Với nhu cầu diện tích sử dụng cho sản xuất kinh doanh khá lớn, các trại sản 
xuất cá cảnh có xu hướng chuyển dịch từ vùng sản xuất truyền thống ở nội thành ra 
vùng ven đô - nơi có nguồn nước trong sạch hơn và ít chịu ảnh hưởng của các dự án 
đô thị hóa. Chỉ một phần nhỏ các cơ sở sản xuất nhận được sự hỗ trợ về vốn và kỹ
thuật, hầu hết các trại sử dụng nguồn giống sản xuất tại chỗ với hình thức nuôi ao. Do 
đó, có đến 68,2% số trại nuôi chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường, chủ yếu là do 
hóa chất công nghiệp. Trước khi chuyển sang cá cảnh, đa số các chủ cơ sở đã tham 
gia sản xuất cá giống cá thịt dùng cho nuôi thương phẩm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 69 trang
69 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4130 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện trạng kinh doanh và nuôi giải trí cá cảnh nước ngọt tại TP HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời nuôi cá trong những bể nhỏ và trung bình nhận thức 
rõ hơn so với những người nuôi trong bể lớn. Tuy nhiên, kết quả mô hình cũng cho 
thấy những người nuôi cá theo hình thức nuôi ghép nhiều loài cá hay nuôi ghép cá với 
thực vật thủy sinh cũng nhận thức về vai trò giảm stress của việc nuôi cá cảnh nhiều 
hơn so với những người nuôi theo hình thức nuôi đơn (Bảng 2). 
Trong 322 hồ nuôi mà chúng tôi thống kê được có 200 hồ nuôi theo hình thức nuôi 
đơn; 54 hồ nuôi theo hình thức nuôi ghép cá với cá không trang trí cây thủy sinh; có 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 53 
68 hồ nuôi theo hình thức nuôi ghép cá với cây thủy sinh. Hình thức nuôi đơn chiếm 
tỷ lệ nhiều nhất (chiếm 83,33 %) với các đối tượng nuôi chủ yếu là cá la hán, cá 
rồng, cá tai tượng. Hồ nuôi ghép chủ yếu là các loài cá có kích thước nhỏ như cá 
hoà lan; cá cánh buồm; cá phượng hoàng; cá bảy màu; cá chép nhật; cá vàng… 
Hiện nay nuôi cá cảnh kết hợp trồng cây thuỷ sinh trong hồ nuôi ngày càng phổ biến, 
những người nuôi cá kết hợp với cây thuỷ sinh thường chọn những loài cá có kích 
thước nhỏ như cá môly; cá neon đỏ; cá cánh buồm; cá hồng nhung; cá tứ vân; cá 
hoà lan; cá hồng kim; cá bảy màu;… một số ít người thì chọn cá dĩa hoặc cá rồng. 
Bảng 2. Các yếu tố tác động đến vai trò giảm stress của cá cảnh 
Parameter Estimate S.E Chi-Square P-value 
Kinh nghiệm -0.4689 0.1162 16.2885 <.0001 
Số cá -0.157 0.0448 12.3079 0.0005 
Bể nhỏ 1.5368 0.5815 6.9847 0.0082 
Bể trung bình 1.0201 0.5197 3.8537 0.0496 
Nuôi đơn -1.8722 0.7783 5.7868 0.0161 
Chi phí mua bể 4.58E-06 1.72E-06 7.1265 0.0076 
Vai trò thẩm mỹ 
Vai trò tạo nên một không gian số tươi đẹp hơn được nhận thức rõ hơn ở 
những người nuôi cá có nhiều kinh nghiệm hơn, nuôi bể nhỏ hơn, thay nước ít hơn 
cũng như chi phí mua cá ít hơn (Bảng 3). Kết quả hồi qui cũng cho thấy những người 
có khả năng đầu tư nhiều hơn, trong đó chú trọng đầu tư nhiều hơn cho bể cá và tranh 
thiết bị đi kèm sẽ nhận thức rõ hơn về vai trò thẩm mỹ của việc nuôi cá cảnh nước 
ngọt. Việc đầu tư nhiều hơn cho trang thiết bị phụ kiện như lọc nước, sục khí, vật 
dụng trang trí... giúp cho người nuôi cảm thấy việc nuôi cá cảnh đem lại giá trị thẩm 
mỹ nhiều hơn. 
Bảng 3. Các yếu tố tác động đến nhận thức về vai trò thẩm mỹ của cá cảnh nước ngọt 
 Estimate S.E Chi-Square P-value 
Kinh nghiệm 0.693 0.2559 7.3307 0.0068 
Số hồ -3.4727 0.9347 13.8019 0.0002 
Bể nhỏ 2.7457 0.8597 10.1993 0.0014 
Bể trung bình 1.9488 0.8775 4.9323 0.0264 
Thay nước <1 tuần/lần 3.042 1.7307 3.0894 0.0788 
Thay nước 1 tuần/lần 4.3091 1.8152 5.6352 0.0176 
Thay nước 1-2 tuần/lần 6.772 2.2347 9.1835 0.0024 
Thay nước 50-70% -2.1872 0.7094 9.5057 0.0020 
Chi phí mua cá -4.56E-06 1.26E-06 13.1928 0.0003 
Chi phí mua bể 8.21E-06 2.83E-06 8.4336 0.0037 
Chi phí mua thiết bị 0.000013 7.33E-06 3.3769 0.0661 
Tổng chi phí 3.71E-06 1.06E-06 12.2843 0.0005 
Bể cá cũng được xem như một cảnh vật trang trí bên trong ngôi nhà cho nên hầu hết 
người nuôi cá cảnh đều sử dụng hệ thống lọc, đèn chiếu sáng, máy sục khí gắn trực 
tiếp vào hồ cá, để lọc một phần thức ăn thừa và chất thải của cá, giữ nước trong sạch 
giúp cá khỏe mạnh và làm cho hồ cá thêm phần thẩm mỹ. Đa số người nuôi 
(94,17%) sử dụng hệ thống lọc thác trong khi chỉ có 6,67% sử dụng hệ thống lọc tràn 
và không có ai sử dụng hệ thống lọc ngoài trong số những người được phỏng vấn. 
Hệ thống lọc thác giá rẻ, dễ sử dụng, ít tốn diện tích hồ và cửa hàng nào cũng bán 
nên dễ mua trong khi hệ thống lọc tràn tốn diện tích bể (chiếm 1/5 thể tích hồ). 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 54 
Vai trò tạo thuận lợi cho việc làm ăn, kinh doanh 
 Vai trò tạo điều kiện cho công việc làm ăn thuận lợi hơn được xác nhận nhiều 
hơn bởi những người nuôi cá với số cá và số bể ít hay kích cỡ bể nhỏ hơn (Bảng 4). 
Mô hình hồi qui logistic nhị phân với biến phụ thuộc là xác nhận của người nuôi về 
vai trò tạo thuận lợi cho công việc kinh doanh cũng dự đoán những người tin vào vai 
trò này cũng thay nước ít hơn và chi phí nhiều hơn cho việc mua sắm bể cá trong khi 
lại ít đầu tư hơn cho việc mua cá. 
Người nuôi cá cảnh nước ngọt thường thay nước 1-2 tuần/lần (85%) trong khi số 
người thay nước dưới 1 tuần/lần chiếm tỷ lệ 10,83% và hơn 2 tuần/lần chiếm tỷ lệ 
4,17%. Hình thức thay nước của người nuôi chủ yếu là hút nước đáy và thay một 
lượng nước nhất định, ít người thay hết bể vì thay hết bể dễ làm cho cá bị shock. Với 
nguồn nước chủ yếu là nước máy, lượng nước họ thay mỗi lần ít nhất là 30% và 
nhiều nhất là 100%. Lượng nước thay từ 30 - 50% chiếm tỷ lệ 41,67%, lượng nước 
thay 50 - 70% chiếm tỷ lệ 53,33%, lượng nước thay 70 - 100% chiếm tỷ lệ 5%. 
Bảng 4. Các yếu tố tác động đến nhận thức về vai trò tâm linh của cá cảnh nước ngọt 
khiến cho công việc làm ăn của người nuôi thuận lợi hơn 
 Estimate S.E Chi-Square P-value 
Intercept -1.1577 0.3533 10.7348 0.0011 
Số lượng cá -0.0423 0.0137 9.6192 0.0019 
Số bể -0.9436 0.2900 10.5870 0.0011 
Bể nhỏ 0.8071 G0.2344 11.8598 0.0006 
Thay nước 1 tuần/lần -0.7583 0.2580 8.6360 0.0033 
Thay nước 50-70% -0.5157 0.2369 4.7387 0.0295 
Chi phí mua cá -1.92E-07 1.10E-07 3.0735 0.0796 
Chi phí mua bể 4.25E-06 7.43E-07 32.7232 <0.0001 
Vai trò tâm linh 
Vai trò tâm linh của cá cảnh được khảo sát thông qua vai trò đem lại may mắn 
cho người nuôi. Trong khi tổng chi phí đầu tư không có tác động một cách có ý nghĩa 
đến nhận thức về vai trò tâm linh của cá cảnh nước ngọt, những người đầu tư nhiều 
tiền hơn cho việc mua bể có nhận thức rõ ràng hơn về vai trò tâm linh này thể hiện ở 
tác động có ý nghĩa thống kê ở mô hình hồi qui logistic nhị biến (Bảng 5). Dù ít tin 
hơn đối với vai trò tạo thuận lợi làm ăn, những người chi phí nhiều hơn cho việc mua 
cá dường như tin nhiều hơn vào vai trò của cá cảnh trong việc đem lại may mắn cho 
người nuôi. 
Bảng 5. Các yếu tố tác động đến nhận thức về vai trò tâm linh của cá cảnh nước ngọt 
trong việc đem lại may mắn thịnh vượng cho người nuôi 
 Estimate S.E Chi-Square P-value 
Intercept -54.6995 21.7711 6.3126 0.012 
Số bể -13.9541 6.7237 4.3071 0.038 
Nuôi đơn 28.9798 12.6217 5.2717 0.0217 
Thay nước 1 lần/tuần -20.7361 9.2657 5.0084 0.0252 
Chi phí mua cá 0.000077 3.4E-05 5.0539 0.0246 
Chi phí mua bể 0.000088 0.00005 3.0296 0.0818 
Qua khảo sát, những loài cá được nuôi phổ biến bao gồm cá la hán (32,5% người trả 
lời), cá vàng (24,1%), cá chép nhật (19,17%), cá dĩa (15%), cá rồng (14,17%). Một 
số giống loài khác cũng được nuôi nhiều là cá bảy màu, cá neon, cá ông tiên... Các 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 55 
chỉ tiêu lựa chọn cá bao gồm màu sắc (56,67%), ngoại hình (54,17%), hoạt động bơi 
lội (46,67%), phù hợp với nhận xét trước đây của Vũ Cẩm Lương (2008), theo đó 
màu sắc và hình dạng là hai yếu tố kinh điển nhất để chọn các loài cá cảnh để nuôi. 
Kết quả khảo sát cũng cho thấy sở thích (60%), vẻ đẹp của cá (53,33%) vẫn là hai 
tiêu chí quan trọng và kinh điển nhất để quyết định mua cá với tỷ lệ cao hơn hẳn so 
với tỷ lệ chọn giá bán (4,17%) là yếu tố quyết địmh. Tuy nhiên, khái niệm đẹp tuỳ 
theo sở thích của các nhóm cá nhân khác nhau. Vì thế hầu hết các cửa hàng kinh 
doanh cá cảnh đều bày bán rất đa dạng các loài cá, dễ dàng cho khách hàng lựa 
chọn loài nuôi mà mình thích. 
KẾT LUẬN 
Cá cảnh nước ngọt đóng vai trò quan trọng trong đời sống người nuôi giải trí 
tại TPHCM, trong đó hai vai trò quan trọng nhất là vai trò giảm stress và vai trò thẩm 
mỹ, làm đẹp không gian sống của người nuôi. Những người nuôi đầu tư nhiều hơn 
cho việc mua sắm bể cá là những người nhận thức rõ hơn về các vai trò của cá cảnh 
trong cuộc sống. Ngoài hai vai trò quan trọng trên, những người nuôi này đầu tư cho 
bể cá cảnh nhiều hơn vì họ hy vọng cá cảnh khiến cho cuộc sống vui vẻ hạnh phúc 
hơn hay khiến cho công việc làm ăn kinh doanh thuận lợi hơn và đem lại cho họ nhiều 
may mắn hơn. Những người tin rằng cá cảnh đem lại nhiều may mắn cho họ hơn cũng 
là những người sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền hơn cho việc mua cá. Điều này cho thấy nếu 
ngành sản xuất cá cảnh chú trọng hơn đến việc tiếp thị thông qua việc nêu bật vai trò 
của cá cảnh trong cuộc sống, tiềm năng của thị trường TPHCM sẽ là rất lớn khi nền 
kinh tế của thành phố này ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng rất nhanh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Duc M.N., 2008. Farmers’ satisfaction with aquaculture – A Logistic moddel in Viet 
Nam. Ecological Economic 68: 525 - 531. 
Duc M.N., 2009. Contribution of fish production to farmers’ subjective well-being in 
Viet Nam – Logistic model. Journal of the World Aquaculture Society 40 (3): 
417 - 424. 
Flores, C.C. and S.J. Sarandón, 2004. “Limitations of neoclassical economics for 
evaluating sustainability of agricultural systems: comparing organic and 
conventional systems”. Journal of Sustainable Agriculture 24 (2), 77–91. 
Frey, B. S. and A. Stutzer. 2002. What can economists learn from happiness research? 
Journal of Economic Literature 40(2):402–435. 
Jolly, C.M. and H. A. Clonts. 1993. Economics of aquaculture. Food Products Press, 
New York, New York, USA. 
Le Thanh Hung, Vu Cam Luong and L. Weschen, 2005. “Current state and potential 
of ornamental fish production in Hochiminh City”. Sterling University 
Newsletter No. 2. 
Livengood, E.J. and F.A. Chapman, 2007. The ornamental fish trade: an introduction 
with perspectives for responsible aquarium fish ownership. University of 
Florida, IFAS extension, FA 124.  
Vũ Cẩm Lương, 2007. “Một số đặc điểm phát triển thị trường cá cảnh nước ngọt ở 
TPHCM”, Tạp chí KHKT Nông Lâm Nghiệp, ĐH Nông Lâm TPHCM. Số 
1&2/2007:162-168 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 56 
VAI TRÒ CỦA CÁ CẢNH BIỂN ĐỐI VỚI NGƯỜI NUÔI 
GIẢI TRÍ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Ngọc Quyến và Nguyễn Minh Đức 
Bộ Môn Quản Lý và Phát Triển Nghề Cá, Đại Học Nông Lâm TPHCM 
TÓM TẮT 
Vai trò của cá cảnh biển đối với người nuôi giải trí tại thành phố Hồ Chí 
Minh là chủ đề được thảo luận trong nghiên cứu này. Số liệu nghiên cứu được thu 
thập thông qua phỏng vấn ngẫu nhiên 60 người nuôi cá cảnh biển. Kết quả điều tra 
được xử lý bằng các phân tích thống kê mô tả và xây dựng mô hình hồi quy binary 
logistic. Chi phí có vai trò quan trọng đối với mức độ hài lòng và vai trò của cá cảnh 
biển đối với người nuôi, chi phí càng tăng thì người nuôi càng hài lòng và thư giãn 
hơn. Địa điểm nuôi và tương tác giữa thời gian nuôi với mức thu nhập cũng làm 
người nuôi thư giãn hơn. Ngược lại, tương tác giữa địa điểm nuôi với thời gian nuôi 
lại làm giảm vai trò này. Vai trò làm giảm stress, địa điểm nuôi tương tác với hình 
thức nuôi, thời điểm cho cá ăn buổi chiều, tiêu chí hoạt động bơi lội để lựa chọn cá 
cũng làm người nuôi hài lòng hơn. Khó khăn không có nhiều thời gian chăm sóc bể 
cá làm giảm mức độ hài lòng của người nuôi. 
GIỚI THIỆU 
Ngày nay, nhịp sống công nghiệp càng cao, áp lực công việc càng nặng, con 
người lại càng muốn trở về với thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên, tìm niềm vui và 
thưởng thức những vẻ đẹp do thiên nhiên mang lại. Khi đời sống của người dân được 
nâng cao, các nhu cầu vật chất tối thiểu để tồn tại căn bản đã được giải quyết, mọi 
người có thời gian và nhu cầu giải trí để tái tạo sức lao động. Nuôi và chăm sóc cá 
cảnh là một trong những thú vui được nhiều người lựa chọn do có thể tạo lập được 
một khoảng thiên nhiên trong không gian sống của họ. Bể cá cảnh ngoài vai trò bảo 
vệ môi trường thông qua giáo dục cộng đồng (Evan, 1997) thì nhiều người cũng xem 
bể cá cảnh như một thứ không thể thiếu để tăng thêm vẻ tươi mát, duyên dáng cho 
không gian mỗi căn phòng, góc làm việc. Phong trào nuôi cá cảnh biển tại thành phố 
Hồ Chí Minh phát triển mạnh trong thời gian gần đây nhưng chưa có nghiên cứu nào 
về vai trò của cá cảnh biển đối với người nuôi giải trí. Do đó, với số liệu điều tra thực 
tế và những mô hình hồi qui thống kê, nghiên cứu này sẽ cung cấp minh chứng về các 
yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của cá cảnh biển đối với người nuôi tại thành phố Hồ 
Chí Minh. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thu thập số liệu 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10/2009 – 12/2010. Số liệu được thu thập 
qua phỏng vấn ngẫu nhiên 60 người nuôi cá cảnh biển tại thành phố Hồ Chí Minh 
bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. 
Phương pháp hồi quy logistic và ứng dụng trong nghiên cứu thủy sản 
Hồi quy logistic diễn tả mối quan hệ giữa biến phụ thuộc nhị phân và các biến 
giải thích, các biến giải thích có thể là biến định tính hay biến định lượng. Mối quan 
hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập trong mô hình hồi quy logistic là quan hệ 
phi tuyến theo hàm số mũ (Trịnh Công Thành, 2003). Có nhiều tác giả đã sử dụng mô 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 57 
hình này trong nghiên cứu thủy sản (Alencastro, 2004; Duc, 2008a; Duc 2009b; 
Nguyễn Minh Đức và Dương Thị Kim Lan, 2009; Tang và Heron, 2008). 
Đối với mô hình binary logistic, biến phụ thuộc nhận một trong hai giá trị là 0 
(không xảy ra sự kiện) hoặc 1 (xảy ra sự kiện). Xác suất xảy ra sự kiện phụ thuộc vào 
các biến độc lập (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Tương tự như hồi 
quy logistic, mô hình binary logistic cũng nhiều tác giả ứng dụng trong nghiên cứu 
thủy sản (Adeogun và ctv, 2008; Đào Công Thiên, 2008; Baez và ctv, 2009). Do đó, 
mô hình binary logistic hoàn toàn có thể sử dụng trong nghiên cứu này. 
Xây dựng mô hình binary logistic thực nghiệm 
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) đưa ra mô hình binary 
logistic cho trường hợp chỉ có một biến độc lập X như sau: 
XB B 
 P - 1
 P
log 10
i
i
e +=
 (1) 
Trong công thức (1) thì Pi = E (Y = 1/X) = P (Y = 1) là xác suất để sự kiện 
xảy ra (Y = 1) khi biến độc lập X có giá trị cụ thể là Xi và Bi là các tham số hồi qui. 
Mở rộng mô hình binary logistic cho nhiều biến độc lập và biến đổi như Mahapatra 
(2001), Mahapatra và Kant (2005), Adeogun và ctv (2008), Baez ctv (2009) và (Duc, 
2009) thì mô hình (1) trở thành mô hình (2). 
Log P(Yi = 1) 
logit [P(Yi = 1)] = 
1 - log P(Yi = 1) 
= b0 + bX'i = f(X'i) (2) 
Trong đó Xi: Các biến độc lập 
Y: Mức độ trả lời của người được phỏng vấn (Y = 0 hoặc Y = 1) 
P: Xác suất trả lời của người được phỏng vấn với Y = 1 
i: Số thứ tự của mẫu phỏng vấn 
b0: Hằng số của mô hình 
b: Vector các tham số tương ứng với các biến giải thích 
Mã hóa thông tin và xử lý số liệu 
Thông tin được mã hóa, lưu trữ và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16.0 
for Windows ở mức ý nghĩa α = 0,05. Việc xây dựng mô hình hồi qui binary logistic 
thông qua tiến trình lựa chọn các biến độc lập bằng cách loại bỏ từng biến một 
(backward selection). 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ hài lòng của người nuôi cá cảnh biển 
 Mức độ hài lòng của người nuôi cá cảnh biển có thể ảnh hưởng tới quyết định 
tiếp tục nuôi hoặc không nuôi cá cảnh biển. Nếu người nuôi cảm thấy hài lòng sẽ tiếp 
tục nuôi và ngược lại. Tại TP HCM 90 % người nuôi cá cảnh biển hài lòng và chỉ có 
10 % không hài lòng với hoạt động nuôi cá cảnh của mình. 
Với câu hỏi “Anh/Chị có hài lòng đối với việc nuôi cá cảnh biển hiện nay 
không ?”, người nuôi cá cảnh biển lựa chọn hai ý kiến trả lời là “hài lòng” hoặc 
“không hài lòng”. Vì vậy, mô hình binary logistic được sử dụng để xác định các yếu 
tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người nuôi cá cảnh biển đối với hoạt động nuôi 
cá cảnh biển. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 58 
Kết quả xây dựng mô hình binary logistic với tiến trình lựa chọn các biến độc 
lập bằng cách loại bỏ từng biến một được tổng kết qua bảng 1. Kết quả này cũng được 
dùng để tính tác động biên của các biến độc lập định lượng đối với mức độ hài lòng 
của người chơi cá cảnh biển. 
Bảng 1: Các yếu tố ảnh hưởng tới mức độ hài lòng của người nuôi cá cảnh biển 
Yếu tố B S.E Wald Sig. Tác động biên 
Tổng chi phí 2,902 1,456 3,971 0,04 0,725 
Làm giảm stress 6,649 4,043 2,704 0,11 - 
Tiêu chí hoạt động bơi lội 7,171 4,01 3,197 0,07 - 
Không nhiều thời gian -8,242 4,666 3,119 0,08 - 
Địa điểm nuôi * 
Kinh nghiệm * Tổng chi phí 
-0,225 0,105 4,597 0,03 -0,056 
Cho cá ăn buổi chiều 5,94 3,547 2,805 0,09 - 
Hình thức nuôi * Tổng chi phí -0,501 0,279 3,235 0,07 -0,125 
Địa điểm nuôi * Hình thức nuôi 3,832 2,117 3,276 0,07 0,958 
Hằng số -24,266 12,849 3,567 0,06 - 
Kết quả kiểm định Chi-square về mức độ phù hợp tổng quát của mô hình cho 
thấy việc sử dụng mô hình để giải thích là phù hợp (bảng 2). Giá trị -LL = 18,009 là 
không lớn, như vậy nó thể hiện mức độ phù hợp khá tốt của mô hình tổng thể (bảng 
3). Mức độ dự báo chung của mô hình cao và phù hợp để dự báo chung (bảng 4). 
Kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể có ý nghĩa ở các mức α 
nhỏ hơn 0,1 và 0,05 (bảng 1). 
Bảng 2: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình 
 Chi-square df Sig. 
Step 21,001 12 0,05 
Block 21,001 12 0,05 
Model 21,001 12 0,05 
Bảng 3: Kiểm định chung mô hình 
-2 Log 
likelihood 
Cox & Snell 
R Square 
Nagelkerke R 
Square 
18,009 0,295 0,618 
Bảng 4: Mức độ dự báo của mô hình 
Predicted 
Mức độ hài lòng Observed 
Không Có 
Percentage 
Correct 
Không 2 4 33,3 
Mức độ hài long 
Có 2 52 96,3 
Overall Percentage 90 
Thông qua các kiểm định và các hệ số hồi quy tìm được, mô hình các yếu tố 
ảnh hưởng tới sự hài lòng của người nuôi cá cảnh biển đối với hoạt động nuôi cá cảnh 
biển được viết lại như sau: 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 59 
Logit [P(Y=1)] = - 24,266 + 2,902Tổng chi phí + 6,649Làm giảm stress +7,171Tiêu 
chí hoạt động bơi lội - 8,242Không nhiều thời gian - 0,225Địa điểm nuôi * Thời gian 
nuôi * Tổng chi phí + 5,940Cho cá ăn buổi chiều - 0,501Hình thức nuôi * Tổng chi 
phí + 3,832Địa điểm nuôi * Hình thức nuôi + ε 
Chi phí cho nuôi cá cảnh biển càng cao thì người nuôi càng hài lòng. Cụ thể 
tác động biên của tổng chi phí lên mức độ hài lòng là 0,725. Bên cạnh đó, nhận thức 
về vai trò giảm căng thẳng của cá cảnh biển đối với người nuôi cũng làm tăng mức độ 
hài lòng của người nuôi, vai trò này càng lớn người nuôi càng hài lòng. Tác động của 
vai trò giảm căng thẳng của cá cảnh biển đối với người nuôi lên mức độ hài lòng lớn 
hơn tác động của tổng chi phí nhưng lại nhỏ hơn tác động của tiêu chí bơi lội khi lựa 
chọn cá cảnh biển. 
Những người không có nhiều thời gian để chăm sóc bể cá cảnh cũng cảm thấy 
ít hài lòng hơn với cá cảnh, thời gian chăm sóc bể cá cảnh càng nhỏ thì mức độ hài 
lòng càng thấp. Có thể do bận rộn với công việc cuộc sống thường nhật làm cho người 
nuôi không có nhiều thời gian như kỳ vọng của họ để chăm sóc và thưởng ngoạn bể 
cá, và việc chăm sóc cá cảnh tiêu tốn khá nhiều thời gian nên mức độ hài lòng của họ 
cũng giảm. Tuy vậy, dành thời gian để cho cá ăn vào buổi chiều sau một ngày làm 
việc sẽ làm cho người nuôi cảm nhận được vẻ đẹp của bể cá, cảm thấy thư giãn hơn 
nên thời điểm cho cá ăn vào buổi chiều làm tăng sự hài lòng của người nuôi. Trái 
ngược với thời điểm cho cá ăn buổi chiều, mặc dù cùng có 71,67 % người nuôi cho cá 
ăn vào buổi sáng nhưng tác động của thời điểm cho cá ăn vào buổi sáng đối với hài 
lòng của người nuôi bị loại bỏ thông qua tiến trình lựa chọn biến phù hợp, nguyên 
nhân của vấn đề này có thể do vào buổi sáng người nuôi cho cá ăn để cá không bị đói 
chứ không phải người nuôi thích cho cá ăn vào thời điểm này. 
Mặc dù tác động của địa điểm nuôi và thời gian nuôi không có ý nghĩa về 
thống kê nhưng tương tác giữa hai biến đó và tổng chi phí lại có ý nghĩa thống kê, cụ 
thể tác động biên là - 0,056. Sự tương tác giữa địa điểm nuôi * kinh nghiệm * tổng chi 
phí làm giảm mức độ hài lòng của người nuôi, trái với tác động của tổng chi phí lên 
mức độ hài lòng. Chi phí nuôi cá cảnh biển ngày càng tăng theo thời gian nuôi có lẽ 
làm cho mức độ hài lòng của những người nuôi ở gia đình khác với những người nuôi 
ở quán cà phê, nhà hàng, khách sạn. Ngoài mục đích chính là trang trí cho không gian 
thì những người nuôi ở quán cà phê, nhà hàng, khách sạn còn mục đích kinh doanh, 
có thể chi phí nuôi cá cảnh biển, tăng theo thời gian nuôi, chưa đáp ứng được kỳ vọng 
của những người nuôi này. 
Lợi ích và vai trò nuôi cá cảnh biển 
Bể cá cảnh biển ngoài vai trò làm tăng sự hiểu biết của người dân về môi 
trường biển và bảo vệ môi trường biển thông qua giáo dục cộng đồng (Evan, 1997) 
còn có các vai trò, lợi ích khác như vai trò thẩm mỹ, lợi ích tinh thần, lợi ích tâm linh. 
Khảo sát người nuôi cá cảnh biển tại TP HCM về vai trò và lợi ích của nuôi cá cảnh 
biển bằng bảng câu hỏi soạn sẵn, kết quả khảo sát được trình bày trong bảng 5. 
Bảng 5: Vai trò và lợi ích của nuôi cá cảnh biển 
Vai trò và lợi ích Tần số Tỉ lệ (%) 
Có cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc hơn 22 36,67 
Giảm căng thẳng (stress) 41 68,33 
Không gian đẹp hơn 60 100 
Kinh doanh thuận lợi hơn 15 25 
Mang lại may mắn, tài lộc, thịnh vượng 15 25 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 60 
v Lợi ích tinh thần 
Ngày nay áp lực của cuộc sống lên mỗi người là rất lớn nên sau một ngày làm 
việc vất vả đầu óc con người rất dễ bị căng thẳng cho nên con người cần phải thư 
giãn, nghỉ ngơi để lấy lại thăng bằng và tái tạo sức lao động. Có nhiều cách để con 
người thư giãn như đi dạo, xem phim, chơi thể thao, mua sắm. Nhiều người thư giãn 
bằng cách chăm sóc cá, ngắm nhìn cá cảnh bơi lội. 
Nuôi cá cảnh biển có lợi ích rất lớn về tinh thần vì có tới 68,33 % người nuôi 
cho rằng bể cá cảnh biển giúp làm giảm căng thẳng, 36,67 % người nuôi cho rằng bể 
cá cảnh biển làm cho cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc hơn. Nười nuôi chăm sóc bể cá 
cảnh biển hàng ngày như cho cá ăn, vệ sinh, quan sát hoạt động ăn mồi, hoạt động bơi 
lội. Thông qua các hoạt động đó giúp người nuôi giảm căng thẳng vì đó không hẳn là 
công việc mà còn là thú vui, niềm đam mê của người nuôi. Hoạt động chăm sóc bể cá 
cảnh biển thường do một người làm nhưng cũng có khi nhiều thành viên trong gia 
đình cùng tham gia, qua đó làm tăng sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình với 
nhau. 
Với câu hỏi “Nuôi cá cảnh biển có giúp Anh/Chị giảm stress (căng thẳng) 
không ?”, người nuôi cá cảnh biển lựa chọn hai ý kiến trả lời là “có” hoặc “không”. 
Vì vậy, mô hình binary logistic được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến 
vai trò làm giảm stress đối với người nuôi cá cảnh biển. 
Kết quả xây dựng mô hình với tiến trình lựa chọn các biến độc lập bằng cách 
loại bỏ từng biến một được tổng kết qua bảng 6. Kết quả này cũng được dùng để tính 
tác động biên của các biến độc lập định lượng. 
Bảng 6: Các yếu tố ảnh hưởng tới vai trò làm giảm stress của cá cảnh biển 
Yếu tố B S.E. Wald df Sig. Tác động biên 
Địa điểm nuôi 2,536 1,252 4,104 1 0,043** - 
Tổng chi phí 0,93 0,8 3,358 1 0,067** 0,233 
Địa điểm nuôi * 
Thời gian nuôi 
- 0,177 0,369 4,434 1 0,035** 0,044 
Thời gian nuôi * 
Mức thu nhập 
0,271 0,133 4,143 1 0,042** 0,068 
Hằng số - 2,998 1,669 3,226 1 0,072* - 
* và **: Ý nghĩa ở 90 % và 95 % 
Kết quả kiểm định Chi-square về mức độ phù hợp tổng quát của mô hình cho 
thấy việc sử dụng mô hình để giải thích là phù hợp (bảng 7). Giá trị -LL = 24,507 là 
không quá lớn, như vậy nó thể hiện mức độ phù hợp khá tốt của mô hình tổng thể 
(bảng 8). Mức độ dự báo chung của mô hình là 68,3 % không cao nhưng cũng có thể 
dự báo chung (bảng 9). Kiểm định Wald về ý nghĩa của các hệ số hồi quy tổng thể có 
ý nghĩa ở các mức α nhỏ hơn 0,1 và 0,05 (bảng 6). 
Thông qua các kiểm định và các hệ số hồi quy tìm được, mô hình các yếu tố 
ảnh hưởng tới vai trò làm giảm căng thẳng đối với người nuôi cá cảnh biển của hoạt 
động nuôi cá cảnh biển được viết lại như sau: 
Logit [P(Y=1)] = - 2,998 + 0,93Tổng chi phí + 2,536Địa điểm nuôi - 0,177Địa điểm 
nuôi * Thời gian nuôi + 0,271Thời gian nuôi * Mức thu nhập của người nuôi + ε 
 (Mô hình III) 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 61 
Bảng 7: Kiểm định mức độ phù hợp mô hình vai trò làm 
giảm căng thẳng của hoạt động nuôi cá cảnh biển 
 Chi-square df Sig. 
Step 10,413 5 0,064 
Block 10,413 5 0,064 
Model 10,413 5 0,064 
Bảng 8: Kiểm định chung mô hình vai trò 
làm giảm căng thẳng của hoạt động nuôi cá cảnh biển 
 -2 Log 
likelihood 
Cox & Snell 
R Square 
Nagelkerke R 
Square 
24,507 0,159 0,223 
Bảng 9: Mức độ dự báo mô hình vai trò làm giảm căng thẳng 
của hoạt động nuôi cá cảnh biển 
Predicted 
Vai trò làm giảm 
stress 
Observed 
Không Có 
Percentage 
Correct 
Không 4 15 21,1 Vai trò làm giảm 
stress Có 4 37 90,2 
Overall Percentage 68,3 
Kết quả hồi qui cho thấy rằng chi phí nuôi cá cảnh biển càng lớn vai trò làm 
giảm stress của bể cá cảnh biển càng tăng. Người nuôi mua những loài cá, sinh vật 
cảnh biển khác mà chúng đẹp và lạ hay những bể cá theo sở thích để trang trí cho 
không gian sống của mình. Chi phí càng lớn tức là người nuôi càng làm cho bể cá đẹp 
hơn nên cảm thấy thư giãn hơn và hài lòng hơn. Tương tự như chi phí nuôi thì địa 
điểm nuôi cá cảnh biển cũng làm người nuôi thư giãn hơn với bể cá của mình. Có tới 
77 % người nuôi cá cảnh biển nuôi tại gia đình nên hàng ngày người nuôi đều cho cá 
ăn và chăm sóc bể cá, việc này làm người nuôi thấy thư giãn hơn. 
 Kinh nghiệm nuôi tuy không có ý nghĩa về thống kê đối với vai trò làm giảm 
stress của bể cá cảnh biển đối với người nuôi nhưng trong số những người có kinh 
nghiệm nuôi, người có thu nhập cao hơn nhận thức rõ ràng hơn vai trò này đối với 
người nuôi. Đa số người nuôi cá cảnh biển có thu nhập cao nên họ không bận tâm 
nhiều tới chi phí cho hoạt động nuôi cá cảnh biển tức là chi phí cho hoạt động giải trí 
của bản thân và gia đình. Người nuôi sẵn sàng bỏ tiền để nuôi bể cá cảnh đẹp để thỏa 
mãn nhu cầu giải chí cho bản thân và gia đình. 
Vai trò thẩm mỹ 
 Mục đích chính của người nuôi cá cảnh biển là trang trí, làm đẹp không gian 
sống (98,33 %) nên kết quả khảo sát vai trò này đối người nuôi (bảng 5) cho thấy 100 
% người nuôi cho rằng bể cá cảnh biển giúp không gian sống đẹp hơn là hoàn toàn 
phù hợp. Thật vậy, màu sắc cá cảnh rực rỡ, hình dạng rất phong phú, đa dạng và hoạt 
động bơi lội, ăn mồi của cá cảnh rất sinh động. Hơn thế, khi nuôi ghép các loại cá 
cảnh biển với các loài sinh vật biển khác thì sự kết hợp giữa vẻ đẹp của các loài cá 
cảnh biển với các loài sinh vật biển khác và cách thức trang trí bể nuôi làm cho bể cá 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 62 
cảnh biển đẹp hơn, lung linh hơn tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên, mang cả đại 
dương vào trong nhà. 
v Lợi ích tâm linh 
Kết quả khảo sát có 25 % người nuôi cho rằng nuôi cá cảnh biển giúp người 
nuôi kinh doanh thuận lợi hơn và cũng có 25 % người nuôi cho rằng nuôi cá cảnh 
biển mang lại may mắn, tài lộc, thịnh vượng (bảng 5). 
 Những người nuôi cá cảnh biển tại quán cà phê, nhà hàng và khách sạn cho 
rằng bể cá cảnh biển đẹp ngoài lợi ích tinh thần và vai trò thẩm mỹ cho người nuôi 
còn làm cho khách hàng thư giãn hơn, vui vẻ hơn. Hơn thế, sở hữu bể cá cảnh biển 
đẹp tạo nên nét riêng biệt, độc đáo và sang trọng, tạo ấn tượng hơn đối với khách 
hàng nên lượng khách hàng đông hơn. 
Vai trò chính của bể cá cảnh biển đối với người nuôi là trang trí cho không 
gian sống thêm đẹp và thỏa mãn sở thích giải trí của bản thân, gia đình. Bên cạnh đó 
bể cá cảnh biển cũng làm cho người nuôi cảm thấy vui vẻ hạnh phúc hơn, thư giãn 
hơn. Những người nuôi cá cảnh biển tại quán cà phê, nhà hàng, khách sạn không chỉ 
nhằm mục đích giải trí, trang trí mà cũng nhằm mục đích kinh doanh. Họ cho rằng 
nuôi bể cá cảnh làm cho không gian đẹp hơn, ấn tượng hơn đối với khách hàng vì vậy 
sẽ làm cho lượng khách hàng tăng thêm. 
KẾT LUẬN 
Mô hình binary logistic có thể sử dụng nghiên cứu mức độ hài lòng cũng như 
vai trò và lợi ích của cá cảnh biển đối với người nuôi. Thông qua mô hình này, chi phí 
có vai trò quan trọng đối với mức độ hài lòng và vai trò của cá cảnh biển đối với 
người nuôi, chi phí càng tăng thì người nuôi càng hài lòng và thư giãn hơn. Tương tự, 
địa điểm nuôi và tương tác giữa thời gian nuôi với mức thu nhập cũng làm người nuôi 
thư giãn hơn mặc dù mức thu nhập không có ý nghĩa thống kê. Nhận thức về vai trò 
làm giảm stress, thời điểm cho cá ăn buổi chiều, hoạt động bơi lội của cá cũng làm 
người nuôi hài lòng hơn mặc dù mức độ tác động của các yếu tố đến sự hài lòng là 
khác nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Adeogun A.O., Ajana M.A., Ayinla A.O., Yahere T.M., and O.M. Adeogun, 2008. 
Application of logit model in adoption decision: A study of hybrib Clasias in 
Lagos state, Nigeria. American – Eurasian J. Agric. & Environ. Sci 4 (4): 468 
– 472. 
Alencastro A.L., 2004. Hobbyists’ preferences for marine ornamental fish: A discrete 
choice analysis of source, price, guarantee and ecolabeling attributes. MSc. 
Thesis, University Florida, US. 
Baez C.J., Olivero J., Petero C., Yanez F.F., Soto G.C., and R. Real, 2009. Macro - 
environmental modelling of the current distribution of Undaria pinnatifida 
(Laminariales, Ochrophyta) in northern Iberia. Biological Invasions 12 (7). 
2131 - 2139. 
Đào Công Thiên, 2008. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới tình hình nghèo đói 
của các hộ ngư dân ven đầm Nha Phu, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. 
=442 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 63 
Duc N.M., 2008. Farmers’ satisfaction with aquaculture – A Logistic moddel in Viet 
Nam. Ecological Economic 68: 525 - 531. 
Duc N.M., 2009a. Economic contribution of fish culture to farm incom in Southeast 
of Viet Nam. Aquaculture International 17 (1): 15 - 29. 
Duc N.M., 2009b. Contribution of fish production to farmers’ subjective well-being in 
Viet Nam – Logistic model. Journal of the World Aquaculture Society 40 (3): 
417 - 424. 
Evans K., 1997. Aquaria and marine environmental education. Aquarium Sciences 
and Conservation 1: 239 – 250. 
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với 
SPSS(2). Nhà xuất bản Hồng Đức, TP HCM, 179 trang. 
Mahapatra C.K., 2001. The Determinants of Global Tropical Deforestation. MSc. 
Thesis, University of Toronto. CANADA. 
Mahapatra C.K., and S. Kant, 2005. Tropical deforestation: A multinomial logistics 
model and some country – specific policy prescriptions. Forest Policy and 
Economics 7: 1 – 24. 
Nguyễn Minh Đức và Dương Thị Kim Lan, 2009. Thái độ và mức độ hạnh phúc đối 
với cuộc sống của ngư dân trong khu bảo tồn biển Nha Trang. Kỷ yếu hội nghị 
khoa học thủy sản toàn quốc, Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh, 
19/11/2009. pp. 427 - 435. 
Tang, S. and A.E. Heron, 2008. Bayesian inference for stochastic logistic model with 
switching point. Ecological Modelling 219: 153 – 169. 
Trịnh Công Thành, 2003. Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu thú y. Bài giảng môn 
phương pháp thí nghiệm, Đại Học Nông Lâm TP HCM, TPHCM. pp 141 – 
143. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 64 
CÁ CẢNH NƯỚC NGỌT – HIỆN TRẠNG, LÝ DO SẢN 
XUẤT VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI NÔNG DÂN 
Lâm Quyền và Nguyễn Minh Đức 
Bộ Môn Quản Lý và Phát Triển Nghề Cá, Đại Học Nông Lâm TPHCM 
TÓM TẮT 
Cùng với tốc độ đô thị hóa ở mức cao, hoạt động sản xuất cá cảnh trong loại 
hình nông nghiệp đô thị của Thành Phố Hồ Chí Minh có những thay đổi quan trọng 
cần được nghiên cứu, từ đó tìm kiếm những giải pháp phù hợp để phát triển loại hình 
nông nghiệp quan trọng này. Thông qua việc phỏng vấn và khảo sát thực tế tại 63 trại 
sản xuất cá cảnh ở TPHCM, đề tài nghiên cứu tập trung vào các vấn đề có liên quan 
đến quá trình chuyển đổi sang hoạt động sản xuất cá cảnh trên địa bàn. Với nhu cầu 
diện tích sử dụng cho sản xuất kinh doanh khá lớn, các trại sản xuất cá cảnh có xu 
hướng chuyển dịch từ vùng sản xuất truyền thống ở nội thành ra vùng ven đô và có 
khuynh hướng sử dụng nguồn giống sản xuất tại chỗ với hình thức nuôi ao. Trước khi 
chuyển sang cá cảnh, đa số các chủ cơ sở đã tham gia sản xuất cá giống thương 
phẩm. Sở thích và lợi nhuận là 2 nguyên nhân chính dẫn đến quyết định chuyển đổi 
sang sản xuất cá cảnh. Thu nhập tăng cùng với kỹ thuật sản xuất ngày càng hoàn 
thiện, điều kiện cơ sở vật chất phù hợp,… đã mang lại sự hài lòng cho phần lớn các 
cơ sở sản xuất cá cảnh hiện nay. Tuy nhiên, giá cả thấp và thị trường bấp bênh của 
một số giống loài cá cảnh đã ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ hài lòng của nông dân 
sản xuất cá cảnh. 
GIỚI THIỆU 
Những năm gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chính sách phát 
triển nông nghiệp theo hướng chuyển đổi từ sản xuất truyền thống sang nền sản xuất 
nông nghiệp đô thị với cây, hoa kiểng và cá cảnh là những mũi nhọn đặc trưng. Tuy 
nhiên, tính bền vững trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị còn thấp (Viện 
Nghiên Cứu Phát Triển TPHCM, 2007). Theo FAO (2007), nông nghiệp đô thị cũng 
thể hiện tính không ổn định ở tốc độ đô thị hóa khá nhanh, diện tích đất sử dụng cho 
nông nghiệp bị giảm, hoặc phải thay đổi địa điểm cư ngụ, tái định cư do các hoạt 
động xây dựng cũng dễ làm cho người nông dân chuyển sang nuôi mô hình khác hoặc 
sang lĩnh vực phi nông nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam, lao động nông nghiệp có 
thu nhập thấp so với các hoạt động kinh tế khác ở đô thị cũng là nguyên nhân cơ bản 
làm người dân ít mặn mà với hoạt động nông lâm thủy sản ở đô thị (Lê Văn Trưởng, 
2009). Những năm gần đây, cùng với tốc độ đô thị hóa ở mức cao, nhiều vấn đề về 
dân số, thu nhập, ô nhiễm môi trường,… nảy sinh, hoạt động sản xuất cá cảnh trong 
loại hình nông nghiệp đô thị của thành phố Hồ Chí Minh có những thay đổi quan 
trọng cần được nghiên cứu, từ đó tìm kiếm những giải pháp phù hợp để phát triển loại 
hình nông nghiệp quan trọng này. 
 Kết quả trong bài viết này là một phần của đề tài nghiên cứu “Khả năng 
chuyển đổi từ mô hình sản xuất giống cá nuôi thịt sang sản xuất cá cảnh trên địa bàn 
thành phố Hồ Chí Minh”. Không lặp lại các nghiên cứu về hiện trạng trước đây, bài 
viết này sẽ tập trung vào các vấn đề có liên quan hoặc ảnh hưởng đến quá trình 
chuyển đổi trong hoạt động sản xuất cá cảnh trên địa bàn thành phố. Các hình thức 
canh tác trước khi chuyển đổi sang sản xuất cá cảnh, nguyên nhân chuyển đổi sang 
nuôi cá cảnh, khả năng chuyển đổi đối tượng nuôi và mở rộng đầu tư, mức độ hài 
lòng của người sản xuất cá cảnh, các yếu tố môi trường và biến đổi khí hậu ảnh hưởng 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 65 
đến quyết định chuyển đổi sang sản xuất cá cảnh cũng như ảnh hưởng hoạt động sản 
xuất cá cảnh hiện nay đã được khảo sát trong bài viết này. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thu thập số liệu 
Số liệu thu thập từ 63 hộ sản xuất cá cảnh được phỏng vấn thông qua bảng câu 
hỏi soạn trước bao gồm các thông tin về cơ sở, nguyên nhân chuyển đổi sang nuôi cá 
cảnh, hiệu quả của hoạt động đầu tư trước và sau khi chuyển đổi, ảnh hưởng của ô 
nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu và khả năng phát triển mở rộng của cơ sở trong 
tương lai… Việc khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian từ 06/2010 đến 
12/2010 trên các trại sản xuất cá cảnh trên địa bàn thành phố. 
Mã hóa và xử lý số liệu 
Số liệu, các thông tin liên quan đến thực trạng nghề sản xuất cá cảnh sẽ được 
thống kê, phân tích và mô tả bằng phần mềm SPSS 16.0 for Windows nhằm đưa ra 
những đánh giá định tính về mức độ, xu hướng, tính chất và mối quan hệ giữa các 
biến số. 
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Hiện trạng sản xuất cá cảnh 
Theo kết quả khảo sát năm 2005 của Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông 
Thôn Thành Phố Hồ Chí Minh trên 106 hộ nuôi cá cảnh cho thấy các trại sản xuất cá 
cảnh chủ yếu tập trung ở Quận 8 (28,3%) và Quận 12 (22,6%). Kết quả khảo sát ngẫu 
nhiên 63 hộ sản xuất cá cảnh hiện nay được trình bày ở Bảng 1, Kết quả này cho thấy 
xu hướng chuyển dịch trại sản xuất cá cảnh ra các vùng ngoại thành với nguồn nước ít 
ô nhiễm hơn và không chịu ảnh hưởng của các dự án quy hoạch đô thị. 
Bảng 1. Sự phân bố của các hộ điều tra 
Địa phương Số trại khảo sát Tỷ lệ (%) 
Bình Chánh 26 41,3 
Quận 12 22 34,9 
Quận 8 6 9,5 
Quận Thủ Đức 2 3,2 
Gò Vấp 2 3,2 
Củ Chi 2 3,2 
Quận 6, Quận 9, Quận 11 3 4,7 
Trong 63 hộ được khảo sát, chỉ có 1 trường hợp là đồng sở hữu, còn lại 62 hộ 
là thuộc sở hữu riêng tư nhân. Chủ sở hữu kinh doanh đồng thời là chủ sở hữu chiếm 
61,9%; 7,9% chủ sở hữu đất có thuê thêm đất, 30,2% không có đất và phải thuê hoàn 
toàn mặt bằng để sản xuất. Giá trị mảnh đất dao động từ 300 triệu đến 40 tỷ đồng, 
trung bình 3,685 tỷ đồng, trong đó 50% trong số 38 cơ sở có giá trị đất nhỏ hơn 3 tỷ 
đồng. Tiền thuê đất dao động từ 500 ngàn đến 24 triệu đồng/năm. Diện tích đất trung 
bình 11359 m2, trong đó diện tích sử dụng cho kinh doanh trung bình là 10444 m2. Có 
khá nhiều hiệp hội, câu lạc bộ được thành lập trong thời gian gần đây nhằm phát triển 
nền nông nghiệp đô thị, tuy nhiên chỉ có 17 hộ (27%) có tham gia vào các tổ chức 
này. Tuy diện tích sử dụng cho kinh doanh khá lớn và tăng về quy mô so với các 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 66 
nghiên cứu trước đây nhưng hiện nay hầu hết các hộ kinh doanh vẫn mang tính nhỏ 
lẻ, thiếu sự liên kết, số cơ sở phải thuê đất để sản xuất chiếm tỷ lệ cao. 
 Hầu hết các trại sản xuất cá cảnh hiện nay đều chủ động nguồn giống nuôi với 
92,1% số trại được hỏi có thể tự sản xuất con giống. Có 36 trường hợp (57,1%) mua 
cá từ trại khác. Chỉ có 3 trại có sử dụng cá nguồn gốc nhập khẩu. Hình thức nuôi ao 
vẫn chiếm ưu thế với 55,6% số trại được khảo sát, kế đến là nuôi bể xi măng hoặc bể 
bạt với 29 người (46%), hình thức nuôi bể kiếng có 15 trường hợp (23,8%). 
 Ngoài việc tự tìm hiểu nghiên cứu kỹ thuật sản xuất (chiếm tỷ lệ 30,2% người 
sản xuất), nguồn thông tin chủ yếu là từ họ hàng và bạn bè (55,6%). Chỉ có rất ít 
(12,7%) người sản xuất thu thập được thông tin nhờ các lớp huấn luyện và đào tạo. 
Trong 63 người được phỏng vấn, chỉ có 9 trường hợp (14,3%) nhận được sự hỗ trợ 
của Nhà Nước. Điều này cho thấy các hình thức hỗ trợ vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật vẫn 
chưa mang tính thực tiễn và xã hội hóa cao. 
Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất 
Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và dân số tăng nhanh khiến lượng chất 
thải đổ ra sông ngày càng nhiều. Ô nhiễm môi trường nguồn nước là vấn đề nóng đối 
với ngành nông nghiệp trên địa bàn thành phố hiện nay, trong đó hoạt động nuôi cá 
cảnh cũng không ngoại lệ, đặc biệt đối với các mô hình nuôi ao. Trong 63 người được 
khảo sát, có 43 ý kiến (68,2%) cho rằng ô nhiễm môi trường có ảnh hưởng đến hoạt 
động sản xuất của cơ sở hiện nay. Trong các ý kiến này thì có 42 người (97,7%) cho 
rằng nguyên nhân ô nhiễm là do hóa chất công nghiệp, 6 ý kiến (14%) cho rằng có 
ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt, 2 ý kiến xác định là có ảnh hưởng của hóa chất 
nông nghiệp. Có thể do ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt không rõ ràng hoặc khó 
nhận diện dẫn đến số ý kiến trả lời không cao. 
Khảo sát ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất được thực 
hiện trên 55 hộ nuôi, có 29 hộ (52,7%) cho rằng biến đổi khí hậu có ảnh hưởng. Trong 
đó 22 ý kiến (75,9%) trả lời do tần suất và biên độ triều cường tăng, 17 ý kiến 
(58,6%) xác định sự nhiễm mặn tăng, 3 ý kiến (10,3%) trả lời lượng mưa tăng có ảnh 
hưởng đến hoạt động sản xuất hiện nay. 
Về ngành nghề của chủ cơ sở trước khi chuyển đổi sang sản xuất cá cảnh, kết 
quả khảo sát cho thấy phần lớn các chủ cơ sở sản xuất cá cảnh hiện nay chuyển đổi từ 
ngành nông nghiệp hoặc có liên quan đến nông nghiệp. Trong đó xuất phát từ sản 
xuất giống cá nuôi thịt chiếm tỷ lệ cao nhất với 17 người (27%), kế đến từ nghề trồng 
trọt với 16 người (25,4%). 
Bảng 2. Nghề nghiệp của chủ cơ sở sản xuất cá cảnh trước khi sản xuất cá cảnh 
Ngành nghề Số người Tỷ lệ % 
Sản xuất giống cá nuôi thịt 17 27,0 
Trồng trọt 16 25,4 
Chăn nuôi gia súc 4 6,3 
Cung cấp mồi tươi sống cho cá cảnh 4 6,3 
Công nhân tại các trại cá cảnh 3 4,8 
Nuôi cá thịt 1 1,6 
Ngành nghề khác 22 34,9 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 67 
Nguyên nhân chuyển đổi sang sản xuất cá cảnh 
 Có nhiều nguyên nhân khiến người đầu tư chuyển sang lĩnh vực cá cảnh, tuy 
nhiên phần lớn người được hỏi trả lời là do sở thích (50,8%) kế đến là do lợi nhuận 
mang lại từ nghề nuôi cá cảnh (46%). Điều kiện cơ sở phù hợp cho sản xuất cá cảnh 
cũng được 19 người chọn (30,2%). Các hình thức hỗ trợ nuôi cá cảnh, yếu tố thị 
trường, chi phí đầu tư cũng cũng là nguyên nhân đưa đến quyết định chuyển đổi 
nhưng tỷ lệ không cao. 
 Nguyên nhân do môi trường ô nhiễm cũng có 22 người đưa ra (34,9%), trong 
đó các tác nhân gây ô nhiễm phần lớn ảnh hưởng đến hoạt động trồng trọt hoặc sản 
xuất cá giống. Trong 22 trường hợp chịu ảnh hưởng của môi trường thì 100% người 
trả lời tác nhân là hóa chất công nghiệp, 6 người trả lời do chất thải sinh hoạt, 1 người 
trả lời do hóa chất nông nghiệp. 
Yếu tố biến đổi khí hậu cũng ảnh hưởng đến quyết định chuyển đổi sang nuôi 
cá cảnh với 10 người trả lời (15,9%). Trong đó cả 10 người đều đồng ý do tần suất và 
biên độ triều cường tăng, 3 người trả lời do nhiễm mặn ảnh hưởng đến quyết định 
chuyển đổi. 
Nhìn chung, sở thích không phải là nguyên nhân chính dẫn đến quyết định 
chuyển đổi ngành nghề, nhưng có thể là nguyên nhân khơi gợi sự tìm tòi học hỏi 
trong nhu cầu giải trí, dần dần dẫn đến quyết định gắn bó với nghề sản xuất cá cảnh. 
Điều này có thể là sự khác biệt của nghề sản xuất sinh vật cảnh so với các ngành nghề 
khác trong cơ cấu nông nghiệp đô thị. Yếu tố môi trường ô nhiễm kết hợp với biên độ 
triều cường ngày càng tăng trong những năm gần đây gây tác hại không nhỏ đến hoạt 
động sản xuất cá giống, ngoài ra cũng ảnh hưởng đáng kể đến các hộ trồng trọt, trong 
đó phải kể đến một số hộ trồng lan, mai hoặc trồng rau quả… là một trong các nguyên 
nhân chính đưa đến quyết định chuyển đổi ngành nghề. 
Vai trò của sản xuất cá cảnh: 
Về thu nhập, có 45 người được hỏi (71,4%) cho rằng mức thu nhập hiện nay 
cao hơn so với trước khi chuyển đổi sang nuôi cá cảnh, trong khi đó 18 người không 
đồng tình (28,6%) với ý kiến này. Lợi nhuận hằng tháng của các cơ sở sản xuất cá 
cảnh dao động lớn (0 – 50 triệu/tháng), trong đó mức lợi nhuận dưới 10 triệu 
đồng/tháng chiếm tỷ lệ khá cao (66,7%), 12 cơ sở (25%) có mức lợi nhuận từ 10-20 
triệu đồng/tháng, 4 cơ sở (8,3%) có mức lợi nhuận trên 20 triệu đồng/tháng. 
Trong 63 người được phỏng vấn thì có 46 người (73%) trả lời hài lòng với 
nghề sản xuất cá cảnh hiện nay. Nguyên nhân mang lại sự hài lòng cho người sản xuất 
thể hiện ở Bảng 3. 
Bảng 3: Nguyên nhân mang lại sự hài lòng cho người sản xuất 
Nguyên nhân hài long Số người Tỷ lệ % 
Kỹ thuật đơn giản 21 45,7 
Điều kiện cơ sở phù hợp 16 34,8 
Thị trường ổn định 14 30,4 
Giá cá cao 8 17,4 
Chi phí sản xuất thấp 3 6,5 
Nguyên nhân khác 8 17,4 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 68 
Mức độ hài lòng cũng được thể hiện ở việc mở rộng đầu tư. Trong 63 người 
được phỏng vấn, có 27 hộ (42,9%) dự định đầu tư thêm, mở rộng sản xuất trong thời 
gian tới. Đây là một tín hiệu tốt cho các chương trình phát triển cá cảnh trên địa bàn 
thành phố. 
Song song với việc lấy ý kiến các hộ hài lòng, 17 cơ sở không hài lòng cũng 
được khảo sát trong đó có 15 ý kiến cho rằng giá cá hiện nay thấp (88,2%), 10 ý kiến 
cho rằng thị trường không ổn định (58,8%), 4 ý kiến cho rằng chi phí cao (23,5%) và 
2 ý kiến khác với tỷ lệ 11,8%. Việc phát triển diện tích nuôi ao, yếu tố kỹ thuật ngày 
càng hoàn thiện đã mang lại sự hài lòng cho phần lớn khách hàng, tuy nhiên điều này 
cũng dẫn đến sự giảm mạnh về giá một số loại cá cảnh hiện nay. Ngoài ra thị trường 
cung cầu một số loài cá không ổn định dẫn đến một số trại nuôi không hài lòng. Nhìn 
chung, các ý kiến trái chiều nhau về giá cả và thị trường đều xuất phát từ việc lựa 
chọn đối tượng nuôi phù hợp hay không phù hợp với điều kiện cơ sở hiện có. Có 13 
trại (20,6%) dự định sẽ chuyển đổi đối tượng sản xuất, trong đó phần lớn ý kiến lựa 
chọn đối tượng phù hợp với nhu cầu thị trường (61,5%), ưu tiên kế đến là chọn đối 
tượng có giá bán cao (46,2%), chỉ 1 cơ sở lựa chọn đối tượng dễ sản xuất hơn. Có 3 ý 
kiến lựa chọn khác trong đó có 1 ý kiến sẽ quay trở lại hoạt động sản xuất giống cá 
nuôi thịt do hiện nay thị trường cá giống đang khá thuận lợi. 
KẾT LUẬN 
Với nhu cầu diện tích sử dụng cho sản xuất kinh doanh khá lớn, các trại sản 
xuất cá cảnh có xu hướng chuyển dịch từ vùng sản xuất truyền thống ở nội thành ra 
vùng ven đô - nơi có nguồn nước trong sạch hơn và ít chịu ảnh hưởng của các dự án 
đô thị hóa. Chỉ một phần nhỏ các cơ sở sản xuất nhận được sự hỗ trợ về vốn và kỹ 
thuật, hầu hết các trại sử dụng nguồn giống sản xuất tại chỗ với hình thức nuôi ao. Do 
đó, có đến 68,2% số trại nuôi chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường, chủ yếu là do 
hóa chất công nghiệp. Trước khi chuyển sang cá cảnh, đa số các chủ cơ sở đã tham 
gia sản xuất cá giống cá thịt dùng cho nuôi thương phẩm. 
Sở thích và lợi nhuận là 2 nguyên nhân chính dẫn đến quyết định chuyển đổi 
sang sản xuất cá cảnh. Các yếu tố ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu cũng có tác 
động đến quyết định chuyển đổi. Thu nhập tăng cùng với các yếu tố như kỹ thuật 
ngày càng hoàn thiện, điều kiện cơ sở phù hợp… đã mang lại sự hài lòng cho phần 
lớn các cơ sở sản xuất cá cảnh hiện nay. Tuy nhiên, giá cả thấp và thị trường bấp bênh 
của một số giống loài cá cảnh đã dẫn đến xu hướng chuyển đổi đối tượng và giảm sự 
hài lòng của nông dân sản xuất cá cảnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Ban Chỉ đạo Chương trình Phát triển cá cảnh. Định hướng phát triển cá cảnh tại 
Thành phố Hồ Chí Minh, 
Báo Khoa Học Kỹ Thuật Nông nghiệp. TP Hồ Chí Minh chuyển dịch cơ cấu sản xuất 
nông nghiệp, 
Cao Minh Nghĩa, 2008. Phân tích thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên 
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2006 đến tháng 6 năm 2008. Bản 
tin Kinh tế xã hội – Viện nghiên cứu phát triển tp HCM- Số tháng 12/2008. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Hội thảo “Vai trò cá cảnh ở TPHCM” 
------------------------------------------------------------------------------------------------------- 
ĐH Nông Lâm TPHCM 31/12/2010 69 
Công Phiên, 2009. Chuyển dịch sản xuất nông nghiệp TPHCM thiếu quy hoạch nên 
chưa bật xa. Báo Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 8/2/2010. 
FAO, 2007. Profitability and sustainability of urban and peri-urban agriculture. 
Agricultural management, marketing and finance occasional paper. Food and 
Agriculture Organization. 95pages. 
Brown, K. H. and A. Carter, 2003. Urban Agriculture and Community Food Security 
in the United States: Farming from the City Center to the Urban Fringe. 
Community Food Security Coalition, Venice California, USA. 28 pages. 
Lê Thanh Liêm, Đặng Hạo, Ngô Văn Tiến, Trương Hoàng, Phan Văn Tự, Đặng 
Trung Thành, Bùi Thanh Quang, Hà Thúc Viên, 2009. Quy hoạch phát triển 
nông nghiệp đô thị thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 và định hướng 
2025. 
Lê Văn Khâm, 2008. Đầu tư phát triển nông nghiệp đô thị ở khu kinh tế Dung Quốc 
theo hướng ổn định và bền vững: Vấn đề cấp thiết đặt ra từ thực tiễn. Nội san 
Nghiên cứu Khoa học Số 48/2008. Trường Cao đẳng Tài Chính Kế Toán. 
Trang 47 – 49. 
Lê Văn Trưởng, 2009. Nhận dạng nông nghiệp đô thị ở Việt Nam. 
Phạm Sỹ Liêm, 2009. Nông nghiệp đô thị- Tại sao không? 
Khong.html 
Trúc Nhã, 2009. Phát triển cá cảnh trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - Sở Nông 
nghiệp và Phát triển Nông thôn Thành phố Hồ Chí Minh. 
Trương Hoàng, 2009. Cá cảnh trong cơ cấu nông nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh- 
Trung tâm Khuyến Nông Thành phố Hồ Chí Minh. 
Viện Nghiên Cứu Phát Triển TPHCM, 2007. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, kinh 
tế nông thôn nhìn từ góc độ quản lý Nhà nước. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 hientrangnuoicacanh_tphcm_2365.pdf hientrangnuoicacanh_tphcm_2365.pdf