Hiện trạng môi trường của làng nghề lụa Nha Xá

Nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm của làng nghề lụa Nha Xá tạo sự phát triển bền vững cho làng nghề tôi xin đề xuất một số ý kiến. Thứ nhất, để nâng cao năng lực quản lý Nhà Nước về môi trường của huyện Duy Tiên huyện ủy - HĐND - UBND có cơ chế đặc biệt bổ sung thêm biên chế cho các ngành của thành phố liên quan đến công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể: - Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Duy Tiên: tử 02 đến 03 biên chế; - Mỗi một thị trấn , xã có 01 biên chế chuyên trách về công tác quản lý bảo vệ môi trường; Ngoài ra, huyện cần tăng cường kinh phí cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm, quan trắc và phân tích môi trường của huyện.Huy động tối đa sự tham gia của người dân, của các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước.

docx45 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4636 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện trạng môi trường của làng nghề lụa Nha Xá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kém của bà con dân làng thôi thúc những nghệ nhân.Họ đoàn kết, họp thôn, quyết đưa đời sống nhân dân đi lên, chẳng cách nào khác hơn là khôi phục nghề.Bởi làng rất ít ruộng, không có đất màu, chẳng tiện buôn bán. Đến năm 1989 về cơ bản những khó khăn đã được giải quyết. Bà con tìm được thị trường cả trong nước và nước ngoài, đời sống khá dần lên. Cũng chính nghệ nhân Lê Văn Khiển là người đã cải tiến công cụ máy móc của dân làng, để tăng năng suất lao động, người dân đỡ vất vả hơn. Năm 2004, với sự phát triển rực rỡ của làng nghề, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã về thăm và nói chuyện với các nghệ nhân, khuyến khích phát triển kinh tế làng. 2.4.2.Tình hình hoạt động sản xuất của làng nghề lụa Nha Xá 2.4.2.1. Sản phẩm làng nghề Trải qua hàng nhiều thế kỷ, thương hiệu lụa Nha Xá ngày càng được phát triển không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được xuất khẩu sang nhiều nước. ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trương, nghề dệt lụa của Nha Xá ngày càng có điều kiện phát triển. Hiện nay, sản lượng lụa hàng năm từ 2,5 đến 3 triệu mét lụa các loại. Với những mặt hàng tơ tằm như: Vân, Sa, Quế, Lụa sa tanh hoa các loại đủ màu sắc, mẫu mã phong phú được tiêu tụ rộng rãi trong cả nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường, tiến tới sự phát triển lâu dài Nha Xá đang đầu tư xây dựng khu vực sản xuất tập trung trên diện tích 15ha để có cơ sở đầy tư, cải tiến đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nhằm thỏa mãn hơn nữa với người tiêu dùng và tiến tới thị trường xuất khẩu, đồng thời tạo ra một mô hình cảnh quan của một làng nghề, làng du lịch. Xét chung về làng nghề có hai loại sản phẩm chính là lụa và sa tanh. Giá thành sản phẩm lụa dao động từ 50.000- 80.000đồng/mét; giá sản phẩm sa tanh từ 70.000 – 100.000đồng/mét tùy thuộc vào chất lượng sản phẩm. 2.4.2.2. Tình hình công nghệ sản xuất và môi trường lao động Trước đây,lụa Nha Xá chỉ dệt bằng khung dệt thủ công với chưa đầy 40 khung dệt, nay đã tăng lên trên 400 khung dệt và đã được cơ giới hoá 100. Khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất và tiến hành phỏng vấn 15 hộ dân cư không làm nghề hoặc làm ở mức độ rất nhỏ của làng nghề lụa Nha Xá cho thấy toàn bộ các xưởng dệt nhuộm xen kẽ trong khu dân cư có quy mô vừa và nhỏ (trung bình khoảng 5 đến 6 máy dệt/ hộ gia đình), hoạt động mang tính chất kinh tế hộ gia đình liên tục suốt ngày đêm ( 10 giờ/ ngày) nên ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất về tiếng ồn trực tiếp đối với người lao động cũng như các thành viên hộ gia đình và dân cư xung quanh. Theo khảo sát không gian sản xuất của các hộ gia đình trong làng nghề là nhỏ so với yêu cầu sản xuất và sinh hoạt. Hầu hết các hộ gia đình đều tận dụng đất thổ cư của mình để xây dựng nhà xưởng.Nhà xưởng được xây dựng tạm bợ, không có khu xử lý nước thải sản xuất riêng.Toàn bộ nước thải sản xuất được đổ trực tiếp ra cùng nước thải sinh hoạt. Đầu tư vốn cố định ban đầu cho nhà xưởng, máy móc và thiết bị trung bình khoảng 80 – 100 triệu đồng/hộ gia đình. Giá thành máy dệt cũng có sự giao động khá lớn từ 7 – 20 triệu đồng.Sản lượng các máy dệt cũng khác nhau.Máy dệt Việt Nam cho sản lượng khoảng 30m lụa/ tháng.Máy Hàn Quốc cho sản lượng 40m lụa/tháng. Khi đầu tư vào các máy dệt người dân chỉ căn cứ vào độ bền và sản lượng, chất lượng vải chứ không chú ý đến lượng thải mà các máy dệt thải ra. Hiện nay, khâu nhuộm vải vẫn còn thủ công hoàn toàn khi phải dùng bếp lò than công suất rất nhỏ. 2.4.2.3. Tình hình nguyên, vật liệu đầu vào Nguyên liệu chủ yếu là tơ sợi theo từng chủng loại vải định dệt. Cụ thể, để dệt vải thô người ta sử dụng sợi tổng hợp Polyeste và sợi pha PE/Co, dệt khăn mặt dùng sợi bông cotton, dệt gạc sử dụng sợi pha PE/Co có thành phần cotton cao hơn. Mỗi năm sản lượng sản xuất của địa phương đạt 2,5 triệu mét lụa các loại. Trong đó 1,5 triệu mét phải qua công nghệ tẩy nhuộm. Để có được 1m lụa cần qua hai giai đoạn là nấu tẩy và tẩy nhuộm. Trung bình 1m lụa phải dùng từ 8-10 lít nước. Số lít nước dùng cho việc tẩy nhuộm có thể sẽ lớn hơn vì còn tuỳ thuộc vào việc nhuộm đậm hay nhạt. Người dân sử sụng thuốc nhuộm có nguồn gốc từ Trung Quốc, được bán tràn ngập trên thị trường.Quá trình dệt, nhuộm, in hoa có sử dụng hóa chất, thuốc nhuộm như sút, Javen, H2O, CH3COOH, H2S, thuốc nhuộm axít, thuốc nhuộm lưu huỳnh (đá, Na2S), thuốc nhuộm trực tiếp... và rất nhiều nước trong các công đoạn sản xuất. Một tác nhân nữa góp phần gây ô nhiễm môi trường là thành phần trong tơ tằm, bởi qua khâu tẩy, thải ra 25% tạp chất. 1m lụa có trọng lượng 80g sẽ thải ra ngoài nước 20g tạp chất.... Người lao động tại làng nghề làm việc trong môi trường chứa nhiều hóa chất độc hại, đồng thời lại không có sự bảo hộ nên nguy cơ mắc bệnh là rất cao. Qua khảo sát, tại các làng nghề dệt, nhuộm các bệnh thường gặp về đường hô hấp là 10- 20%, bệnh về mắt 10- 20%, bệnh phụ khoa 10- 30%, bệnh về đường tiêu hóa 10- 20%. Ông Hoàng Bá Chỉnh, Chủ tịch xã Mộc Nam cho biết: “Vài năm gần đây, người dân Nha Xá chủ yếu mắc bệnh về phế quản, tỉ lệ người bị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, điếc ngày càng tăng. Số người chết do ung thư nhiều hơn trước, trung bình mỗi năm ở Nha Xá có 3 người chết vì ung thư – chiếm trên 60% số ca tử vong của làng”. 2.5. Thực trạng môi trường làng nghề lụa Nha Xá 2.5.1.. Công nghệ sản xuất và các vấn đề môi trường liên quan Tại Nha Xá công nghệ sản xuất cũng được cải thiện và nâng cấp để tăng năng suất cũng như chất lượng của sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị hiếu khách hàng, do đó sản phẩm dệt ra phải qua tẩy nhuộm màu với nhiều loại hoá chất hơn. Điều bày đồng nghĩa với việc lượng hóa chất thải ra môi trường cũng ngày càng nhiều hơn nếu như không có các biện pháp nhằm xử lý chất thải. Sơ đồ 2.1 Sơ đồ dòng thải quá trình dệt nhuộm tại làng nghề lụa Nha Xá Trong hầu hết các công đoạn của quá trình dệt nhuộm.Trong đó nước thải là vấn đề nghiêm trọng nhất. Nước thải có chứa hóa chất sử dụng để tẩy trắng, nhuộm như Javen; Xút; CH3COOH và các tạp chất có chứa trong tơ tằm… Phần lớn các chất này đều có những ảnh hưởng xấu đối với sức khỏe con người. Ngoài ra, do quá trình giặt nhuộm người dân vẫn sử dụng phương pháp thủ công sử dụng nguyên liệu chính là than với hiệu suất không cao do đó lượng khí than và xỉ than thải ra khá lớn. Tiếng ồn từ các máy móc thiết bị cũng là một vấn đề nan giải. Theo thống kê cho thấy thực trạng làng nghề Nha Xá đang ở tình trạng ô nhiễm đáng báo động. 2.5.2. Thực trạng môi trường tại làng nghề Nha Xá 2.5.2.1.Hiện trạng môi trường nước Lượng nước thải dùng trong các khâu dệt lụa, tẩy, nhuộm ở khá lớn.Nha Xá Trung bình một hộ làm nghề dệt dùng 2,84m3/ngày cho sản xuất, bao gồm nước thải dịch chuội 0,18m3, nước thải nhuộm 0,22m3, nước thải giặt một lần 0,4m3 và các nước thải khác 2,04m3. Bảng 2.3: Chất lượng môi trường nước thải do các hộ dệt nhuộm thải ra Các chỉ tiêu pH Rắn lơ lửng DO COD BOD Nha Xá 9,15 123 1,19 11421 5680 TCVN 5945-2005 5,5-9 100 - 80 50 Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Hà Nam Hàm lượng BOD và COD trong nước thải do làng nghề Nha Xá thải ra cao gấp hàng trăm lần so với tiêu chuẩn cho phép. Lượng nước thải sau sản xuất cùng nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý chảy hòa chung vào mương thoát nước rồi chảy ra sông Nhuệ gây ô nhiễm lớn. Tổng lượng nước sau sản xuất và nước thải sinh hoạt ở Nha Xá từ 235,3 - 285,3 m3/ngày. Nước thải sau sản xuất chứa nhiều hóa chất chưa qua xử lý của các làng nghề dệt, nhuộm chảy trực tiếp ra các thủy vực đang gây ô nhiễm tầng nước mặt.Đặc biệt sự ô nhiễm đã đến mức báo động tại sông Nhuệ và sông Đáy. Do sự ô nhiễm nghiêm trọng của các nguồn nước mặt nên số hộ gia đình còn sử dụng nguồn nước giếng đào vào mục đích ngày càng giảm. 2.5.2.2 . Hiện trạng môi trường không khí Bên cạnh sự ô nhiễm do nước thải gây nên, khí thải, tiếng ồn phát sinh trong các công đoạn dệt, nhuộm cũng đang tác động xấu tới môi trường. Khí thải được phát sinh chủ yếu từ các phân xưởng dệt, lò hơi và các lò nấu tẩy nhỏ dùng than để phục vụ cho quá trình giặt nóng, nấu, sấy, nhuộm… Còn tiếng ồn sinh ra chủ yếu do vận hành máy dệt và quấn sợi, sự va chạm của thoi và khi guồng sợi vào các ống sợi. Bảng .2.4: Chất lượng môi trường không khí tại các hộ dệt nhuộm Các chỉ tiêu Tiếng ồn Bụi lơ lửng CO CO2 SO2 NO Nha Xá 98 3,56 30,42 1437,4 3,246 0,7342 TCVN 5937-2005 - 0,3 30 - 0,35 Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Hà Nam Kết quả quan trắc tiếng ồn đo được tại Nha Xá gần 100 dBA, đứng thứ 2/10 điểm đo trong tỉnh. 2.5.2.3. Hiện trạng môi trường đất Do nước thải bị ô nhiễm ngấm xuống đất khiến cho đất bị thoái hóa, năng suất cây trồng vật nuôi giảm. Ở các khu vực canh tác lúa ở Nha Xá đã có hiện tượng lúa bị "lốp" nhiều lá, ít hạt. Trong trường hợp này sản xuất làng nghề không chỉ gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn làm giảm lợi ích của các hộ sản xuất nông nghiệp. Sản xuất trong điều kiện đất đai chật hẹp khiến mức độ ảnh hưởng trực tiếp của ô nhiễm môi trường gây ra cho người dân làng nghề rất lớn. Nếu không có các giải pháp xử lý thì hậu quả sẽ rất nặng nề. 2.6. Thực trạng QLMT làng nghề Nha Xá 2.6.1 Thực trạng hoạt động QLMT làng nghề trên địa bàn huyện Duy Tiên 2.6.1.1 Hệ thống tổ chức QLMT làng nghề tại huyện Duy Tiên Phòng Tài nguyên và môi trường là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện Duy Tiên , có chức năng tham mưu cho UBND huyện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật. Đối với vấn đề môi trường của làng nghề phòng tài nguyên môi trường huyện Duy Tiên có thẩm quyền hướng dẫn và kiểm tra hiện trạng môi trường tại khu vực làng nghề và xung quanh, thực hiện bảo vệ môi trường, phòng chống, khắc phục ô nhiễm; Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc kiểm tra và thanh tra việc thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường.; Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, thông tin về tài nguyên và môi trường; Quản lý danh sách cán bộ, công chức; hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ địa chính xã, phường; Tham gia đề xuất với UBND huyện và Sở Tài nguyên và môi trường trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác quản lý tài nguyên và môi trường và cán bộ địa chính xã, Thẩm định cam kết bảo vệ môi trường hoặc các đánh giá tác động môi trường của các cụm điểm công nghiệp làng nghề. Sơ đồ 2.2 Sơ đồ hệ thống tổ chức QLMT làng nghề tại huyện Duy Tiên Các phòng có liên quan Phòng TNMT Huyện UBND Huyện Duy Tiên UBND xã/ phường HTX, làng nghề Cán bộ địa chính và môi trường Chú thích: Chỉ đạo: Phối hợp thực hiện: Hướng dẫn thực hiện: Trong việc QLMT làng nghề Phòng Tài nguyên môi trường phải phối hợp với các phòng chịu trách nhiệm quản lý làng nghề . Trong các phòng có liên quan phải kể đến phòng công nghiệp huyện Duy Tiên . Phòng Công nghiệp có chức năng quản lý việc quy hoạch, phát triển làng nghề. Phòng Công nghiệp và Phòng Tài nguyên môi trường cùng trực thuộc UBND huyện Duy Tiên và có chức năng tham vấn việc giải quyết các vấn đề môi trường làng nghề cho UBND huyện nhằm mục tiêu chung là sự phát triển bền vững của làng nghề. Nhưng Phòng Tài nguyên môi trường hướng đến mục tiêu môi trường nhiều hơn trong khi phòng Công nghiệp lại hướng đến mục tiêu về kinh tế. Mục tiêu phòng Công nghiệp là sự phát triển kinh tế của làng nghề, và tiêu chí được sử dụng đấy là sự gia tăng thu nhập của người dân, gia tăng nguồn ngân sách tại làng nghề. Điều này dẫn đến việc để đạt được những mục tiêu ấy, các quyết định của phòng Công nghiệp đưa ra có thể bỏ qua các tiêu chí về môi trường.Trong khi đó các quyết định của Phòng Môi trường lại dựa trên tiêu chí môi trường như hiện trạng môi trường tại các làng nghề.Chính vì mỗi cơ quan hướng tới một mục tiêu khác nhau nên các văn bản Pháp luật đưa ra còn chồng chéo, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của làng nghề. *) Công tác cán bộ về QLMT huyện và cấp xã - Hiện nay, số lượng cán bộ phụ trách về môi trường của huyện là 03 người . Trong đó, 02 người là cán bộ biên chế chính thức và 01 người là lao động hợp động. - Công tác QLMT của huyện được phân cấp quản lý tới từng khu thôn xóm. Tuy nhiên, tại cấp xã chưa có được các cán bộ chuyên trách về lĩnh vực này mà hầu hết là cán bộ kiêm nhiệm thêm công tác môi trường. Riêng đối với vấn đề môi trường tại làng nghề công tác QLMT sẽ có sự đại diện của ban quản lý làng nghề trước các cơ quan chức năng. *) Nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường Nguồn kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường của huyện còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn hiện nay. Nguồn kinh phí này có được từ nhiều nguồn thu khác nhau như từ nguồn Ngân sách, từ các tổ chức quốc tế, từ nguồn đóng góp của các cơ sở, hộ gia đình… Hiện nay việc thu gom xử lý rác được giao cho quản lý môi trường đô thị huyện Duy Tiên .Ngân sách sự nghiệp môi trường cấp cho huyện năm 2007 là:gần 6 tỷ đồng , tuy nhiên chưa có sự phân bổ riêng cho làng nghề 2.6.1.2. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường *) Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường - Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường được tích cực triển khai nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ làm công tác môi trường của thành phố cũng như các xã và nâng cao hiểu biết, giáo dục về môi trường cho các tầng lớp nhân dân trên địa bàn thành phố. Cụ thể là huyện đã tích cực tham gia các buổi tập huấn môi trường do tỉnh tổ chức và đã tổ chức được các lớp tập huấn về Luật bảo vệ môi trường cho các ban ngành, đoàn thể của huyện và lãnh đạo, cán bộ chuyên môn UBND các xã, thị trấn - Hàng năm, huyện tham gia đầy đủ, tích cực các hoạt động về môi trường như tuần lễ quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường , ngày môi trường thế giới và các ngày lễ lớn về môi trường hàng năm… bằng các hình thức mít tinh, phát thanh, cổ động, diễu hành, băng rôn, khẩu hiệu … do UBND tỉnh và Sở Tài nguyên và môi trường phát động. - Đối với làng nghề ngoài việc tham gia các hoạt động môi trường nói chung của huyện , phòng Tài nguyên và môi trường còn phối hợp với chính quyền xã và hiệp hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ… các làng nghề nhằm tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật và vận động bảo vệ môi trường cho người dân. Công tác đào tạo,tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường được tổ chức khá nhiều nhưng thường chỉ lớn về mặt hình thức, chưa đi sâu vào nội dung, chưa truyền tải đến cho người dân được hết ý nghĩa của công tác Bảo vệ môi trường. *) Công tác triển khai các văn bản Pháp luật và các quy định về bảo vệ môi trường tại địa phương - Sau khi Luật Bảo vệ môi trường 2005 được ban hành Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Duy Tiên đã cử cán bộ tham gia 1 lớp tập huấn Luật Bảo vệ môi trường 2005, đồng thời Ký hợp đồng với Đài phát thanh huyện về công tác tuyên truyền Luật Bảo vệ môi trường và Hợp đồng với Phòng giáo dục huyện Duy Tiên về tuyên truyền giáo dục Bảo vệ môi trường trong toàn ngành giáo dục. Phòng đã Tổ chức được 01 lớp tập huấn Luật Bảo vệ môi trường 2005 trên địa bàn toàn huyện Duy Tiên Căn cứ Nghị quyết số 08/NQ-TU ngày 2/5/2003 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam về đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, Kế hoạch 373/KH-UB ngày 26/5/2003 của UBND tỉnh Hà Nam triển khai thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TU, căn cứ trên quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Hà Nam đến năm 2010, các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, quy hoạch mạng lưới giao thông, quy hoạch điện... đến năm 2010 và căn cứ trên nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư, tỉnh Hà Nam đã xây dựng “Quy hoạch mạng lưới các khu công nghiệp, cụm công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và cụm tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Nam đến năm 2010”. Trong đó ở huyện Duy Tiên có 3 cụm TTCN làng nghề xã diện tích là 32 ha. Việc xây dựng các điểm công nghiệp làng nghề tạo sự đồng bộ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sơ máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, các khu xử lý nước thải, khí thải tập trung…). Điều này khiến cho việc áp dụng các công nghệ xử lý chất thải thuận tiện hơn.Và công tác QLMT trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là thực trạng ô nhiễm tại các làng nghề. Hiện nay, trên địa bàn huyện Duy Tiên chưa có điểm công nghiệp làng nghề đi vào sản xuất nhưng thực tế cho thấy trên toàn địa bàn tỉnh Hà Nam vấn đề ô nhiễm tại các cụm, điểm công nghiệp làng nghề đã ở mức báo động.Hà Nam hiện có 3 cụm công nghiệp (CN) và 20 điểm CN làng nghề, một số đã hoạt động còn một số khác đang xây dựng nhưng đã phát sinh tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng do rác, nước và khí thải từ các cơ sở này xả ra. Đặc biệt, hiện nay các cụm, điểm CN làng nghề mới chỉ thu gom được trên 50% lượng rác, chất thải ứ đọng đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh với mục tiêu lớn nhất là lợi nhuận, do đó ý thức bảo vệ môi trường của họ còn kém. Trong khi đó việc tổ chức quản lý lại lỏng lẻo, không có sự giám sát thường xuyên và những chế tài xử phạt nghiêm khắc khi có vi phạm xảy ra, do đó các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh có thể thoải mái thải chất ô nhiễm ra môi trường. Công nghệ sử dụng trong các cụm, điểm công nghiệp làng nghề thường lạc hậu và kém hiệu quả.Có những cụm, điểm công nghiệp còn không có khu vực quy hoạch cho việc xử lý chất thải.Để tránh tình trạng này, trước khi tiến hành xây dựng cần phải có bước lập và thẩm định đánh giá tác động môi trường của các cụm điểm công nghiệp làng nghề một cách nghiêm túc. Đồng thời khi các cụm, điểm công nghiệp này đã đi vào hoạt động cần có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng về việc thực hiện cam kết của doanh nghiệp. Trong năm 2006 Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Duy Tiên đã ký hợp đồng lập Báo cáo Đánh giá tác động môi trường tại hai cụm công nghiệp - Công tác quan trắc, kiểm tra giám sát về môi trường. Theo hướng dẫn tại Thông tư số 07/2007/TT-BTNMT ngày 03/7/2007 của Bộ Tài nguyên và môi trường thì việc phân loại và quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường cần phải xử lý do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện. Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Duy Tiên tiến hành ra soát và phân loại đối với các cơ sở sản xuất trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở đó tiến hành phân loại và quyết định danh mục cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường cần phải được xử lý. Thực hiện chức năng giám sát của HĐND được quy định trong Luật tổ chức HĐND và UBND, Thường trực HĐND đã tổ chức các cuộc giám sát tại một số doanh nghiệp thuộc danh mục cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, cơ sở nằm trong danh sách đơn thư khiếu nại, tố cáo. Phòng Tài Nguyên Môi trường hằng năm phải thực hiện việc quan trắc chất lượng môi trường, lập báo cáo hiện trạng môi trường huyện Trong năm 2009, phòng đã tiến hành 02 đợt quan trắc về môi trường, đồng thời nhằm phục vụ công tác quản lý Nhà Nước về môi trường Phòng đã dự định sẽ đầu tư mua sắm thêm một số trang thiết bị (gồm: máy đo nhanh các khí độc, máy đo bụi, đo tiếng ồn, thiết bị lấy mẫu và bảo quản mẫu nước). Hiện nay trên địa bàn huyện Duy Tiên chưa có thuế đánh vào nước thải nguy hại. Đối với các doanh nghiệp hiện nay chỉ đánh thuế nước thải với mức phí bằng 1/3 mức phí nước cấp cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp khi doanh nghiệp sử dụng nước cấp của thành phố, đối với các hộ sản xuất kinh doanh làng nghề chưa thực hiện thu phí nước thải. Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp quy về quản lý môi trường nhưng hệ thống các văn bản này còn chưa đầy đủ, chồng chéo, gây ra nhiều khó khăn cho các đơn vị quản lý. 2.6.2 Thực trạng QLMT làng nghề lụa Nha Xá Các vấn đề môi trường tại làng nghề lụa Nha Xá đang là yêu cầu cấp bách hiện nay đối với huyện Duy Tiên và rất cần có những biện pháp quản lý và xử lý thích hợp. Hiện nay, huyện Duy Tiên đã có những bước đi nhằm hướng đến sự phát triển bền vững cho làng nghề lụa Nha 2.6.2.1.Xây dựng làng nghề kết hợp sản xuất du lịch UBND tỉnh Hà Nam đã phê duyệt dự án quy hoạch làng nghề lụa Nha Xá thành một điểm du lịch hấp dẫn với số vốn đầu tư là 2 tỷ đồng. Mặc dù Dự án này đã được thông báo cho các chủ cơ sở dệt lụa nhưng tất cả vẫn còn trên giấy tờ, và chưa thấy có tỉnh có động thái gì. Hiện nay việc phát triển du lịch tại làng nghề hoàn toàn mang tính tự phát chưa có sự liên kết cũng như định hướng của các cơ quan chức năng.Tại làng nghề cũng đã hình thành hiệp hội làng nghề nhưng hiện nay hiệp hội làng nghề vẫn chưa phát huy được hoàn toàn các chức năng của mình, vẫn chưa đem tiếng nói của người dân đến các cấp chính quyền. Tuy nhiên, việc làng nghề phát triển theo hướng kết hợp sản xuất với du lịch cũng đã mang lại những lợi ích thiết thực thúc đẩy sự phát triển của làng nghề. Đồng thời để xây dựng hình ảnh đẹp của làng nghề trong mắt du khách nên vấn đề vệ sinh khu phố trên địa bàn Phường khá tốt.Trong tương lai hiệp hội làng nghề cần phát huy thêm vai trò của mình nhằm khuyến khích người dân chú trọng hơn vấn đề bảo vệ môi trường. 2.2.6.2.2Xây dựng cụmcông nghiệp Hoàng Đông UBND huyện Duy Tiên đã ra Nghị quyết 08/NQ-TU ngày 2-5-2003 của Tỉnh uỷ và Nghị quyết số 15/NQ-HU ngày 5-6-2003 của huyện uỷ về đẩy mạnh phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiêp trên địa bàn điểm công nghiệp làng nghề trên địa bàn huyện Duy Tiên .Cụm TTCN làng nghề Hoàng Đông có 18 doanh nghiệp và hộ tư nhân, hiện nay đã có 14 doanh nghiệp và hộ tư nhân đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và đi vào sản xuất.. Trong đó đang dự kiến thực hiện triển khai dự án quy hoạch diện tích 13,9ha cho khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề Hoàng Đông bao gồm quy hoạch khu vực sản xuất và tiến hành tẩy, nhuộm tập trung để tiện xử lý nước thải. môi trường. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn huyện Duy Tiên thì ô nhiễm tại các cụm điểm công nghiệp đang là thực trạng đáng báo động. 2.6.2.3. Thành lập tổ thu gom rác tự quản Trước khi ký hợp đồng với Công ty Môi trường đô thị tại một số thôn tại xã Mộc Nam đã tự tổ chức tổ thu gom rác với mô hình đơn giản Sơ đồ 2.3 Mô hình tổ thu gom rác tự quản tại xã Mộc Nam Rác thải từ các hộ gia đình Thu gom vận chuyển bằng xe thô sơ Bãi rác quy định Mỗi thôn có một đội vệ sinh có từ 5 – 8 người.Việc lựa chọn các đội vệ sinh sẽ dựa vào hình thức đấu thầu, đội vệ sinh nào có mức giá phù hợp nhất sẽ được lựa chọn. Hợp tác xã và Trưởng thôn phối hợp làm công tác quản lý đội vệ sinh và thu phí vệ sinh của các hộ dân. Tiền thu phí được dùng vào việc mua sắm và sửa chữa các loại dụng cụ thu gom và chi trả cho nhân công làm nhiệm vụ thu gom rác. Tiền phí được tính dựa trên tổng mức đầu tư dụng cụ và trả tiền công cho từng đội thu gom chia đều cho các hộ gia đình trong thôn. Do đó mức thu phí có thể dao động từ 4.000 -5.000đồng/hộ/tháng. Việc thu gom của các tổ vệ sinh chịu sự giám sát của Hợp tác xã, Trưởng thôn và các tổ chức đoàn thể và người dân trong thôn. Cuối mỗi năm lại có các cuộc họp nhằm đánh giá hoạt động của tổ vệ sinh và xem xét việc có thuê tiếp tổ vệ sinh đó hay không. Rác sau khi thu gom được tập kết về đúng nơi quy định. Trước đây, khi lượng rác không lớn thường được xử bằng cách chôn lấp tại chỗ.Tuy nhiên, với sự phát triển của làng nghề khối lượng rác ngày càng lớn, các địa điểm tập kết rác ngày càng ô nhiễm. Các thôn đã thuê Công ty môi trường đô thị về thu gom lượng rác tồn này, dần dần việc thu gom được giao khoán hẳn cho công ty môi trường đô thị. Nhưng theo đánh giá của người dân thì việc tự tổ chức thành các đội thu gom hiệu quả hơn, đường làng ngõ phố sạch đẹp hơn. Vậy nên chăng việc tiếp tục xây dựng lại các tổ thu gom rác tự quản đồng thời phối hợp với công ty môi trường đô thị nhằm xử lý lượng rác sau khi đã thu gom. Ngoài ra, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên thường tổ chức vận động các phong trào xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng nếp sống lành mạnh, tổ chức các buổi dọn vệ sinh khu vực lối xóm. CHƯƠNG 3 :NHỮNG KHÓ KHĂN ,THUẬN LỢI TRONG CÔNG TÁC QLMT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LY BVMT TẠI LÀNG NGHỀ LỤA NHA XÁ - XÃ MỘC NAM –HUYỆN DUY TIÊN - TỈNH HÀ NAM 3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác QLMT tại làng nghề lụa Nha Xá 3.1.1. Những thuận lợi - Huyện Duy Tiên có một vị trí thuận lợi trong việc phát triển kinh tế và xã hội. Là một trung tâm kinh tế của huyện nằm sát ngay địa bàn thành phố Hà Nội và môi trường làng nghề là một trong những vấn đề nổi bật của huyện Duy Tiên , đặc biệt vấn đề ô nhiễm sông Nhuệ và sông Đáy là vấn đề cấp quốc gia nên có thể nói trong việc giải quyết những vấn đề môi trường làng nghề của huyện không chỉ có sự quan tâm của các cơ quan chính quyền tỉnh Hà Nam và thành phố Hà Nội mà còn có sự quan tâm đặc biệt của cấp Trung ương. Điều này cũng thu hút sự các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư kinh phí, công nghệ cho công tác QLMT làng nghề trên địa bàn huyện Duy Tiên - Lụa Nha Xá là một thương hiệu đã có từ lâu đời, do đó việc đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh các sản phẩm làng nghề, tạo điều kiện phát triển cuộc sống cho người dân, nâng cao mức sống và trình độ dân trí từ đó sẽ thuận lợi hơn cho công tác bảo vệ môi trường. - Huyện Duy Tiên đã có những đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Đã tổ chức các khóa tập huấn về Luật bảo vệ môi trường cho cán bộ, người dân trên địa bàn toàn thành phố. Có chú trọng vào công tác tập huấn, nâng cao năng lực quản lý Nhà Nước về môi trường. Ban hành hệ thống văn bản Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai nhiệm vụ bảo vệ môi trường. - Đã có kế hoạch xây dựng cụm, điểm công nghiệp làng nghề cách xa khu dân cư và có kế hoạch quan trắc, lập Báo cáo hiện trạng môi trường, công tác lập và thẩm định cam kết bảo vệ môi trường. - Tại xã Mộc Nam đã có các tổ chức đại diện cho người dân như hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, hiệp hội làng nghề … Thông qua những tổ chức này các chủ trương, quy định, luật pháp của Nhà Nước sẽ được đưa đến cho người dân, đồng thời đây cũng là những tổ chức có thể phản ánh chính xác nhất nguyện vọng của người dân. 3.1.2. Những khó khăn *) Tình trạng ô nhiễm tại làng nghề lụa Nha Xá cũng như lưu vực sông Nhuê do nước thải từ làng nghề đổ ra ngày càng gia tăng. *) Tổ chức và năng lực QLMT chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. - Mặc dù huyện đã có nhiều cố gắng nhằm nâng cao năng lực QLMT nhưng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn trong công tác QLMT đang thiếu trầm trọng. Hiện nay, tại Phòng Tài nguyên và Môi trường Huyện Duy Tiên chỉ có 03 cán bộ, trong đó chỉ có 01 chuyên viên từng tốt nghiệp ĐH chuyên ngành môi trường. Trong khi đó tại các xã, thị trấn chưa có cán bộ chuyên trách riêng trong lĩnh vực môi trường. Theo quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong hệ thống tổ chức QLMT, tại cấp thành phố trực thuộc tỉnh phải có từ 4-5 cán bộ quản lý về môi trường và tại cấp xã, phường phải có từ 1- 2 cán bộ chuyên trách về QLMT. - Hệ thống văn bản Pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của địa phương, các quy định liên quan đến QLMT làng nghề chưa đầy đủ, chồng chéo, gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý và việc triển khai đến người dân còn chưa triệt để. - Nguồn kinh phí dành cho sự nghiệp Bảo vệ môi trường còn hạn chế. Theo qui định của Bộ Tài nguyên và Môi trường nguồn kinh phí dành cho sự nghiệp bảo vệ môi trường là 1% tổng thu Ngân sách. Nhưng theo phó phòng Tài nguyên và Môi trường huyện cho biết nguồn kinh phí được cấp cho sự nghiệp bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố hiện nay chỉ bằng 1/9 so với quy định. - Hiện nay chưa có mức phí riêng đối với chất thải do các hộ kinh doanh sản xuất làng nghề. Hiện nay mức phí thu gom vẫn được tính chung cho các hộ gia đình trên địa bàn toàn xã Nha Xá là 3000 đồng/hộ gia đình/tháng. Điều này dẫn đến các hộ sản xuất gây ô nhiễm nhưng không phải chịu các chi phí đối với thiệt hại do mình gây ra. - Công tác Bảo vệ môi trường còn chưa có sự kết hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các ban, ngành, việc lồng ghép các vấn đề môi trường vào trong quy hoạch cụm công nghiệp làng nghề còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. *) Mặc dù, người dân trên địa bàn xã Mộc Nam đã có ý thức về bảo vệ môi trường, tuy nhiên chỉ giới hạn trong phạm vi giữ gìn vệ sinh thôn xóm. Theo thống kê, thì ô nhiễm làng nghề phần lớn từ các hộ gia đình sản xuất kinh doanh làng nghề.Nhưng khi được hỏi hầu như các hộ gia đình cùng cho rằng lượng thải mình thải ra không gây ô nhiễm mấy so với các Doanh nghiệp. Vì sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, nước thải đổ vào nhiều nguồn khác nhau nên người dân không nhận thức được mức độ độc hại và ô nhiễm do hoạt động sản xuất làng nghề gây ra. Thêm nữa, ý thức tuân thủ quy đinh của các Doanh nghiệp cũng còn chưa cao gây ô nhiễm, khiến người dân không khỏi bức xức. Do hạn chế trong nhận thức về nhiệm vụ Bảo vệ môi trường của người dân và Doanh nghiệp nên gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý cũng như trong việc triển khai thực hiện mô hình cộng đồng tham gia Bảo vệ môi trường. *) Nhiều hoạt động môi trường chỉ mang nặng tính hình thức, chưa đi sâu vào tìm hiểu tâm tư, nguyên vọng người dân cũng như đi sâu, đi sát tùy theo điều kiện địa phương để thực hiện. *) Nguồn thải từ các hộ gia đình đổ vào nhiều nguồn khác nhau gây khó khăn cho việc xử lý nước thải. Hiện nay, cũng chưa có công nghệ nào phù hợp nhằm giải quyết vấn đề nước thải từ làng nghề dệt nhuộm lụa Nha Xá dù đã có nhiều dự án nghiên cứu đã được triển khai. *) Nguồn vốn đầu tư của các tổ chức trong ngoài nước đầu tư không đạt hiệu quả khiến nhiều cơ hội đã bị bỏ qua đối với làng nghề lụa Nha Xá . 3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý BVMT tại làng nghề Nha Xá 3.2.1. Mục tiêu phát triển của làng nghề Dựa trên quy hoạch bảo vệ môi trường tỉnh Hà Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, UBND huyện Duy Tiên xây dựng định hướng phát triển làng nghề đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường. *) Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội: Phát triển các sản phẩm truyền thống của làng nghề, nhất là các mặt hàng xuất khẩu, hàng lưu niệm phục vụ khách du lịch (dệt lụa tơ tằm, dệt the, dệt len…). Hỗ trợ khuyến khích các sản phẩm có chất lượng cao, tăng thu nhập, mức sống cho người dân. *) Mục tiêu về môi trường: Nâng cao tỷ lệ thu gom rác, tạo môi trường cảnh quan sạch đẹp trên địa bàn Phường. Xây dựng hệ thống cống rãnh nhằm thu nước thải từ các hộ gia đình về một khu vực tập trung nhằm tạo điều kiện cho việc xử lý, giảm mức ô nhiễm trước khi nước thải được đổ ra sông Nhuệ. Tiếp tục xây dựng phát triển điểm công nghiệp làng nghề truyền thống, khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia vào điểm công nghiệp làng nghề. 3.2.2. Áp dụng các công cụ quản lý BVMT làng nghề lụa Nha Xá 3.2.2.1. Tăng cường hoạt động giám sát môi trường làng nghề và thực hiện kiểm soát nguồn thải - Tăng cường kiểm soát phát thải từ các nguồn thải tại làng nghề. Dựa trên định mức nước sử dụng, vật liệu cho 1 sản phẩm, để ước tính lượng ô nhiễm của một số sản phẩm, từ đó ước tính cho cả làng nghề. - Tăng cường giám sát môi trường đối với các cơ sở sản xuất phát triển mở rộng tại làng nghề, yêu cầu các cơ sở này thực hiện cam kết BVMT để đảm bảo cácđầu tư này theo hướng công nghệ thân thiện với môi trường. Giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định về BVMT trong cam kết BVMT của các cơ sở sản xuất trong làng nghề. - Tăng cường giám sát các cơ sở sản xuất hiện có và mới thành lập, yêu cầu các cơ sở phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ thống quản lý chất thải rắn ... . Kinh phí cho các hoạt động này có thể lấy từ ngân sách chi cho sự nghiệp môi trường của địa phương và do chủ cơ sở sản xuất đóng góp. 3.2.2.2. Triển khai áp dụng chế tài nguồn gây ô nhiễm phải trả tiền Sở TN &MT cần hướng dẫn bằng văn bản cho cấp huyện, xã lập biểu thống kê các nguồn thải và thải lượng các chất ô nhiễm trong khí thải, nước thải, chất thai rắn của các cơ sở sản xuất trong làng nghề ở địa phương theo phương pháp tính trung bình lượng sản phẩm sản xuất /ngày. Từ đó tính phí BVMT cho mỗi cơ sở sản xuất. 3.2.2.3. Tăng cường áp dụng công cụ pháp luật trong BVMT làng nghề Tuyên truyền phổ biến luật BVMT, phổ biến các thể chế môi trường trong các nội dung tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng trong làng nghề để dễ dàng thi hành pháp luật. các hành vi đổ chất thải ra môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép, gây tác động xấu tới sức khoẻ cộng đồng và ảnh hưởng tới cây trồng vật nuôi cần xử phạt theo quy định của Nhà nước và của địa phương. 3.2.2.4. Tăng cường công cụ thông tin trong BVMT làng nghề Tăng cường thu thập thông tin, số liệu, tạo lập các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, trao đổi, chia sẻ, công bố thông tin, số liệu làng nghề. Đưa các thông tin đó vào các đề tài, dự án nghiên cứu về môi trường làng nghề. Đưa các thông tin đã có của các đề tài, dự án nghiên cứu về làng nghề lên các phương tiện truyền thông như web, đài, báo chí nhằm tránh những đầu tư trùng lặp. 3.2.2.5.Tăng cường, đa dạng hoá đầu tư tài chính cho BVMT làng nghề 1. Do nguồn lực BVMT làng nghề cũng hạn chế nên cần có sự hỗ trợ ban đầu của Nhà nước để tạo sự chuyển biến về cả nhận thức và việc làm nhằm giảm tải lượng ô nhiễm của làng nghề. Trước hết cần tập trung vào: - Hỗ trợ kinh phí tạo cơ sở hạ tầng, trong đó có việc quy hoạch các khu cụm làng nghề, hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, hệ thống quản lý chất thải rắn của cụm khu làng nghề. - Xã hội hoá bảo vệ môi trường. - Hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, khuyến khích áp dụng công nghệ bảo vệ môi trường cho các mô hình trình diễn để nhân rộng mô hình. - Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn và quản lý môi trưòng bằng vốn vay ưu đãi. - Hỗ trợ một phần kinh phí quan trắc môi trường định kỳ hàng năm từ nguồn thu của các cơ sở sản xuất. - Xây dựng mức thuế thu nhập doanh nghiệp, mức lãi suất tín dụng ưu đãi cho các cơ sở sản xuất kinh doanh tại làng nghề có áp dụng sản xuất sạch hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp như giảm thuế cho phần lợi nhuận do sản xuất sạch hơn mang lại. 2. Nguồn đầu tư: - Từ ngân sách Nhà nước dành cho BVMT ở địa phương (1% tổng chi phí ngân sách). Xây dựng cơ chế cho phép dùng vốn sự nghiệp môi trường để hỗ trợ xử lý môi trường làng nghề theo tỷ lệ phù hợp. - Từ nguồn vốn đầu tư của chủ sản xuất. - Từ nguồn vốn ODA dành cho BVMT. - Từ quỹ BVMT Việt Nam (năm 2002 ngân sách Nhà nước cấp cho các làng nghề trong nước ban đầu 200 tỷ đồng và hàng năm bổ xung thêm 10%, đến năm 2008 là 500 tỷ đồng vốn điều lệ từ các nguồn thu nước thải, chất thải rắn ..., các nguồn tài trợ khác). (V - 12 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008). - Từ khoản thu 50% nguồn thu phí nước thải để lại cho địa phương quản lý theo NĐ 67/2003/NĐ-CP. Cần tăng cường thu phí nước thải, thu gom vận chuyển chất thải rắn để có nguồn kinh phí cấp cho BVMT làng nghề. - Từ nguồn tài trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế cho BVMT 3.2.2.6. Giải pháp phát triển làng nghề thành làng du lịch Hiện nay, đã có quyết định xây dựng làng nghề lụa Nha Xá trở thành làng du lịch.Đây là một hướng đi rất phù hợp với một làng nghề lâu đời như Nha Xá.Mặc dù có các văn bản hướng dẫn nhưng hiện nay việc phát triển du lịch trong địa bàn xã vẫn là tự phát.Trong tương lai tỉnh nên có những hành động thiết thực hơn nhằm xây dựng một làng nghề mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể xây dựng phòng truyền thống với những hình ảnh sản xuất của làng nghề cùng với một số nghệ nhân thực hiện quy trình dệt lụa theo phương pháp thủ công nhằm thu hút khách du kịch. Bên cạnh đó vẫn phải có những thay đổi cho phù hợp với thị hiếu như đa dạng hóa sản phẩm, tìm kiếm những thiết kế độc đáo mang tinh thần dân tộc. Đồng thời với việc phát triển du lịch cần chỉ cho người dân thấy rõ môi trường cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách du lịch. Điều này khuyến khích tính tự giác của người dân trong công tác Bảo vệ môi trường. 3.2.2.7. Giải pháp quy hoạch điểm công nghiệp làng nghề - Quy hoạch làng nghề gắn liền sản xuất với BVMT Việc quy hoạch các cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề để di dời các cơ sở gây ô nhiễm nặng trong làng ra, đồng thời tại các khu này phải có các hệ thống xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn ... . Có 2 loại hình quy hoạch chính là quy hoạch tập trung theo cụm công nghiệp nhỏ và quy hoạch phân tán tại chỗ: Quy hoạch tập trung theo cụm công nghiệp làng nghề cần xa khu dân cư và quy hoạch đồng bộ mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin, hệ thống thu gom và xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn để xử lý tập trung. Quy hoạch phân tán: quy hoạch sản xuất ngay tại hộ gia đình kết hợp cải thiện điều kiện sản xuất và cải thiện vệ sinh môi trường mà không cần phải di dời, hạn chế tối đa việc cơi nới, mở rộng xưởng, xây nhà cao tầng, lưu giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ truyền nhân văn của làng để có thể kết hợp với du lịch, loại hình này thích hợp với làng nghề cổ truyền như làng nghề dệt lụa truyền thống xã Mộc Nam –huyện Duy Tiên – tỉnh Hà Nam. Hiện nay, tỉnh Hà Nam đã có quyết định xây dựng cụm công nghiệp làng nghề Hoàng Đông . Và dự án này đã được triển khai. Tuy nhiên mô hình này sẽ thích hợp với các làng nghề tiểu thủ công nghiệp mới hơn, trong khi đó làng nghề lụa Nha Xá là một làng nghề truyền thống lâu đời, các máy móc trang thiết bị nhà xưởng đã được trang bị đầy đủ tại mỗi hộ gia đình. Vì vậy rất khó khăn để tập trung các hộ sản xuất vào khu vực quy hoạch.Và sẽ phải làm gì đối với các hộ sản xuất không nằm trong khu vực quy hoạch. Và liệu khi các hộ sản xuất vào một khu vực tập trung có làm mất đi nét đặc trưng văn hóa làng nghề khiến sức thu hút của làng nghề đối với khách du lịch bị giảm sút. Với kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh có thể tìm ra hướng giải quyết các vấn đề trên. Theo quan điểm của tỉnh Bắc Ninh, việc hình thành các khu, cụm công nghiệp làng nghề và tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong các làng nghề di dời ra khu sản xuất tập trung, tách sản xuất ra khỏi khu dân cư,cần phù hợp với đặc điểm riêng của từng làng, từng nghề. Vì vậy, tỉnh Bắc Ninh có chủ trương chỉ thực hiện việc di rời đối với những khâu sản xuất đồng bộ, những công đoạn lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm. Đối với hoạt động sản xuất những chi tiết nhỏ lẻ, không ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ của cộng đồng thì vẫn được sản xuất, kinh doanh ở từng hộ gia đình nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện và tập quán lao động của người dân trong làng nghề. Đối với làng nghề lụa Nha Xá đồng nghĩa với việc tập trung vào quy hoạch di dời từ công đoạn chuội tơ đến công đoạn nhuộm.Đây là quy trinh chủ yếu tạo ra lượng nước thải chưa hóa chất gây ô nhiễm. Đối với hoạt động sản xuất những chi tiết nhỏ lẻ, không ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ của cộng đồng thì vẫn được sản xuất, kinh doanh ở từng hộ gia đình nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện và tập quán lao động của người dân trong làng nghề. Trường hợp này có thể áp dụng đối với các hộ gia đình sản xuất dệt. Đồng thời với giải pháp này cũng nhằm giữ nét văn hóa đặc trưng của làng nghề lụa Nha Xá , vì đối với khách du lịch công đoạn sản xuất thu hút khách tham quan nhất vẫn là công đoạn dệt vải. 3.2.2.8. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục Nhằm nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường cân tăng cường thực hiện tuyên truyền giáo dục người dân. Tuy nhiên, việc tuyên truyền phải đi sâu vào nội dung chứ không chỉ chú trọng về hình thức. Cần có những biện pháp tuyên truyền đơn giản, dễ đi vào lòng dân nhưng lại có thể truyền tải hết nội dung. Nội dung tuyên truyền tập trung vào sức khỏe, ảnh hưởng của sản xuất đến môi trường làng nghề và các hoạt động bảo vệ môi trường mà người dân có thể tham gia. Ðội ngũ tuyên truyền chủ yếu ở cấp xã, thôn, các cấp chính quyền xã, thôn cần ủng hộ tích cực, hội phụ nữ và đoàn thanh niên là hai lực  lượng nòng cốt trong công tác truyền thông môi trường.  Cần có những xử phạt đối với các đối tượng gây ô nhiễm môi trường, bắt đầu từ những hành động cụ thể như xử lý vi phạm đổ rác bừa bãi đến những vi phạm như thải nước thải sản xuất gây ô nhiễm ra môi trường. Bên cạnh đó, cần khen thưởng cho những cá nhân, tổ chức có thành tích trong công tác bảo vệ môi trường. Riêng đối với các cơ sở kinh doanh gây ô nhiễm trên địa bàn xã cần quản lý chặt chẽ, xử phạt các vi phạm theo đúng quy định nhằm răn đe, đồng thời làm gương cho người dân. 3.2.2.9. Giải pháp về công nghệ Hiện nay, công nghệ được sử dụng tại làng nghề lụa Nha Xá rất lạc hậu và gây ô nhiễm cho môi trường.Máy móc sử dụng trong công đoạn dệt gây tiếng ồn lớn trong khi đó các công đoạn chuội tơ, giặt, nhuộm sử dụng hoàn toàn thủ công.Nước thải có chứa hóa chất được thải ra chủ yếu từ các công đoạn này.Với công nghệ như vậy không những gây lãng phí nguồn hóa chất, gây ô nhiễm môi trường mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người trực tiếp tham gia vào công đoạn chuội tơ, giặt, nhuộm. Với điều kiện thể tập trung nước thải từ làng nghề để xử lý, các cơ quan quản lý nên định hướng vào việc áp dụng các công nghệ sạch từ lựa chọn nguyên liệu tơ đầu vào ít tạp chất, lựa chọn hóa chất ít độc hại đến việc cải tiến công nghệ, sử dụng các công nghệ hiện đại hiệu suất cao, ít chất thải vào quy trình sản xuất. Ngoài ra, cần có các giải pháp, công nghệ xử lý nước thải theo qui mô hộ gia đình hoặc theo quy mô các cụm sản xuất nhỏ. Điều này đòi hỏi sự tham gia của các nhà nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp phù hợp, ngoài ra nó còn đòi hỏi việc huy động nguồn vốn. Việc huy động các nguồn vốn không chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà Nước mà còn phải huy động từ người dân,từ các doanh nghiệp, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Nhà Nước có thể hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn ưu đãi thông qua các ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.Nguồn vốn hỗ trợ này giúp người dân nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh góp phần phát triển làng nghề. Ngoài ra, nhằm tăng thêm nguồn thu cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, đồng thời thực hiện nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” nên đánh thuế vào các doanh nghiệp, hộ sản xuất gây ô nhiễm. Để thực hiện công tác này cần có sự hỗ trợ của các công cụ kỹ thuật nhằm xác định lượng phát thải cũng như mức độ độc hại của chất thải mà các doanh nghiệp, các hộ gia đình thải ra từ đó có định hướng thu mức phí phù hợp theo Quy định của Pháp luật. Huyện cần có các chính sách phù hợp nhằm thu hút sự đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước. 3.2.2.10. Cụ thể hoá các giải pháp - Nâng cao vai trò và trách nhiệm của UBND xã trong công tác bảo vệ môi trường tại địa phương. - Xây dựng hương ước làng nghề vì hương ước là công cụ quản lý môi trường hữu hiệu ở nông thôn do thích hợp với cộng đồng dân cư, về phong tục tập quán. - Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh về bảo vệ môi trường trong các làng nghề truyền thống. - Thực hiện công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp. - Thực hiện đầy đủ những biện pháp khắc phục tác động tiêu cực đến môi trường cần có kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường. Hàng năm cần bổ sung một số nguồn ngân sách cho công tác khắc phục ô nhiễm môi trường các khu vực làng nghề, giám sát theo dõi diễn biến ô nhiễm môi trường khu vực làng nghề. - Tăng cường giáo dục môi trường trong các làng nghề như giáo dục cho mọi người về ý thức bảo vệ giữ gìn môi trường chung và nhận thức được rằng môi trường làm việc và môi trường xung quanh cần được bảo vệ trước hết vì sức khỏe chính bản thân những người lao động trực tiếp sau đó đến cộng đồng dân cư. Tuyên truyền cho nhân dân ý thức bảo vệ môi trường, không xả các chất thải ra môi trường. - Khuyến khích áp dụng công nghệ mới ít chất thải, giảm thiểu mức tiêu hao nguyên nhiên liệu. Tạo điều kiện cho các chủ cơ sở sản xuất được tập huấn về công nghệ và thiết bị mới trong quy mô sản xuất vừa và nhỏ. Nâng cao hiệu suất sản xuất, giảm lượng hoá chất sử dụng, sử dụng nhiên liệu than có chứa hàm lượng lưu huỳnh thấp để giảm lượng SO2 phát sinh. KẾT LUẬN Sự phát triển của làng nghề lụa Nha Xá đã mang lại những nguồn thu nhập cho người dân trên địa bàn phường và đóng góp đáng kể vào Ngân sách của địa phương. Nhưng bên cạnh sự phát triển đáng vui mừng đó là sự ô nhiễm đang ngày càng nghiêm trọng.Tỉnh và huyện đã rất quan tâm tới sự phát triển bền vững của làng nghề.Trong những năm qua công tác QLMT tại làng nghề đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận.Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu đối với ô nhiễm tại làng nghề lụa Nha Xá, đặc biệt là đối với vấn đề nước thải. Nước thải tại làng nghề lụa Nha Xá là nguyên nhân chính khiến ô nhiễm nguồn nước của thôn Nha Xá nói chung và xã Mộc Nam nói riêng .Đây là bài toán khó giải cho các lãnh đạo huyện Duy Tiên.Cụ thể là : (1)- Hoạt động của làng nghề đã có những tác động gây ô nhiễm môi trường cục bộ trong khu vực sản xuất của các hộ dân đặc biệt là môi trường nước. Các ao hồ trong làng đều không đủ tiêu chuẩn về nước cho sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản, nước ngầm cũng đang bị ô nhiễm. Nguồn gây ô nhiễm là chất thải do hoạt động sản xuất của làng nghề thải ra là chính, cộng thêm là từ sinh hoạt và chăn nuôi của nhân dân trong làng. Sự phát triển tự phát thiếu quy hoạch bảo vệ môi trường là nguyên nhân gây nên tình trạng trên. (2)- Các bệnh ốm đau trong làng nghề đang có chiều hướng tăng nhanh, các bệnh liên quan đến hô hấp, ngoài da, đau đầu ..., đang có chiều hướng tăng nhanh. Do môi trường sống đang bị ô nhiễm cả về chất lượng cũng như số lượng. (3)- Thu gom rác thải tại làng đã được triển khai, nhưng quy mô hoạt động còn hạn chế, bãi chôn lấp chất thải không đúng kỹ thuật, cũng chính là một nguồn gây ô nhiễm môi trường tại khu vực chôn lấp rác thải của xã. (4)- Công tác quản lý môi trường tại các khu vực làng nghề xã Mộc Nam nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn. Người dân tham gia sản xuất chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường cho quá trình sản xuất. kinh nghiệm về quản lý môi trường của cấp huyện, xã và một số ngành còn nhiều yếu kém, chủ quan chưa quan tâm. Chưa có nguồn kinh phí để xử lý, giải quyết ô nhiễm tại làng nghề. (5)- Công nghệ sản xuất của làng nghề xã Mộc Nam lạc hậu, thủ công. Để giảm giá thành thường nhập các nguồn nguyên liệu rẻ tiền, dễ kiếm, những nguồn nguyên liệu này nhìn chung dễ gây ô nhiễm với môi trường. Các hoá chất: Silicat Na2SiO3, Javen, H2SO4 ..., được các hộ sản xuất sử dụng thủ công đổ thải trực tiếp ra môi trường đã làm môi trường của làng nghề bị ô nhiễm nhanh chóng và khó khắc phục. Trong thời gian tới các cấp từ Trung ương đến địa phương cần có sự quan tâm và sự phối hợp hơn nữa.Cần có những biện pháp phù hợp trong QLMT làng nghề để hoạt động QLMT thực sự đạt hiệu quả, tạo sự phát triển bền vững cho làng nghề. KIẾN NGHỊ Nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm của làng nghề lụa Nha Xá tạo sự phát triển bền vững cho làng nghề tôi xin đề xuất một số ý kiến. Thứ nhất, để nâng cao năng lực quản lý Nhà Nước về môi trường của huyện Duy Tiên huyện ủy - HĐND - UBND có cơ chế đặc biệt bổ sung thêm biên chế cho các ngành của thành phố liên quan đến công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể: - Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Duy Tiên: tử 02 đến 03 biên chế; - Mỗi một thị trấn , xã có 01 biên chế chuyên trách về công tác quản lý bảo vệ môi trường; Ngoài ra, huyện cần tăng cường kinh phí cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm, quan trắc và phân tích môi trường của huyện.Huy động tối đa sự tham gia của người dân, của các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước. Thứ hai, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có chức năng quản lý môi trường làng nghề.UBND huyện cần đưa ra các chính sách, chương trình cụ thể đối với làng nghề.Từ đó có những hướng dẫn cho UBND các thị trấn, xã triển khai phù hợp với điều kiện địa phương mình. Thứ ba, cần tăng cường thực hiện tuyên truyền giáo dục. Tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ chuyên trách về công tác môi trường nói riêng và các cán bộ xã, thị trấn ,thôn, xóm. Đây sẽ là những cầu nối mang chủ trương của Nhà Nước tới người dân một cách nhanh nhất. Đối với các hoạt động tuyên truyền cần căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương để triển khai thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Thứ tư, huyện cần triển khai việc thu phí nước thải độc hại đối với doanh nghiệp và các hộ gia đình sản xuất làng nghề trên địa bàn huyện. Thứ năm, huyện cần có các hành động cụ thể nhằm triển khai công tác quy hoạch các cum điểm công nghiệp làng nghề và công tác quy hoạch phát triển làng nghề lụa Nha Xá thành làng du lịch. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chi cục bảo vệ môi trường (2011), “Chỉ thị động lực về môi trường làng nghề năm 2011”, sở TN &MT tỉnh Hà Nam, 2011. 2. Phòng QL CNDD và TTCN (2011), “Báo cáo thực trạng làng nghề và nghề ở tỉnh Hà Nam năm 2011”, Sở công nghiệp Hà Nam, 2011 3. Báo cáo hiện trạng môi trường làng nghề 2008 4. Đặng Kim Chi (2002), “Làng nghề Việt Nam và môi trường”, NXB Khoa học và kỹ thuật, 2002. 5. Luật bảo vệ môi trường năm 2010 6.ViệtNam môi trường và cuộc sống (tóm tắt) NXB chính trị quốc gia Hà Nội ,2004 7.Giáo trình quản lý môi trường của Bộ Tài nguyên và môi trường ,NXB bản đồ Hà Nội ,2007 8.Giáo trình sản xuất sạch hơn và phòng ngừa ô nhiễm của trường Đại Học tài nguyên và môi trường Hà Nội ,2007 9. Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010 10. Sở Tài Nguyên và Môi trường (2011), “Thống kê đất đai tỉnh Hà Nam năm2011”, UBND tỉnh Hà Nam năm 2012 11. Cục Thống kê tỉnh Hà Nam (2009), “Niên giám thống kê Hà Nam năm 2010”, UBND tỉnh Hà Nam năm 2009 12. Phòng tài nguyên môi trường huyện Duy Tiên 2009,báo cáo công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện Duy Tiên . 13.Phòng tài nguyên môi trường huyện Duy Tiên (2009),Quy chế bảo vệ môi trường huyện Duy Tiên. 14. Phòng tài nguyên môi trường huyện Duy Tiên (2009),Bao cáo đánh giá tác đông môi trường cụm công nghiệp Hoàng Đông . 15. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XIX 16.. Các quy chuẩn Việt Nam: * QCVN 05 :2009/BTNMT :quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh * QCVN 08:2008/BTNMT: quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt * QCVN 09 : 2008/BTNMT: quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước ngầm. * QCVN 14: 2008/BTNMT:quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt. TÀI LIỆU TỪ INTERNET 17. 18. 19.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxhien_trang_moi_truong_lang_nghe_lua_nha_xa_xa_yen_nam_huyen_duy_tien_1089.docx