Hậu quả pháp lý của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Khái quát về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 1. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng: 1.1. Tài sản chung của vợ chồng là gì? Tài sản chung của vợ chồng được hiểu là vật, lợi ích vật chất khác thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, do vợ chồng cùng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt vì nhu cầu chung của gia đình. Do tính chất cộng đồng của hôn nhân và với vai trò là hạt nhân của gia đình đòi hỏi giữa vợ và chồng phải có một lượng tài sản chung nhất định để bảo đảm các chi phí cho cuộc sống chung và để thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của gia đình, đặc biệt trong việc chăm sóc giáo dục và bảo vệ các con. Dựa trên cơ sở đó, kế thừa và phát triển điều 14 luật HN-GĐ năm 1986, Điều 27 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng choc hung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. 2. Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung”

doc17 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3219 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hậu quả pháp lý của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG: A. Khái quát về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 1.     Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng: 1.1. Tài sản chung của vợ chồng là gì? Tài sản chung của vợ chồng được hiểu là vật, lợi ích vật chất khác thuộc quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, do vợ chồng cùng chiếm hữu, sử dụng  và định đoạt vì nhu cầu chung của gia đình. Do tính chất cộng đồng của hôn nhân  và với vai trò là hạt nhân của gia đình đòi hỏi giữa vợ và chồng  phải có một lượng tài sản chung nhất định để bảo đảm các chi phí cho cuộc sống chung và để thực hiện các chức năng xã hội cơ bản của gia đình, đặc biệt trong việc chăm sóc giáo dục và bảo vệ các con. Dựa trên cơ sở đó, kế thừa và phát triển điều 14 luật HN-GĐ năm 1986, Điều 27 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng choc hung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.  Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. 2. Trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. 3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung” Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình đã xác định thời điểm hình thành và nguồn gốc phát sinh tài sản chung của vợ chồng. Kể từ sau khi kết hôn, những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp của vợ chồng, tài sản mà vợ chồng mua sắm được từ những thu nhập hợp pháp đều thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng mà không phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ chồng ít hay nhiều, có lao động trực tiếp hay không. Đồng thời pháp luật còn quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung và mục đích của việc sử dụng tài sản chung là nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình, đảm bảo cho vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình và lao động tạo ra tài sản vì lợi ích chung của gia đình. Những quy định đó còn là cơ sở cho việc chia tài sản chung của vợ chồng. 1.2 Chia tài sản chung của vợ chồng: Chia tài sản chung của vợ chồng là chia tài sản chung thuộc quyền sở hữu chung của hai vợ chồng.  - Các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng theo luật HN-GĐ: +) Chia tài sản chung của vợ chồng khi li hôn Ly hôn- một hiện tượng xã hội. Theo nguyên tắc chung khi phán quyết ly hôn của toà án có hiệu lực, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Các quan hệ quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh và gắn liền tương ứng trong quan hệ vợ chồng từ khi kết hôn cũng hoàn toàn chấm dứt  khi vợ chồng li hôn. Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của vợ chồng. Trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng, khoản 1 điều 95 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì được yêu cầu Toà án giải quyết, tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên ấy. +) Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị toà án tuyên bố là đã chết.  Về nguyên tắc, quan hệ hôn nhân chấm dứt khi vợ hoặc chồng chết hoặc quy định của toà án về việc tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật. Quan hệ hôn nhân chấm dứt, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo yêu cầu của người chồng hoặc vợ còn sống hoặc của những người thừa kế của người vợ, chồng đã chết . Theo nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong đó quan hệ về thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng, điều 31 luật HN-GĐ năm 2000 đã quy định : “Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định về pháp luật thừa kế” +) Chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung cũng vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt về mặt pháp lí (li hôn, 1 bên vợ chồng chết hoặc tuyên bố là đã chết). Tuy nhiên trên thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, xuất phát từ thực tế này luật HN-GĐ trên cơ sở kế thừa luật HN-GĐ năm 1986 (điều 18) tiếp tục quy định vánn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân(điều 29, 30). Như vậy việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được coi là trường hợp ngoại lệ và cần được quan tâm. 2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 2.1. Điều kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Theo điều 29 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “.Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng,thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lí do chính đáng khác thì  có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu toà án giải quyết.      Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về  tài sản không được pháp luật công  nhân.”  Theo quy định trên thì chia tài sản vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành theo các trường hợp sau:  Trường hợp1: Vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng: Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. Mặt khác qui định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đảm bảo cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra  Trường hợp2: Vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: Như trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng đó đã vay nợ(một khoản tiền hay tài sản) sử dụng vào nhu cầu riêng. Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thoả thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân để người hoặc chồng lấy phần tài sản của mình trong số tài sản chung của vợ chồng nhằm thanh toán món nợ mà mình đã vay.   Trường hợp 3: Có lí do chính đáng khác: Việc có lí do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc người thứ ba. Vì vậy lí do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại tuỳ từng trường hợp cụ thể. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Luật HN-GĐ năm 2000 không quy định cụ thể phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định “vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung”. Nếu vợ chồng thỏa thuận được việc chia tài sản thì sự thoả thuận đó phải được lập thành văn bản và việc phân chia tài sản được pháp luật công nhận. Vợ chồng có thể thỏa thuận chia toàn bộ tài sản hoặc chia một phần tài sản. Trong trường hợp vợ chồng “không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy theo luật HN-GĐ 2000 đã tôn trọng quyền tự thỏa thuận của vợ chồng bằng cách quy định không nhất thiết mọi trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đều do toà án quyết định mà trước hết sẽ do vợ chồng tự thoả thuận chia bằng văn bản. 2.3. Ý nghĩa của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: Quy định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là rất cần thiết, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội và phù hợp với ý chí của người dân Thứ nhất: Trong cuộc sống gia đình nhiều khi không tránh khỏi bất hoà dẫn đến tình trạng không muốn chung sống với nhau nhưng nhiều lí do khiến họ không muốn li hôn, quy định này là một giải pháp nhằm hạn chế tối ưu những xung đột mâu thuẫn của vợ chồng trước hết trong quan hệ tài sản sau đó là những quan hệ nhân thân khác, đồng thời giữ hoà khí cũng như tạo ra sự ổn định giữa các thành viên trong gia đình. Thứ hai: Trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định tiến bộ của luật HN-GĐ năm 1986 cũng như xuất phát từ thực tiễn khách quan là thay đổi để phù hợp với Hiến Pháp 1992, Bộ luật dân sự 1995 và luật doanh nghiệp năm 1999 về việc mở rộng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, quy định tại điều 29 HN-GĐ năm 2000 còn nhằm đảm bảo quyền tự chủ của vợ chồng khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, xã hội nhất định với tư cách là công dân, vợ hoặc chồng đều có quyền thực hiện các chức năng hợp pháp của mình để tránh hậu quả không tốt xảy ra ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, tạo điều kiện cho vợ chồng tự do thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình thì pháp luật quy định vợ chồng có quyền yêu cầu toà án cho chia tài sản chung của vợ chồng ngay trong thời kì hôn nhân còn tồn tại. Thứ ba: Quy định này đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người thứ ba khi tham gia giao dịch có liên quan đến tài sản của vợ chồng. Hiện nay, việc duy trì và phát triển đời sống gia đình thúc đẩy vợ chồng tham gia rộng rãi vào giao dịch dân sự, hoạt động này mang  lại lợi ích hợp pháp của cho vợ chồng cũng như phát sinh nghĩa vụ của vợ, chồng với người thứ bat ham gia giao dịch đẻe bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì người thứ ba cần phải biết quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản  chung của vợ chồng đẻ xác đinh phạm vi giao dịch,mức độ tài sản của vợ chồng trong việc thực hiện nghĩa vụ quy định này nhằm tạo sự công bằng, hợp lí, bảo đảm sự an toàn về tài sản không những cho người thứ ba mà còn cho cả gia đình. B.Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. 1. Quan hệ nhân thân: Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về lợi ích nhân thân đó là những quan hệ như: quan hệ giữa vợ và chồng yêu thương, giúp đỡ, tôn trọng lẫn nhau, quan hệ giữa cha mẹ và con cái về việc xác định chế độ pháp lý nhân thân của con chưa thành niên. Nhìn chung việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân theo quy định của pháp luật sẽ không làm thay đổi hay chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái. Hay nói cách khác việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Sau khi chia tài sản dù chỉ là một phần tài sản chung hay toàn bộ tài sản chung thì hai người vẫn tồn tại tất cả các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quan hệ vợ chồng như chăm sóc, giúp đỡ, tôn trọng, thương yêu nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt… Việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân không phải là quy định về li thân vì thế duy trì đời sống chung là nghĩa vụ của cả hai vợ chồng.Tuy nhiên việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng đã phần nào phản ánh được những mâu thuẫn tồn tại trong trong quan hệ giữa họ, sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung có thể dẫn đến việc vợ chồng sống li thân hoặc một trong các bên lẩn tránh trách nhiệm nuôi dạy con cái từ đó xảy ra tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự không thể nuôi bản thân mình.  Tóm lại vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ không làm thay đổi mối quan hệ nhân thân giữa các thành viên trong gia đình nhưng trong một số trường hợp ngoại lệ thì nó cũng có thể làm thay đổi một số quan hệ nhân thân trong gia đình như vợ chồng li hôn, lẩn tránh trách nhiệm nuôi dưỡng con cái vì vậy theo chúng tôi pháp luật cần phải quy định rõ và quan tâm hơn đối với vấn đề này để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con cái theo pháp luật hiện hành. 2.Quan hệ tài sản. Điều 30 luật HN-GĐ năm 2000 quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng” Hay khoản 2 điều 29 cũng quy định về vấn đề chia tài sản như sau: “Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm chốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì không được pháp luật quy định”. Trong khi đó điều 18 luật HN-GĐ năm 1986 quy định: “Khi hôn nhân tồn tại nếu một bên có yêu cầu và có lí do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định 42 của Luật này”. Điều đó đặt ra một vấn đề : Sau khi chia tài sản chung theo điều 18 thì nên hiểu chế độ tài sản chung vợ chồng sẽ chấm dứt kể từ khi có quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật, còn theo quy định của điều 29 và 30 luật HN-GĐ năm 2000 thì ta nhân thấy việc chia một phần tài sản chung có ý nghĩa thiết thực vừa đảm bảo khả năng thực hiện những nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đồng thời vẫn đảm bảo lợi ích chung của gia đình.   Về phía các bên vợ chồng, do việc chia tài sản chỉ đặt ra khi họ có nhu cầu cần sử dụng nó trong những hoàn cảnh đặc biệt chứ không muốn chấm dứt chế độ sở hữu chung khác với chia toàn bộ tài sản ở chỗ nó không gây ra những ảnh hưởng lớn đến đời sống chung của gia đình, không làm mất ổn định cuộc sống chung .Ngoài phần tài sản được chia riêng cho mỗi bên vợ chồng thì phần tài sản còn lại sẽ đảm bảo đời sống chung của gia đình.  Khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ phát sinh những hậu quả pháp lí sau: 2.1)Quyền sở hữu riêng của vợ chồng đối với phần tài sản được chia.  Theo quy định tại điều 29 và 30 luật HN-GĐ năm 2000 thì vợ chồng có quyền sở hữu riêng đối với phần tài sản đã được chia và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia.    Khoản 1 điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP  cũng quy định: “ Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thì thuộc sở hữu riêng của mỗi người, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.  Ví dụ: Hai vợ chồng anh A và chị B có tài sản chung bao gồm một mảnh đất diện tích 100m2 và một ngôi nhà 3 tầng với diện tích 30m2. Hai vợ chồng thỏa thuận anh A nhận quyền sử dụng mảnh đất và chị B nhận quyền sở hữu ngôi nhà. Sau khi chia khối tài sản chung, anh A cho một doanh nghiệp thuê mảnh đất để xây nhà cho công nhân ở. Như vậy, tiền thuê mảnh đất sẽ là tài sản riêng của anh A. Đối với những tài sản riêng này vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt( cho thuê hoặc bán…), theo điều 33 luật HN-GĐ năm 2000; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ ngôi nhà đã được chia cho mỗi người (tiền thuê nhà) sẽ thuộc sở hữu riêng của từng người. Tuy nhiên, liệu vợ chồng có bị hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng đó theo quy định tại khoản 5 điều 33 luật HN-GĐ năm 2000 hay không? Theo chúng tôi vợ chồng sẽ không bị ràng buộc bởi điều đó vì trước đó vợ chồng đã có sự thoả thuận về việc chia tài sản. 2.2) Quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với phần tài sản chung: Điều 30 luật HN-GĐ năm 2000 quy định “…phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc quyền sở hữu chung của vợ chồng.” Điều 8 nghị định số 70/2001/NĐCP quy định rõ thêm “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản chung vẫn thuộc sở hữu của vợ chồng”. Theo đó sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng sau khi chia một phần tài sản sẽ bao gồm: - Phần tài sản chung của vợ chồng chưa chia. Ví dụ: Hai vợ chồng có tài sản chung hợp nhất bao gồm ba ngôi nhà, họ thỏa thuận chia cho mỗi người được sở hữu riêng một ngôi nhà, còn một ngôi nhà làm chỗ ở chung của gia đình. Sau khi chia, vợ hoặc chồng có thể thể độc lập trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt phần tài sản đã được chia còn một ngôi nhà chưa chia sẽ vẫn thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, do cả vợ và chồng quản lý, sử dụng việc định đoạt phần tài sản này phải có sự thống nhất ý chí giữa hai người. - Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ những tài sản này. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, hoa lợi lợi tức phát sinh từ khối tài sản chung đương nhiên thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Trong ví dụ trên, giả sử hai vợ chồng cho thuê ngôi chưa chia, thì tiền thuê nhà sẽ thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. - Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung ngay sau khi chia tài sản chung. Sau khi chia tài sản, quan hệ hôn nhân không đồng thời chấm dứt, chính vì vậy, tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung đương nhiên thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật HN và GĐ năm 2000. - Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung; Theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 24, 26 Nghị định 70/2001/NĐ-CP thì “quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng”. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng, quan hệ hôn nhân vẫn tồn tại, chính vì vậy, tài sản (quyền sử dụng đất) phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đương nhiên thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Ví dụ : Vợ chồng được thừa kế chung quyền sử dụng đất, vợ chồng được nhà nước giao đất, cho thuê đất, vợ chồng được chuyển nhượng quyền sử dụng đất,…    -Quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ hoặc chồng có được sau khi chia tàì sản chung do nhà nước giao, giao khoán hoặc được thuê của nhà nước…Tuy nhiên, không phải trong bất kỳ trường hợp nào quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng có được cũng thuộc phần tài sản chung của vợ chồng. Cụ thể, sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thì quyền sử dụng đất mà mỗi bên vợ chồng có được chỉ là phần tài sản chung của vợ chồng nếu nó không liên quan đến lí do chia tài sản chung của hai vợ chồng. Ví dụ: Sau khi chia tài sản chung vợ hoặc chồng thuê đất hoặc được giao đất để đầu tư kinh doanh thì quyền sử dụng đất đó là tài sản riêng của mỗi người…Ngược lại nếu vợ chồng chia một phần tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên mà sau đó vợ chồng được giao đất thì quyền sử dụng đất đó là tài sản chung của vợ chồng.    Theo chúng tôi trong trường hợp này cần quy định theo hướng: quyền sử dụng đất mà vợ chồng hoặc mỗi bên vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vẫn là tài sản chung của hai vợ chồng, trừ trường hợp quyền sử dụng đất đó có được xuất phát từ việc chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh.  Một vấn đề rất quan trọng là tài sản mà vợ chồng làm ra sau khi chia tài sản chung như: tiền lương, tiền công lao động…là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của mỗi bên?   Về vấn đề này, Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định tại khoản 2 điều 6 như sau: “ Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi cá nhân sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Như vậy, sau khi chia tài sản, mỗi người độc lập với nhau về thu nhập hợp pháp của mình, phần thu nhập đó sẽ không thuộc phần tài sản chung của vợ chồng mà thuộc phần tài sản riêng của mỗi người. 2.3 Vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung Trong luật HN-GĐ năm 2000 không có quy định nào về việc khôi phục chế độ tài sản chung sau khi chia tài sản chung. Tuy nhiên, nghị định 70/2001/NĐ-CP lại có quy định về vấn đề này tại khoản 1 Điều 9: “Trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải lập thành văn bản và ghi rõ các nội dung sau: Lý do khôi phục chế độ tài sản chung; Phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên Phần tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nếu có; Thời điểm có hiệu lực của việc khôi phục chế độ tài sản chung; Các nội dung khác, nếu có; 2. Văn bản thỏa thuận phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập văn bản và phải có chữ ký của vợ và chồng; văn bản có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc theo quy định của pháp luật” Như vậy, sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có thể khôi phục chế độ tài sản chung thông qua thỏa thuận bằng văn bản theo quy định của pháp luật. Khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi đã chia không chỉ là thỏa thuận của vợ chồng xem xét những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng ( vì theo luật, vợ chồng có thể thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung thì khi khôi phục một phần hoặc toàn bộ tài sản của họ, coi như không có việc chia tài sản chung đó trong thời kì hôn nhân); mà ở đây cần phải hiểu khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng là “khôi phục căn cứ pháp lí xác lập tài sản chung vợ chồng”. Bởi lẽ, theo nguyên tắc chung, những tài sản mà vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh… trong thời kì hôn nhân ( trừ nguồn gốc là tài sản riêng) thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ này đã tạm chấm dứt khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (Điều 30 Luật HN và GĐ năm 2000; Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP): Sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thì những tài sản mà vợ, chồng được chia từ khối tài sản chung; các hoa lợi, lợi tức từ tài sản được chia; thu nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ chồng. Nay khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng theo Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 phải được áp dụng. Ví dụ: Tiền lương của mỗi bên vợ chồng trước khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, về nguyên tắc là tài sản chung của vợ chồng. Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. tiền lương đó thuộc sở hữu riêng của vợc chông. Nhưng sau khi khôi phục đó lại là tài sản chung của vợ chồng… Vấn đề này rất quan trọng, vì nó là cơ sở pháp lí nhằm xác lập tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng với nhau va với người khác. C. Những hạn chế trong quy định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân và phương hướng hoàn thiện. Nhìn chung, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định 70/2001/NĐ-CP đã có những quy định về hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hợp lý và chặt chẽ hơn so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Tuy nhiên các quy định mới hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, hạn chế. Cụ thể: Thứ nhất, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vợ chồng có thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu có lý do chính đáng, tuy nhiên Luật lại không dự liệu được hết các lý do chính đáng này, quy định này còn khá chung. Vì vậy, Luật hiện nay cần phải quy định rõ những lý do chính đáng đó là những lý do nào? Thứ hai, khoản 2 Điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP quy định trường hợp vợ chồng thỏa thuận việc chia tài sản chung bằng văn bản thì văn bản đó “có thể có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật”.Theo chúng tôi, cần pháp luật hiện nay cần quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng dứt khoát phải được Tòa án công nhận hoặc phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, nhằm hạn chế tối đa việc vợ chồng lợi dụng việc chia tài sản để tẩu tán tài sản, chốn tránh nghĩa vụ với người khác. Quy định này nhằm kiểm soát chặt chẽ các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thứ ba, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc chia tài sản chung vợ chồng không làm thay đổi mối quan hệ nhân thân giừa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng quy định này đã phản ánh những mâu thuẫn trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong hai bên trốn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó phát sinh tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niện, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo chúng tôi, pháp luật cần dự liệu: Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự như quy định về nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn. Bên cạnh đó, sau khi chia tài sản chung vợ chồng, có thể xảy ra trường hợp một thời gian sau, vợ chồng ly hôn hoặc một trong hai người chết thì những tài sản nào thuộc khối tài sản chung mới chia (Điều 95, 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Thứ tư, một vấn đề được đặt ra là tài sản của vợ chồng làm ra sau khi chia tài sản chung như tiền lương, thu nhập do lao động được xác định là tài sản chung hay riêng. Về vấn đề này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không quy định nhưng trong khoản 2 Điều 8 Nghị định 70/2001/NĐ-CP lại quy định như sau: “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là taì sản chung của vợ, chồng trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác”.Theo chúng tôi, quy định này chưa thực sự phù hợp, cụ thể: - Theo quy định tại điều 27 thì tài sản do bất cứ ai vợ hay chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân đều là tài sản chung của hai người không phân biệt mức độ đóng góp, không đòi hỏi phải do cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra. Khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân vì hôn nhân vẫn đang tồn tại và do tính chất cộng đồng của hôn nhân chi phối nên thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ chồng về nguyên tắc vẫn là tài sản chung của cả hai người. Rõ ràng khoản 2 điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã mâu thuẫn với quy định trên đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng không còn tồn tại chế độ sở hữu chung hợp nhất nữa vì sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng cơ bản có được từ lao động của mỗi bên. - Quy định trên cũng không phù hợp với ý chí và mong muốn của hai người vì khi chia tài sản chung vợ chồng chỉ mong muốn chia tài sản để có điều kiện thực hiện kinh doanh, nghĩa vụ riêng… mà không muốn chấm dứt chế độ sở hữu chung. Ngay trong trường hợp chia tài sản để thực hiện những công việc riêng  nhưng trong đời sống vợ chồng nhiều khi các bên vợ chồng cũng tự nguyện nhập hoa lợi, lợi tức phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh vào tài sản chung. Vì vậy nếu không có thoả thuận khác thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh từ phần tài sản đã được chia là tài sản riêng của mỗi bên vợ chồng. Việc chia tài sản để sản xuất kinh doanh một mặt tạo điều kiện cho các bên có vốn để sản xuất nhưng quan trọng hơn vì đương sự không mong muốn những rủi ro trong hoạt động sản xuất ảnh hưởng đến gia đình tránh tình trạng khuynh gia bại sản. Khi chia tài sản chung với mục đích sản xuất kinh doanh, chúng ta cần phân biệt hai loại thu nhập phát sinh sau khi chia tài sản chung là: Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản đã được chia do chính hoạt động sản xuất, kinh doanh đó là những thu nhập khác của vợ chồng không liên quan đến phàn tài sản đã được chia như: Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp…Cũng như những thu nhập hợp pháp khác như trúng sổ xố…vì hôn nhân vẫn còn tồn tại nên về nguyên tắc tất cả những tài sản này vẫn thuộc sở hữu chung vợ chồng chứ không phải là tài sản riêng của mỗi bên.Vì vậy, thu nhập hợp pháp khác và thu nhập do sản xuất, kinh doanh sau khi đã chia tài sản chung là tài sản riêng của mỗi bên khi nó gắn liền với phần tài sản được chia., ngược lại, những thu nhập đó là tài sản chung vợ chồng nếu nó có được không liên quan đến phần tài sản đã được chia. - Sau khi chia tài sản chung, đa số các cặp vợ chồng vẫn sống chung và việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải là quy định về li thân nên không đương nhiên dẫn đến chế độ biệt sản. Sau khi chia tài sản chung có thể họ vẫn sống chung với nhau và vẫn có nghĩa vụ đối với bên còn lại không đủ khả năng đảm bảo cuộc sống của mình, như vậy cả hai bên đều vẫn có trách nhiệm đối với đời sống chung mà không phân biệt mức độ thu nhập mỗi bên. Tuy nhiên, trách nhiệm đóng góp của vợ chồng vào đời sống chung của gia đình thì chưa có quy định ,khi đó theo quy định tại khoản 2 điều 8 NĐ số 70/2001/NĐ-CP thì toàn bộ thu nhập có được của mỗi bên do sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng vợ chồng. Như vậy, trong trường hợp vợ chồng chia hết tài sản mà không còn tài sản chung nào khác thì đời sống chung của gia đình sẽ được bảo đảm như thế nào?   Rõ ràng ở vấn đề này, quy định trên là chưa đầy đủ, chặt chẽ và thiếu logic vì vậy theo chúng tôi nếu đã có quy định như khoản 2 điều 8 NĐ 70/2001/NĐ-CP thì cần phải có quy định cụ thể về trách nhiệm của vợ chồng đối với đời sống chung của gia đình sau khi đã chia tài sản chung. Thứ năm, về vấn đề khôi phục tài sản vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, trong trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung thì từ ngày văn bản thỏa thuận có hiệu lực pháp luật, việc xác định tài sản thuộc sở hữu chung và tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên căn cứ vào sự thỏa thuận của vợ chồng. Theo chúng tôi, quy định này đã trao cho vợ, chồng một quyền hạn quá lớn. Vợ chồng có quyền thỏa thuận việc chia tái sản chung trong thời kỳ hôn nhân, lại có thêm quyền thỏa thuận về phần tài sản chung và tài sản riêng khi khôi phục tài sản chung sau khi chia mà không cần có sự xem xét của Tòa án đã biến Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 trở thành hình thức, chế độ tài sản pháp định không đảm bảo đúng bản chất pháp lý của nhà làm luật đề ra. Thực chất việc khôi phục tài sản chung của vợ chồng sau khi chia cũng chính là việc khôi phục “căn cứ pháp lý xác định tài sản chung của vợ chồng”được quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Pháp luật chỉ nên trao cho vợ chồng quyền được thỏa thuận tài sản riêng đối với tài sản chung được quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tóm lại, việc quy định vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đặc biệt là vấn đề hậu quả pháp lý sau khi chia là cần thiết song để đáp ứng được những yêu cầu đặt ra để giải quyết vấn đề này thiết nghĩ chúng ta cần củng cố những quy định pháp luật về vấn đề này thật chặt chẽ và hợp lý hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHậu quả pháp lý của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.doc
Luận văn liên quan