Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Một là, tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động và người lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ biến chính sách ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về chính sách BHTN, quy trình thủtục tham gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế Hai là, đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và ngành Bảo hiểm xã hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng đóng BHTN, xác định rõ những người có việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHTN hoặc những trường hợp doanh nghiệp, người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ BHTN.

pdf19 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2840 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 1  ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT Tiểu Luận Môn: Kinh Tế Công Cộng Đề tài: HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM GVHD : TSKH. Phạm Đức Chính SVTH : Hoàng Thị Dung MSSV : K084010019 TP. HCM tháng 5-2011 GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 2  PHẦN MỞ ĐẦU 1, Lý do chọn đề tài Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, dẫn đến các tệ nạn xã hội gia tăng, chính trị bất ổn, lãng phí nguồn lực xã hội đi liền với sự giảm sút về sản lượng, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị trì trệ. Vì vậy, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong trường hợp bị thất nghiệp là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế và khu vực. Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung. BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp.Sau 2 năm thực hiện, Bảo hiểm thất nghiệp đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên, chính sách đó đang còn những bất cập và gặp khó khăn trong quá trình thực hiện. điều đó cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách BHTN ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về chính sách cũng như kết quả đạt được của BHTN, tôi đã quyết định thực hiện đề tài “ Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ”. Hy vọng đề tài có thể mang đến một cái nhìn toàn diện nôi dung về chính sách BHTN cũng như hiệu quả và công bằng mà chính sách mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện chính sách BHTN ở Việt Nam hiện nay. 2, Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài là tìm ra những giải pháp để tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả mang lại, góp phần đạt được mục tiêu của chính sách BHTN là công bằng và an sinh xã hội. 3, Đối tượng nghiên cứu BHTN và các vấn đề liên quan như tình hình thực hiện, hiệu quả, công bằng mà chính sách mang lại trong việc thực thi BHTN. 4, Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu hiệu quả và công bằng của chính sách BHTN sau 2 năm thực hiện ( từ tháng 1/1/2009 đến nay) 5, Phương pháp nghiên cứu • Nghiên cứu dựa trên phân tích thực chứng GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 3  • Phân tích thống kê từ các số liệu thực tế của Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội • Phương pháp mô hình hoá 6, Kết cấu đề tài • Phần mở đầu : Giới thiệu chung về đề tài • Chương I : Cơ sở lý luận • Chương II : Những quy định chung về chế độ BHTN ở Việt Nam • Chương III : Đánh giá hiệu quả và công bằng của chế độ BHTN ở Việt Nam • Chương IV : Giải pháp nâng cao hiệu quả của BHTN • Phần kết luận GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 4  CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. Một số vấn đề về thất nghiệp 1.1. Khái niệm Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “ Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương thịnh hành”. 1.2. Phân loại Phân loại theo lý do thất nghiệp : • Thất nghiệp tự nguyện : Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào đó người lao động không muốn làm việc hoặc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con…).Thất nghiệp loại này thường tạm thời. • Thất nghiệp không tự nguyện : Thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái , cung lớn hơn cầu về lao động… • Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động. 1.3. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội • Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. • Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động. • Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội. 2. Bảo hiểm thất nghiệp 2.1. Khái niệm BHTN là quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung – quỹ bảo hiểm thất nghiệp - được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia ( người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước ) nhằm hỗ trợ về mặt thu nhập cho người lao động trong thời gian bị mất việc làm, tạo điều kiện cho họ tìm kiếm việc làm mới trong thị trường lao động. GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 5  BHTN cũng là một loại thuế nhãn hiệu. Thuế nhãn hiệu là thuế có mục đích, mà được xác định và thời điểm vận dụng loại thuế đó. Sử dụng các khoản thu từ thuế đó dù vào mục đích khác đi nữa cũng không được phép. Người tham gia BHTN thực hiện trách nhiệm nộp thuế và hiểu rất rõ phần thuế mình nộp vào sẽ được tiêu dung vào mục đích gì. BHTN cũng tuân thủ theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít giống BHXH vì mục tiêu chung là bảo vệ người lao động, ổn định xã hội. Mặc dù vậy, nhưng BHTN có những đặc điểm khác với BHXH, vì BHTN gắn liền với vấn đề việc làm và tạo việc làm cho đối tượng, mục đích, công tác quản lý…Nên: • Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp không thể tính toán được, cũng không thể dự toán chính xác được như các loại bảo hiểm xã hội khác • Lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, việc quản lý quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp rất khó khăn, vì thực tế ở các nước đã có nhiều người lao động tìm được việc làm, có thu nhập, nhưng vẫn nhận được trợ cấp thất nghiệp. • Bảo hiểm thất nghiệp có liên quan chặt chẽ với cơ quan xúc tiến việc làm trong lúc cơ quan này lại hoạt động chưa thực sự hiệu quả. 2.2. Mục tiêu của chương trình BHTN • Cung cấp nguồn hỗ trợ về thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp, đảm bảo chi tiêu cần thiêt trong thời gian tìm việc mới mà không gây ra tình trạng nợ nần. • Ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động. • Khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề. • Tăng cường các kỹ năng tìm kiếm việc làm, Giúp những người thất nghiệp sớm có cơ hội tìm được việc làm, những người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công việc phù hợp thay vì phải làm những công việc khác với mức lương không tương xứng GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 6  • Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. 2.3. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc không do lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn sàng nhận công việc mới và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp không áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những ngưòi vừa mới ra trường và chưa tìm được công ăn vịêc làm,những người thuộc vào diện thất nghiệp tự nhiên 3. Hiệu quả và công bằng của BHTN 3.1. Hiệu quả Pareto Theo Vilfredo Pareto, nhà kinh tế học người Ý, một sự phân bổ nguồn lực được gọi là đạt hiệu quả Pareto nếu như không có cách nào phân bổ lại các nguồn lực để làm ít nhất một người được lợi mà không phải làm thiệt hại đến bất kì ai. Nghĩa là, ngoài những người nhận được trợ cấp từ BHTN sẽ được lợi, mà những người tham gia BHTN mà không được nhận hoặc chưa được nhận những khoản trợ cấp này cũng không bị thiệt hại. 3.2. Tính công bằng 3.2.1. Tính công bằng ngang và công bằng dọc Khái niệm công bằng xã hội không hoàn toàn không đồng nhất, nó được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên có thể hiểu ở hai cách sau: Thứ nhất, khái niệm công bằng ngang là sự đối xử như nhau đối với những người có tình trạng kinh tế như nhau (được xét theo một số tiêu chí nào đó như: thu nhập, hoàn cảnh gia đình, tôn giáo, dân tộc…) Thứ hai, khái niệm công bằng dọc là đối xử khác nhau với những người có khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có. 3.2.2. Phân phối lại thu nhập Phân phối lại thu nhập là hình thức điều tiết thu nhập tài sản trong xã hội nhằm tạo công bằng cho xã hội như lấy của người giàu chia cho người nghèo, trợ cấp…và bảo hiểm thất nghiệp chính là một chính sách phân phối lại thu nhập của chính phủ. GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 7  3.3. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng xã hội Có hai trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng xã hội: • Trường phái thứ nhất cho rằng hiệu quả và công bằng có mâu thuẫn, có nghĩa là nếu ưu tiên hiệu quả thì phải chấp nhận bất công và ngược lại. • Trường phái thứ hai cho rằng hiệu quả và công bằng không nhất thiết phải có mâu thuẫn, có nghĩa là không nhất thiết phải có sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng. CHƯƠNG II : NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BHTN Ở VIỆT NAM 1. Những quy định chung về việc thực hiện BHTN ở Việt Nam Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp hiện đang được điều chỉnh cơ bản bởi Nghị định số 127/2008 NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp với một số các nội dung cơ bản sau đây : 1.1. Quy định về người lao động tham gia BHTN Người lao động tham gia BHTN là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao động với người sử dụng lao động gồm : hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng; Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hợp đồng làm việc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng; Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn. Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động theo các loại hợp đồng trên không thuộc đối tượng tham gia BHTN 1.2. Quy định về người sử dụng lao động tham gia BHTN Là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười 10 người lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp : đơn vị Nhà nước; tổ chức chính trị xã hội; doanh nghiệp thành lập theo luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư; các hợp tác xã thành lập theo luật Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể; các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trển lãnh thổ Việt nam có sử dụng lao động là người Việt Nam. 1.3. Điều kiện hưởng BHTN GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 8  Được quy định tại điều 15 chương III, căn cứ theo Điều 81 Luật Bảo hiểm xã hội, điều kiện được hưởng BHTN: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong vòng hai mươi bốn tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động; Đã đăng ký với cơ quan lao động khi bị mất việc làm, chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc; Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động 1.4. Mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng phụ thuộc vào thời gian làm việc có đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động : - Đã đóng BHTN từ 12 tháng đến dưới 36 tháng.........hưởng 03 tháng - Đã đóng BHTN từ 36 tháng đến dưới 72 tháng.........hưởng 06 tháng - Đã đóng BHTN từ 72 tháng đến dưới 144 tháng.......hưởng 09 tháng - Đã đóng BHTN từ 144 tháng trở lên ..........................hưởng 12 tháng 1.5. Tạm dừng hưởng bảo hiểm thất nghiệp Theo điều 22, chương III, người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng sẽ bị tạm dừng hưởng trợ cấp thất nghiệp khi không thông báo hằng tháng với cơ quan lao động về việc tìm kiếm việc làm hoặc đang bị tạm giam. 1.6. Chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp bị chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp trong các trường hợp sau: hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp; có việc làm; thực hiện nghĩa vụ quân sự; hưởng lương hưu; sau hai lần từ chối nhận việc làm do tổ chức bảo hiểm xã hội giới thiệu mà không có lý do chính đáng; không thông báo về tình hình việc làm với tổ chức BHXH trong ba tháng liên tục; ra nước ngoài để định cư; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo; bị chết. 1.7. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 9  Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp do: Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN, người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN, Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN và mỗi năm chuyển một lần. 1.8. Hỗ trợ học nghề và hỗ trợ tìm việc làm Mức hỗ trợ học nghề bằng mức chi phí học nghề ngắn hạn theo quy định của pháp luật về dạy nghề. Thời gian được hỗ trợ học nghề không quá 6 tháng tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng. Thời gian được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng và không quá tổng thời gian mà người lao động đó được hưởng trợ cấp theo quy định. 2. Quy trình đăng ký thất nghiệp và nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp Bước 1 : Trong vòng 07 ngày kể từ ngày mất việc, người lao động phải trực tiếp đến Trung tâm Giới thiệu Việc làm tỉnh, thành phố nơi làm việc để đăng ký thất nghiệp. Bước 2 : Trung tâm Giới thiệu Việc làm có trách nhiệm cung cấp mẫu đơn, hướng dẫn người lao động làm đơn đăng ký thất nghiệp và làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. Bước 3 : Người lao động phải hoàn thành hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp và nộp cho Phòng Bảo hiểm Thất nghiệp-Trung tâm Giới thiệu việc làm trong vòng 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp. Bước 4 : Phòng Bảo hiểm Thất nghiệp-Trung tâm Giới thiệu việc làm kiểm tra, xử lý hồ sơ, và hoàn chỉnh hồ sơ trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của người lao động, sau đó chuyển cho Phòng Lao động Việc làm thuộc Sở Lao động TB-XH. Nếu người lao động chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, Trung tâm Giới thiệu Việc thông báo trả lời gửi cho người lao động. Bước 5 : Phòng Lao động Việc làm thuộc Sở Lao động TB-XH có trách nhiệm thẩm định hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp do Trung tâm Giới thiệu Việc làm chuyển đến, trình Giám đốc Sở ký trong vòng 03 ngày. Bước 6 : Giám đốc Sở Lao động TB-XH xem xét và ký quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp trong vòng 02 ngày. Sau đó chuyển quyết định cho Phòng Lao động Việc làm. GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 10  Phòng Lao động Việc làm trả lại cho Trung tâm Giới thiệu Việc làm toàn bộ hồ sơ và quyết định đã được Giám đốc Sở ký. Trung tâm Giới thiệu Việc làm trao trả quyết định cho người lao động và hướng dẫn người lao động đến cơ quan Bảo hiểm xã hội để được hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định. CHƯƠNG III : ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA CHẾ ĐỘ BHTN Ở VIỆT NAM 1. Đánh giá hiệu quả của BHTN 1.1. Những hiệu quả đạt được Bảo hiểm thất nghiệp chính là một chương trình chi tiêu công của chính phủ bởi vì chính phủ đã tài trợ từ ngân sách nhà nước bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN vào quỹ BHTN. Chính vì vậy, khi xét đến tình hiệu quả của BHTN chúng ta phải xét đến phạm vi tác động của chương trình khả năng ảnh hưởng bao trùm và trải rộng đến các đối tượng, không những đối tượng trực tiếp được hưởng lợi ích mà còn các đối tưởng mở rộng. Đầu tiên, xét đến các đối tượng được hưởng lợi ích trực tiếp từ chế độ BHTN đó là những người lao động bị mất việc làm. Chương trình BHTN không những trợ cấp cho NLĐ một khoản thu nhập để đáp ứng các khoản chi phí trang trải cho cuộc sống trong GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 11  khoảng thời gian tìm việc khác mà còn đào tạo nghề, hỗ trợ NLĐ tìm việc làm mới phù hợp với tay nghề của mình. Tiếp theo là những đối tượng được hưởng lợi ích gián tiếp từ chế độ BHTN. Đầu tiên là phải kể đến những người thân trong gia đình NLĐ được hưởng chế độ BHTN. Lợi ích mà họ nhận được là sự yên tâm rằng người thân của mình dù bị thất nghiệp nhưng vẫn nhận được một khoản thu nhập để trang trải cuộc sống và được đạo tạo nghề và có cơ hội tìm được những công việc phù hợp, bên cạnh đó, họ có thể giảm bớt gánh nặng cuộc sống, không phải nuôi thêm một người ăn theo. Sau đó là xã hội, BHTN tạo cho họ thu nhập, giúp đỡ NLĐ tìm công ăn việc làm, sẽ làm giảm bớt tình trang thất nghiệp trong nền kinh tế, giảm thất nghiệp là một trong những mục tiêu hàng đầu của nền kinh tế, giúp tăng trưởng sản lượng, phát triển kinh tế, thu nhập tăng lên, đời sống người dân ngày càng được cải thiển. Bên cạnh đó, có thu nhập sẽ giảm bớt các tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự, an ninh quốc gia. Để có cái nhìn tổng quan về những hiệu quả mà BHTN đã mang lại, chúng ta sẽ xem xét thực trạng, những kết quả đã đạt được sau hơn 2 năm thực hiện BHTN trên các mặt thu chi, cũng như công tác giới thiệu việc làm và hỗ trợ đào tạo nghề của BHTN. 1.1.1. Tình hình thu tiền của BHTN Theo quy định tại Điều 140 của Luật Bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Sau 2 năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, theo BHXH Việt Nam năm 2010 có 7.054.962 người tham gia BHTN, tăng 17,7% so với năm 2009 về số thu đạt 4.864 tỷ đồng tăng 27,9% so với năm 2009, đưa tổng quỹ bảo hiểm thất nghiệp lên 8.200 tỷ đồng. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đến hết năm 2010, có 145.519 người thất nghiệp có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp thường xuyên; 2.772 người thất nghiệp đã có quyết định hưởng BHTN 1 lần; 114.809 người được tư vấn giới thiệu việc làm; 243 người được trợ cấp học nghề, đã phần nào giảm đi gánh nặng về giải quyết thất nghiệp cho Nhà nước, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, tạo được lòng tin cho người lao động khi tham gia BHTN. 1.1.2. Tình hình chi tiền BHTN GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 12  Theo thống kê báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và xã hội, tính đến ngày 1/3/2011: Số lượng đăng ký thất nghiệp: TP. Hồ Chí Minh là 59.142 người, Bình Dương 56.676 người, Đồng Nai 25.403 người, Hà Nội 4.192 người, Phú Thọ 1.104 người. Số người hưởng trợ cấp thất nghiệp: TP. Hồ Chí Minh 50.148, Bình Dương 31.140, Đồng Nai 16.186, Hà Nội 3.910, Phú Thọ 821. Số tiền chi trợ cấp thất nghiệp: 210.974 triệu đồng, Bình Dương 95.606 triệu đồng, Đồng Nai 54.524 triệu đồng, Hà Nội 17.768 triệu đồng, Phú Thọ 2.463 triệu đồng. Số tiền chi học nghề: Hồ Chí Minh 65 triệu đồng, Bình Dương 10 triệu, đồng Đồng Nai 1 triệu đồng, Hà Nội 57 triệu đồng. Theo báo cáo của các địa phương về tình hình tiếp nhận và giải quyết các chế độ bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc, đến hết tháng 2/2011 có tới 225.675 số người đăng ký, và 176.894 người đã có quyết định được hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Năm 2010, quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã chi trả trên 550 tỷ đồng. 1.1.3. Tình hình giới thiệu việc làm cho người lao động hưởng BHTN Tính đến ngày 1/3/2011, theo khảo sát chương trình phối hợp giữa Cục Việc làm (Bộ LĐTBXH) và Ban Thực hiện chính sách BHXH (BHXH Việt Nam) khảo sát tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đã tiến hành khảo sát tại 5 tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Phú Thọ và Hà Nội,Số lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm: TP. Hồ Chí Minh 11.733 người, Bình Dương 30.241 người, Đồng Nai 11.217 người, Hà Nội 3.693 người, Phú Thọ 3.291 người. 1.1.4. Tình hình hỗ trợ đào tạo học nghề cho người lao động hưởng BHTN Theo PGS-TS Dương Đức Lân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, năm 2010 cả nước có 90 trường CĐ nghề, 270 trường trung cấp nghề và 750 trung tâm dạy nghề. Trong đó, 50% số trường CĐ nghề, trung cấp nghề được kiểm định và công nhận các điều kiện đảm bảo chất lượng.Trong khi đó, đội ngũ giáo viên dạy nghề hiện nay rất thiếu và yếu. Về cơ sở vật chất, còn khoảng 20% số phòng học và 30% số xưởng thực hành là nhà cấp 4; về trang thiết bị th́ chỉ có khoảng 25% số trường được trang bị thiết bị mới ở mức độ công nghệ khá. Qua những con số trên, ta thấy rằng NLĐ ngày càng hiểu rõ hơn về lợi ích khi tham gia BHTN, và những lợi ích mà BHTN mang lại ngày càng thu hút được nhiều GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 13  đối tượng tham gia hơn, phạm vi tác động của BHTN ngày càng được mở rộng và hiệu quả mang lại càng cao hơn. 1.2. Những khó khăn, vướng mắc và biến dạng lợi ích từ chương trình Bên cạnh những hiệu quả đã đạt được, chúng ta không thể không kể đến những khó khăn và vướng mắc mà chương trình đang gặp phải, đồng thời đánh giá những biến dạng lợi ích không mong muốn của BHTN sau 2 năm thực hiện. 1.2.1. Những khó khăn, vướng mắc Ta thấy rằng, so với số tham gia BHXH, BHYT bắt buộc hiện nay là hơn 9,3 triệu người, thì số người tham gia BHTN nêu trên là còn quá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng của nó, một bộ phận người lao động chưa được đảm bảo đầy đủ quyền lợi của mình. Hơn nữa, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế còn có những khó khăn, nhiều bất cập phát sinh. So với thời gian đầu năm 2010, một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện giải quyết, chi trả chế độ BHTN như: “tiếp nhận khối lượng lớn hồ sơ, trả quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp thường trễ hẹn, người lao động phải đi lại nhiều lần” đã phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, theo phản ánh của các địa phương thì thời gian đầu năm 2011 lượng lao động đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng nhanh, trong đó người hưởng mức trợ cấp cao (trên 5 triệu đồng/tháng) đang có chiều hướng tăng. Nhu cầu học nghề và số người được hỗ trợ học nghề ở các tỉnh, thành phố cũng là khá khiêm tốn, chưa tương xứng với mục tiêu của chính sách hỗ trợ. Tiêu biểu như Số người được hỗ trợ học nghề: TP. Hồ Chí Minh 44 người, Bình Dương 8 người, Đồng Nai 01 người, Hà Nội 33 người. Số tiền chi học nghề: Hồ Chí Minh 65 triệu đồng, Bình Dương 10 triệu, đồng Đồng Nai 1 triệu đồng, Hà Nội 57 triệu đồng. Điều này dẫn tới tình trạng chung là đào tạo không khớp với nhu cầu, và các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại. Như vậy việc đào tạo nghề như thế nào cho chất lượng và phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp luôn là vấn đề rất cần quan tâm, nhất là đối với các đối tượng lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp, để họ sẵn sàng tìm được công việc mới mà không bị áp lực tái thất nghiệp. 1.2.2. Biến dạng lợi ích ™ Các chủ sử dụng lao động né tránh đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 14  So với BHXH, chủ sử dụng lao động phải đóng 16% thì nghĩa vụ đóng góp của BHTN là không lớn, doanh nghiệp chỉ trích 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng. Song với những đơn vị khó khăn, nợ đọng BHXH kéo dài, việc hàng tháng phải trích thêm 1 khoản chi phí nữa để đóng cho NLĐ là một vấn đề lớn. Ngoài ra, mặc dù đã được tuyên truyền nhưng nhiều chủ sử dụng lao động vẫn chưa hiểu rõ quy định của pháp luật về BHTN, có tâm lý ngại tiếp xúc với các thủ tục hành chính, vẫn còn tình trạng doanh nghiệp nợ tiền đóng BHTN. Có đơn vị không đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho một số người lao động với lý do đơn vị sử dụng lao động tự coi người lao động đó là công chức hoặc đơn vị sự nghiệp không thực hiện chế độ Hợp đồng làm việc mà vẫn duy trì hình thức quyết định tuyển dụng, tự coi số lao động được tuyển dụng đó là công chức nên không đóng bảo hiểm thất nghiệp. ™ Người lao động thiếu thông tin và thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt: Lao động Việt nam phần lớn là lao động trình độ trung bình thấp ít có điều kiện được tiếp cận với thông tin nên không biết sự xuất hiện của các chính sách của Chính phủ, không biết những quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, họ không được chủ sử dụng tạo điều kiện để tiếp cận đầy đủ các chính sách về BHTN. Điều này càng tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có những hành vi né tránh, không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Mặt khác, một bộ phận người lao động có tâm lý không thích tham gia BHTN, bởi theo họ trong điều kiện giá cả ngày càng tăng, thu nhập không tăng, nên không muốn đồng lương của mình bị hao hụt, hoặc có nơi lao động tham gia đủ 12 tháng bảo hiểm thất nghiệp đã xin nghỉ việc để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau khi lấy được tiền đã xin trở lại làm việc. ™ Gian lận, tình trạng thất nghiệp “ ảo ” Thị trường lao động phía Nam phát triển mạnh, luôn biến động, số lượng lao động chuyển việc, nghỉ việc, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động sau 12 tháng để hưởng trợ cấp thất nghiệp khá lớn. Đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp “ảo”, mặc dù đang trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng thực tế vẫn đang làm việc tại doanh nghiệp khác, không khai báo cho cơ quan lao động. Hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 15  động, sau đó ít tháng lại quay trở lại doanh nghiệp cũ để làm việc. Điều này không chỉ gây thất thoát cho quỹ BHTN mà còn ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, do không ổn định về nhân lực. ™ Tư tưởng nghỉ ngơi Số lượng người thất nghiệp có nhu cầu học nghề rất ít, nguyên nhân do thời gian học nghề không có tiền sinh hoạt, danh mục học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam việc làm dồi dào, tình trạng tuyển dụng trực tiếp tại doanh nghiệp “tràn lan”, nhưng người lao động có tư tưởng nghỉ ngơi, hưởng trợ cấp thất nghiệp sau đó đi làm nên ít có nhu cầu tư vấn hoặc học nghề. ™ Khó khăn trong việc làm hồ sơ thủ tục Thời hạn đăng ký thất nghiệp trong 7 ngày là quá ngắn, gây sức ép về thời gian cho cả người lao động, cơ quan BHXH và Trung tâm giới thiệu việc làm, dẫn đến một số đối tượng thuộc diện được hưởng trợ cấp nhưng lại không được,đây chính là một trong những biến dạng không mong muốn của BHTN. 1.3. Tổn thất xã hội Gọi P là phí bảo hiểm thất nghiệp, Q là lượng người tham gia bảo hiểm. Đường cung S nằm ngang do phí bảo hiểm là như nhau đối với tất cả các đối tượng và luôn ổn định mà nhu cầu bảo hiểm của xã hội thì rất lớn. Xã hội có quá nhiều lao động không tham gia BHTN trong khi khả năng rủi ro thất nghiệp là rất lớn và không thể dự đoán được. những người không may mắn sau khi bị mất việc, nếu không tham gia BHTN thì không có một khoản thu nhập, đảm bảo chi tiêu cho cuộc sống, lỡ lúc bệnh tất ốm đau. Trong số Q người lao động tham gia BHTN thì thực tế số người thuộc diện chi trả từ quỹ BHTN là nhỏ hơn Q do nguyên tắc bảo hiểm là lấy đông bù ít. Giả sử xã hội có Q người tham gia BHTN, là những người lao động bị thất nghiệp và có thể được hưởng chế độ trợ cấp của BHTN. Với lượng này thì tổng số phí BHTN họ đóng trong quá trình lao động là hình chữ nhật O C và tổng phúc lợi họ nhận được là phần diện tích nằm dưới đường cầu D và trên đường cung S. Tuy nhiên, do xã hội có nhiều lao động không thể lường trước được hết những rủi ro có thể xảy ra GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 16  nên chỉ có một lượng người ít hơn Q tham gia bảo hiểm và chỉ có số lượng người Q2 (Q2 < Q1) được chi trả bảo hiểm. Phí đóng bảo hiểm của những người lao động nhận trợ cấp này là hình chữ nhật P1A O và phúc lợi xã hội nhận được là phần giới hạn bởi D’ và S. Đường cầu D dịch chuyển xuống D’ dẫn tới tổn thất phúc lợi xã hội là tam giác ABC. Như vậy, do rủi ro đạo đức và chênh lệch thông tin từ phía người lao động dẫn tới tổn thất xã hội. 2. Đánh giá công bằng của BHTN Việc chi trả BHTN nói riêng và BH nói chung đều dựa trên nguyên tắc lấy đông bù ít, chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng trong xã hội, BHTN chia sẻ rủi ro giữa người có việc làm với người bị mất việc làm. Chính vì vây, công bằng của BHTN là sự phân phối lại, phân phối giữa người có thu nhập và người không có thu nhập tạo nên công bằng xã hội, giúp những người bị mất việc có một khoản thu nhập để bù đắp các khoản chi tiêu cho cuộc sống trong khoảng thời gian tìm việc mới, đồng thời hỗ trợ NLĐ tìm được công việc mới phù hợp với bản thân. Đây chính là một trong những chính sách nhằm hướng tới mục tiêu an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong thời gian tạm thời mất việc làm. An sinh xã hội ở đây chính là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước, cộng đồng đối với những người “ yếu thế ” trong xã hội khi họ gặp rủi ro mất việc làm, chính điều GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 17  này là sự động viên khuyến khích họ vươn lên khắc phục những khó khăn, có cơ hội phát triển, hòa nhập vào cộng đồng, nhằm xây dựng một xã hội nhân ái, công bằng. Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi mình được hưởng BHTN. Thông qua hoạt động, Quỹ bảo hiểm xã hội tham gia vào việc phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những người lao động may mắn và không may mắn, giữa những người có việc làm và những người không có việc làm. Vì vậy, bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Tính công bằng ngang của BHTN thể hiện ở chỗ mọi đối tượng tham gia BHTN đều phải đóng một mức phí bảo hiểm như nhau khi gặp rủi ro thì được hưởng lợi ích từ BH theo mức quy đinh. Tính công bằng dọc đòi hỏi cần có sự chuyển giao cho người kém may mắn hơn, đó là những người gặp những rủi ro xã hội, không may bị mất việc làm. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHTN thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối phải đảm bảo công bằng, nghĩa là đòi hỏi những khoản phí cá nhân nộp vào hệ thống quỹ phù hợp với những gì họ nhận được. Hoạt động BHXH nói chung không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHTN mang tính chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc, là một chính sách vì mục tiêu an sinh, đảm bảo công bằng xã hội của đất nước. 3. Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong BHTN Ta thấy răng, nếu lý do chính của việc người thất nghiệp không kiếm được việc làm là do không có việc làm, thì mức trợ cấp thất nghiệp sẽ có tác động lên việc tìm kiếm việc làm. Xét hai trường hơp : • Nếu bảo hiểm thất nghiệp có ít ảnh hưởng đến quá trình tìm việc làm thì không có nhiều đánh đổi lắm giữa hiệu quả và công bằng. • Ngược lại, nếu tìm việc làm rất nhạy bén với bảo hiểm thất nghiệp thì sẽ có sự đánh đổi đáng kể giữa hiệu quả và công bằng. Đây chỉ là phân tích mang tính định tính, để có thể nhận định sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng ở Việt Nam như thế nào, thì chúng ta nên xây dựng mô hình, khảo GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 18  sát những người lao động được hưởng BHTN, để đánh giá mối liên hệ giữa quá trình tìm việc làm và BHTN như thế nào. CHƯƠNG IV : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA BHTN 1. Đối với nhà nước và các cơ quan ban ngành Một là, tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động và người lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ biến chính sách ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về chính sách BHTN, quy trình thủ tục tham gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế… Hai là, đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và ngành Bảo hiểm xã hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng đóng BHTN, xác định rõ những người có việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý những doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHTN hoặc những trường hợp doanh nghiệp, người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ BHTN. Ba là, cần phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động cùng với sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền chính sách về BHTN cũng như giám sát việc thực hiện BHTN. Bốn là, Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt cán bộ mới nhận công tác phải có cán bộ hướng dẫn khi thực hiện công việc và có đánh giá cụ thể. Nâng cao năng lực của các cơ sở đào tạo nghề và đa dạng hóa ngành nghề đào tạo đặc biệt quan tâm đối tượng là lao động phổ thông. 2. Đối với người lao động Người lao động cần chủ động tìm hiểu nắm được chính sách BHTN, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, tạo đàm hoặc phổ biến chính sách về BHTN để yêu cầu về quyền lợi tham gia BHTN khi ký kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, biết được quy trình, thủ tục khi thụ hưởng chế độ BHTN. GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính  SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 19  TÀI LIỆU THAM KHẢO --------------()-------------- 1. TSKH. Phạm Đức Chính (2010), “Bài giảng môn Kinh Tế Học Công Cộng”, Trường Đại Học Kinh Tế - Luật. 2. Joseth E. Stiglitz (1995), “Kinh Tế Học Công Cộng”, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật 3. MON-KINH-T%E1%BA%BE-CONG-C%E1%BB%98NG nghiep-cua-viet-nam-hien-tai-va-tuong-lai.html viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.html den-bao-hiem-that-nghiep-888998/ Email

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfktc_7305.pdf