đã phát triển và hoàn thiện con người, định hình bản chất người và nhân tính của nó Văn hóa trong ý nghĩ sâu xa của nó là trình độ người trong phát triển, là tất cả những gì chứng tỏ nhân tính vượt lên trên thú tính (bản năng của loài vật). Văn hóa được hình dung như một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, theo cách này, có văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, có hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, có quản lý nhà nước về văn hóa. Trong nền kinh tế thị trường, đã và đang hình thành thị trường văn hóa, xuất phát từ đặc tính thương mại của văn hóa (có sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa, tuân theo quy luật thị trường, quy luật giá trị, cạnh tranh, quy luật cung - cầu). Cũng cần phải tính đến xu hướng thương mại, thương mại hóa văn hóa, tuy nhiên hiện tượng này có thể xem trên hai mặt hợp lý, cần thiết và những biến thái của hiện tượng này có thể dẫn đến những lệch lạc về định hướng giá trị, nhu cầu, thị hiếu mà quản lý văn hóa và giáo dục văn hóa phải điều tiết. Một nguyên tắc cần được nhận thức đúng và ứng dụng trong thực tiễn văn hóa trước tác động của kinh tế thị trường là, mọi hoạt động văn hóa và phát triển thị trường văn hóa cũng như ngành công nghiệp văn hóa không được để xảy ra những biến dạng văn hóa, thành phản văn hóa, giá trị thành phản giá trị. Muốn vậy, phải bảo đảm cho hoạt động văn hóa và các sản phẩm văn hóa được tạo ra, được lưu thông trên thị trường bảo toàn được 3 chuẩn mực của văn hóa: Khoa học, đạo đức và thẩm mỹ (tương ứng với cấu trúc về loại hình văn hóa, cấu trúc của giá trị văn hóa là chân - thiện - mỹ, phù hợp với nhân bản, nhân đạo và nhân văn của văn hóa). Tiếp cận văn hóa từ hoạt động cho thấy, văn hóa gắn liền với chủ thể hoạt động là con người, văn hóa là phương thức độc đáo của con người, chỉ riêng có ở con người để biểu hiện và tự biểu hiện mình, để khẳng định và tự khẳng định mình trong phát triển và tự phát triển. Với con người và loài người, hoạt động căn bản quan trọng, quyết định nhất là hoạt động lao động sản xuất ở trong thực tiễn đời sống, gắn liền xã hội với tự nhiên, như một chỉnh thể. Con người không chỉ sản xuất ra văn hóa mà còn cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Có một tự nhiên được nhân tính hóa và do chính con người làm chủ nó, làm chủ để tồn tại và sống thân thiện với nó chứ không phải can thiệp vô lối, tùy tiện, làm tổn hại “cái thân thể vô cơ của con người” (Các Mác). Con người đối xử với tự nhiên một cách có văn hóa, chứ không phải tàn phá nó như những kẻ thực dân xâm lược theo lời cảnh báo của Ph. Ăng-ghen. Tàn phá, hủy hoại tự nhiên là xa lạ với hiểu biết. Khám phá, sáng tạo để làm chủ tự nhiên. Phá hủy tự nhiên, làm hỏng môi trường sống của con người cũng có nghĩa là đẩy con người và loài người tới chỗ tự sát. Nếu hoạt động lao động sản xuất là hoạt động tồn tại mãi mãi, vĩnh viễn, cùng với bản chất con người như một tổng hòa các quan hệ xã hội thì lao động như một phạm trù vĩnh viễn, là hằng số của phát triển văn hóa. Rõ ràng, văn hóa không sinh ra từ một hoạt động bất kỳ, tự phát nào. Văn hóa là những giá trị được chọn lọc và thẩm thấu rất sâu rộng trong đời sống thực tiễn, trước hết là thực tiễn tồn tại và phát triển của con người. Theo đó, lao động là phạm trù vĩnh viễn cùng tồn tại với con người, và trong các loại hình văn hóa cần phải dành cho văn hóa lao động một sự tôn vinh đặc biệt. Từ lao động đến văn hóa lao động là cả một quá trình lịch sử lâu dài. Để có văn hóa lao động thì lao động phải là lao động tự do, tự nguyện, sáng tạo, nó không còn bị giam hãm bởi phương tiện sinh tồn v́ miếng cơm, manh áo mà nó phải trở thành nhu cầu sống của con người, lao động phải nhằm bộc lộ và phát triển những năng lực sáng tạo, những phẩm giá, đức hạnh của con người. Muốn vậy phải giải phóng lao động và người lao động khỏi tình trạng bị bóc lột, áp lực, bị đầy đọa trong cực nhọc, tăm tối, tức là lao động bị tha hóa kéo theo tha hóa bản chất con người. C. Mác gọi tình trạng đó là làm nhục con người. Phải sao cho trong lao động và trong đời sống, con người được tôn trọng như một con người. Chỉ khi đó, con người mới có thể coi lao động như một nhu cầu sống đầu tiên và con người được tự do khi ở bên ngoài lĩnh vực lao động tất yếu. Văn hóa lao động đòi hỏi phải nhân đạo hóa không ngừng môi trường sống, hoàn cảnh sống, cũng như điều kiện lao động. Quan hệ lao động có thấm nhuần chuẩn mực bình đẳng và công bằng thì thái độ lao động của con người mới là thái độ lao động có văn hóa, tức là tự nguyện, tự giác và sáng tạo. Tình yêu đối với lao động và đức tính cần cù lao động trở thành một giá trị văn hóa. Đó cũng là một giá trị văn hóa nổi bật, hàng đầu trong giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà ngày nay chúng ta phải bảo tồn và phát huy. Bởi hoạt động tạo ra giá trị nên tiếp cận văn hóa từ hoạt động gắn liền với tiếp cận văn hóa từ giá trị. Chỉ những hoạt động sáng tạo, tích cực, hướng tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là hoạt động văn hóa. Do đó, về phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa phải đi liền với những giá trị đích thực, những chân giá trị (chân - thiện - mỹ). Cần phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng đắn, hướng tới phát triển và hoàn thiện nhân tính. Những gì đối lập với nó không thể gọi là văn hóa và giá trị văn hóa. 3 - Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện đại hóa xã hội đòi hỏi phải thấm nhuần quan điểm và phương pháp biện chứng về phát triển. Đây chính là xử lý mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát triển các di sản, các giá trị truyền thống Văn hóa không chỉ hoạt động và kết tinh thành giá trị. Văn hóa còn mang bản chất sáng tạo mà muốn sáng tạo thì phải thường xuyên đổi mới. Văn hóa là đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, của nhân dân ta là một sự nghiệp văn hóa, là quá trình sáng tạo văn hóa. Đó là một chỉ dẫn rất sâu sắc của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn, nhà nhân văn chủ nghĩa của Việt Nam thời hiện đại. Có thể tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những chỉ dẫn quan trọng, mới mẻ và hiện đại về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa trong phát triển, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống hướng đích vào phát triển mà sâu xa nhất là phát triển con người. Chăm lo phát triển con người phải không bỏ sót một người nào, không phí phạm một tài năng nào. Phải làm cho mọi sáng kiến, sáng tạo của các cá nhân được khích lệ, phát huy. Hồ Chí Minh xem việc phát triển con người không chỉ là phát triển cá nhân mà còn là phát triển cả cộng đồng xã hội, đó là nhân dân, đồng bào, là dân tộc, là từng tổ chức, đoàn thể đến toàn Đảng và toàn xã hội. Người nêu rõ: phát triển sức dân, đi liền với bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân. Mỗi người phải vừa là một công dân, vừa là một chiến sĩ, vì nước, vì dân mà tranh đấu, coi phục vụ dân, làm đầy tớ, công bộc của dân là lẽ sống cao thượng nhất. Cả dân tộc phải trở thành một dân tộc thông thái. Cả xã hội là một xã hội văn hóa cao. Muốn vậy phải dày công phát triển kinh tế, văn hóa, phải làm cho văn hóa đủ sức soi đường cho quốc dân đi, văn hóa không ở bên ngoài mà ở bên trong kinh tế và chính trị. Lại phải làm cho chính trị, thấm sâu vào đời sống dân gian, phải đem sức mạnh văn hóa để chữa thói phù hoa xa xỉ, quan liêu lãng phí, tham ô (ngày nay là tham nhũng). Chiến lược phát triển xã hội trong trù tính của Hồ Chí Minh là cả một phức hợp các chiến lược làm cho kinh tế phồn vinh, chính trị dân chủ pháp quyền, xã hội công bằng, bình đẳng, nước có độc lập, dân có tự do và hạnh phúc, con người, xã hội hài hòa với môi trường tự nhiên, luôn được chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ. Một xã hội như vậy là một xã hội văn hóa cao, con người sống trong xã hội ấy trở thành người chủ, biết làm chủ, có quyền và địa vị làm chủ thì phải có nghĩa vụ của người chủ. Giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, con đường giải phóng và phát triển ấy là độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phát triển kinh tế phải đi liền với chấn hưng giáo dục để chấn hưng dân tộc, bởi kiến thiết chế độ mới phải có nhân tài, có rất nhiều nhân tài, làm cho đời sống vật chất ngày một tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ. Văn hóa có mặt và tham dự vào tất cả các quá trình ấy. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Đảng phải tỏ ra xứng đáng là một Đảng chân chính cách mạng, thực hiện một nền chính trị đoàn kết và thanh khiết, làm gương cho toàn dân, bởi gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, một tấm gương tốt còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn. Như vậy, trên phương diện giá trị, ngoài giá trị lao động và đức tính yêu lao động, cần cù sáng tạo trong lao động, Văn hóa Việt Nam còn nổi bật ở giá trị đạo đức, ở tình thương yêu nhân ái, vị tha, là đoàn kết gắn bó cộng đồng, là đạo lý, đạo nghĩa ở đời và làm người, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”... Biểu hiện cụ thể trong đời sống hằng ngày, con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, tỏ rõ một thái độ văn hóa trong lựa chọn giá trị, đề cao phẩm giá con người, trọng chân lý và đạo lý, biết vinh và biết nhục, biết giữ trọn khí tiết, sự tham cao của tâm hồn mà “hoa sen Việt Nam”, “cây tre Việt Nam” là một biểu tượng. Vật chất quyết định tinh thần, song văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam thể hiện rõ rệt sự ưu trội khi lựa chọn giá trị, biết đề cao giá trị làm người và tìm thấy động lực sống, động lực phát triển không chỉ là lợi ích vật chất mà còn là các giá trị tinh thần, đạo đức, lương tâm, danh dự. Trong tục ngữ, ca dao Việt Nam từ xa xưa đã có một sự chiêm nghiệm, một tổng kết rằng: “Người ta là hoa của đất” Và tâm linh Việt Nam đã chú trọng đạo hiếu - nghĩa rất thiêng liêng: “Người ta sống vì mồ vì mả Không ai sống bằng cả bát cơm” Ngay khi hướng tới một cái nhìn thực tế và thực dụng, trí tuệ dân gian Việt Nam đã tỏ ra sự tỉnh táo, thiết thực, có lý và hợp lý. ấy là thái độ ứng xử của “thằng Bờm”, biết rõ đâu là giá trị cần có và tương xứng với cái sản phẩm của mình. Nó khước từ mọi hư ảo, phỉnh nịnh, lừa dối, nó tiếp nhận cái thật và sự thiết thực cần phải có... Triết lý ấy là một phần tư tưởng, tinh thần và tâm hồn dân tộc lắng đọng trong văn hóa truyền thống, trước hết trong văn học dân gian với kho tàng ca dao tục ngữ vừa thấm đượm chất trữ tình vừa không kém phần sâu sắc của trí tuệ dân gian. 4 - Yêu nước và tình cảm yêu nước, thương người phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, đó không chỉ là một nét đẹp đạo đức, một nét văn hóa mà còn kết tinh thành giá trị bền vững của văn hóa truyền thống Việt Nam. Chính giá trị này làm nên sức sống của con người và dân tộc Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh của bản lĩnh văn hóa Việt Nam cần phải phát huy trong hội nhập quốc tế ngày nay Yêu nước, thương người là sự cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là giá trị nhân cách của con người Việt Nam, đó là truyền thống dân tộc trải qua bao biến thiên của lịch sử vẫn tồn tại một cách bền bỉ và tỏa sáng rạng rỡ trên gương mặt tinh thần của cả dân tộc. Đó cũng là một truyền thống văn hóa, văn hóa chính trị gắn liền với văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn truyền thống của Việt Nam được sản sinh và nuôi dưỡng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm cho tới ngày nay vừa anh hùng vừa bi tráng. Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp tác và đồng thuận. Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống và thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có trong mối liên kết giữa Nhà với Làng với Nước, là liên kết cộng đồng, lấy sức mạnh ở tổng thể, trong đó từng cái riêng, đơn lẻ và cá thể được tập hợp và hòa đồng trong cái chung của cộng đồng rộng lớn, lấy tương đồng, cố kết cộng đồng để khắc phục những khác biệt và những xung đột. Nhà là biểu hiện đầu tiên, là điểm xuất phát và cũng là chỗ trở về trong mục đích hòa đồng để phát triển của Nước. Làng là sự mở rộng của Nhà và Nước là sự mở rộng và tập hợp của các làng mà thành. Trong tâm thức con người Việt Nam, làng là quê hương, là cái nôi thiêng liêng. Tổ quốc cũng vậy. Nước là đất nước, là nhà nước. Giá trị và sức mạnh cộng đồng là một nét nổi bật, là một đặc tính truyền thống Việt Nam, trước hết là trong chống thiên tai và sau đó là chống giặc ngoại xâm. Trong thời hiện đại, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, giá trị và sức mạnh ấy cũng phải phát huy và đồng thời cũng cần khắc phục những hạn chế của chính giá trị này, sao cho cố kết cộng đồng không bao giờ buông lỏng mà tự do cá nhân cũng không thể xem thường. Hài hòa giữa những “cái tôi” với “cái chung” trong phát triển đòi hỏi những tác động sâu xa của dân chủ và sự công phu trong giáo dục văn hóa lối sống, để vừa phát triển hợp lý, chính đáng những cá thể, vừa phát triển lành mạnh cộng đồng xã hội - những tập thể chân chính chứ không phải những cộng đồng trừu tượng, hư ảo, những biến tướng “giả tập thể” của những phường hội, cục bộ, chủ nghĩa địa phương, cát cứ và bè phái. Đó chính là sự khắc phục những hạn chế có trong “tính lưỡng diện văn hóa” của tâm lý, lối sống truyền thống mà cơ sở kinh tế - xã hội đã sản sinh ra nó chính là nền kinh tế nông nghiệp của xã hội nông thôn với cộng đồng nhưng tiểu nông tư hữu, sản xuất nhỏ. Di tồn này vẫn còn trong xã hội Việt Nam ngày nay vốn chưa được cải tạo hết, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại chưa hoàn thành. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bao hàm cả xây dựng và cải tạo, cả kế thừa và loại bỏ, đổi mới để phát triển. Cuộc đấu tranh giữa cái mới tiên tiến với cái lạc hậu, bảo thủ là một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài. Theo V.I. Lê-nin, thói quen là điều đáng sợ nhất. Yêu nước, thương người, chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn truyền thống là những giá trị văn hóa, những triết lý văn hóa bền vững và đặc sắc nhưng cũng biến đổi khi hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đã thay đổi. Nội dung yêu nước ở thời hiện đại, trong bối cảnh quốc tế hiện nay đã có thêm những biểu hiện mới, yêu cầu mới. Tình cảm thương người, vị tha, nhân ái cũng vậy, nó không chỉ thể hiện trong quan hệ giữa người và người trong cộng đồng, trong sự gắn bó, chia sẻ với số phận chung của dân tộc khi gặp hoạn nạn với những thử thách mất - còn, tự do và nô lệ. Ngày nay, trong kinh tế thị trường, trong phát triển để vượt qua cái nghèo vươn tới giàu có, khi cá nhân và lợi ích cá nhân được đề cao, thậm chí phát triển thái quá thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan... thì những giá trị trong văn hóa truyền thống nêu trên không tránh khỏi những thách thức. Quan niệm mới và cách thức giải quyết mới, nếu không rõ ràng, không được hướng dẫn và giáo dục thì những lệch lạc về định hướng giá trị và chuẩn mực giá trị sẽ có thể xảy ra. Nó biểu hiện thành hành vi ứng xử ở những đối tượng nào đó, những nhóm xã hội nào đó, cả thế hệ và lứa tuổi, có thể như một sự suy đồi văn hóa, suy đồi đạo đức. Vì vậy, việc xây dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống, chú trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để hướng dẫn dư luận và thực hành trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một đòi hỏi bức xúc, cần thiết. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống hướng tới phát triển có ý nghĩa như là hiện đại hóa truyền thống. 5 - Truyền thống và những giá trị văn hóa truyền thống định hình ở dân tộc này nhưng có thể có ở dân tộc khác, ở nhiều dân tộc khác Có lẽ, để tồn tại và phát triển, không dân tộc nào trong cộng đồng thế giới nhân loại lại không hình thành nên tình cảm yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, sáng tạo trong việc cải biến tự nhiên và chống ngoại xâm. Cũng như vậy, trong văn hóa của dân tộc mình, không dân tộc nào lại không xây dựng cho mình những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử, những thành tựu riêng thuộc về tư tưởng hay ý thức hệ, về văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và đưa nó vào trong sinh hoạt tinh thần, thành tâm lý, phong tục, tập quán. Phân biệt đâu là cái đích thực, cái riêng có của dân tộc mình, kết tinh trong giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình là không đơn giản. Văn hóa là sự thống nhất trong đa dạng, thống nhất từ những khác biệt. Sự phong phú, sâu sắc của mỗi nền văn hóa là ở những tính riêng đặc thù trong khi biểu hiện thành những tính chung, những cái phổ biến, phổ quát. Đồng nhất văn hóa là cái chết của văn hóa và điều đó không thể xảy ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn văn hóa. Sự tương đồng, giống nhau về những giá trị văn hóa có lý do từ những tất yếu của tồn tại và phát triển đời sống con người và loài người, của nhân tính. Nó cũng còn bắt nguồn từ sự tiếp xúc và tiếp biến giữa các chủ thể văn hóa trong thời gian và không gian văn hóa, sự tương đồng trong tích lũy kinh nghiệm sống và những trải nghiệm lịch sử về sự sống giữa các dân tộc. Và khác biệt, có lẽ là ở phương thức biểu hiện, ở hình thái sản xuất và sáng tạo văn hóa, ở quan niệm tư tưởng và triết lý văn hóa của mỗi dân tộc, trong sự đề cao hay ưu tiên giá trị này chứ không phải giá trị khác. Nếu truyền thống hình thành từ lịch sử là khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, nếu truyền thống là lịch sử đã trải qua và đã chứng nghiệm của đời sống dân tộc, nó kết động cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, cả cái hay lẫn cái dở thì giá trị trong truyền thống lại trải qua sự sàng lọc, đi qua cái “bộ lọc của tinh thần dân tộc” để cái gì trở thành giá trị, được thừa nhận và tôn vinh (trở thành ý thức tự hào dân tộc) phải là cái tốt đẹp, tích cực, với hai phương diện nổi bật: trí tuệ và đạo đức. Dĩ nhiên, điều này cũng là tương đối và có tính lịch sử, bởi rất có thể, cái được quan niệm là giá trị ở dân tộc này lại không được coi là giá trị trong quan niệm của dân tộc khác. Rõ nhất là trong phong tục tập quán. Như đã nói ở trên, truyền thống cũng thay đổi trong những điều kiện lịch sử nhất định mà giá trị truyền thống cũng luôn đổi mới sự biểu hiện và trong thước đo đánh giá của hiện đại. Không một quá khứ nào có thể giữ nguyên vẹn khi gia nhập vào đời sống của hiện tại và đi tới tương lai. Đó là lẽ tự nhiên của phát triển. Bởi vậy, khi xem xét văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới, giúp cho sự nhận thức và đánh giá dân tộc đó là gì và như thế nào trong sự hiểu biết và cảm thông của cộng đồng nhân loại thì nhận diện những khác biệt là rất cần thiết và quan trọng. Những khác biệt đó không chỉ là cái tốt, cái đẹp mà có cả những khiếm khuyết, hạn chế. Cái mạnh của dân tộc này (về văn hóa) có thể là cái yếu của dân tộc khác. Để nỗ lực vươn tới phát triển và có đóng góp xứng đáng vào phát triển chung, tính tự ý thức của dân tộc là điều không thể thiếu. Song trong tiếp xúc giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa trong hội nhập, thái độ chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau, không lấy mình làm chuẩn để đánh giá cái ngoài mình cũng vô cùng cần thiết. Đây là thực chất của tinh thần khoan dung và văn hóa khoan dung mà ai ai cũng cần phải nhận biết, trau dồi và thực hành trong ứng xử. Đây cũng là điều cần thiết để gây dựng quan hệ văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới đáp ứng yêu cầu dân chủ, bình đẳng giữa các dân tộc, cùng hướng tới hòa bình, phát triển, đoàn kết, hợp tác và đồng thuận. Bản chất của khoan dung làm cho văn hóa đóng vai trò thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau, là nhịp cầu của tình hữu nghị và sự thân thiện, đồng cảm và thông cảm lẫn nhau trong việc cùng tham gia, cùng chia xẻ những trách nhiệm chung vì phát triển chung của cả thế giới nhân loại. Bản sắc và bản lĩnh văn hóa của dân tộc trong việc thể hiện những giá trị văn hóa chung, phổ quát của nhân loại và khẳng định phần sáng tạo riêng của dân tộc mình trong việc làm phong phú, sâu sắc những giá trị ðó hoặc sáng tạo ra những giá trị thực sự của mình - Đó mới thực là điều cần nhấn mạnh khi bàn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong hội nhập quốc tế./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHạn chế văn hóa Việt.doc