Hãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta giải quyết như thế nào

Dựa trên định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh chính là tư tưởng “thân dân”. I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN” CỦA HỒ CHÍ MINH. Năm 1955, đến nói chuyện với tri thức Thủ đô sau giải phóng, Bác Hồ có lời bàn: “Hạt nhân của việc học có thể tóm tắt trong 11 chữ: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”. Người nói thêm: “ Minh minh đức là chính tâm, Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết”. Cái tài tình và sâu sắc của Hồ Chí Minh là Người đã lấy ý từ sách Đại học: “ Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân”. Tân dân là làm mới nhân dân, ý tưởng này là tích cực khi Nho gia khuyên người đi học phải biết làm mới nhân dân. Hồ Chí Minh theo cách viết của Việt Nam, chỉ thêm chữ H và từ “tân dân” thành "thân dân". Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh làm cho lý tưởng vốn đã đẹp của Nho gia trở nên nhân văn hơn, thiết thực hơn. Tư tưởng “thân dân” của Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, được hình thành trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc, rút ra những bài học từ các bậc tiền bối và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác – Lênin đã được vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.

doc25 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4289 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta giải quyết như thế nào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ, hựu nô lệ” nghĩa là: Làm quan là nô lệ trong đám nô lệ, lại càng nô lệ hơn. Sự tức chí đó khiến cụ bị triều đình cho là “bất phùng thời”, phải đi khỏi kinh đô để vào làm tri huyện Bình Khê (Bình Định). Ngồi ghế Tri huyện nhưng cụ thường giao du với các nhà Nho yêu nước ở địa phương hơn là có mặt ở công đường, tạo điều kiện cho những nông dân thiếu tiền thuế, những người tham gia phong trào chống thuế… đang bị giam cầm, trốn thoát. Cụ rất oán ghét bọn cường hào bức hiếp nông dân và thường đứng về phía nông dân chống lại chúng. Tư tưởng yêu nước, thương dân của người cha đã ảnh hưởng sâu sắc tới thời niên thiếu của Nguyễn Tất Thành. Mặt khác, trong quá trình trưởng thành ở quê nhà, rồi đi học ở Huế, càng đi vào cuộc sống của nhân dân, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Người đã tận mắt chứng kiến cảnh đoạ đày dân đi phu ở Cửa Rào (Nghệ An) và tự bản thân Người cũng đã tham gia những cuộc biểu tình đòi giảm sưu, giảm thuế của nông dân sáu huyện của tỉnh Thừa Thiên (tháng 4-1908). Ấn tượng theo suốt cuộc đời Người là hình ảnh những người dân mất nước cần được giải phóng khỏi đoạ đày, đau khổ, cần được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tư tưởng đó, thực tế đó đã nằm trong hành trang của Người khi xuất dương tìm đường cứu nước. Với dự định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”, ngay từ những ngày hoạt động cách mạng đầu tiên trên đất Pháp, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Qua 30 năm bôn ba đất khách quê người, Hồ Chí Minh càng đau lòng về tình cảnh các dân tộc thuộc địa bị chủ nghĩa đế quốc, tư bản bóc lột thậm tệ và sự bất công xã hội ở ngay những nước giàu có nhất. Người đã ý thức được một xã hội vô đạo đức sẽ đẻ ra biết bao tai hoạ mà Người đã chứng kiến ở những nơi Người đã đi qua. Trong con người Hồ Chí Minh, lý tưởng giải phóng dân tộc gắn liền với lý tưởng xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng, ở đó quan hệ giữa người với người là quan hệ tình người, nhân nghĩa. Bởi thế khi về nước lãnh đạo phong trào cách mạng, ngay từ những lớp huấn luyện cán bộ đầu tiên, Người đã có bài giảng quan trọng về đạo đức cách mạng “Tư cách của người cách mệnh” và trước khi qua đời bài viết cuối cùng của Người cũng là: "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân". 2. Rút ra bài học kinh nghiệm từ các bậc tiền bối. Đất nước ta luôn phải đối mặt với kẻ thù xâm lược, và ở bất cứ thời đại nào cũng đều sinh ra những người con ưu tú, những người có tấm lòng yêu nước, thương dân. Họ đứng lên khởi xướng các phong trào đấu tranh dành độc lập dân tộc, và cho dù thành công hay thất bại, họ cũng đều để lại cho hậu thế một sự trân trọng, kính yêu và ngưỡng mộ. Dưới đây là hai nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng của phong trào Duy tân đầu thế kỷ XX, hai con người với hai quan điểm chính trị khác nhau, nhưng đều chung một mục đích là vì dân, vì nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm hướng giải phóng dân tộc không thể không nghiên cứu con đường đấu tranh của các bậc tiền bối, qua đó kế thừa những quan điểm tích cực, tiến bộ, đồng thời rút ra bài học từ những sai lầm của người đi trước. 2.1. Phan Bội Châu (1867 – 1940) Phan Bội Châu là một nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động dưới thời kỳ Pháp thuộc. Ông đã thành lập phong trào Duy Tân Hội và khởi xướng phong trào Đông Du. Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt từ khi qua Nhật Bản và được chứng kiến một nước có truyền thống Nho học do biết tiếp nhận và vận dụng những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây vào công cuộc duy tân mà trở nên hùng cường; được nghiên cứu và trao đổi về nguyên nhân cách mạng xã hội, về chính thể của các nước, về tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân quyền, dân trí và các biện pháp duy tân của Môngtexkiơ, Vônte, Rút xô..., ở Phan Bội Châu đã hình thành nên một quan niệm mới - quan niệm về dân quyền. Quan niệm này chứa đựng một nội dung mới mẻ và không kém phần phong phú, thể hiện mục đích thiêng liêng cứu nước, giải phóng dân tộc để đem lại tự do, hạnh phúc cho dân, đem lại quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ thể của các quyền lực trong xã hội. Trong Tân Việt Nam (1907), với sự khảo cứu lịch sử và hiện trạng của nước nhà, Phan Bội Châu đã vạch rõ: "Cái nọc độc chuyên chế của bọn người hại dân ấp ủ đã hàng ngàn năm nay từ bên Trung Quốc lây sang nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn kẻ dung nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm lo hết lòng hết sức đem máu mỡ của mình cung đơn cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt? Than ôi! Thật đáng thương thay". Trân trọng và đề cao quyền làm người, quyền của người dân là một trong những biểu hiện sinh động trong quan niệm của Phan Bội Châu. Phan Bội Châu chủ trương bạo động, một phần vì bản tính ("sinh bình tôi vốn ôm chủ nghĩa cấp khích") và một phần do áp lực của "bọn anh em trong phái cấp khích ở Nghệ Tĩnh... hối thúc tôi trong việc quân giới". Lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp bằng phương tiện võ trang (quân sự), đối với Phan Bội Châu, là phương cách duy nhất để lấy lại độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, ông cho rằng người Việt tự mình không địch nổi người Pháp, do đó phải cậy vào một cường quốc khác. Sở dĩ Phan Bội Châu và các đồng chí trong Duy Tân Hội chọn Nhật Bản để cầu viện vì Nhật là nước "đồng văn đồng chủng" mà lại vừa mới thắng Nga. Sau khi bị nhà đương cuộc Nhật trục xuất khỏi Nhật, Phan Bội Châu chuyển hướng, muốn liên kết với các nước "đồng bệnh" - trước hết là Trung Quốc - chống lại "cường quyền". Tuy nhiên, suốt đời Phan Bội Châu không rời chủ nghĩa Liên Á (Asianism), tin rằng nếu không có sự giúp đỡ của các nước "đồng văn đồng chủng" như Trung Quốc, Nhật Bản... thì Việt Nam không thể nào lấy lại độc lập. Các sử gia Việt Nam cho rằng đóng góp của Phan Bội Châu vào nền độc lập của Việt Nam là một đóng góp cực kì lớn lao, nghĩa khí và lòng tận tụy của ông biến thành sao Bắc Đẩu cho các cao trào cách mạng bạo động Việt Nam. Ông hô hào nhân dân học hỏi từ các cuộc cách mạng và các lãnh tụ Đông Á, và cho rằng, với sự giúp đỡ của các nước Đông Á đồng văn, người Việt có thể giành lại độc lập cho chính mình. Tuy nhiên, khuyết điểm lớn nhất của ông là đã không lôi kéo được thành phần dân nghèo, số người chiếm 80% dân số Việt Nam thời điểm đó, vào công cuộc giành độc lập. Thay vì cố tập trung đấu tranh tại tầng lớp làng xã, ông và những người đồng chí hướng chỉ chú trọng vào tầng lớp đứng đầu xã hội, tin tưởng rằng dân chúng bần nông sẽ tự động theo gương đấu tranh của các bậc học giả trí thức. Chính điều này đã dẫn đến sự thất bại trong các hoạt động của Phan Bội Châu. Các lãnh tụ cách mạng bước sau ông và các nhà cách mạng tiên phong khác nhờ vậy học hỏi được từ sai lầm này, cũng như thấu hiểu được tầm quan trọng của việc vận động địa phương. 2.2. Phan Châu Trinh (1872 – 1926) Phan Châu Trinh là nhà cách mạng xã hội có tư tưởng dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa, một nhân cách lớn. Ông là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20, một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Mặc dù rất đau xót trước cảnh người Pháp ngược đãi người Việt Nam, nhưng quan điểm của ông là trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bởi vì ông thấy dân trí nước ta còn quá thấp. Theo ông, trong tình trạng như vậy thì dầu có giành được độc lập "cũng không phải là điều hành phúc cho dân". Phan Châu Trinh cho rằng nhiệm vụ cấp bách là phải: - Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế. - Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cũ, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. - Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa... Phan Châu Trinh yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị hiện hành để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông đề cao phương châm "Tự lực khai hóa", vận động những người cùng chí hướng thức tỉnh dân chúng, tuyên truyền tư tưởng dân quyền. Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc Phan Bội Châu đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng quân chủ muốn dựa vào ngôi vua của Phan Bội Châu. Vì Phan Bội Châu theo chủ thuyết bạo động nên không phải ngẫu nhiên mà phần lớn những sinh viên du học ở Nhật và Trung Quốc vào đầu thế kỷ (dưới ảnh hưởng của Phan Bội Châu) đã học những trường quân sự, và đại đa số những người này cuối cùng đã hy sinh trong những vụ bạo động, mưu toan ám sát người Pháp cùng những người Việt cộng tác với chính quyền thuộc địa, hay các binh biến lẻ tẻ. Than tiếc cho sự việc này, Phan Châu Trinh đã viết: "Phải chi dùng số người xuất dương đó phân tán trong nước, đem trí thức, trình độ cao đó khiến cho mười mấy triệu người trong nước cũng có trí thức cao lên để tranh dành với Pháp". Trong bức thư gửi cho Toàn quyền Paul Beau đề ngày 15-8-1906, Phan Châu Trinh chỉ trích Chính phủ Pháp không lo mở mang khai thác hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế cho nhiều, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Ông tỏ ra quá tin vào truyền thống cũ của cách mạng Pháp và lòng tốt của thực dân Pháp. Có đoạn có những lời lẽ có phần nghiệt ngã, cứng nhắc đối với chủ trương bạo động và phong trào đấu tranh vũ trang của dân tộc. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phê phán đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém, để từ đó dẫn đến mức không tin cậy vào khả năng cách mạng của nhân dân. Mặc dù vậy, bức thư một khi được công bố đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước. Phan Châu Trinh không những có mặt ở đỉnh cao của phong trào tại mấy tỉnh miền Trung mà còn đến trường Đông kinh Nghĩa thục diễn thuyết biên soạn những áng thơ văn kêu gọi lòng yêu nước và hô hào cải cách. Trong khi phong trào này hầu như ở khắp mọi nơi chỉ đề cập đến cải cách văn hóa xã hội, đến sự đổi mới tri thức và phong tục thì Phan Châu Trinh là người đề xướng cải cách hệ thống chính trị với tất cả tính nghiêm trọng và cấp bách của vấn đề này. Ông đả kích hệ thống quan lại mục nát, tham nhũng, hủ lậu và bất lực. Ông nêu ra vấn đề chức trách, phẩm giá và cơ chế hoạt động của cả tập đoàn quan liêu từ triều đình đến những tên nha lại hào lý hằng ngày sách nhiễu đè nén những người dân lương thiện. Nhưng ông không dừng lại ở sự phê phán tầng lớp quan liêu hào lý mà còn phê phán cả quyền chuyên chế của nhà vua, nhất là "tám mươi năm trở lại đây, vua thì dốt nát ở trên, bầy tôi thì nịnh hót ở dưới; hình pháp dữ dội, luật lệ rối loạn, làm cho dân không còn biết sống theo cách nào". Ông còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đồi bại của bộ máy quan liêu là sự "dung túng của chính phủ Bảo hộ". Duy ở đây có điều là ông không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu sâu mọt như vậy để nô dịch nhân dân là bản chất của thực dân Pháp. Vì thế ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ Bảo hộ thay đổi chính sách và tiếp thu những đề nghị của ông về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ cho nhân dân. Nhưng sự thuyết phục đó không thể thành công. Có thể khẳng định rằng Phan Châu Trinh là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ. Tuy nhiên, Phan Châu Trinh coi dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tưởng rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ - dù là do thực dân nắm giữ - để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Sai lầm chính của ông chính là ảo tưởng về chế độ dân chủ tư sản, về những khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của nước Pháp. Phan Châu Trinh rất sắc sảo nhìn ra yêu cầu dân chủ hóa đất nước, nhưng ông cũng không có điều kiện suy nghĩ kỹ càng về các chủ trương dân chủ hóa. Trong tư tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh có những thiếu sót quan trọng mà ông không nhận ra không chỉ ở chỗ Phan Bội Châu nói: "Nước không còn nữa thì chủ cái gì". Song với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, sóng gió, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ. Kết luận Tư tưởng, quan niệm của các bậc tiền bối và Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thân dân” có chung một đặc điểm là cùng hướng đến lợi ích của dân chúng, cùng mong nhân dân được hưởng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của chế độ phong kiến thối nát và chủ nghĩa thực dân. Người nhận thấy nguyên nhân thất bại của những cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn bấy giờ (như phong trào Cần Vương - khởi nghĩa Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895); cùng thời gian này còn nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913) chính là do bởi sự tự phát, lẻ tẻ, thiếu một tổ chức đứng ra lãnh đạo, thống nhất mục tiêu. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra; còn con đường đấu tranh của Hoàng Hoa Thám có phần thực tế hơn, song vẫn mang nặng cốt cách phong kiến. Đến đầu thế kỷ XX, do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo phong trào yêu nước đầu giai đoạn này không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù dập tắt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của Phan Chu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Sai lầm lớn nhất của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chính là bởi họ không tin tưởng vào sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc, không lôi kéo được tầng lớp nông dân - tầng lớp chiếm đại đa số trong xã hội lúc bấy giờ tham gia vào phong trào của mình. Nhận ra sai lầm đó, cùng với sự giác ngộ lí tưởng cách mạng và chủ nghĩa Mác Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm được cho mình và cho đất nước một hướng đi đúng đắn nhất, đó là cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, dựa trên một hệ tư tưởng thống nhất mà ở đó nhân dân làm chủ, nhân dân là lực lượng nòng cốt. 3. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. 20 năm (1911 - 1930) bôn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xem xét, nghiên cứu những vấn đề về chính quyền, nhà nước, thiết chế chính trị và thể chế dân chủ. Người đã đánh giá rất sâu sắc về cách mạng tư sản Mỹ (năm 1776); cách mạng tư sản Pháp (năm 1789), cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (năm 1917). Những cuộc cách mạng xã hội lớn của một số nước đã tạo dựng nên những nhà nước với những mô hình khác nhau trong lịch sử. Từ sự phân tích nội dung, tính chất các cuộc cách mạng ở Mỹ, ở Pháp, Người đi đến kết luận: đó đều là những cuộc cách mạng không đến nơi - nghĩa là cách mạng rồi mà dân vẫn bị áp bức, bóc lột. Người chỉ rõ: “chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có cách mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự. Bài học mà Nguyễn Ái Quốc rút ra qua nghiên cứu cách mạng Tháng Mười Nga là: Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc. Người đưa ra kết luận: “Nhà nước phong kiến là công cụ của địa chủ để thống trị nông dân. Nhà nước tư bản là công cụ của giai cấp tư sản để thống trị giai cấp công nhân. Song, từ cách mạng Nga thành công, một xã hội mới ra đời, nhà nước đã trở thành công cụ để thống trị của nhân dân lao động”. Sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tán thành và gia nhập Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận thêm quan điểm về dân của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là quan điểm coi quần chúng nhân dân là những người làm ra lịch sử. Nhưng chữ dân của những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học đã được Nguyễn Ái Quốc cụ thể hoá trong hoàn cảnh của Việt Nam. Người quan niệm “dân” là bao gồm toàn bộ những người lao động và những người có tinh thần yêu nước. Như vậy phạm vi “dân” của Hồ Chí Minh rất rộng, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, cùng nguồn gốc, tổ tiên là dân tộc Việt Nam, cùng có chung một điều là tinh thần yêu nước. Không chỉ có thế, Hồ Chí Minh còn chú ý đến cái lõi giai cấp trong quảng đại quần chúng nhân dân - công nhân, nông dân và trí thức (công-nông-trí). Với đặc điểm này, khái niệm nhân dân của Hồ Chí Minh vừa bảo đảm đúng theo tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin về quan điểm giai cấp khi tập hợp lực lượng cách mạng, vừa rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít ỏi, nông dân chiếm hơn 90% dân số, tầng lớp thanh niên trí thức có tinh thần yêu nước, cách mạng. Với quan niệm duy vật lịch sử về nguồn gốc bản chất, chức năng của nhà nước nói chung, với những tính năng ưu việt, tính dân tộc và tính nhân dân của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, đã hun đúc, thôi thúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước kiểu mới phù hợp với những điều kiện xã hội ở Việt Nam. Đó chính là nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước độc lập ra đời đầu tiên ở Đông Nam Á được trịnh trọng tuyên bố trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945, một nhà nước mà các nhà nước đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG THÂN DÂN CỦA HỒ CHÍ MINH Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cứu nước thực chất là cứu dân, mưu cầu độc lập cho dân tộc thực chất là mưu cầu độc lập tự do cho nhân dân. Phấn đấu cho một xã hội mà ở đó dân tộc được độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc là tiêu chí xem xét một cuộc cách mạng, cũng là sự nghiệp cả cuộc đời Người mong đạt tới. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" Kể từ lúc còn là người dân xứ thuộc địa ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm bốn chữ "yêu nước, thương dân". Trong tư tưởng của Người, đất nước - Tổ quốc bao giờ cũng gắn liền với nhân dân. Nói yêu nước là phải nói tới yêu dân, lo cho dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tin tưởng ở sức mạnh của nhân dân. Nhân dân vừa là động lực của cách mạng, là nguồn sức mạnh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, vừa là đối tượng phục vụ của cách mạng, cách mạng phải mang lại quyền lợi cho nhân dân: quyền con người và quyền công dân, quyền được ăn no mặc ấm, được học hành, quyền hưởng hạnh phúc. 1. Không gì quý bằng nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích lý do của tư tưởng “thân dân”: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì, họ mong muốn những gì, và họ đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển; là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của dân. Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách mạng”. Từ thực tế, Người đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan” và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không phải vì lợi ích của quần chúng. Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền, nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”, không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”. Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng thời cũng là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh tin vào vai trò to lớn của nhân dân Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thấy đó là sức mạnh vô tận của dân tộc mà Đảng Cộng sản phải trân trọng. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Hồ Chí Minh đánh giá đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước, đều có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn sàng hy sinh tất cả để phục vụ Tổ quốc. Cho nên mỗi khi cách mạng cần đến sức người, sức của thì nhân dân đều nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, nhờ vậy cách mạng đã thành công, kháng chiến đã thắng lợi. Người hỏi: “Cách mạng thành công là do ai?” và trả lời “do quần chúng”. Người khẳng định một cách chắc chắn rằng “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng”. Do đó mà “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng đoàn kết của nhân dân”. Người đã dùng những lời lẽ tôn vinh nhân dân lên hàng tối thượng trong tất cả các lực lượng và chỉ rõ vai trò to lớn nhất của nhân dân mà không có lực lượng nào có thể sánh được. 2. Nước ta là một nước dân chủ Con người là một giá trị cao quý và là mục tiêu của bất cứ cuộc cách mạng nào. Chính vì vậy, bảo vệ và phát huy các quyền cơ bản của con người phải là trọng tâm và là cái đích cuối cùng của mỗi cuộc cách mạng, của mỗi thể chế tiến bộ. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, cứu nước thực chất là cứu dân, mưu độc lập cho dân tộc thực chất là mưu cầu độc lập tự do cho nhân dân. Phấn đấu cho một xã hội mà ở đó dân tộc được độc lập, dân quyền được tự do, dân sinh được hạnh phúc là tiêu chí xem xét một cuộc cách mạng, cũng là sự nghiệp cả cuộc đời Người mong đạt tới. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự kiện lịch sử trọng đại này gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh, người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, xây dựng lực lượng, căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo Tổng khởi nghĩa và đặc biệt là soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 đã và đang còn vang vọng những lời bất hủ, những giá trị cao đẹp của nhân loại: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, một câu trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp 1789 nhằm vạch ra rằng những tư tưởng đó là những ý kiến chung có giá trị tiến bộ toàn nhân loại, là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được. Và tư tưởng của Việt Nam về quyền con người cũng có nội dung phổ biến như vậy, có chung lý tưởng với nhân loại về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là lẽ tự nhiên, là tạo hoá chứ không phải do ai ban phát. Nhưng, nét sáng tạo độc đáo của Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 là ở chỗ: có sự mở rộng khái niệm quyền con người ra đến “quyền làm người”, đến “quyền dân tộc”. Những tư tưởng này được phát triển từ những tư tưởng đòi các quyền, các yêu sách của nhân dân An Nam từ năm 1919 của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ tư duy lý luận của Hồ Chí Minh đạt đến mức biện chứng sâu sắc. Nó xuất phát từ thực tế lịch sử dân tộc ta, gần một thế kỷ bị giặc ngoại xâm thống trị, mọi quyền con người đều bị tước đoạt, kể cả những quyền tối thiểu nhất. Dân tộc có được độc lập thì mới có tiền đề để thực hiện các quyền con người. Mặt khác, dân tộc được độc lập mà nhân dân không có quyền gì, nhân dân không được tự do thì độc lập dân tộc cũng không có ý nghĩa. Như vậy, có thể thấy khái niệm quyền con người ở Tuyên ngôn độc lập đã được triển khai tới mức cụ thể trong thực tiễn, là công cụ thiết thực và sắc bén chỉ đạo hoạt động thực tiễn cách mạng nước ta là: phải giải phóng dân tộc, giành được độc lập dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc, sau đó mới có thể giải phóng con người, mới có thể xác lập được quyền con người và quyền công dân. Thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân lại là cơ sở để giữ gìn độc lập dân tộc, để độc lập dân tộc có ý nghĩa đích thực. Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề xây dựng nhà nước dân chủ mới của dân, do nhân dân là người làm chủ, thể hiện quan điểm: bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đối với Hồ Chí Minh, dân chủ là điều cốt tử còn chuyên chính chỉ là phương tiện đảm bảo dân chủ. Người chỉ rõ: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không còn khoá, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khoá, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”. Điều kiện, tiền đề và là thước đo trình độ làm chủ của nhân dân được thể hiện ở ba mặt: bảo đảm dân quyền, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà vừa mới được thành lập sau Cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Chính vì thế, phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3/9/1945 đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là: cứu đói cho dân, chống giặc dốt, xoá bỏ những thứ thuế hà khắc do chế độ cũ để lại, ban hành quyền tự do dân chủ cho nhân dân, thực hiện nền giáo dục nhân dân, thực hiện tự do tín ngưỡng, nam nữ bình quyền,... Và trong muôn vàn công việc của người lãnh đạo tối cao của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên việc tiếp chuyện, lắng nghe ý kiến của đại biểu các đoàn thể nhân dân. Người viết thông cáo tiếp dân bằng những lời lẽ thật giản dị, ân cần, thể hiện lòng yêu quý, sự tôn trọng với đồng bào: “Từ năm nay tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể… Gửi thơ nói trước, để tôi sắp thì giờ, rồi trả lời cho bà con, như vậy thì khỏi phải chờ đợi mất công”. Ngày 20/2/1947, nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ cộng hoà dân chủ là gì? Là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì chính phủ phải là đầy tớ… Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”. Người khẳng định: dân chủ là nhân dân “là người làm chủ đất nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống”. Các cấp chính quyền Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, bao giờ, ở đâu, xuất phát của hành động cũng là “vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cách mạng vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng hoàn toàn không có một bức tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. Dẫn ra hai câu thơ của đại văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn: "Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu" mà Người tạm dịch là "Trợn mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: "Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy, nhưng Đảng Lao động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân". Rõ ràng, quan điểm đảng, chính quyền, cán bộ và đảng viên là đầy tớ của nhân dân chỉ có ở chế độ ta và do bản chất của chế độ ta quy định. Nội dung khái niệm “đầy tớ”, “công bộc” của dân được Hồ Chí Minh chỉ ra rất rõ, rất cụ thể chứ Người không nêu ra để mị dân. Theo Người, "điều chủ chốt" nhất của đạo đức cách mạng là "quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng", là "tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải có thái độ yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, học hỏi quần chúng, thật thà, ngay thẳng, không giấu dốt, giấu khuyết điểm, giấu sai lầm; khiêm tốn, gần gũi quần chúng; không được kiêu ngạo, phải thực sự cầu thị, không được chủ quan; kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng tiến hành thắng lợi mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Và cũng từ rất sớm, rất kiên quyết, Người đã đặt vấn đề đấu tranh để ngăn ngừa các tệ quan liêu, chuyên quyền, tham ô, lãng phí, đặc quyền đặc lợi trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người coi đó là thứ giặc rất nguy hiểm, chà đạp quyền dân chủ, làm hư hỏng cán bộ, phá vỡ kỷ cương, kỷ luật, có thể làm ruỗng nát chế độ dân chủ từ bên trong. Tháng 1-1960, tại buổi lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Người lại nói: "Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hoá lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế và văn hoá tiên tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hằng ngày của nhân dân. Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng mỗi đồng bào ta. Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác". Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các nhà báo, đã nói rõ: “cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân” và “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích quốc lợi dân”. Trên thế giới, đã có không ít trường hợp những người quyền cao chức trọng, là lãnh tụ, đứng ở vị trí đỉnh tháp quyền lực thì quên mất nền tảng quyền lực là nhân dân; họ coi dân chúng như là một công cụ, phương tiện để phục vụ cho mục đích củng cố và thao túng quyền lực của mình. Còn với Hồ Chí Minh, Người coi việc mình làm Chủ tịch là do nhân dân ủy thác cho. Người tự cho mình là"người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận", là "người đày tớ trung thành của đồng bào". Đó là tư cách rất đúng đắn của vị lãnh tụ Đảng cầm quyền trong giai đoạn nhân dân giữ vai trò làm chủ đất nước, xây dựng một xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người suốt đời phấn đấu quên mình vì đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam, người có lòng tin lớn lao vào nhân dân, tin vào mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, vào trí tuệ, tài năng và phẩm chất của con người Việt Nam. Nhân dân làm chủ đất nước, là tác giả của thắng lợi liên tiếp trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và ngày nay cũng là tác giả của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tiếp tục phát huy sức mạnh của nhân dân để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chính là sự kế tục và phát triển sáng tạo tư tưởng nhân dân làm chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình mới. 3. “Trung với nước, hiếu với dân” Hồ Chí Minh đã nâng cao đạo đức “yêu nước thương dân” thành “trung với nước, hiếu với dân” trong thời đại mới. Người nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Xây dựng xã hội đạo đức là lý tưởng của Hồ Chí Minh. Lý tưởng ấy thể hiện trong lý tưởng sống của Người: “Tôi chỉ có một ham muốn, một ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đạo đức trung và hiếu có từ ngàn xưa của dân tộc ta, được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong thời đại mới: Trung với nước, hiếu với dân. Hồ Chí Minh cho rằng quần chúng nổi dậy lật đổ chế độ cũ tất yếu là người làm chủ chế độ mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là bước ngoặt chưa từng xuất hiện trong lịch sử của dân tộc ta, trở thành sức mạnh vô biên để kháng chiến và kiến quốc. Người nói: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đên chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Hồ Chí Minh gắn liền trung với hiếu, hiếu với trung. Chưa thấy người có hiếu mà phạm tội bất trung. Người cán bộ, đảng viên chân chính phải là người vừa trung với nước vừa hiếu với dân. Không thể xứng đáng làm người công bộc, người “đầy tớ thật trung thành" của nhân dân nếu không quan tâm đến những khó khăn, thiếu thốn, khốn khổ của nhân dân thậm chí còn tìm cách chiếm đoạt của cải, ức hiếp tinh thần của dân. Hồ Chí Minh răn dạy và yêu cầu cán bộ, Đảng viên: “Việc gì có lợi cho dân thì gắng sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh" . Trong bài "Đạo đức cách mạng”, viết năm 1958, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng của người đảng viên là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng; phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân. Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”. Theo đồng chí Hoàng Tùng nguyên Bí thư Trung ương Đảng: “Hồ Chí Minh luôn luôn từ chối nắm quyền lực. Khi bị Quốc tế cộng sản phê phán một cách không công bằng và không được giao công tác, Người không hề oán giận, nhưng kiên trì chân lý. Nhiều lần Người từ chối nhận chức Tổng Bí thư. Khi làm Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Người vẫn nêu ra vai trò tập thể Bộ Chính trị, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Chính phủ. Người dứt khoát bác bỏ tham vọng quyền lực, chỉ muốn sẻ bớt cho người khác, nhưng làm việc hết sức mình với tinh thần trách nhiệm gương mẫu”. Có thể nói, Hồ Chí Minh là mẫu mực tuyệt vời kết tinh đạo đức trung với nước hiếu với dân từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam đã nâng lên tầm cao mới trong thời đại ngày nay. Trước khi từ biệt cõi trần, Người viết trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Chúng ta mãi mãi thấm sâu lời căn dặn của Người: “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. III. CÁCH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NÀY CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC. Xứng đáng là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công sáng lập, chăm lo xây dựng, một đảng đã được tôi luyện và trưởng thành trong lò lửa đấu tranh cách mạng anh dũng của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cố gắng vươn lên để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn dựa vào dân, tin ở dân, phát huy quyền làm chủ thực sự, tiềm lực và sức sáng tạo của nhân dân. Ngay từ những ngày đầu tiên của tiến trình đổi mới, Đảng đã xác định: "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng ''lấy dân làm gốc'', xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động". Điều này được coi là bài học kinh nghiệm hàng đầu trong 4 bài học cơ bản mà Đại hội VI nêu lên để định hướng cho công cuộc đổi mới. Từ những sáng kiến của nhân dân, tư tưởng đổi mới được thai nghén và hình thành ngày càng rõ nét. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt cực kì quan trọng, đánh dấu sự ra đời của chủ trương đổi mới trên mọi lĩnh vực của công cuộc cách mạng và đời sống xã hội. Đổi mới là sự trở về với di sản Hồ Chí Minh, rũ bỏ bệnh giáo điều, bệnh duy ý chí, bệnh quan liêu, mở ra nhận thức mới về Việt Nam và con đường cũng như động lực phát triển của dân tộc. Kế thừa và khẳng định tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân dân làm chủ đất nước, hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3). Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ đoàn kết toàn dân. Hiện nay, đại đa số cán bộ, Đảng viên ta đã nhận thức và làm tốt việc coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện... Tuy nhiên, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập cùng những thiếu sót, khuyết điểm chủ quan của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý cũng như trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước nên thời gian qua ở nước ta, các hiện tượng tiêu cực xã hội phát triển, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Tệ tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, có nguy cơ làm biến chất Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước và chế độ, làm giảm sút mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, gây nguy hại cho sự nghiệp cách mạng. Trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân, những biểu hiện như quan liêu, cửa quyền, vô cảm với nhân dân, xa dân, sách nhiễu dân đang có nguy cơ phát triển. Sự tha hóa của một bộ phận cán bộ có chiều hướng phát triển, thể hiện ở xa dân, sách nhiễu dân, tệ quan liêu, tham nhũng… Cán bộ lãnh đạo một số nơi còn lúng túng trước nhiệm vụ đặt ra, hội họp nhiều nhưng giải quyết công việc chưa hiệu quả, không sâu sát thực tế... Đối thoại giữa chính quyền và người dân chưa thường xuyên. Còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm nên giải quyết khiếu nại, tố cáo chậm. Bệnh che giấu khuyết điểm, nơi này đổ lỗi cho nơi kia còn khá phổ biến...Tình trạng hành dân, khinh dân, thậm chí lợi dụng quyền hành để bắt dân cống nạp, vẫn xảy ra ở nơi này nơi kia trong bộ máy chính quyền các cấp, kể cả cấp cơ sở, ở các vùng nghèo, vùng sâu. Nhiều cơ quan công quyền thường có thói quen ra những mệnh lệnh, những quyết định bắt người dân phải thi hành mà không tham khảo ý kiến của nhân dân. Ở nhiều địa phương việc xây dựng Quy chế dân chủ còn hình thức, trên thực tế người dân chưa được thực hiện quyền chính đáng của mình. Chính quyền một số nơi, nhất là ở cơ sở, nơi trực tiếp với nhân dân nhưng lại xa dân, ít quan tâm đến đời sống của nhân dân, không chú ý tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc và tâm tư, nguyện vọng của dân, phong cách chỉ đạo, quản lý nặng về quan liêu, mệnh lệnh, vô cảm trước khó khăn, vất vả của dân. Những chủ trương liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của dân không được đưa ra bàn bạc, thảo luận, lấy ý kiến của nhân dân hoặc giải thích cho nhân dân hiểu rõ để nhân dân tự giác chấp hành. Vì vậy, một số quyết định của chính quyền cấp cơ sở không được nhân dân đồng tình, có nơi khiến nhân dân bất bình, là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài. Để khắc phục được tình trạng đó, đòi hỏi những “đày tớ”, “công bộc” của dân, có bổn phận phục vụ nhân dân, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của dân giao, chịu sự kiểm soát của dân và sẽ bị tước quyền nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Để phục vụ nhân dân, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, nêu gương, bền bỉ, kiên định, rèn luyện trong thực tiễn. Để làm được điều đó thì phải có giác ngộ sâu sắc về mục đích sống, mục đích hành động và việc làm của mỗi người. Tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân chỉ có được khi cán bộ, đảng viên thực sự thân dân. Thời đại Hồ Chí Minh, những giá trị văn hóa chính trị yêu nước, thương dân, lấy dân là gốc được soi sáng và phát triển rực rỡ, trở thành chân lý khoa học, kim chỉ nam cho hành động. Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà mình đại diệnđể hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì hại đến cho dân ta phải hết sức tránh”. Bởi, ta có yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải trung thành với mục tiêu lý tưởng, với chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành chính, một tổ chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn thành kế hoạch được giao và nếu có chức vụ phải biết sử dụng quyền lực để giao việc, kiểm tra, theo dõi, đánh giá, phê bình, khen thưởng một cách công minh chính trực; phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây dựng quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài chính, các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, làm cho cơ quan đoàn kết nhất trí; không xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia cánh, cục bộ, bản vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan đến người dân; phải thận trọng trong việc xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến quyền bình đẳng, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý kiến, khiếu nại, tố cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải biết bình tĩnh lắng nghe, phân tích và có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết định của mình chưa đúng. Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó khăn, tốn kém cho dân… Nói và thực hành “Thân dân” trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay càng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải gần dân, sát dân, luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu mọi tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của dân, nhằm giải quyết kịp thời những nhu cầu và lợi ích chính đáng, thiết thực và cụ thể của quần chúng; phải từ trong dân, từ ý chí và tâm trạng của dân để phục vụ nhân dân. * Từ góc độ là Đoàn viên của Trường Đại học Kinh tế quốc dân - một đơn vị trọng điểm hàng đầu của đất nước về lĩnh vực đào tạo cán bộ quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh, tôi muốn chia sẻ một vài suy nghĩ. Trong những năm qua toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phát động việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tuổi trẻ chúng ta cũng cần phải có những hành động cụ thể để làm theo gương Bác. Bác Hồ kính yêu của chúng ta là một tấm gương sáng ngời không những về lòng yêu thương con người, về những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư mà là tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống này. So với chúng ta thời nay, tuổi trẻ của Bác đã phải chịu nhiều gian khổ khi đất nước còn chìm trong bóng đêm nô lệ. Người đã sớm nhận ra nhiệm vụ của thanh niên lúc ấy là phải cứu lấy nước nhà, nhưng phải làm thế nào? Đó chính là phải học tập, phải tìm cách vực dậy truyền thống nhân văn, truyền thống hào hùng trong mỗi con người Việt Nam để tạo thành phong trào cách mạng giành độc lập. Để thực hiện điều ấy Bác đã đi đến các nước trên thế giới để tìm chân lý, để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Đó là một quá trình học tập gian khổ, dài lâu và phải thực sự là một người có nghị lực phi thường như Bác mới có thể vượt qua. Sinh thời, Bác Hồ là một tấm gương học tập đáng khâm phục, có câu chuyện kể rằng Bác Hồ đến nước Nga để tìm hiểu những tác phẩm của Lê-nin, Người đã phải làm công việc cào tuyết trên đường ở Mátxcơva trong những đêm đông lạnh giá kiếm tiền mua sách vở để học. Cuối cùng Người đã học được tiếng Nga, nói chuyện với các đồng chí người Nga bằng thứ tiếng Nga một cách chính xác, đọc được Luận cương của Lê-nin bằng thứ tiếng Nga chính thống. Quả là một tấm gương học tập không phải ai cũng có thể làm được. Ngày nay, chúng ta đã có cuộc sống hòa bình, cơm no áo ấm, chúng ta được đi học, được tiếp cận với nhiều phương tiện hiện đại, vậy tại sao chúng ta không thể học tập và làm theo lời Bác bằng việc làm quen thuộc hàng ngày đó là trau dồi kiến thức để dựng xây đất nước ? Làm được điều ấy là chúng ta đã thực hiện tốt việc học tập và làm theo lời Bác, không nhất thiết phải làm những gì lớn lao nhưng lại xa lạ và mang tính hình thức. Tôi tin rằng chúng ta sẽ làm được nếu như chúng ta có quyết tâm cao và sự kiên trì để thực hiện. Mỗi người một cách để học tập và làm theo gương Bác, với tôi đó là cố gắng trau dồi thật nhiều kiến thức, tích lũy thật nhiều kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày và vị trí công việc sau này. Trong thời đại tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, có rất nhiều các bạn trẻ quan niệm rằng: “Việc học cốt yếu là tìm được việc làm với thu nhập cao để ổn định cuộc sống, cuộc sống không thể thiếu tiền”. Ai ai cũng đều nhận thấy một sự thật rằng kinh tế càng phát triển, đất nước càng giàu bao nhiêu thì kéo theo đó là sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giữa người với người ngày một sâu sắc thêm. Chúng ta luôn được giáo dục rằng hãy học tập và làm theo tấm gương chủ tịch Hồ Chí Minh, tức là cần phải thấm nhuần tư tưởng ”thân dân” của Người. Trong thời bình này, những tưởng chúng ta đang có điều kiện tốt nhất để phát huy, phát triển tư tưởng đó, nhưng dường như có những người đang đi ngược lại lời răn dạy của Bác. Có những hạn chế là không thể tránh khỏi, nhưng ta có thể làm giảm bớt nếu như ta có đầy đủ kiến thức cũng như sự hiểu biết và nhận thức được giá trị mà tư tưởng Hồ Chí Minh mang lại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta giải quyết như thế nào.DOC
Luận văn liên quan